Đề tài Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đến dịch vụ tài chính kế toán tại Việt Nam

Về bối cảnh quốc tế: Tổ chức thương mại thế giới WTO ra đời đánh dấu một sự biến đổi lớn của tiến trình tự do hoá thương mại thế giới. Đối tượng của thương mại không chỉ giới hạn ở hàng hoá vật chất mà còn bao hàm cả các sản phẩm thuộc sở hữu trí tuệ và dịch vụ. Chính vì vậy, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tuy là Hiệp định song phương nhưng được đàm phán, ký kết trên nền tảng đa phương nên nội dung của Hiệp định được mở rộng hơn so với các Hiệp định song phương trước đây Việt Nam đã từng ký kết và tuân thủ nguyên tắc của WTO. Trong bối cảnh như vậy, việc Việt Nam đàm phán ký kết Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ hứa hẹn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả hai phía nhưng đồng thời cũng đặt Việt Nam trước những thách thức mới về việc đổi mới, cải cách trong nước để thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại song phương và xu hướng đa phương hóa các cam kết song phương, tiến tới gia nhập WTO.

doc87 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1497 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đến dịch vụ tài chính kế toán tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
78 186 2.932 34.151 2 4 Deloitte&Touche New York 5.838 103 2.155 20.658 3 5 KPMG New York 5.400 145 1.500 19.000 4 3 Earst&Young New York 4.270 82 1.946 13.653 5 1 Arthur Andersen Chicago 3.600 80 1.313 17.600 6 6 H&R Block Tax Service Inc Kansas City MO 1.431 9.765 3.500 4.117 7 7 Century Bussiness Cleveland 436,1 158 - 2.144 8 9 Grant Thorton New York 416 47 256 2.125 9 10 BDO Seidman Chicago 408 37 288 1.210 10 8 RSM Mc Gladrey Blooming ton MN 338 100 499 2.021 Nguồn : www.electronicaccoutant.com/html/t100y2k/ - Những tác động tích cực: + Tăng cường chất lượng dịch vụ: Thực tế hiện nay, chất lượng dịch vụ giữa các công ty kiểm toán còn có sự chênh lệnh khá lớn. Các công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, công ty liên doanh và VACO - hãng thành viên của Deloitte Touche Tohmasu thực hiện chính sách tuyển dụng, đào tạo và được hỗ trợ kỹ thuật kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của công ty mẹ. Do đó, các công ty này hàng năm được trợ giúp về công tác đào tạo, nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, soát xét chất lượng báo cáo kiểm toán,...đạt tiêu chuẩn kiểm toán quốc tế. Các công ty kiểm toán Nhà nước được hỗ trợ của dự án EU và thông qua hoạt động liên doanh kiểm toán với các công ty 100% vốn nước ngoài đã từng bước nâng cao trình độ nghiệp vụ, tiếp cận với công nghệ tiên tiến, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ. Các công ty TNHH khả năng cạnh tranh thấp, doanh thu không đáng kể và chất lượng dịch vụ chưa đạt yêu cầu. Sự tham gia của các công ty kiểm toán Mỹ có uy tín cao về chất lượng dịch vụ cung cấp sẽ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế không những của công ty Nhà nước mà còn của các công ty TNHH thông qua việc tiếp cận chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật kiểm toán hiện đại qua con đường hợp tác kinh doanh như các liên minh chiến lược giữa các công ty Việt Nam và công ty nước ngoài (như trường hợp của VACO là thành viên của Deloitte touche Tohmasu), liên doanh, liên kết, giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài. + Nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ nhân viên và kiểm toán viên. Các công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh và VACO chi phí đào tạo lớn do trong quá trình đầu tư của công ty mẹ, có chương trình và nội dung đào tạo theo chuyên ngành và theo từng cấp bậc của nhân viên, hình thức đào tạo trong nước hoặc ở nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau như đào tạo cơ bản vào các năm thứ 1, 2, 3; đào tạo kèm cặp qua làm việc đào tạo thức tế, học tập trung theo chuyên ngành, học để lấy CPA ở nước ngoài, đào tạo ngành bổ trợ tập trung (Luật , Ngoại ngữ ). ở các công ty này có chương trình đào tạo chi tiết cho từng nhân viên (thường là từ 150 đến 300 giờ/năm). Chính sách đào tạo thực hiện theo qui định chung của công ty mẹ, chi phí đào tạo lớn (học ACCA tại Việt Nam bình quân 120 đến 150 triệu /người/khoá). Đây không phải chỉ là chính sách riêng cho các công ty kể trên mà còn là chính sách chung của hầu hết các công ty kiểm toán quốc tế trong thời gian đầu xâm nhập vào thị trường mới. Chính sách này sẽ đào tạo một đội ngũ cán bộ lao động trẻ, năng động, có trình độ nghiệp vụ cao cho ngành dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế, đồng thời tạo sức ép tích cực đối với các công ty khác hướng tới chính sách quan tâm hơn về đào tạo. + Các công ty kiểm toán Mỹ ngoài việc nhập khẩu vào Việt Nam nghiệp vụ, kỹ thuật kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế tiên tiến còn mang theo những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đang tồn tại trong thực tiễn hành nghề tại Mỹ và một số nước phát triển khác như Anh Canada... Mỹ là một trong số các nước có ngành kiểm toán phát triển (Tổng doanh thu của 100 công ty kiểm toán hàng đầu của Mỹ năm 2000 là 35,9 tỷ USD - Nguồn www.electronic.com/htlm/t100y2k/) với hệ thống chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp tiên tiến. Các công ty kiểm toán Mỹ sẽ du nhập vào Việt Nam nền văn hoá hành nghề chuyên nghiệp tôn trọng các chuẩn mực về đạo đức và đóng góp kinh nghiệm cho các cơ quan quản lý và các Hội nghề nghiệp trong quá trình xây dựng hệ thống chuẩn mực nghề nghiệp đặc thù với điều kiện Việt Nam, nhưng đồng thời phù hợp với hệ thống các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực này. + Một số tác động khác: Ngoài những tác động kể trên, Hiệp định thương mại Việt Mỹ khi có hiệu lực có thể sẽ có những tác động khác (Mặc dù phần nào đã được đề cập ở phần phân tích ở trên) tới hoạt động cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế ở Việt Nam, cụ thể: * Thúc đẩy liên doanh, liên kết giữa các công ty kiểm toán Việt Nam và nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh giữa bên nước ngoài với bên Việt Nam, do đó rất có khả năng số lượng công ty kiểm toán liên doanh tăng lên. * Hiệp định sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận kỹ thuật, kỹ năng và phương pháp kiểm toán hiện đại. * Sự xâm nhập vào thị trường kiểm toán Việt Nam của các công ty kiểm toán Mỹ sẽ làm cho cạnh tranh trên thị trường cung cấp dịch vụ ngày càng gay gắt hơn, với sự có mặt nhiều hơn của các công ty kiểm toán hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có mặt tích cực đó là thúc đẩy các công ty kiểm toán trong nước, đặc biệt là các công ty nhỏ đẩy mạnh tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua chất lượng dịch vụ, giảm giá phí, tiết kiệm chi phí, nâng cao đạo đức nghề nghiệp... 2.2.2. Tác động tiêu cực + Nguy cơ sụp đổ hệ thống các công ty kiểm toán TNHH. Cam kết mở cửa thị trường Việt Nam của Hiệp định thương mại Việt Mỹ có thể dẫn tới sự chênh lệch ngày càng cao về qui mô hoạt động, năng lực cạnh tranh, chất lượng dịch vụ giữa các nhóm công ty tham gia thị trường cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế cụ thể là giữa các nhóm công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty Nhà nước và các công ty TNHH. Như đã trình bày tại phần hiện trạng của ngành dịch vụ kế toán, kiểm toán, và tư vấn thuế ở trên, hiện nay (khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ chưa được thực hiện), các công ty có vốn đầu tư nước ngoài giữ vai trò chủ đạo, có năng lực canh tranh cao, nắm giữ hầu hết thị phần và có ưu thế nổi trội hơn về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, qui mô vốn, chất lượng dịch vụ cung cấp...cụ thể: * Về nhân sự: Đây là hai khu vực thu hút nhiều kiểm toán viên có trình độ, năng lực và kinh nghiệm nhất, đặc biệt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có sự tham gia của các chuyên gia kiểm toán nước ngoài với kinh nghiệm kỹ thuật và kinh