- Xây dựng và triển khai hiệu quả các dự án gọi vốn đầu tư: Để tăng cường tính minh bạch, ổn định và dự đoán trước, đồng thời tạo thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc lựa chọn cơ hội đầu tư, cần nâng cao chất lượng xây dựng quy định và danh mục dự án gọi vốn FDI. Điều này làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư. Những thông tin về mục tiêu, địa điểm, hình thức, đối tác thực hiện dự án trong danh mục phải có độ chính xác và tin cậy cao. Căn cứ danh mục dự án quốc gia kêu gọi FDI, chuẩn bị kỹ một số dự án đầu tư quan trọng, chọn mời trực tiếp một vài tập đoàn lớn trong ngành, lĩnh vực quan trọng vào để đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án. Tập trung thu hút đầu tư vào các lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng như các dịch vụ có hàm lượng trí tuệ và giá trị gia tăng cao (tài chính, ngân hàng, giám định, đánh giá tài sản kiến trúc và xây dựng, marketing, phân phối và dịch vụ hậu cần); các dự án trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở; các dự án sử dụng công nghệ cao và nhân công có chuyên môn cao; các dự án phát triển địa ốc, chỉnh trang đô thị, khu đô thị mới; các dự án khu du lịch, thương mại, giải trí.
Xây dựng hệ thống các Trung tâm xúc tiến đầu tư của Bộ KH & ĐT tại các khu vực: Đề xuất với Chính phủ xây dựng một hệ thống các văn phòng của Bộ KH & ĐT đảm trách vai trò như một trung tâm xúc tiến đầu tư tại các vùng kinh tế trong cả nước. Có thể chia thành 8 khu vực đầu tư lớn như sau: Miền núi và Trung du Bắc bộ, Đồng bằng sông Hồng, Bắc miền Trung, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và Khu vực dầu khí ngoài khơi. Các Trung tâm xúc tiến đầu tư thay mặt Bộ KH & ĐT giải quyết những vấn đề liên quan đến đầu tư nước ngoài tại các địa phương và chủ động triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm hỗ trợ cho các địa phương đẩy mạnh hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài. Các trung tâm xúc tiến tại các khu vực phải được kết nối để đảm bảo thông tin được cập nhật và luôn được chia sẻ giữa văn phòng trung tâm và các văn phòng khu vực nhằm đạt được hiệu quả nhờ tính thống nhất và liên kết giữa các địa phương.
58 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1742 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành dịch vụ như điện lực, viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước. Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, vẫn diễn ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”, nhất là thiếu lao động trình độ cao; chất lượng giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng với yêu cầu của quá trình chuyển dịch co cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Ngoài ra, tuy Việt Nam có tỷ trọng dịch vụ khá cao trong GDP nhưng các ngành có tỷ trọng lớn nhất lại không phải là dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, viễn thông, tài chính... mà là các dịch vụ tay nghề thấp, chủ yếu là để phục vụ nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của cá nhân, cộng đồng và buôn bán nhỏ. Đơn cử như năm 2007, khoa học và công nghệ chỉ chiếm 0,6% GDP, tài chính và ngân hàng chỉ chiếm 1,8% GDP. Hậu quả là các chi phí trung gian như vận tải và các yếu tố đầu vào chiếm tỷ trọng khá cao.
Ngành dịch vụ ở Việt Nam chưa thực sự tạo ra môi trường tốt cho toàn bộ nền kinh tế phát triển. Hiện tại các chi phí dịch vụ viễn thông, cảng biển, vận tải…của Việt Nam đang cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực (viễn thông cao hơn 30-50%, vận tải đường biển cao hơn từ 40-50%).
Mới đây, tháng 9/2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đã đưa ra đánh giá tổng quan về tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội trong 3 năm qua (2006-2008) và dự báo khả năng thực hiện 52 chỉ tiêu chủ yếu đã được Đại hội X của Đảng đề ra trong kế hoạch kinh tế - xã hội giai đoạn 2006-2010, trong đó có các chỉ tiêu liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch CCKT theo hướng CNH,HĐH ở nước ta. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra cảnh báo, nếu không có các giải pháp chính sách thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển công nghiệp và dịch vụ theo hướng nâng cao về sản lượng và chất lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế cùng với chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ… thì khó có thể thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Có cảnh báo đó là vì theo ước tính hết năm 2008 này, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP mới chỉ đạt khoảng 20,6-20,7%, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải là 15-16%; giá trị công nghiệp năm 2008 có thể là 40,6-40,7% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải là 43-44%; tỷ trọng thương mại-dịch vụ năm 2008 ước tính có thể đạt 38,7-38,8% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải là 40-41%.
III. Thực trạng về tác động của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ.
1. Tình hình đầu tư vùng- lãnh thổ trong thời gian qua.
Trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh tế: Vùng Trung du miền núi phía Bắc, vùng Đồng bằng sông Hồng, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung, Vùng Tây Nguyên, Vùng Đông Nam Bộ và Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó có 3 vùng kinh tế trọng điểm, là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước.
Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
Bảng 3: Cơ cấu vốn đầu tư theo vùng lãnh thổ kinh tế
(đơn vị: %)
1996-2000
2001-2004
2005
- Vùng miền núi phía Bắc
7
7,1
9.7
- Đồng bằng Bắc bộ
28,3
27,7
23,1
- Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
16,4
17,4
21
- Vùng Tây Nguyên
4,1
4
5,1
- Vùng Đông Nam Bộ
31,3
30,6
24,8
- Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
12,9
13,2
16,3
Nguồn: Ngô doãn Vịnh “ Những vấn đề chủ yếu của đầu tư phát triển” NXB Chính trị quốc gia,2006.
Qua bảng, ta thấy vốn đầu tư xã hội được phân bố tập trung vào hai vùng kinh tế lớn là vùng đồng bằng Bắc bộ và vùng Đông Nam Bộ. Hai vùng này có tỷ trọng vốn đầu tư chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Hai vùng có tỷ trọng vốn đầu tư nhỏ nhất là vùng núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên.
