Hoạt động kinh doanh ngoại thương do Nhà nước độc quyền, Bộ Ngoại thương cho phép một số doanh nghiệp quốc doanh được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài, các doanh nghiệp này chỉ được kinh doanh những mặt hàng và ngành hàng được cho phép. Thực chất đây cũng là những tổ chức kinh doanh độc quyền về các mặt hàng và ngành hàng được giao. Tính độc quyền của Nhà nước trong kinh doanh ngoại thương rất cao và gần như là tuyệt đối. Số lượng các doanh nghiệp được phép kinh doanh ngoại thương là rất nhỏ, tính đến năm 1981, chỉ có 12 doanh nghiệp Nhà nước được phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đến năm 1987 là 35 doanh nghiệp.
Tính độc quyền trong kinh doanh ngoại thương còn được thể hiện trong quá trình thực hịên hoạt động ngoại thương, các doanh nghiệp phải thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, điều đó nghĩa là sản xuất cái gì, xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng gì, trị giá bao nhiêu, thị trường nào hầu như đều do Nhà nước chỉ đạo, thậm chỉ trong nhiều trường hợp ngay cả giá cả cũng do Nhà nước quy định.
123 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương Việt Nam trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẽ làm tăng khả năng cạnh tranh về giá cả của hàng hoá. Hơn nữa, chúng ta có thể nhập khẩu máy móc thiết bị và công nghệ cao của các nước phát triển để đầu tư vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng của sản phẩm, làm cho sản phẩm của ta đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm của thế giới
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nói trên, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra cho Việt Nam những thách thức cũng như khó khăn. Khó khăn lớn nhất của nước ta hiện nay là năng lực cạnh tranh ở các cấp độ đều thấp trong khi tự do hoá ngày càng sâu rộng đẩy mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.
Trước hết, khi tham gia vào tự do hoá thương mại, chúng ta phải loại bỏ, giảm bớt các hàng rào thuế quan, phi thuế quan và các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước, đặt các doanh nghiệp của ta vào vị trí bất lợi vì không còn được Nhà nước yểm trợ như trước đây. Các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh không khoan nhượng của các nước trong khu vực và thế giới bởi các mặt hàng xuất khẩu của ta đều là các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của ASEAN, Trung Quốc, trình độ công nghệ của ta còn lạc hậu, trình độ quản lý còn yếu kém, doanh nghiệp chưa chú ý đến việc nghiên cứu, sáng tạo ra những sản phẩm mới có mẫu mã, kiểu dáng và chất lượng khác biệt.
Hơn nữa, tham gia vào tự do hoá thương mại thế giới làm tăng mức độ phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào các biến động quốc tế, đặc biệt là vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển. Việc ban hành các hàng rào phi thuế quan mới như những hàng rào kỹ thuật, các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, các quy định về lao động làm hạn chế rất lớn đến khả năng thâm nhập của hàng hoá nước ta vào thị trường các nước phát triển.
Mặc dù vậy, Việt Nam đang chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho quá trình hội nhập.
Hiện nay chúng ta đang không ngừng mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế khu vực như ASEAN, APEC và đang cố gắng gia nhập WTO trong thời gian sớm nhất. Chúng ta đổi mới thành công, duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, đang cải thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, đi đôi với đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng và thuận lợi. Khung pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam liên tục được hoàn thiện, thông thoáng và được đánh giá là có sức hấp dẫn hơn. Nhiều lĩnh vực và hình thức đa dạng mở ra cho các nhà đầu tư nước ngoài như cho phép đầu tư theo công ty cổ phần, niêm yết trên thị trường chứng khoán
Về yếu tố con người, chúng ta có gần 45 triệu người lao động, phần lớn là lực lượng trẻ chiếm gần 2/3. Kỹ sư, lao động ở Việt Nam có mức lương thấp hơn so với các nước trong khu vực nhưng trình độ, kỹ năng lại không thua kém bao nhiêu. Lao động của Việt Nam, nhất là lực lượng trẻ rất ham học hỏi và có khả năng nắm bắt nhanh, đặc biệt những lĩnh vực mới như công nghệ thông tin, phần mềm, máy tính.
Nhìn chung, Việt Nam đang trong quá trình tích cực hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
II. Mục tiêu của ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới.
Hoạt động xuất nhập khẩu trong 10 năm tới cần phục vụ trực tiếp cho mục tiêu chung sẽ được thông qua tại Đại hội lần thứ IX của Đảng với nội dung cơ bản là:nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH- HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; chuyển cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu: chú trọng thiết bị và nguyên liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất nhập khẩu; mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới.
A. Về quy mô và tốc độ tăng trưởng:
Dựa trên kinh nghịêm 10 năm qua kết hợp với những dự báo về sản xuất và thị trường trong 10 năm tới và trên cơ sở phát huy nội lực, có tính đến sự thay đổi có tính đột biến, Bộ Thương mại đề xuất phương án phấn đấu tăng trưởng xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 như sau:
1. Về xuất khẩu:
1.1. Xuất khẩu hàng hoá:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006-2010 tăng 14%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp 4 lần năm 2000.
1.2. Xuất khẩu dịch vụ:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm
- Giá trị tăng từ khoảng 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD vào năm 2005 và 8,1 tỷ USD vào năm 2010, tức là tăng gấp hơn 4 lần.
1.3. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,5 tỷ USD vào năm 2000 lên 32,4 tỷ USD vào năm 2005 và 62,7 tỷ USD vào năm 2010 (hơn 4 lần).
2. Về nhập khẩu:
Do nước ta còn đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trình đôh phát triển kinh tế còn thấp nên chưa thể xoá bỏ được ngay tình trạng nhập siêu. Tuy nhiên, cần phải rất tiết kiệm ngoại tệ trong nhập khẩu, chỉ nhập khẩu những hàng hoá cần thiết, máy móc thiết bị công nghệ mới và sản xuất ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, sản xuất để giảm thiểu nhu cầu nhập khẩu, phải giữ được thế chủ động trong nhập khẩu, kiềm chế được nhập siêu và giảm dần tỷ lệ nhập siêu tiến tới sớm cân bằng xuất khẩu và xuất siêu. Theo hướng đó dự kiến nhập khẩu như sau:
2.1. Nhập khẩu hàng hoá:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 14%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 là 15% và thời kỳ 2005-2010 là 13%.
- Giá trị kim ngạch tăng từ khoảng 14,5 tỷ USD năm 2000 lên 29,2 tỷ USD năm 2005 (cả thời kỳ 2001-2005 nhập khẩu 112 tỷ USD) và 53,7 tỷ USD vào năm 2010.
2.2. Nhập khẩu dịch vụ:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 11%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 1,2 tỷ USD năm 2000 lên 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD năm 2010.
2.3. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ:
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,7 tỷ USD năm 2000 lên 31,2 tỷ USD năm 2005 và 57,14 tỷ USD năm 2010.