nghiệm kiểm toán hiện đại. * Về khách hàng: Theo số liệu đã được cung cấp ở phần hiện trạng ở trên, đây là hai khu vực có số lượng khách hàng nhiều và ổn định nhất, các công ty kiểm toán Nhà nước có khách hàng thường xuyên là các doanh nghiệp Nhà nước 607 năm 1999 và 714 năm 2000) và cũng chiếm một lượng lớn khách hàng thuộc các khu vực khác, trong khi đó thị trường khách hàng truyền thống (theo giấy phép hoạt động) của các công ty kiểm toán có vốn đầu tư nước ngoài là các doanh nghiệp FDI và các dự án quốc tế. * Về doanh thu: Đây là hai khu vực có doanh thu lớn nhất trong tổng doanh thu của toàn ngành, cụ thể, năm 1999, công ty kiểm toán có vốn đầu tư nước ngoài và công ty nước ngoài chiếm lần lượt 75% và 23,6% tổng doanh thu toàn ngành, số liệu này năm 2000 là 72,8% và 25,8%. * Về lợi nhuận: Tất cả các công ty kiểm toán Nhà nước đều có lãi. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài dù lỗ, nhưng đó là do các công ty này đang trong giai đoạn phát triển thị trường cho nên áp dụng các chính sách về tiền lương và chi phí đào tạo cao. * Qui trình kiểm toán, kỹ thuật - kỹ năng kiểm toán của hai khu vực Nhà nước và đầu tư nước ngoài hiện đại và tiên tiến hơn khu vực các công ty kiểm toán TNHH. Ngoài ra, khi so sánh giữa hai khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty có lợi thế về kỹ thuật, phương tiện kiểm toán, quản lý, độc lập trong đưa ra phí đối với dịch vụ cung cấp và các kỹ năng, kỹ thuật kinh doanh khác, trong khi các công ty Việt Nam lại có lợi thế về hiểu biết pháp luật, tập quán kinh doanh Việt Nam, lợi thế về số lượng khách hàng truyền thống và hiện nay đang có lợi thế về phạm vi kinh doanh (tuy nhiên lợi thế này sẽ không còn đối với các công ty kiểm toán Mỹ khi thời hạn 2 năm sau khi Hiệp định Việt - Mỹ có hiệu lực). Tóm lại, các công ty kiểm toán TNHH có năng lực cạnh tranh thấp, số lượng nhân viên có chứng chỉ kiểm toán viên thấp (bình quân từ 1 đến 5 người), số lượng khách hàng ít so với hai khu vực kể trên, doanh thu chỉ chiếm 1,4% và 1,6% trong tổng doanh thu của ngành trong các năm 1999 và 2000. Do đó, sự tham gia thị trường của các công ty kiểm toán Mỹ với qui mô lớn và không thua kém nhiều so với “ Big 5” hiện đang có mặt tại Việt Nam, có thể sẽ có tác động lớn tới các công ty kiểm toán TNHH ngày càng thu hẹp lại dần hơn, trong trường hợp xấu nhất có thể dẫn đến các công ty TNHH bị loại ra khỏi thị trường. + Nguy cơ chảy máu chất xám của các công ty kiểm toán Việt Nam (tnhh và DNNN). Như đã đề cập trong phần những tác động tích cực của Hiệp định thương mại Việt Mỹ, các công ty kiểm toán có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang hoạt động trên thị trường Việt Nam nói riêng và các công ty kiểm toán xuyên quốc gia nói chung trong thời kỳ ban đầu gia nhập thị trường có chi phí đào tạo rất cao. Ngoài ra, chính sách của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài cũng cao hơn so với hai khu vực còn lại (doanh nghiệp Nhà nước và công ty TNHH). Đối với các công ty đang có mặt tại thị trường Việt Nam, tổng chi phí lương thường chiếm từ 80%-120% tổng doanh thu, cụ thể lương khởi điểm vào khoảng 200USD/tháng, đối với người quản lý trung bình 500USD/tháng. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện theo đơn giá lương được duyệt là 27%trên doanh thu, nhưng không được vượt quá mức khống chế bình quân 2.000.000đ/người/tháng theo Quyết định số 861/20/QĐ-BLĐTBXH ngày 29/8/2000 về công bố mức lương bình quân chung năm 2000 của các doanh nghiệp Nhà nước được giao đơn giá tiền lương. Các công ty TNHH chi phí tiền lương và lương bình quân đầu người thấp hơn do doanh thu, quy mô vốn thấp. Thực tế hiện nay các công ty kiểm toán TNHH đang bị chảy máu chất xám, ngay cả các công ty kiểm toán Nhà nước cũng bị tác động.Với sự xâm nhập thị trường Việt Nam của các công ty kiểm toán Mỹ, tình trạng chảy máu chất xám từ các công ty TNHH và thậm chí của các công ty Nhà nước vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng trầm