Ở nước ta thời gian qua, các vùng kinh tế gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương, các đô thị, các địa bàn, lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm. Trong đó vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước trung ương chiếm đa phần, song từ năm 1999,tỉ trọng của loại vốn này giảm dần từ 56,9% xuống 50,2% năm 2004. Điều này thể hiện xu hướng phân cấp quản lí đầu tư trong những năm gần đây. Vốn đầu tư xã hội được phân bố tập trung vào hai vùng kinh tế trọng điểm là vùng đồng bằng Bắc bộ và vùng Đông Nam bộ. Hai vùng có tỷ trọng vốn đầu tư trong tổng vốn đầu tư xã hội nhỏ nhất là vùng miền núi phía Bắc và vùng núi Tây Nguyên, cộng cả hai vùng cũng chưa bằng vùng kinh tế trọng điểm. Thời kỳ 1996-2000, Vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ, hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước chiếm 53,5% vốn đầu tư phát triển(vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 25,5%,vùng Đông Nam Bộ chiếm 28%), các tỉnh miền núi phía Bắc chiếm 7,6%, vùng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 14%,vùng Duyên hải Nam Trung Bộ chiếm 11,6%. Các tỷ lệ này tương ứng với năm 2001 là 52,75%; 7,79%; 14,9%,11,8% và năm 2002 là 51,74%; 8,02%; 15,13%,12,3%. Những năm gần đây nhà nước đã có những chính sách điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư theo vùng lãnh thổ bằng các chính sách khuyến khích đầu tư vào những vùng còn ít vốn đầu tư..Để chính sách của nhà nước phát huy có hiệu quả trong thời gian tới Nhà nước sẽ chỉ đạo tập trung phát triển hệ thống giao thông,cơ sở hạ tầng cũng như đẩy nhanh tốc độ hình thành các tuyến hành lang kinh tế, ưu tiên nguồn vốn đầu tư từ ngân sách tín dụng nhà nước và nguồn ODA đầu tư dứt điểm hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng; điều chỉnh chính sách tài chính cho các tỉnh trong vùng thông qua việc phân bổ hợp lý nguồn thu từ việc sử dụng tài nguyên…
Trong năm 2005 có 41/64 tỉnh thành thu hút được vốn FDI, trong đó năm tỉnh thành dẫn đầu chiếm 70% tổng vốn FDI đăng ký của cả nước theo thứ tự là: Hà Nội (31,2%), Bà Rịa-Vũng Tàu (17,8%), Đồng Nai (10,7%), thành phố Hồ Chí Minh (10,2%), và Bình Dương (8,6%). Đây là lần đầu tiên, Hà Nội vươn lên thứ nhất trong thu hút FDI.
2. Một số tác động của đầu tư vùng đối với chuyển dịch kinh tế vùng- lãnh thổ.
2.1. Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu GDP tính theo vùng.
Đến năm 2000, các tỉnh vùng núi phía Bắc đóng góp khoảng 9% GDP của cả nước; vùng Đồng bằng sông Hồng khoảng 19%. Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung khoảng 15%; vùng Tây Nguyên 3%; vùng Đông Nam Bộ khoảng 35% và đồng bằng sông Cửu long khoảng 19%.
2.2. Hình thành các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm.
Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế Việt Nam đã hình thành nên các vùng kinh tế trọng điểm giữa vai trò đầu tàu của nền kinh tế cả nước. Đó là những vùng có lợi thế về cơ sở hạ tầng phát triển, nguồn lao động tập trung và có trình độ cao như vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
- Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc: Kinh tế của vùng tăng trưởng khá toàn diện với nhịp độ tăng năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 2001 - 2005 đạt 12,1% (năm 2006 ước đạt 13%) so với 10% trong giai đoạn 1996 - 2000 và cao gấp 1,61 lần so với mức bình quân chung của cả nước, trong đó nông nghiệp tăng 4,7%; công nghiệp tăng 14,8% và dịch vụ tăng 12,6%. GDP của vùng năm 2005 đạt 159,111 ngàn tỷ đồng (giá hiện hành), chiếm 18,99% GDP của cả nước so với năm 2000 đạt 70.769,8 tỷ đồng. GDP bình quân đầu người đạt 780 USD, cao gấp 1,2 lần so với cả nước (640 USD).
- Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một trong ba vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, gồm 8 tỉnh thành (TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang) chiếm 9,2% diện tích, 17,7% dân số, 74% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước... Tỷ trọng đóng góp của vùng trong GDP hiện chiếm đến 35-36%. Trong 5 năm (2001-2005), tỷ trọng vốn đầu tư của vùng này so với cả nước đã chiếm 31,4%. Nếu tính riêng nguồn vốn FDI, thì trong suốt thời kỳ 1988-2005, toàn vùng đã thu hút 4.650 dự án đầu tư, với tổng vốn đăng ký gần 37 tỉ USD; chiếm 65% tổng số dự án và 56% tổng vốn đăng ký của cả nước; trong đó nổi bật là các địa phương như: TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Hiện nay, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 66 khu công nghiệp và khu chế xuất (trong đó có 46 khu đã đi vào hoạt động); chiếm gần 71% tổng diện tích khu công nghiệp của 3 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Đây cũng là vùng có tỷ lệ lấp đầy khá cao, đạt khoảng 73% diện tích khu công nghiệp.
Tham gia WTO, cơ hội mở rộng xuất khẩu ra thị trường thế giới sẽ rất lớn đối với DN Việt Nam nói chung và DN trên địa bàn Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng. Dự báo tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của địa bàn này trong 15 năm tới có thể đạt mức bình quân từ 12-13%/năm (giai đoạn 2001-2005 đạt mức bình quân 11,76%/năm) và kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng mức bình quân hàng năm trên 20%.
- Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Năm 2005 tỷ trọng GDP vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đạt 5%, giá trị xuất khẩu bình quân trên đầu người 1 năm la 149USD. Kế hoạch sẽ tăng lên tương ứng là 5,5% và 375 USD trong năm 2010.
2.3. Thúc đẩy phát triển kinh tế vùng.
Cơ cấu kinh tế ngành của các vùng đã có sự thay đổi mạnh, ngay cả trong điều kiện cả nước chịu tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế. Trên thực tế, chỉ có vùng Đông Nam bộ về hình thức của cơ ngành đã tương ứng với nền kinh tế của nước công nghiệp, tuy chất lượng của chuyển cơ cấu chưa cao, nhất là các ngành dịch vụ cao cấp còn chậm phát triển (năm 2000, nông nghiệp chiếm 6,6 GDP; công nghiệp chiếm tới 56,7%GDP và dịch vụ mới đạt 36,7% GDP). Tuy nhiên, công nghiệp phát triển còn dựa nhiều vào công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến với công nghệ cao còn chưa phát triển nhiều, làm ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh dài hạn của vùng.
Vùng còn khó khăn cũng có những tiến bộ đáng khích lệ, mức sống của bộ phận đáng kể nhân dân được nâng lên. Các chương trình hỗ trợ đầu tư của Chính phủ đã có tác động tích cực, theo con số tổng hợp sơ bộ, từ năm 1992 đến 1998 tổng vốn Ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho nhiệm vụ phát triển miền Núi ước vào khoảng 3000 - 3200 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư cho các chương trình quốc gia khoảng trên 2000 tỷ đồng và đầu tư cho định canh định cư khoảng trên 500 tỷ đồng (cả thời kỳ 1986-1997 khoảng trên 800 tỷ đồng). Nhiều mặt kinh tế - xã hội của miền Núi đã có sự chuyển biến tốt. Dân trí của một bộ phận nhân dân được nâng lên, khai hoang được khoảng 200 nghìn ha, trong đó đưa vào sử dụng để trồng cây lâu năm khoảng 70 - 80%, diện tích rừng được khoanh nuôi khoảng 3 triệu ha, trồng mới được khoảng 65-70 vạn ha, hình thành nhiều điểm dân cư mới. Hầu hết các xã miền núi đã có cơ sở y tế và trường học (tuy nhiên nhà tạm còn nhiều).
3. Một số hạn chế.
- Sự chênh lệch về tỷ trọng vốn đầu tư giữa các vùng chưa có xu hướng thu hẹp lại. Sự chênh lệch lớn về cơ cấu vốn đầu tư là nguyên nhân làm cho vùng núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên có nguy cơ tụt hậu,chậm phát triển .Tỷ lệ đầu tư của các vùng miền Núi phía Bắc, Duyên hải Miền Trung, vùng Tây Nguyên vẫn còn ở mức khiêm tốn (chỉ ở mức từ 8 đến 12% tổng mức đầu tư toàn xã hội), vốn đầu tư vẫn tập trung cao ở các vùng Đồng bằng sông Hồng (khoảng 24%) và vùng Đông Nam bộ (khoảng 27%).Vùng Bắc Trung bộ,Tây Nguyên,Tây Bắc Bộ cơ sở hạ tầng còn khó khăn nên không thu hút được đầu tư khiến cho chênh lệch về mức sống của nhân dân giữa các vùng ngày càng gia tăng. Đầu tư cho các công trình liên vùng, liên tỉnh còn kém, bị chia cắt theo địa giới hành chính địa phương
- Đầu tư theo vùng lãnh thổ chuyển biến còn chậm.Tỷ trọng đầu tư vào 3 vùng kinh tế trọng điểm là: Đồng bằng sông Hồng,Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ những năm 1996-2000 đã có sự giảm sút so với những năm 1991-1995.
IV. Thực trạng về tác động của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế.
1. Một số kết quả đạt được trong chuyển dich cơ cấu thành phần kinh tế.
Khu vực doanh nghiệp Nhà nước đã tăng 11,8%, thuộc loại cao nhất trong 4 năm qua. Đặc biệt công nghiệp quốc doanh Trung ương tăng tới 16,2% cũng là tốc độ tăng cao nhất so với nhiều năm trước đó. Đạt được kết quả trên trong điều kiện số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm mạnh do chuyển đổi sở hữu thông qua cổ phần hóa, bán khoán, cho thuê hoặc phá sản (có thể chưa làm xong thủ tục phá sản nhưng thực tế đã không hoạt động), trong điều kiện hàng ngoại nhập gia tăng là một cố gắng lớn.
Tuy nhiên tiến độ cổ phần hóa còn chậm; hiệu quả hoạt động còn thấp; tốc độ tăng thấp nhất trong 3 khu vực, nên tỷ trọng của khu vực này trong toàn ngành giảm so với cùng kỳ (22% so với 23,3%).
Khu vực ngoài Nhà nước tăng trưởng cao nhất trong 3 khu vực, phần lớn do có nhiều cơ sở mới được ra đời và đưa vào sản xuất trong những năm qua; đã biết hướng vào nhu cầu nội địa đang tăng trưởng cao để tăng thị phần... Tỷ trọng trong toàn ngành của khu vực này đã cao hơn cùng kỳ (37,2% so với 36, 2%).
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng cao thứ hai, nhưng nếu không kể dầu mỏ và khí đốt bị giảm thì các ngành khác của khu vực này tăng giá cao. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2001: vốn FDI vào Việt Nam là 3,2 tỷ USD; tiếp theo, năm 2002: 3,0 tỷ USD; 2003: 3,2 tỷ USD; 2004: 4,5 tỷ USD; 2005: 6,8 tỷ USD; 2006: 10,2 tỷ USD; và năm 2007 vừa qua đã là năm thứ hai nước ta đã liên tục nhận được các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đạt con số kỷ lục, 20,3 tỷ USD, tăng gấp đôi so với năm 2006, bằng tổng mức thu hút FDI của cả giai đoạn 5 năm 2001-2005, chiếm 1/4 tổng vốn FDI vào Việt Nam trong suốt 20 năm vừa qua. Nhờ đó mà tỷ trọng của các ngành khác trong khu vực có vốn FDI năm 2007 đã tăng lên so với cùng kỳ năm 2006 (36,6% so với 35,4%).