Như vậy, trong 5 năm đầu (2001-2005) nhập siêu về hàng hoá giảm dần, mỗi năm bình quân 900 triệu USD và cả thời kỳ là 4,73 tỷ USD; 5 năm sau (2006-2010) nhập siêu tiếp tục giảm. Đến năm 2008 cân bằng xuất nhập khẩu hàng hoá phấn đấu xuất siêu khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010. Nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì năm 2002 đã cân bằng xuất nhập khẩu và bắt đầu xuất siêu, năm 2010 xuất siêu 5,5 tỷ USD.
B. Về cơ cấu hàng hoá xuất – nhập khẩu và cơ cấu dịch vụ:
1. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu:
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu trong 10 năm tới cần được chuyển dịch theo hướng chủ yếu sau:
- Trước mắt huy động mọi nguồn lực hiện có thể để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ;
- Chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chủ trọng các sản phẩm co hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng thô;
- Mặt hàng, chất lượng, mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của từng thị trường;
- Chú trọng đến việc gia tăng các hoạt động dịch vụ.
Theo các hướng nói trên, chính sách mặt hàng được đề ra như sau:
1.1. Nhóm nguyên nhiên liệu:
Hiện nay nhóm nguyên nhiên liệu, với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá, đang chiếm khoảng trên 20% kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Tuy nhiên dầu thô hiện nay đang có xu hướng giảm dần, dự kiến vào năm 2005, lượng dầu thô xuất khẩu chỉ còn khoảng gần 12 triệu tấn (hiện nay là 16 triệu tấn). Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Australia, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc và có thể có thêm Hoa Kỳ.
Việc giảm xuất khẩu dầu thô sẽ đi đôi với việc giảm nhập khẩu sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài. Dự kiến đến năm 2010, sản xuất trong nước sẽ đáp ứng được gần 80% nhu cầu về sản phẩm dầu khí, tức là khoảng 13 triệu tấn sản phẩm/năm, trị giá trên 3 tỷ USD. Nhập khẩu xăng dầu vào năm 2010 chỉ còn khoảng 4 triệu tấn, giảm 50% so với 8 triệu tấn hiện nay; nếu tính theo giá hiện nay thì sẽ giảm khoảng 850-900 triệu USD.
Về than đá, do nhu cầu trong nước tăng nên xuất khẩu cũng chỉ dao động ở mức 4 triệu tấn/năm trong 10 năm tới, mang lại kim ngạch mỗi năm khoảng 120-150 triệu USD. Nhìn chung, giá xuất khẩu than khó có khả năng tăng đột biến do nguồn cung trên thị trường thế giới tương đối dồi dào, vả lại vì lý do môi trường nên cầu có xu hướng giảm. Nhiêm vụ chủ yếu trong những năm tới là cố gắng duy trì những thị trường đã có như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu và tăng cường thâm nhập vào thị trường Thái Lan, Hàn Quốc
Khả năng tăng xuất khẩu các loại khoáng sản khác là rất hạn chế.
Như vậy, tới năm 2005, nhóm nguyên nhiên liệu có khả năng chỉ còn đóng góp được khoảng 9% kim ngạch xuất khẩu (2,5 tỷ USD) so với trên 20% hiện nay; đến năm 2010, tỷ trọng của nhóm này sẽ giảm xuống còn chưa đầy 1% (dưới 5ô triệu USD) hoặc 3,5% (khoảng 1,7 tỷ USD), tuỳ theo phương án khai thác dầu thô. Vì vậy, việc tìm ra các mặt hàng mới để thay thế là một thách thức lớn đối với việc gia tăng xuất khẩu.
1.2. Nhóm nông, lâm, thuỷ sản:
Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính cơ cấu (như diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh bắt có hạn) và thời tiết nên theo dự thảo chiến lược chung, tốc độ tăng trưởng của nhóm này sẽ chỉ ở mức 4%/năm trong toàn kỳ 2001-2010. Tuy nhiên, do nhu cầu thị trường thế giới cũng có hạn và do giá cả lại không ổn định nên dù kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nhóm sẽ giảm dần xuống còn 22% (tương đương 5,85 tỷ USD) vào năm 2005 và 17,2% (tương đương 8- 8,6 tỷ USD) vào năm 2010.
Hướng phát triển chủ đạo của nhóm hàng này trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Đối với thuỷ sản, mục tiêu đặt ra là kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 3,2 - 3,5 tỷ USD vào năm 2010, chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nông lâm hải sản. Thị trường chính sẽ là Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc
Về gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/năm nên dự kiến trong suốt thời kỳ 2001-2010, ta chỉ có thể xuất khẩu được khoảng 4-4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm khoảng trên 1 tỷ USD. Để nâng cao hơn nữa kim ngạch, chúng ta cần đầu tư để cải thiện cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu; khai thác các thị trường mới như Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ và ổn định các thị trường đã có như Indonesia, Philippines, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị trường, tăng cường hiệu quả xuất khẩu gạo.
Về nhân hạt điều: xuất khẩu tăng bình quân 7%/năm trong 10 tới và sẽ đạt 160-200.000 tấn, giá xuất khẩu cũng tăng từ 3.779 USD/tấn năm 1994 lên 5.984 USD/tấn; thị trường chủ yếu là Mỹ, EU, Australia, Trung Quốc.
Hạt tiêu: chỉ tiêu đưa ra là xuất khẩu đạt 230-205 triệu USD, thị trường chính là Châu Âu, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Trung Đông.
Về các loại rau, hoa và quả khác, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 182/1999/QĐ-TTg ngày 03/09/1999 phê duyệt đề án phát triển đến năm 2010, theo đó kim ngạch xuất khẩu rau, hoa và quả sẽ đưa lên khoảng 1,2-1,6 tỷ USD với thị trường là Nhật, Nga, Trung Quốc, Châu Âu.
Cà phê: xuất khẩu có thể đạt 750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch khoảng 850 triệu USD, đưa Việt Nam vượt qua Colombia để trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới.
Cao su và chè: dự kiến kim ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010, chè: 200 triệu tấn, gấp 4 lần hiện nay.
Nhìn chung, kim ngạch của nhóm nguyên nhiên liệu và nông lâm hải sản tổng cộng sẽ đạt từ 10 đến 10,35 tỷ USD vào năm 2010, chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu so với trên 40% hiện nay theo hướng gia tăng chất lượng và giá trị gia tăng. Phần còn lại là các mặt hàng chế biến và chế tạo.
1.3. Sản phẩm chế biến và chế tạo:
Mục tiêu phấn đấu của kim ngạch ngạch của nhóm này vào năm 2010 là 20-21 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so với hiện nay và chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, hàng dệt may và giày dép là hai mặt hàng trọng yếu. Kim ngạch của mỗi mặt hàng phải đạt 7-7,5 tỷ USD., dệt may phải tăng bình quân 14%/năm, giày dép tăng bình quân 15-16% năm.