trọng hơn. Tình trạng này có thể góp phần ngày càng làm suy yếu khu vực các công ty kiểm toán TNHH và tác động xấu tới năng lực cạnh tranh của các công ty kiểm toán Nhà nước. + Nguy cơ về sự gia nhập thị trường lao động Việt Nam của các kiểm toán viên nước ngoài. Bên cạnh nguy cơ về chảy máu chất xám trong nước, các công ty kiểm toán Việt Nam (đặc biệt là kiểm toán viên Việt Nam) còn đứng trước nguy cơ thị trường lao động (về các vị trí quản lý, chủ phần hùn, chuyên gia cao cấp, kiểm toán viên cao cấp...) trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán bị tác động do các chuyên gia, kiểm toán viên nước ngoài... cùng các công ty kiểm toán Mỹ xâm nhập thị trường Việt Nam. Các kiểm toán viên nước ngoài với năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm và kiến thức tổng hợp về kinh doanh, về khách hàng sẽ dần nhận chiếm lĩnh các vị trí quan trọng trong các công ty kiểm toán và sẽ đẩy các kiểm toán viên Việt Nam vào những vị trí có mức độ hoạt động chuyên nghiệp thấp. Ngoài ra còn có nguy có xâm nhập thị trường lao động của các kiểm toán viên nước ngoài không có đủ trình độ. Theo qui định hiện hành, các kiểm toán viên là người nước ngoài có chứng chỉ kiểm toán viên không do Bộ Tài chính Việt Nam cung cấp thì phải tham dự kỳ thi sát hạch kiến thức về luật pháp kinh tế, tài chính, kế toán và kiểm toán Việt Nam do Bộ Tài chính Việt Nam tổ chức, do đó nếu không có cơ chế, nội dung kiểm tra, sát hạch kiểm toán viên nước ngoài phù hợp và nếu không thiết lập một cách hữu hiệu và thích hợp mạng lưới an toàn thì không có cơ sở đảm bảo rằng các kiểm toán viên nước ngoài hành nghề ở Việt Nam có đủ trình độ và kinh nghiệm. Cũng không ngoại trừ trường hợp các kiểm toán viên nước ngoài sử dụng các giấy phép hành nghề, chứng chỉ và bằng cấp giả mạo. Điều này sẽ rất nguy hiểm vì nền kinh tế sẽ bị cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán không đảm bảo chất lượng. + Nguy cơ xuất phát từ quá trình liên kết các tổ chức kiểm toán độc lập. Mặc dù đã phân tích ở phần các tác động tích cực, liên kết giữa các công ty kiểm toán Việt Nam và các công ty kiểm toán Mỹ sẽ góp phần nâng cao chất lượng chung về dịch vụ kế toán, kiểm toán, quá trình này cũng có mặt trái của nó. Tình trạng “chuyển giá” phi pháp chủ yếu không phải là máy móc thiết bị mà là giá nhân công có thể gặp phải ở các công ty liên doanh kế toán, kiểm toán (Như thường xảy ra ở các công ty đa quốc gia) gây thua lỗ nghiêm trọng, kéo dài trong các công ty liên doanh (cũng như các công ty 100% vốn nước ngoài). Trong trường hợp đó, phía đối tác Việt Nam buộc phải góp thêm vốn nếu muốn duy trì hoạt động, hoặc bán lại phần vốn góp cho bên nước ngoài để trở thành công ty 100% vốn nước ngoài. Quá trình này sẽ dẫn đến hậu quả làm trầm trọng thêm tình thế bất lợi của các công ty kiểm toán trong nước và sự chiếm lĩnh thị trường của các công ty kiểm toán nước ngoài. Một xu hướng trong quá trình liên doanh, liên kết đang khá phổ biến tại các nước ASEAN là cho phép các công ty kiểm toán trong nước tham gia với tư cách thành viên trong các công ty kiểm toán đa quốc gia, kể cả “Big 5”. Các công ty thành viên thực hiện chính sách đào tạo, tuyển dụng và được hỗ trợ kỹ thuật kiểm toán và tư vấn thuế theo yêu cầu của công ty mẹ. Đổi lại, các công ty đa quốc gia được hưởng kết quả từ hoạt động trợ giúp dưới hình thức phí hội viên của các công ty thành viên. Hình thức này cũng đã phát sinh ở Việt Nam, khi công ty kiểm toán VACO trở thành thành viên của Deloitte Touche Tohmasu... Hình thức này cũng làm tăng tình thế bất lợi trong cạnh tranh của các công ty kiểm toán trong nước và sự lệ thuộc vào công ty kiểm toán nước ngoài. chương III: các giải pháp nhằm tuân thủ các cam kết trong hiệp định I. Giải pháp đối với dịch vụ bảo hiểm 1. Giải pháp và khuyến nghị việc điều chỉnh hệ thống văn bản pháp quy quản lý ngành bảo hiểm Trên cơ sở phân tích tác động với hệ thống văn bản pháp lý của Việt Nam, đề nghị điều chỉnh lại các qui định cụ thể