Biểu đồ: Nguồn vốn FDI v ào Việt Nam 2001-2007
Điều đó chứng tỏ, với lợi thế về vốn, thiết bị kỹ thuật- công nghệ, quảng cáo tiếp thị, tiêu thụ, khu vực này đã tận dụng được cơ hội tiêu thụ trong nước đã tăng nhanh cả về lượng, cả về giá, tận dụng được cơ hội các nước cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu để xuất khẩu với khối lượng và giá cả tăng lên vào các nước thành viên WTO và cạnh tranh với hàng ngoại nhập.
Hai khu vực ngoài nhà nước và đầu tư nước ngoài có tỷ trọng áp đảo (78%), lại tăng với tốc độ cao hơn (tháng 1 tăng 20,1%), đã trở thành động lực tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp.
Biểu đồ 2: Vốn đầu tư phát triển theo thành phần kinh tế 2001- 2007
Nguồn: www.gso.gvo.vn
Bảng: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế 2001-2007
Đ ơn v ị %
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
I. Kinh tế Nhà nước
38.4
38.38
39.08
39.10
38.40
37.39
36.43
II. Kinh tế ngoài Nhà nước
47.84
47.86
46.45
45.77
45.61
45.63
45.91
1
Kinh tế tập thể
8.06
7.99
7.49
7.09
6.81
6.53
6.19
2
Kinh tế tư nhân
7.95
8.30
8.23
8.49
8.89
9.41
10.11
3
Kinh tế cá thể
31.84
31.57
30.73
30.19
29.91
29.69
29.61
III. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
13.76
13.76
14.47
15.13
15.99
16.98
17.66
Nguồn: www.gso.gvo.vn
Do chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư xã hội nên trên thực tế tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong GDP vẫn chiếm tỷ trọng cao. Tỷ trọng này ít biến động qua các năm. Kinh tế Nhà nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong các hoạt động kinh tế - xã hội, năm 2007 đã đóng góp khoảng 36,43% GDP.
Sự chuyển dịch cơ cấu theo thành phần chủ yếu diễn ra giữa khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhờ cơ chế, chính sách tạo môi trường đầu tư cởi mở, thông thoáng và ngày càng hoàn thiện hơn đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu GDP thành phần kinh tế theo xu hướng chung là tỷ trọng kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể giảm, trong khi tỷ trọng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên. Năm 2001, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tương ứng là 7,95% và 13,76%, thì đến 2007 đã chiếm trong GDP tương ứng là 10,11% và 17,66%. Trong khi đó, tỷ trọng kinh tế Nhà nước đã giảm từ 38,4% năm 2001 xuống còn 36,43% năm 2007; kinh tế tập thể giảm tương ứng từ 8,06% xuống còn 6,19%; kinh tế cá thể giảm từ 31,84% xuống còn 29,61%. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, do những doanh nghiệp tư nhân tiếp tục được thành lập nhiều trong những năm qua từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời (trong 5 năm đã gấp 2,6 lần về số doanh nghiệp và trên 6 lần về số vốn đăng ký so với 10 năm trước đó); quá trình tác cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh hơn; do năng lực của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được gia tăng sẽ tạo thành làn sóng mới cả về số vốn đăng ký mới, bổ sung vốn và số vốn thực hiện, cả về cơ cấu nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO.
Khu vực kinh tế tư nhân trong nước được hình thành và ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động sang rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế.; hiện khu vực này đang được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Hàng vạn doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ra đời với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, nhưng cũng có một số doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Đây là thành phần kinh tế quan mới được bổ sung. Sở dĩ như vậy là vì thực tế trong những năm gần đây bộ phận đầu tư kinh doanh của nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong 10 năm (1991-2001) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh. Giá trị sản xuất bình quân tăng 22%/năm. Trong 5 năm (1996-2000) vốn đầu tư nước ngoài thực hiện khoảng 10 tỷ USD chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GĐP. Đến 2007, tổng vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm 24,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Từ thực tiễn đó, Đảng ta chủ trương tạo điều kiện thuận lợi để thành phần kinh tế này phát triển, hướng mạnh vào khâu xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm việc làm. cải thiện môi trường kinh doanh và pháp lý để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng thể hiện rõ là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế Việt Nam. Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã tăng từ 13,76% năm 2001 lên 17,66% năm 2007. FDI đã bổ sung một lượng vốn quan trọng cho tổng vốn đầu tư xã hội. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn giữu đầu tàu cho tăng trưởng. Tỷ lệ đóng góp cho GDP tăng đần qua các năm.
Kinh tế Tập thể sau thời kỳ dài bị suy giảm, bước đầu được tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã mới, có tác dụng tích cực.
Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh. Tính đến cuối năm 2001 nền kinh tế nước ta có 24.387 doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân không những đóng góp và huy động ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội vào đầu tư sả xuất mà còn qua đó giữ vai trò trong việc tạo thêm công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân lao động
Kinh tế cá thể trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và đầu tư nước ngoài là một bộ phận không tách rời trong sự nghiệp phát triển kinh tế Việt Nam, những năm qua đã có bước phát triển khá, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Một số hạn chế.
Việc chuyển sang thể chế kinh tế thị trường chậm, thiếu liên tục, nhất quán và thiếu đồng bộ. Môi trường đầu tư, kinh doanh chậm được cải thiện, làm cho các thành phần kinh tế còn e ngại, dè dặt, chưa mạnh dạn đưa vốn vào đầu tư sản xuất kinh doanh.
Các chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế chỉ dừng lại ở những Chỉ thị, Nghị quyết, chưa thực sự đi vào cuộc sống, còn có nhiều phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế ngoài khu vực Nhà nước làm cho các thành phần kinh tế chưa phát huy mạnh nội lực, chưa thật sự khuyến khích mọi thành phần kinh tế và hạn chế kết quả thu hút đầu tư nước ngoài.