Về thị trường, chúng ta cần phải tiếp tục mở rộng thêm thị trường Trung Đông và Đông Âu, khai thác thêm các thị trường mới là Hoa Kỳ, Châu Đại Dương; ổn định và tăng thị phần trên các thị trường quên thuộc như EU, Nhật Bản, đặc biệt là Nhật Bản bởi đây là thị trường phi quota; chuyển dần từ hình thức gia công là chính sang nội địa hoá trên cơ sở tăng cường đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào, tạo nhãn hiệu có uy tín; chuyển mạnh sang bán FOB; thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là từ EU, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Đài loan để tăng cường năng lực thâm nhập trở lại các thị trường này và đi vào các thị trường khác.
Thủ công mỹ nghệ: chỉ tiêu đặt ra cho kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng này là 800 triệu USD vào năm 2005 và 1,5 tỷ USD vào năm 2010, trong đó hàng gốm sứ chiếm khoảng 60%. Thị trường định hướng là EU, Nhật và Hoa Kỳ. Các thị trường như Trung Đông, Châu Đại Dương cũng là thị trường tiềm tàng, cấn nỗ lực phát triển.
Hàng hoá tiêu dùng: mục tiêu kim ngạch vào năm 2005 là 200 triệu USD và vào năm 2010 là 600 triệu USD. Thị trường chính trong thời kỳ 2001-2005 vẫn là Trung Quốc, Campuchia, các nước ASEAN và một số nước phát triển; sang thời kỳ 2006-2010 cố gắng len vào các thị trường khác như EU, Nhật Bản, Nga, Hoa Kỳ.
Sản phẩm cơ khí, điện: năm 2005, kim ngạch xuất khẩu là 300 triệu USD và năm 2010 là 1 tỷ USD.
1.4. Nhóm hàng vật liệu xây dựng:
Nước ta có nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất vật liệu xây dựng không những có thể đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có khả năng xuất khẩu lớn.
Theo chiến lược phát triển sản xuất xi măng thì các dự án phát triển xi măng trong vài năm tới có khả năng dư thừa hàng năm khoảng từ 2-3 triệu tấn để xuất khẩu.
Các sản phẩm gạch ốp lát và sứ vệ sinh bắt đầu có mặt trên các thị trường Nhật Bản, Nga, Myanmar, Bangladesh, Pháp, Ucraina. Đây là những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn trong tương lai.
1.5. Sản phẩm hàm lượng công nghệ và chất xám cao
Đây là ngành mới xuất hiện nhưng đã mang lại kim ngạch xuất khẩu khá lớn, khoảng 700 triệu USD vào năm 2000. Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đặt ra cho ngành là 2,5 tỷ USD vào năm 2005 (riêng phần mềm là 1 tỷ USD). Về thị trường nhằm vào các nước công nghiệp phát triển (phần mềm) và các nước đang phát triển (phần cứng). Coi đây là một đột phá trong 5 năm cuối của kỳ 2001-2010.
2. Cơ cấu dịch vụ xuất khẩu
Các ngành dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm nhiều lĩnh vực (theo WTO thì có tới 155 loại hình), tuy nhiên ở Việt Nam mới chỉ có thể đề cập đến các loại hình dịch vụ như du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, hàng không, bưu chính viễn thông và dịch vụ ngân hàng.
Về xuất khẩu lao động, theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thì mục tiêu phấn đấu năm 2005 là xuất khẩu 150-200 ngàn lao động và đến năm 2010 là 1 triệu lao động. Nếu thực hiện được mục tiêu này, kim ngạch dự kiến sẽ đạt khoảng 1,5 tỷ USD vào năm 2005 và 4,5-6 tỷ USD vào năm 2010.
Về du lịch: theo chiều hướng phát triển của ngành thì năm 2005 sẽ phấn đấu thu hút được 3 triệu khách quốc tế với doanh thu xấp xỉ 1 tỷ USD, năm 2010 thu hút 4,5 triệu khách đạt 1,6 tỷ USD.
Vận tải biển và dịch vụ cảng, giao nhận: kim ngạch xuất khẩu của ngành vận tải biển ước đạt trên dưới 250 triệu USD năm 2005 và 500 triệu USD năm 2010.
Các ngành dịch vụ khác như ngân hàng, bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, xây dựng, y tế, giáo dục dự kiến kim ngạch của nhóm này tăng khoảng 10%/năm thời kỳ 2001-2010, đạt 1,6 tỷ USD năm 2005 và 2,6 tỷ USD năm 2010.
Tóm lại tới năm 2010, kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu dự kiến như sau:
Bảng 27: Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu dự kiến đến năm 2010
Nhóm hàng
Kim ngạch 2010
(triệu USD)
Tỷ trọng %
2000
2010
1. Nguyên nhiên liệu
1.750
20,1
3 - 3,5
2. Nông sản, hải sản
8.000 – 8.600
23,4
16 – 17
3. Chế tạo, chế biến
20.000 - 21.000
31,4
40 - 45
4. Công nghệ cao
7.000
5,4
12-14
5. Hàng khác
12.500
19,8
23 - 25
Tổng kim ngạch hàng hoá
48.000 – 50.000
100
Tổng kim ngạch dịch vụ
8.100 – 8.600
Nguồn: Bộ Thương mại
3. Cơ cấu hàng nhập khẩu
Đối với hàng nhập khẩu thì phương châm chung là:
- Ưu tiên nhập khẩu vật tư thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
- Cố gắng sử dụng vật tư, thiết bị mà trong nước có thể sản xuất được để tiết kiệm ngoại tệ, nâng cao trình độ sản xuất.
- Hạn chế tới mức tối đa có thể được việc nhập khẩu hàng tiêu dùng.
- Tạp trung vào nhập thiết bị iện đại từ các nước có công nghệ nguồn (Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu); giảm nhanh tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian.
Nhu cầu nhập khẩu tăng năm 2010 dự kiến như sau:
Bảng 28: Nhu cầu nhập khẩu dự kiến đến năm 2010
Nhóm hàng
Kim ngạch 2010
(triệu USD)
Tỷ trọng (%)
2000
2010
1. Máy móc thiết bị
18.000
27
36
2. Nguyên nhiên vật liệu
30.000
69
60
3. Hàng tiêu dùng
2.000
4
4
Tổng kim ngạch nhập khẩu
50.000
100
100
Nguồn: Bộ Thương mại
Cơ cấu nhập khẩu sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng máy, thiết bị công nghiệp và công nghệ từ 27% năm 2000 lên 36% năm 2010, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên nhiên liệu từ 69% năm 2000 xuống còn 60% năm 2010, giữ nguyên tỷ trọng hàng tiêu dùng ở mức 4% như hiện nay. Khả năng này có hiện thực vì trong những năm tới ta sẽ giảm nhập khẩu xăng dầu, một số đồ dùng lâu bền, phân bón và các loại vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng nhập khẩu đang được thay thế dần bằng hàng sản xuất trong nước, nhất là vào những năm cuối thời kỳ 2001-2010.
Mục tiêu thời kỳ tới là kiềm chế nhập khẩu, giảm dần tỷ lệ nhập siêu, khống chế nhập siêu hàng năm ở mức không quá 10% kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cần bằng xuất khẩu và xuất siêu vào cuối thời kỳ của chiến lược 2001-2010.
Về thị trường nhập khẩu cần chuyển dịch theo hướng giảm thiểu tỷ trọng của thị trường ASEAN nói riêng, châu á nói chung xuống còn khoảng 55%. Tỷ trọng cung ứng công nghệ nguồn như Nhật, EU, Bắc Mỹ hiện rất thấp (Nhật khoảng 12%, EU khoảng 10%, Bắc Mỹ chưa đầy 4%), do đó cần nâng dần tỷ trọng của Nhật, EU, Bắc Mỹ lên trên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010.
Cần chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu theo hướng tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế “hợp lệ” như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường, hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp, công bố lộ trình rõ ràng cho việc dỡ bở hàng rào bảo hộ, khắc phục triệt để những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng trước hết bảo hộ nông sản. Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách. Cải cách biểu thuế và tích cực xúc tiến việc sắp xếp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng ngành hàng.
4. Cơ cấu dịch vụ nhập khẩu
Các ngành dịch vụ mà ta phải chi trả ngoại tệ chủ yếu là dịch vụ tài chính (bảo hiểm, kiểm toán), ngân hàng (thanh toán, chuyển tiền), bưu chính viễn thông, vận tải (hàng không, đường thuỷ), thuê chuyên gia nước ngoài, du lịch, du học Tổng giá trị nhập khẩu dịch vụ năm 2000 ước tính vào khoảng 1,2 tỷ USD. Dự kiến nhập khẩu dịch vụ tăng khoảng 10,5% trong thời kỳ 2001-2010, đạt giá trị 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD năm 2010.
C. Về thị trường xuất – nhập khẩu:
Một trong những khâu then chốt của Chiến lược phát triển xuất-nhập khẩu đến năm 2010 là mở rộng và đa dạng hoá thị trường. Quan điểm chủ đạo là:
- Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, nhất là sau khi tham gia WTO;
- Đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ với các đối tác, phòng ngừa chấn động đột ngột;
- Mở rộng tối đa về diện song trọng điểm là các thị trường có sức mua lớn, tiếp cận thị trường cung ứng công nghệ nguồn;
- Tìm kiếm các thị trường mới ở Mỹ La-tinh, Châu Phi.
Xuất phát từ những phương châm nói trên, mục tiêu đặt ra cho các thị trường như sau:
1. Khu vực Châu á - Thái Bình Dương
Tiếp tục coi trọng khu vực này trong 10 năm tới vì ở gần ta, có dung lượng lớn, phát triển tương đối năng động. Thị trường trọng điểm tại khu vực này sẽ là các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc.
Mặt hàng trọng tâm cần được đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước ASEAN sẽ là gạo, linh kiện vi tính, một vài sản phẩm cơ khí (đối với các nước ngoài Đông Dương) và hoá phẩm tiêu dùng, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hàng bách hoá (đối với Lào và Campuchia). Về nhập khẩu, mặt hàng chủ yếu từ thị trường này sẽ là nguyên liệu sản xuất dầu thực vật, phân bón, linh kiện vi tính - cơ khí - điện tử, xăng dầu, sắt thép, tân dược và một số chủng loại máy móc, thiết bị, phụ tùng.
Với Trung Quốc, chúng ta cố gắng đưa kim ngạch buôn bán lên 3-4 tỷ USD. Tận dụng các thoả thuận ở cấp Chính phủ về trao đổi một số mặt hàng với số lượng lớn, coi trọng buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch.
Với Nhật Bản, trong những năm tới mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang sẽ là hải sản, hàng dệt may, giày dép và sản phẩm da, than đá cao su, cà phê, rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ. Mặt hàng chủ yếu nhập khẩu từ Nhật sẽ là máy móc, thiết bị công nghệ cao, chất dẻo nguyên liệu, linh kiện điện tử tin học cơ khí, thuốc trừ sâu và nguyên liệu, sắt thép, nguyên phụ liệu dệt - may - da.
2. Khu vực Châu Âu
Chiến lược thâm nhập và mở rộng thị phần tại Châu Âu được xác định trên cơ sở chia Châu Âu thành 2 khu vực cơ bản: Đông Âu và Tây Âu.
Tại Tây Âu, trọng tâm sẽ là EU mà chủ yếu là các thị trường lớn như Đức, Anh, Pháp và Italia.
Nhìn chung, nhiều mặt hàng có thể tăng xuất khẩu vào EU nhưng trọng tâm vẫn là dệt may, giày dép, hải sản, rau hoa quả, cao su, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này sẽ là máy móc thiết bị công nghệ cao, máy chế biến thực phẩm, phương tiện vận tải, máy bay, hoá chất, tân dược, nguyên phụ liệu dệt - may - da.
Quan hệ thương mại với các nước Đông Âu và SNG, nhất là Liên bang Nga có thể và cần được khôi phục bởi đây là thị trường có nhiều tiềm năng. Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ cho thị trường này, quỹ hỗ trợ xuất khẩu cần sớm được ra đời để bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho người xuất khẩu hàng hoá vào Nga và Đông Âu theo phương thức “Nhà nước và doanh nghiệp cùng làm”, xây dựng một số trung tâm tiêu thụ hàng hoá, hỗ trợ tận dụng cộng đồng người Việt để đưa hàng vào Nga và Đông Âu, tạo một số cơ sở sản xuất tại chỗ
Trọng tâm về hàng hoá xuất khẩu sẽ là cao su, chè, thực phẩm chế biến, rau quả, hoá phẩm tiêu dùng, dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ. Hàng nhập khẩu chủ yếu sẽ là thiết bị năng lượng, thiết bị mỏ, hàng quốc phòng, phân bón, sắt thép, phương tiện vận tải, lúa mỳ và tân dược.
3. Khu vực Bắc Mỹ
Trọng tâm của khu vực này là thị trường Hoa Kỳ. Mặt hàng chủ yếu xuất vào Hoa Kỳ sẽ là dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí - điện, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt điều, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị công nghệ cao, phần mềm, máy bay, phương tiện vận tải, hoá chất, tân dược, sản phẩm cao su, chất dẻo nguyên liệu, lúa mỳ và nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc.
Các ngành hàng trên, nhất là chế biến gỗ, chế biến thực phẩm, sản xuất đồ nhựa cần bắt tay ngay vào việc nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ để thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu. Riêng một số ngành như dệt may, giày dép, chế biến hải sản đã dành sự quan tâm khá thích đáng trong việc nghiên cứu thị trường Mỹ từ trước khi ký Hiệp định nên hầu như đã ở thế sẵn sàng để xuất phát.
4. Châu Đại Dương
Trọng tâm tại khu vực Châu Đại Dương là Ausralia và Newzealand. Quan hệ thương mại với hai thị trường này phát triển tốt trong những năm gần đây chứng tỏ tiềm năng không nhỏ nhưng mức khai thác vẫn còn thấp. Do đó, cần kiên trì tìm kiếm, tạo lập và củng cố quan hệ bạn hàng. Hàng hoá đi vào khu vực này chủ yếu sẽ là dầu thô, dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí. Hàng nhập khẩu sẽ là máy móc, thiết bị, sắt thép, lúa mỳ, bột mỳ sữa nguyên liệu và tân dược.