Việc phát huy và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển còn chậm, hiệu quả thấp. Các chính sách vĩ mô một mặt chưa triển khai đồng bộ, mặt khác chưa đủ sức hấp dẫn để các tầng lớp dân cư bỏ vốn vào đầu tư phát triển.
Khu vực kinh tế Nhà nước: Chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng, giành vị trí có lợi nhất trong kinh doanh và được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, chưa thể hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quốc dân, số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ còn quá lớn, đó là điều đáng lo ngại. Các chính sách ưu tiên, ưu đãi cho khu vực kinh tế Nhà nước, thực chất là "tái bao cấp", làm cho khả năng vươn lên của khu vực này bị hạn chế, tính năng động kém; Tiến độ thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước còn chậm, chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ về cơ chế huy động vốn và phát huy động lực trong công cuộc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
Khu vực kinh tế tập thể chậm được củng cố và phát triển. Kinh tế tập thể về số lượng gần đây tăng lên, nhưng tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu chủ yếu còn thấp và giảm.
Kinh tế tư nhân đăng ký nhiều về số lượng, nhưng thực tế đưa vào hoạt động còn ít; quy mô còn nhỏ bé nên tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu cũng còn thấp; ngay cả về số lượng thì mật độ doanh nghiệp vẫn còn ít (bình quân 800 người dân mới có 1 doanh nghiệp) nên mục tiêu 500 nghìn doanh nghiệp vào năm 2010 cũng không dễ dàng nếu không có chính sách, giải pháp triệt để hơn nữa.
Vốn đầu tư khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng chậm so với tiềm năng và nhu cầu. Chênh lệch giữa vốn đăng ký với vốn thực hiện lớn. Tỷ lệ dự án bị đổ bể, giải thể trước thời hạn khá cao và Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý theo ngành, lãnh thổ.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM.
I. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
1. Mục tiêu tổng quát.
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
2. Mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng chú trọng phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với yêu cầu của thị trường, giảm thiểu tỷ trọng của nông nghiệp; phát triển mạnh các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng; phát triển mạnh các ngành công nghệ cao, ngàn xuất khẩu, chú trọng phát triển công nghiệp nhỏ và vừa, phát triển các ngành kết cấu hạ tầng và dịch vụ; phát triển 3 vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, Trung và Nam bộ, đồng thời phát triển các vùng kinh tế Trung du, miền núi và duyên hải khác.
Các thành phần kinh tế có thể có các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp, vừa hợp tác vừa cạnh tranh trong cùng một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Tất cả các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là giải phóng sức sản xuất, thực chất là tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân có điều kiện tham gia sản xuất kinh doanh, qua đó động viên tối đa mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước cho công cuộc phát triển kinh tế, nhằm thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Đây chính là cơ sở xã hội của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
3. Một số chỉ tiêu đặt ra.
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2,1 lần năm 2000. Trong 5 năm 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng GDP 7,5 - 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 theo giá hiện hành đạt khoảng 1.050 - 1.100 USD.
- Cơ cấu ngành trong GDP năm 2010: khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%; công nghiệp và xây dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 - 41%.
- Vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 40% GDP.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư trong chuyển dich cơ cấu kinh tế.
1. Cải thiện môi trường đầu tư.
1.1. Cơ chế chính sách và Luật pháp.
1.1.1. Chính sách đầu tư.
Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế để bảo đảm đầu tư của Nhà nước có hiệu quả, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tập trung cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học - công nghệ, y tế và trợ giúp vùng khó khăn. Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dành ưu tiên cho việc xây dựng các cơ sở thuộc kết cấu hạ tầng có thu hồi vốn và hỗ trợ đầu tư một số dự án quan trọng thiết yếu của nền kinh tế. Đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hướng vào nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Vốn của khu vực dân doanh được khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và việc làm.
Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn ODA. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn các công trình, dự án đã được ký kết; xây dựng Chiến lược thu hút và sử dụng vốn ODA cho thời kỳ mới, tập trung vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các trung tâm kinh tế và các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tạo lợi thế so sánh để thu hút nhiều doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đầu tư cho sản phẩm xuất khẩu và công nghệ cao, tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng, số lượng và hiệu quả đầu tư nước ngoài.
Đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài; thu hẹp các lĩnh vực không cho phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện, mở rộng lĩnh vực đăng ký đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế.
1.1.2. Chính sách tài chính, tiền tệ và tín dụng.
Đổi mới theo hướng cởi mở, thông thoáng để thu hút một cách tối đa mọi nguồn lực tài chính ở trong và ngoài nước.
- Chính sách tài chính: Xây dựng đồng bộ thể chế tài chính phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới chính sách quản lý tài chính nhằm tiếp tục khơi thông, giải phóng và phân bổ hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
* Thuế:
+ Cơ cấu lại hệ thống thuế để tạo nguồn thu ổn định và vững chắc cho ngân sách nhà nước, qua đó đảm bảo vốn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Cần có chính sách miễn giảm thuế để hấp dẫn, thu hút vốn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, khu vực cần khuyến khích theo định hướng chuyển dịch cơ cấu.
+ Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh.
+ Từng bước thực hiện phương pháp tính thuế, quản lý thu thuế, xử lý các vi phạm về thuế theo thông lệ quốc tế; hiện đại hoá công tác quản lý hành chính thuế và phát triển dịch vụ tư vấn thuế.
* Chính sách phân phối tài chính: Kết hợp nguồn lực nhà nước với các nguồn lực khác nhằm thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xoá bao cấp bất hợp lý từ ngân sách nhà nước.
+ Tăng tỉ trọng ngân sách đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và cho các lĩnh vực văn hoá, xã hội; bảo đảm nguồn lực cho hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước và quốc phòng, an ninh.
+ Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách, bảo đảm tính thống nhất về thể chế của ngân sách nhà nước và vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương. Nâng cao tính minh bạch, dân chủ và công khai trong quản lý ngân sách nhà nước.
+ Đổi mới căn bản chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước; kiên quyết xoá bỏ tình trạng bao cấp đối với sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
+ Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về dự trữ nhà nước; xây dựng lực lượng dự trữ nhà nước vững mạnh với cơ cấu hợp lý.
+ Chủ động mở rộng hoạt động tài chính đối ngoại và hội nhập quốc tế về tài chính; thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn, đa phương hoá quan hệ đối tác; tăng dự trữ ngoại tệ của quốc gia; thực hiện cơ chế quản lý bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính quan trọng này. Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế vay và trả nợ nước ngoài, gắn với nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc huy động, quản lý, sử dụng và trả nợ.
+ Thực hiện thí điểm việc phát hành trái phiếu của một số doanh nghiệp lớn ra thị trường vốn quốc tế.
* Chính sách tiền tệ và tín dụng:.
+ Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá để ổn định kinh tế vĩ mô, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến khích doanh nghiệp và nhân dân tiết kiệm, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
+ Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, khẩn trương thực hiện đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng; nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam.
+ Thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận theo nguyên tắc thị trường và đi tới loại bỏ hoàn toàn quy định hành chính đối với lãi suất ngoại tệ.
+ Tiếp tục thực hiện chính sách tỉ giá hối đoái linh hoạt theo nguyên tắc thị trường với biên độ được mở rộng hơn phù hợp, tiến tới thực hiện cơ chế tỉ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát.
+ Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá hoàn toàn giao dịch vãng lai, từng bước mở cửa các giao dịch vốn; thu hẹp và tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước theo hướng nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Cải cách hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ thị trường tiền tệ;
+ Tiếp tục đổi mới hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân, bảo đảm an toàn và hiệu quả.
+ Thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta.
1.1.3. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
- Cần khuyến khích phát triển khu vực kinh tế dân doanh hơn nữa. Cần kiên quyết xoá bỏ mọi rào cản đối với khu vực kinh tế dân doanh.
- Đối với khu vực kinh tế nhà nước, chỉ nên phát triển các lĩnh vực mà luật pháp cấm tư nhân làm hoặc tư nhân chưa đủ khả năng hay chưa muốn làm, song xã hội lại rất cần có nó.
1.1.4. Hoàn thiện hệ thống luật pháp
- Hoàn thiện pháp luật vè sở hữu. Xác định rõ ràng minh bạch chế độ sở hữu, hình thức sở hữu, quyến và trách nhiệm của người sở hữu, sự bảo hộ của Nhà nước đối với tài sản của người sở hữu… đây là động lực huy động huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ cho sự phát triển, đảm bảo cho người dân yên tâm đầu tư tiền của, công sức vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Trong tương lai, cần có những luật riêng và cụ thể để điều chỉnh từng đối tượng như Luật Sáng chế, Luật Sở hữu nhãn hiệu.
- Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách liên quan đến FDI theo hướng thông thoáng, hấp dẫn nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài theo hướng: Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh; đồng thời áp dụng các quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ.
- Phổ biến các văn bản dưới luật nhanh chóng, không nên để tình trạng Nghị định đã có nhưng các thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành chưa được triển khai.
Quản lý nhà nước.
- Thực hiện công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản, quản lý dự án đầu tư, xây dựng; tài chính và Ngân sách Nhà nước.
- Tiếp tục cải cách mạnh thủ tục hành chính theo hướng phân cấp và làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng đơn vị và người đứng đầu cơ quan; thu gọn đầu mối trong việc giải quyết mọi công việc hành chính với dân và doanh nghiệp; Chính phủ tập trung vào việc hoạch định thể chế, chính sách, xây dựng biện pháp, cải cách thủ tục hành chính, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, xã hội; nâng cao năng lực và hiệu quả chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, thanh tra thực hiện thể chế; xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội của cơ quan công quyền các cấp.
Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thoả đáng và công bằng.
Thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ và phục vụ dân đối với các cơ quan và công chức nhà nước.
Nghiên cứu để áp dụng cơ chế thủ trưởng cơ quan hành chính
Công khai các quy định về thủ tục hành chính để dân biết, thực hiện và giám sát.
- Xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai cán bộ, công chức tham nhũng, không phân biệt chức vụ và địa vị xã hội còn đương chức hay đã nghỉ hưu, thôi việc hoặc chuyển công tác khác. Thiết lập cơ chế khuyến khích, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng; đồng thời, phát hiện và xử lý nghiêm những người bao che cho tham nhũng, ngăn cản việc chống tham nhũng, hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, ám hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ. Đẩy mạnh phối hợp và hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.
2.2. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội theo hướng hiện đại.
- Nhà nước ưu tiên dành vốn ngân sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên cả nước.
- Tập trung huy động các nguồn lực để ưu tiên hoàn chỉnh một bước cơ bản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển, đường hàng không.
- Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình thuỷ lợi có nhu cầu cấp bách, gắn với phát triển thuỷ điện, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, nước sinh hoạt của dân cư và giảm nhẹ thiên tai.
- Phát triển nhanh nguồn điện với cơ cấu hợp lý, hoàn chỉnh hệ thống truyền tải, bảo đảm an toàn, hiệu quả, đáp ứng đủ điện cho yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, cả ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư để phát triển nhanh ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện cơ chế thị trường về giá bán điện, đồng thời có chính sách trợ giúp hợp lý đối với các hộ nghèo.
Tăng nhanh năng lực và hiện đại hoá bưu chính - viễn thông; bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực dịch vụ thông tin.
Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị.
Nhà nước tăng tỉ trọng đầu tư ngân sách cho phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, nhất là cho giáo dục, y tế.