5. Trung Cận Đông, Nam á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh
Hàng hoá của Việt Nam hiện đã xuất hiện trên các thị trường này nhưng chủ yếu là qua thương nhân nước thứ ba; kim ngạch xuất trực tiếp còn khá bé nhỏ. Đặc điểm cần lưu ý đối với các thị trường này là toàn bộ các nước trong khu vực, kể cả những nước đã từng phát triển theo đường lối kế hoạch hoá tập trung, đều đã áp dụng cơ chế thị trường và hiện đang có sự gắn kết với nhau thông qua việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực như khối liên minh thuế quan Nam Châu Phi, khối sử dụng đồng Franc ở Tây Phi, khối Meghreb tại Bắc Phi Thương mại giữa các nước trong khối được hưởng những ưu đãi đặc biệt. Vì lý do đó, trong chiến lược thâm nhập thị trường, cần chọn thị trường trọng điểm cho từng khối và lấy đó làm bàn đạp để tiến vào các nước trong khối.
Tóm lại, trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục củng cố và tăng cường chỗ đứng tại các thị trường đã có thì khâu đột phá có thể là gia tăng sự có mặt tại thị trường Trung Quốc, Nga, mở ra thị trường Mỹ, châu Phi và trong chừng mực nào đó là thị trường Mỹ Latinh.
III. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách thương mại Việt Nam
1. Mục tiêu cơ bản mà chính sách thương mại Việt Nam cần hướng tới:
1.1. Thực hiện tự do hoá thương mại:
Đảng và Nhà nước ta đã thống nhất chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện quá trình tự do hoá thương mại từ thấp đến cao theo xu hướng chung của các nước trên thế giới. Trước mắt cần bảo đảm thực hiện các cam kết với các nước trong AFTA. Đây là mục tiêu quan trọng và cấp bách hiện nay trong chính sách thương mại. Trước hết, chúng ta cần thực hiện cắt giảm thuế quan ở mức 0-5% theo lịch trình cắt giảm thuế sao cho việc này được hoàn tất vào năm 2006 theo cam kết với AFTA. Đồng thời cần chuẩn bị nhiều phương án để loại bỏ hàng rào phi thuế quan theo cam kết với các nước.
1.2. Xây dựng chiến lược thương mại phù hợp với điều kiện bên ngoài
Từ việc xác định thị trường trọng điểm, quy hoạch mặt hàng xuất - nhập khẩu, thực hiện chính sách đầu tư thích hợp, tổ chức mạng lưới phân phối hàng hoá hữu hiệu.
1.3. Sử dụng tổng hợp các công cụ tỷ giá hối đoái, trợ cấp và các biện pháp quản lý hành chính để điều chỉnh hoạt động thương mại theo các mục tiêu đã đặt ra.
Để phù hợp với điều kiện kinh tế mới và tránh những đột biến có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nói chung và hoạt động thương mại quốc tế nói riêng trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, chúng ta đã có nhiều biện pháp thích hợp để điều chỉnh tỷ giá và quản lý ngoại hối.
Hiện nay, để điều tiết hàng hoá xuất nhập khẩu, chúng ta còn đang sử dụng nhiều công cụ hành chính như cấm, tạm ngừng, hạn ngạch, chỉ tiêu, giấy phép không tự động, phụ thu và giá tính thuế tối thiểu. Các công cụ này đều là đối tượng phải bỏ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. So với thực tiễn quản lý phổ biến trên thế giới thì nước ta chưa áp dụng một số công cụ như hạn ngạch thuế quan , thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp Đây là những công cụ được các tổ chức thương mại quốc tế và khu vực thừa nhận, chí ít là cũng không đặt ra yêu cầu xoá bỏ. Vì vậy, định hướng cơ bản của cơ chế quản lý trong thời gian tới sẽ là giảm dần các công cụ phi thuế thuộc nhóm thứ nhất và tăng dần các công cụ thuộc nhóm thứ hai.
2. Đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách thương mại:
2.1. Đổi mới chính sách thuế:
Tham gia vào quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới đòi hỏi hệ thống chính sách thuế nước ta phải có những bước cải cách phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện để thực hiện chính sách phát triển kinh tế theo hướng mở cửa, tham gia vào phân công lao động quốc tế . Trong bối cảnh của quá trình hội nhập, quá trình cải cách chính sách thuế cần đạt được một số mục tiêu như đảm bảo ổn định thu phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế; góp phần thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời khuyến khích đầu tư trong nước; tăng cường và thúc đẩy sản xuất xuất khẩu; phù hợp với xu hướng hội nhập cũng như khả năng quản lý thuế.
Sau đây là một số đề xuất nhằm đạt được những mục tiêu cải cách, đổi mới hệ thống thuế nên trên:
- Thực hiện đơn giản hoá các mức thuế: xây dựng hệ thống thuế trung lập nhằm đơn giản hoá các mức thuế suất để có thể phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh lớn, có thể đạt được hiệu quả sản xuất cao, có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá các nước. Thực hiện cụ thể với từng sắc thuế như sau:
+ Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, áp dụng một thuế suất thống nhất cho mọi ngành sản xuất, kể cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đồng thời cần nghiên cứu, xác định mức thuế suất hợp lý so với mặt bằng chung trong khu vực.
+ Chúng ta đã chuyển sang thực hiện thuế giá trị gia tăng (VAT) thay cho thuế doanh thu. Tuy nhiên, mức thuế suất thuế VAT cũng cần được nghiên cứu, xác định một cách hợp lý để vừa có tác động thuận lợi về số thu, vừa có tác động một các hiệu quả tới việc khuyến khích kinh doanh. Ngoài ra việc ban hành và áp dụng thuế VAT cả đối với hàng nhập khẩu còn tạo điều kiện hạn chế phần giảm thu của ngân sách khi chúng ta phải thực hiện các bước cắt giảm thuế nhập khẩu.
- Thực hiện giảm những thuế suất cao: Việt Nam cần đặt mục tiêu thực hiện kế hoạch giảm thuế quan trước năm 2003 đối với những ngành có lợi thế so sánh trước mắt và trước năm 2006 đối với những ngành có lợi thế so sánh tiềm năng.
- Mở rộng diện chịu thuế: mở rộng diện chịu thuế có thể được thực hiện thông qua các sắc thuế cụ thể như sau:
+ Hạn chế, loại bỏ những diện ưu đãi, miễn giảm trong mọi sắc thuế;
+ Mở rộng việc áp dụng phương pháp khấu trừ thuế tại nguồn đối với các trường hợp có nguồn thu phát sinh tại Việt Nam của các đối tượng cư trú nước ngoài;
+ Đối với thuế nhập khẩu, có thể nghiên cứu để nâng mức thuế suất 0% trong một số trường hợp. Nhưng thuế suất này cần được xem xét cụ thể căn cứ theo kế hoạch thương mại cũng như tình hình sản xuất để nâng lên mức 3-5%. Như vậy sẽ bù đắp những thiếu hụt cho ngân sách khi thực hiện cắt giảm thuế nói chung mà vẫn đảm bảo thực hiện các quy định của CEPT.
+ Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt, thực hiện sửa đổi theo hướng mở rộng diện các mặt hàng phải chịu loại thuế này . Có thể áp dụng cả với hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, mở rộng thêm đối với một số mặt hàng tiêu dùng cao cấp như máy điều hoà nhiệt độ, tù lạnh
+ Có thể nghiên cứu ban hành một số loại thuế mới một cách hợp lý.
- Hoàn thiện công tác quản lý thuế: trong vấn đề này cần tập trung chú ý nhất việc quản lý thu thuế đối với những thu nhập được phát sinh từ nước ngoài, tiến hành quản lý đối tượng nộp thuế bằng mã số. Ngoài ra tăng cường chất lượng kiểm tra, thanh tra thuế và tạo mội trường đơn giản, rõ ràng để khuyến khích tính tuân thủ pháp luật của các đối tượng nộp thuế.
2.2. Các biện pháp bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước và chính sách công cụ phi thuế quan.
Tham gia vào quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực, cùng với các nước ASEAN xây dựng khu vực tự do, chúng ta không thể đi ngược lại với xu thế chung của quá trình tự do hoá thương mại để tiếp tục duy trì hàng rào bảo hộ mậu dịch. Do đó vấn đề bảo hộ cho sản xuất trong nước cần được thực hiện như sau:
- Nguyên tắc bảo hộ chung:
+ Chỉ bảo hộ những mặt hàng sản xuất trong nước đáp ứng nhu cầu có tiềm năng phát triển về sau, tăng thu ngân sách và giải quyết lao động.
+ Nguyên tắc bảo hộ phải được áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
+ Cơ sở bảo hộ được quy định cho một số ngành nghề và có thời hạn cụ thể. Về nguyên tắc, không có bảo hộ vĩnh viễn bất kỳ ngành nghề nào.
+ Việc bảo hộ phải phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại và các hiệp định quốc tế mà Chính phủ đã ký kết.
+ Trên cơ sở những yêu cầu về mức độ bảo hộ, xây dựng tiến trình cắt giảm thuế quan cho các mặt hàng trong Danh mục loại trừ tạm thời một cách thích hợp, theo hướng những mặt hàng nào cần được bảo hộ ở mức cao nhất sẽ được đưa vào cắt giảm thuế sau cùng và những mặt hàng nào không cần bảo hộ sẽ được cắt giảm thuế sớm hơn.
+ Phối hợp việc cắt giảm thuế với việc loại bỏ các rào cản phi thuế quan một cách linh hoạt và thích hợp để có thể duy trì bảo hộ cho các ngành sản xuất trong những trường hợp cụ thể.
Đồng thời với việc xác định chính sách bảo hộ, cần gấp rút triển khai việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các biện pháp phi thuế quan hữu hiệu, phù hợp và được thông lệ quốc tế cho phép.
Trước mắt chúng ta cần phải xác định rõ danh mục những mặt hàng cần được ưu tiên bảo hộ và phân loại chúng theo các cấp độ bảo hộ khác nhau. Việc tính toán đưa ra danh mục hàng cần được ưu tiên bảo hộ phải dựa trên kết quả của những phân tích định lượng và định tính tình hình cung cầu trong nước, sức cạnh tranh của hàng hoá nội địa và các diễn biến của thị trường quốc tế.
Có thể dự kiến phân loại các mặt hàng bảo hộ của Việt Nam theo các cấp độ sau:
+ Bảo hộ cấp độ 1 (cao nhất): những mặt hàng thuộc danh mục nhạy cảm
+ Bảo hộ cấp độ 2: những mặt hàng thuộc cân đối lớn của nền kinh tế như ôtô, xe máy, phân bón, thuốc trừ sâu, xi măng, sắt thép
+ Bảo hộ cấp 3: những mặt hàng tiêu dùng trong nước có thể sản xuất
Những mặt hàng không thuộc các danh mục bảo hộ trên có thể huỷ bỏ ngay các hàng rào thuế và phi thuế quan, thực hiện tự do hoá mậu dịch.
Hệ thống chính sách phi thuế quan của Việt Nam có thể xây dựng thành bốn loại sau dựa trên cơ sở sắp xếp lại các biện pháp phi thuế quan cũ và xây dựng thêm một số biện pháp mới phù hợp với quy định của WTO:
+ Loại 1: những biện pháp phi thuế quan phổ thông trong khuôn khổ WTO
+ Loại 2: những biện pháp kỹ thuật
+ Loại 3: những biện pháp hành chính
+ Loại 4: những chính sách vĩ mô khác có tác động điều tiết gián tiếp xuất nhập khẩu
2.3. Hoàn thiện chính sách khuyến khích xuất khẩu:
- Nâng cao hiệu quả của các hoạt động xúc tiến thương mại để giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu: xây dựng trung tâm giới thiệu sản phẩm, giao dịch thương mại, trung tâm bán buôn, chợ đầu mối ở các vùng kinh tế trọng điểm và các thành phố lớn, các trung tâm thương mại, kho ngoại quan và các gian hàng Việt Nam ở ngoài nước. Tạo điều kiện và hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài. Xúc tiến xuất khẩu vào các thị trường chủ yếu có sức tiêu thụ lớn như: Mỹ, Nhật, EU, Trung Quốc, ASEAN đối với các mặt hàng ta có khả năng tăng khối lượng xuất khẩu như thuỷ sản, hàng dệt may, giày dép, linh kiện điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, dây và cáp điện. Triển khai chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, nghiên cứu thành lập Quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, triển lãm, giới thiệu hàng mẫu.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh cần thiết cho các sản phẩm xuất khẩu: khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai ứng dụng công nghệ mới, phát triển và đa dạng hoá sản xuất, đồng thời xây dựng thương hiệu hàng hoá Việt Nam.
Hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế: ISO 9000, ISO 14000, HACCP
- Điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối đổi mới theo hướng khả năng cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu:
+ Thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng.
+ Bỏ quy định tỷ lệ kết hối ngoại tệ đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
+ Chuyển từ neo giá vào USD sang sử dụng rổ tiền tệ.
+ Xem xét và điều chỉnh quy định về trạng thái ngoại hối của các ngân hàng thương mại.
+ Tự do hoá lãi suất tiền tệ.
+ Điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa phù hợp với lộ trình cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan để tỷ giá thực không bị giảm sút, làm ảnh hưởng xấu đến sức cạnh tranh của hàng hoá.
- Phát triển các dịch vụ hỗ trợ xuất nhập khẩu: phát triển các dịch vụ vận tải hàng hoá XNK, các hình thức bảo hiểm trong hoạt động XNK, các hình thức tín dụng và bảo lãnh tín dụng xuất nhập khẩu.
2.4. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách thủ tục hành chính quốc gia.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật và kinh tế đối ngoại phù hợp với pháp luật và thông lệ thương mại quốc tế, tham gia vào các công ước có liên quan đến thương mại quốc tế. Trong những năm đầu của thế kỷ này, việc hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động ngoại thương cần xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý sau:
+ Quy chế về mở cửa hàng, lập chi nhánh công ty ở nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.