2.3. Phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Vấn đề có tính tiên quyết là tập trung hình thành đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế thật sự vận hành theo cơ chế thị trường và tuân thủ các quy luật của nền kinh tế. Muốn có kinh tế thị trường theo đúng nghĩa thì và đảm bảo phát triển nhanh, sớm hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, chúng ta cần:
Phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng đẩy mạnh tự do hoá thương mại và đầu tư, kiểm soát độc quyền, tôn trọng quyền định giá và cạnh tranh về giá cả của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thực hiện quản lý nhà nước về giá đối với một số hàng hoá, dịch vụ độc quyền phù hợp với cơ chế thị trường và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển thị trường tài chính theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh; tăng nhanh quy mô và mở rộng phạm vi hoạt động;
Phát triển mạnh thị trường vốn theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của các ngân hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư; đồng thời nâng cấp và thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh thị trường chứng khoán thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế.
Phát triển thị trường bất động sản trên cơ sở thực hiện Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở và Luật về kinh doanh bất động sản. Giá bất động sản được hình thành theo nguyên tắc thị trường. Nhà nước tác động đến giá đất trên thị trường bằng các chính sách kinh tế vĩ mô trên cơ sở quan hệ cung - cầu về đất đai. Tăng cường các biện pháp chống đầu cơ, hạn chế việc giao dịch ngầm không theo quy định của pháp luật. Xây dựng hệ thống đăng ký, thông tin bất động sản. Phát triển nhanh các dịch vụ đáp ứng yêu cầu của thị trường bất động sản.
Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông suốt để phát triển thị trường lao động theo hướng gắn kết cung - cầu lao động; đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm, phát huy tính tích cực và bảo đảm quyền của người lao động lựa chọn chỗ làm việc. Thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm và trợ cấp thất nghiệp. Tăng cường hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động này.
Về thị trường khoa học, công nghệ, thực hiện tốt Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Chuyển giao công nghệ. Đổi mới quản lý nhà nước đối với thị trường khoa học, công nghệ; khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các công trình khoa học và hoạt động sáng tạo. Khuyến khích các hoạt động tư vấn, dịch vụ ứng dụng công nghệ mới và chuyển giao công nghệ. Tạo môi trường mua bán thuận lợi các sản phẩm khoa học và công nghệ, gắn kết hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, phát triển quan hệ hợp đồng giữa doanh nghiệp sản xuất với cơ sở nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ mới.
3. Tăng cường công tác quy hoạch, dự báo.
- Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu chiến lược, công tác quy hoạch, kế hoạch, đặc biệt coi trọng các chỉ tiêu và biện pháp về chất lượng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường
- Đổi mới nội dung, phương pháp xây dựng, quy trình xây dựng, thông qua và phê duyệt, triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế;
- Tăng cường chất lượng dự báo và các nghiên cứu về thị trường trong các dự án quy hoạch
- Khắc phục tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ.
- Đối với các quy hoạch mang tính hướng dẫn như quy hoạch phát triển các ngành sản xuất, kinh doanh, quy hoạch các sản phẩm chủ yếu, phải coi trọng dự báo và phải điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu của thị trường. Công tác quy hoạch phải được triển khai đồng bộ từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch cụ thể;
- Thu hút những chuyên gia giỏi, kể cả chuyên gia nước ngoài trong việc xây dựng, thẩm định quy hoạch. Tăng cường quản lý thực hiện quy hoạch.
- Các kế hoạch 5 năm và hàng năm phải cụ thể hoá chiến lược, quy hoạch phát triển, các cam kết quốc tế, khai thác và phát huy các nguồn lực, thể hiện rõ nét hơn tính định hướng, phân biệt rõ phần kế hoạch có tính bắt buộc như kế hoạch đầu tư bằng vốn nhà nước, dự toán ngân sách... với phần kế hoạch mang tính dự báo, hướng dẫn. Phát huy tác dụng và hiệu lực của kế hoạch cả ở cấp Trung ương và cấp địa phương;
- Tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, tổ chức thực hiện kế hoạch, nhất là đối với phần kế hoạch có tính bắt buộc.
- Đổi mới công tác thống kê, nâng cao chất lượng và tính kịp thời của các số liệu thống kê nhằm đáp ứng tốt hơn cho việc xây dựng chính sách, điều hành nền kinh tế, nhất là các số liệu về chất lượng tăng trưởng, số liệu về lao động, việc làm, môi trường, đầu tư, số liệu về số lượng và chất lượng dịch vụ công...
4. Giải pháp về nguồn nhân lực.
Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học.
- Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ.
- Đổi mới phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên.
- Triển khai thực hiện hệ thống kiểm định khách quan, trung thực chất lượng giáo dục, đào tạo.
- Hoàn chỉnh và ổn định lâu dài hệ thống giáo dục quốc dân; chú trọng phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở; bảo đảm liên thông giữa các cấp đào tạo.
- Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng đào tạo. Tập trung sức xây dựng một số trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế, đào tạo nhân tài cho đất nước.
- Mở rộng quy mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, bảo đảm tốc độ tăng nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng. Phát triển rộng khắp và nâng cao chất lượng các trung tâm giáo dục cộng đồng.
- Đi đôi với việc đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các trường công lập, cần bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngoài công lập và các trung tâm giáo dục cộng đồng.
- Xúc tiến xây dựng một, hai trường đại học của Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế. Có lộ trình cụ thể cho việc chuyển một số cơ sở giáo dục, đào tạo công lập sang dân lập, tư thục; xoá bỏ hệ bán công. Khuyến khích thành lập mới và phát triển các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề ngoài công lập, kể cả trường do nước ngoài đầu tư.
- Sửa đổi chế độ học phí đi đôi với đổi mới cơ chế tài chính giáo dục và đào tạo theo hướng xác định đầy đủ chi phí dạy và học, chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người học; thực hiện miễn, giảm học phí và cấp học bổng cho học sinh nghèo, học sinh thuộc diện chính sách và học sinh giỏi.
- Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số;
- Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; Nhà nước thực hiện đúng chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật.