+ Quy chế về hội chợ, triển lãm và quảng cáo thương mại trong và ngoài nước.
+ Quy chế về đại lý bán hàng của nước ngoài tại Việt Nam.
+ Quy chế về hình thức kinh doanh tạm nhập để tái xuất, tạm xuất để tái nhập và hình thức kinh doanh chuyển khẩu.
+ Quy chế về quá cảnh hàng hoá.
+ Quy chế uỷ thác và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước.
+ Quy chế về giám định hàng hoá xuất, nhập khẩu.
+ Những quy chế về đầu tư để hỗ trợ thêm cho luật đầu tư.
+ Các loại quy chế, thể lệ điều chỉnh hoạt động ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
+ Rà soát lại Luật Hải quan và các văn bản quy định dưới luật vì một số điều khoản của luật này còn cản trở các hoạt động ngoại thương, chưa khuyến khích xuất, nhập khẩu.
- Tăng cường sự phối kết hợp giữa các bộ, ngành trong việc hoạch định chính sách, cơ chế và xây dựng các văn bản pháp luật về ngoại thương.
Một trong những vấn đề khá nổi cộm hiện nay là thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành hữu quan trong việc ban hành các văn bản về chính sách, cơ chế và pháp lý có liên quan đến ngoại thương. Sự đơn phương và riêng rẽ của một số Bộ, ngành trong việc ban hành các văn bản pháp lý cũng như quyết định điều hành nền vĩ mô sản xuất - kinh doanh của các ngành có liên quan đến định hướng chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu đã một mặt chỉ tính đến lợi ích toàn cục của nền kinh tế. Mặt khác, làm giảm hiệu lực điều hành vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước, giảm hiệu quả của chính các văn bản pháp lý đó. Vì thế, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành và các cơ quan chức năng quản lý nhà nước trong việc ban hành các văn bản pháp lý, chính sách và các quyết định quản lý, điều hành vĩ mô các hoạt động ngoại thương được coi là một điều kiện, biện pháp vĩ mô để tiếp tục hoàn chỉnh các công cụ chính sách ngoại thương.
- Tiếp tục giảm bớt các thủ tục hành chính nhằm cải cách một bước nền hành chính nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương: tiếp tục rà soát các quy định hiện hành trong chính sách và cơ chế quản lý để trình Chính phủ hoặc Bộ Thương mại quyết định nhằm loại bỏ những thủ tục hành chính không phù hợp. Bãi bỏ tiếp một số thủ tục hành chính đang còn tồn tại nhưng không cần thiết, cần tiếp tục nghiên cứu xử lý, như: cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, giao chỉ tiêu xuất nhập khẩu các mặt hàng theo kế hoạch định hướng. Tiếp tục bãi bỏ cơ chế quản lý bằng kế hoạch định hướng đối với một số mặt hàng như phân bón, xe hai bánh gắn máy, chỉ giữ lại 2 mặt hàng là gạo và xăng dầu.
Đổi mới thủ tục của ngành Hải quan cũng là vấn đề hết sức cấp thiết. Hoàn thiện hệ thống kiểm tra hải quan theo quy định của ASEAN về luồng xanh, đỏ, vàng. Đơn giản hoá thủ tục hành chính và giấy tờ song phải thít chặt được sự quản lý, điều hành và chống gian lận, buôn lậu thương mại, áp dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại trong quản lý.
Mục lục
Lời mở đầu
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Danh mục bảng biểu
Bảng 1: Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976 -1985 9
Bảng 2: Tăng trưởng GDP và đóng góp của xuất khẩu vào GDP 31
Bảng 3: Cơ cấu xuất khẩu của các NIC Đông á thời kỳ 1965-1986 31
Bảng 4: Kim ngạch XNK của Việt Nam từ 1996 đến nay 40
Bảng 5: Số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài từ năm 1996 tới nay 43
Bảng 6: Tổng hợp số lao động theo Công ty Việt Nam 1999-01/2002 44
Bảng 7: Một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996-2003 47
Bảng 8: Xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ 1986-1995 52
Bảng 9: Sự thay đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1990-1995 53
Bảng 10: Xuất khẩu phân theo nhóm hàng 55
Bảng 11: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam phân theo SITC 55
Bảng 12: Mười mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong những năm 1991-1995 56
Bảng 13: Lạm phát, tỷ giá và cán cân thương mại giai đoạn 1989-1995 57
Bảng 14: Mức đóng góp về thuế xuất khẩu, nhập khẩu 58
Bảng 15: Nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ 1986-1995 59
Bảng 16: Nhập khẩu phân theo nhóm hàng 60
Bảng 17: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt nam 63
Bảng 18: Mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 64
Bảng 19: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng chủ lực 65
Bảng 20: Xuất khẩu phân theo nhóm hàng 66
Bảng 21: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam phân theo SITC 66
giai đoạn 1996-1999 66
Bảng 22: Cơ cấu trường xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1997- 2001 69
Bảng 23: Tình hình buôn bán của Việt nam với ASEAN 70
Bảng 24: Quan hệ thương mại Việt - Mỹ 72
Bảng 25: Xuất khẩu của Việt nam với một số nước EU 73
Bảng 26: 10 nước và lãnh thổ đứng đầu về xuất khẩu (Tr.USD) 76
Bảng 27: Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu dự kiến đến năm 2010 99
Bảng 28: Nhu cầu nhập khẩu dự kiến đến năm 2010 100
Lời mở đầu
*********************
1. Sự cần thiết của đề tài:
Chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình đổi mới đã có những thay đổi cơ bản và đang chuyển từ chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương sang cơ chế thị trường cơ sự quản lý của Nhà nước, từng bước thực hiện tự do hóa thương mại. Chính sách thương mại thời kỳ này đã có những bước tiến phù hợp với mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gắn với những thay đổi trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn cụ thể. Nhờ đó mà hoạt động ngoại thương của Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, đặc biệt là ở việc gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm, từng bước đa dạng hóa mặt hàng gắn với chuyển hướng và đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu sau hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam vẫn ở trình độ thấp kém. Cải cách kinh tế của Việt Nam theo hướng kinh tế thị trường định hương xã hội chủ nghĩa tiếp tục đi vào chiểu sâu đòi hỏi những nỗ lực lớn. ảnh hưởng của xu thế tự do hóa thương mại ngày càng sâu sắc, thể hiện không chỉ ở việc thực hiện các cam kết theo lộ trình trong các hiệp định thương mại song phương (điển hình là Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ), các cam kết quốc tế đối với các tổ chức khu vực (AFTA) và trong tương lai WTO, mà cả sức ép cạnh tranh xuất khẩu và thu hút đầu tư giữa các nước trên thế giới. Trong thời gian gần đây, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Không chỉ các mặt hàng nông lâm thủy sản, mà cả các mặt hàng như dầu thô, dệt may, da giày tiếp tục giảm giá. Hàng rào thuế quan giảm xuống thì các rào cản về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, điều kiện lao động trở nên khó khăn hơn. Do vậy, để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có rất nhiều việc phải làm, đòi hỏi sự nỗ lực từ phía các doanh nghiệp và một yếu tố quan trọng không thể thiếu đó là hoàn thiện các chính sách thương mại của Nhà nước.
Xuất phát từ những nhận thức trên, cộng với những kiến thức đã thu lượm được trong thời gian học tập tại trường Đại học Ngoại thương, tôi đã lựa chọn đề tài "Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến ngoại thương Việt Nam trong những năm gần đây".
2. Mục đích của đề tài:
Nhìn nhận sự đổi mới của chính sách thương mại Việt Nam trong thời gian qua, những điểm mới, tích cực và ảnh hưởng của nó tới hoạt động xuất nhập khẩu: thành tựu cũng như hạn chế, trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thương mại.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận chỉ giới hạn ở những vấn đề cơ bản nhất có liên quan đến sự đổi mới của chính sách thương mại hiện nay, tác động của nó tới hoạt động ngoại thương, những thành tựu và hạn chế còn tồn tại.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân và tích tổng hợp, phương pháp liệt kê và thống kê, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn
5. Nội dung nghiên cứu:
Khóa luận bao gồm các phần chính sau đây:
Chương I: Một số vấn đề lý luận liên quan đến đổi mới chính sách thương mại của Việt Nam.
Chương II: Tác động của đổi mới chính sách thương mại đến hoạt động ngoại thương Việt Nam trong những năm gần đây.
Chương III: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập thương mại thế giới.
Kết luận
Thông qua đề tài này, tôi cũng mong muốn phần nào cung cấp được những thông tin tổng quát nhất về chính sách thương mại của Việt Nam, nội dung của quá trình đổi mới chính sách thương mại và hướng hoàn thiện. Song các nội dung quan trọng nhất mà tôi muốn đề cập là những tác động của công cuộc đổi mới chính sách thương mại đến hoạt động ngoại thươngViệt Nam trong những năm gần đây, thành tựu và hạn chế còn tồn tại.
Đồng thời qua việc nghiên cứu những kết quả của hoạt động xuất nhập khẩu những năm qua phần nào cho chúng ta thấy vai trò quản lý, điều hành của chính sách thương mại không chỉ quan trọng và cần thiết đối với hoạt động xuất nhập khẩu mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Do thời gian có hạn và trình độ của người viết còn hạn chế, khóa luận không tránh được những sai sót và khiếm khuyết nhất định.
Cuối cùng cho tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương, những người đã chỉ bảo tôi trong quá trình nghiên cứu, đặc biệt là Tiến sĩ Nguyễn Văn Hồng, người trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Quản lý lao động ngoài nước, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương đã tạo điều kiện cho tôi trong việc thu thập tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 15/12/2003
Sinh viên thực hiện
Đỗ Thúy Hằng
tài liệu tham khảo
1. Việt Nam trên chặng đường đổi mới và phát triển kinh tế - Tiến sĩ Nguyễn Minh Tú - NXB Chính trị Quốc gia - 2002.
2. Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới - NXB Thống kê - 2003.
3. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 1991-2000 - Tổng cục Thống kê - NXB Thống kê - 2001.
4. Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ 1991 đến nay, kinh nghiệm của các nước ASEAN - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - TS. Lê Đăng Doanh, TS Nguyễn Minh Tú - NXB Khoa học Xã hội - 2002.
5. Chính sách thương mại, đầu tư và sự phát triển một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam - NXB Khoa học Xã hội - 1998.
6. Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập - Hoàng Đức Thân - NXB Chính trị Quốc gia - 2001.
7. Việt Nam cải cách theo hướng rồng bay - Dwogh, H.Perkins - NXB Chính trị Quốc gia - 1994.
8. Trung Quốc: 20 năm mở cửa - cải cách chế độ sở hữu - Tề Quế Trân - NXB Chính trị Quốc gia - 2001.
9. Một số vấn đề cải cách mở cửa của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam - Vũ Quang Vinh - NXB Thanh Niên - 2001
10. Kinh tế NICs Đông á - Kinh nghiệm đối với Việt Nam - Lê Văn Toàn - NXB Thống kê - 1992.
11. Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông á - Joshep E.Stiglitz và Shahid Yusuf - NXB Chính trị Quốc gia - 2002.
12. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và doanh nghiệp Việt Nam, Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam á - Việt Nam , Viện hợp tác nghiên cứu ASEAN, NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
13. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường - Phạm Thị Nga - NXB Khoa học Xã hội - 1997.
14. Những vấn đề của toàn cầu hóa - TS. Nguyễn Văn Dân - NXB Khoa học Xã hội - 2001.
15. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới - GS-TS Chu Văn Cấp - NXB Chính trị Quốc gia - 2003.
16. Niên giám thống kê 1996-2000, NXB Thống kê.
17. Kỷ yếu xuất khẩu 2001 - NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thời báo Kinh tế Sài gòn - 10/2001.
18. Hệ thống chính sách thương mại của nước CHXHCN Việt Nam (các văn bản pháp quy điều tiết các hoạt động kinh doanh XNK và đầu tư hiện hành) - Tập 1,2 - NXB Văn hóa Thông tin - 1997.
19. Chính sách ngoại thương trong quá trình CNH - HĐH đất nước - Bùi Xuân Lưu - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ - Mã số B96.04.05 - Trường ĐH Ngoại Thương.
20. Chính sách và giải pháp thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ 2001-2010, tầm nhìn đến 2020 - Nguyễn Văn Nam (chủ nhiệm) - Đề tài khoa học chuyên ngành cấp Nhà nước - Mã số 2001-78-007
Bộ Thương mại, Bộ Khoa học và Môi trường, Viện nghiên cứu thương mại,2001
21. Giảm dần bảo hộ, tiến tới tự do hóa thương mại trong quá trình hội nhập Bùi Xuân Lưu (chủ nhiệm) - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - Mã số B97.40.05 - Trường ĐH Ngoại Thương.
22. Chính sách XNK của Việt Nam trong xu thế tự do hóa thương mại - Nguyễn Thị Hường - Luận án Tiến sĩ kinh tế - Mã số: 5.02.05 - Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chính Minh.
23. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia - 2001.
24. Thị trường lao động Việt Nam - Trương Thị Thúy Hằng - Tạp chí nghiên cứu kinh tế - Số 09/1997.
25. Kinh tế Việt Nam sau 11 năm đổi mới - Nguyễn Sinh Cúc - Thời báo Kinh tế Việt Nam - Số 71, ngày 03/09/1997.
26. Tăng trưởng và phát triển - Trần Ngọc Hiên - Tạp chí Cộng Sản - Số 4/1994.
27. Kinh tế Đông á có thể tăng trưởng với tốc độ cao liên tục và lâu dài được không - Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương, số 04/1996.
28. Điều hành XNK năm 2000: Hỗ trợ tối đa xuất khẩu - Văn Oanh - Báo Đầu tư ngày 29/11/1999.
29. Tạp chí Kinh tế đối ngoại - Trường Đại học Ngoại thương - 1999.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hang- luan van.doc