4. Giải pháp về Khoa học - Công nghệ
Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong từng ngành, từng lĩnh vực của nền kinh tế.
Tăng nhanh năng lực khoa học và công nghệ nội sinh đi đôi với tăng cường tiếp thu, làm chủ, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ thế giới.
- Tập trung đầu tư của Nhà nước xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm, công nghệ cao. Chú trọng công tác đào tạo và bổ sung cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học.
- Đổi mới tổ chức và xây dựng quy chế liên kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo, giữa giảng dạy và nghiên cứu với thực tiễn sản xuất, kinh doanh.
- Xây dựng quy chế về nghiên cứu khoa học trong các trường đại học và về công tác giảng dạy, đào tạo của các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ.
- Phát triển quan hệ liên kết, đặt hàng giữa các đơn vị sản xuất, kinh doanh, các tổ chức và cá nhân có nhu cầu với các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ.
- Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ với nước ngoài, thu hút nguồn lực bên ngoài phát triển khoa học và công nghệ.
5. Giải pháp về nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư
Phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ hiệu quả: Các dịch vụ hỗ trợ cho đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay còn ở mức thấp và kém hiệu quả. Mặc dù các dịch vụ này đã được cải thiện rất nhiều trong những năm 90, song vẫn còn rất chậm so với các nước trong khu vực, nhất là trong lĩnh vực năng lượng, giao thông, viễn thông và cơ sở hạ tầng thông tin. Giá hàng hoá và dịch vụ, đặc biệt là giá các dịch vụ là chi phí đầu vào của sản xuất như điện, nước, viễn thông, giá thuê mặt bằng... của ta còn rất cao so với khu vực. Cần có những cải thiện tích cực hơn để giảm cước bưu chính viễn thông, tiền thuê đất, tăng thêm các ưu đãi về thuế và tài chính.
- Mở rộng hình thức và lĩnh vực đầu tư: Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, các doanh nghiệp FDI là loại hình Công ty TNHH. Với hình thức này, các doanh nghiệp có vốn FDI muốn tăng vốn để đầu tư mở rộng sản xuất sẽ gặp khó khăn vì không thể phát hành cổ phiếu. Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp FDI và hoạt động của thị trường vốn tạo nên một cửa mở cho việc thu hút các nguồn vốn ở những quy mô khác nhau, cho phép các nhà đầu tư có vốn ít có thể tham gia đầu tư vào Việt Nam.
Mở rộng lĩnh vực đầu tư phù hợp với cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt Nam; thiết lập cơ chế để doanh nghiệp FDI được xây dựng kinh doanh nhà ở và phát triển khu đô thị mới; khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ, khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; mở rộng hợp tác đầu tư trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và du lịch.
- Xây dựng và triển khai hiệu quả các dự án gọi vốn đầu tư: Để tăng cường tính minh bạch, ổn định và dự đoán trước, đồng thời tạo thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc lựa chọn cơ hội đầu tư, cần nâng cao chất lượng xây dựng quy định và danh mục dự án gọi vốn FDI. Điều này làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư. Những thông tin về mục tiêu, địa điểm, hình thức, đối tác thực hiện dự án trong danh mục phải có độ chính xác và tin cậy cao. Căn cứ danh mục dự án quốc gia kêu gọi FDI, chuẩn bị kỹ một số dự án đầu tư quan trọng, chọn mời trực tiếp một vài tập đoàn lớn trong ngành, lĩnh vực quan trọng vào để đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án. Tập trung thu hút đầu tư vào các lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng như các dịch vụ có hàm lượng trí tuệ và giá trị gia tăng cao (tài chính, ngân hàng, giám định, đánh giá tài sản kiến trúc và xây dựng, marketing, phân phối và dịch vụ hậu cần); các dự án trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở; các dự án sử dụng công nghệ cao và nhân công có chuyên môn cao; các dự án phát triển địa ốc, chỉnh trang đô thị, khu đô thị mới; các dự án khu du lịch, thương mại, giải trí.
Xây dựng hệ thống các Trung tâm xúc tiến đầu tư của Bộ KH & ĐT tại các khu vực: Đề xuất với Chính phủ xây dựng một hệ thống các văn phòng của Bộ KH & ĐT đảm trách vai trò như một trung tâm xúc tiến đầu tư tại các vùng kinh tế trong cả nước. Có thể chia thành 8 khu vực đầu tư lớn như sau: Miền núi và Trung du Bắc bộ, Đồng bằng sông Hồng, Bắc miền Trung, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và Khu vực dầu khí ngoài khơi. Các Trung tâm xúc tiến đầu tư thay mặt Bộ KH & ĐT giải quyết những vấn đề liên quan đến đầu tư nước ngoài tại các địa phương và chủ động triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm hỗ trợ cho các địa phương đẩy mạnh hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài. Các trung tâm xúc tiến tại các khu vực phải được kết nối để đảm bảo thông tin được cập nhật và luôn được chia sẻ giữa văn phòng trung tâm và các văn phòng khu vực nhằm đạt được hiệu quả nhờ tính thống nhất và liên kết giữa các địa phương.
KẾT LUẬN
Như vậy, để tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế, chúng ta cần phải thưc hiện các biện pháp nhằm thúc đẩy đầu tư, tăng cường nâng cao tác động của đầu tư đến chu ển dịch cơ cấu kinh tế theo các phương hướng đã đề ra.
DANH MỤC THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế đầu tư, PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, PGS.TS Từ Quang Phương, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2007.
Hiệu quả đầu tư và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển của DNNN, Từ Quang Phương, Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội 1998.
Những vấn đề chủ yếu về Kinh tế phát triển, PGS.TS Ngô Doãn Vịnh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.
www.images.vneconomy.vn
www.gso.gvo.vn Cục thống kê
www.mpi.gov.vn Bộ kế hoạch - đầu tư
www.vir.com.vn Báo đầu tư
www.vneconomy.vn Thời báo kinh tế
www.ciem.org.vn Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22428.doc