tương ứng nhằm tuân thủ các cam kết trong Hiệp định. Tuy nhiên, trong quá trình điều chỉnh hệ thống văn bản cần lưu ý một số khuyến nghị về mặt nguyên tắc sau đây: 1.1. áp dụng song phương hay đa phương ? Như đã phân tích ở trên, cơ quan xây dựng chính sách quản lý ngành bảo hiểm Việt Nam cần xác định rõ phương án điều chỉnh một loạt các vấn đề trong hệ thống văn bản pháp qui theo một trong hai hướng sau đây. Hướng thứ nhất đó là điều chỉnh hệ thống văn bản pháp qui áp dụng chung cho mọi đối tác của Việt Nam (tức là điều chỉnh Luật kinh doanh Bảo hiểm và các văn bản nước ngoài dưới luật có các qui định liên quan đến các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài ) - đa phương. Hướng thứ hai đó là xây dựng cơ chế áp dụng riêng đối với các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư Hoa Kỳ và các doanh nghiệp bảo hiểm Hoa kỳ mong muốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm (hướng thứ hai có thể thực hiện được do sự hiện diện của điều 2 trong Luật kinh doanh bảo hiểm) - song phương. Mỗi phương án đều có những nhược điểm và ưu điểm của mình. Phương án thứ nhất sẽ đem lại thuận lợi cho công tác quản lý nhờ có một mặt bằng quản lý duy nhất đồng thời tránh phản ứng tiêu cực từ các đối tác kinh tế khác của Việt Nam do họ không bị phân biệt đối xử so với các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Song mặt khác, nhiều người lo ngại rằng việc thực hiện đơn phương theo phương án sẽ tạo ra nhiều đối tượng hưởng lợi đồng thời cũng tước đi cơ hội đàm phán của Việt Nam trong quá trình tham gia các định chế thương mại quốc tế trên khía cạnh thương mại dịch vụ. Ngoài ra việc sử Luật theo phương án 1 cũng đòi hỏi thời gian cho các quyết định của cơ quan lập pháp. Phương án thứ hai khắc phục được nhược điểm của phương án thứ nhất song lại biến các ưu điểm của phương án thứ nhất thành nhược điểm của mình. Ngoài ra sự khó khăn trong công tác quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước trong điều kiện mặt bằng quản lý còn đặt ra khả năng phát sinh tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định Việt Nam - Hoa Kỳ nói riêng và các cam kết Việt Nam sẽ đưa ra trong tương lai trong quá trình ra nhập Tổ chức thương mại thế giới. Tuy nhiên phương án thứ nhất nên được xem xét hơn vì một số lý do sau: Lý do thứ nhất, đó là trong điều kiện Việt Nam đang tăng cường quan hệ đối tác thương mại, việc phân biệt đối xử theo hướng có lợi cho Hoa Kỳ sẽ gây phản ứng rất mạnh từ các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Lý do thứ hai, đó là hệ thống pháp lý nên tạo một mặt bằng chung cho mọi đối tượng hoạt động (ngoại trừ các lý do về đảm bảo yêu cầu an toàn tài chính), tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh tránh tình trạng có một số doanh nghiệp chiếm lợi thế nhờ đối xử ưu đãi hơn so với các doanh nghiệp khác (Không phân biệt đói xử giữa các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài với nhau). Lý do thứ ba, việc tự do hoá đơn phương thị trường dịch vụ được hệ thống qui định quốc tế về thương mại dịch vụ (GATS) ghi nhận tương đương với các cam kết về mở cửa thị trường. Lý do thứ tư, đó là phần lớn các cam kết đều có thời hạn thực hiện là 3 năm, nên việc điều chỉnh hệ thống văn bản pháp qui sẽ có đủ thời gian cần thiết. 1.2. Quy định thận trọng Một nguyên tắc đến nay đã được thống nhất chung đó là quá trình tự do hoá thị trường dịch vụ bảo hiểm luôn phải được đi kèm với việc củng cố hệ thống qui định thận trọng và bảo vệ quyền lợi khách hàng. Bản thân những công cụ này cũng đã được hệ thống qui định quốc tế về thương mại dịch vụ công nhận là hợp lý và cho phép áp dụng mà không bị coi là hàng rào thương mại. Như vậy cần đặc biệt chú trọng đến các yếu tố thận trọng trong mọi qui định liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài dưới mọi hình thức như qua biên giới hay hiện diện thương mại. 1.3. Tăng cường hệ thống bảo vệ khách hàng Hệ thống văn bản pháp qui quản lý ngành bảo hiểm của Việt Nam cần tăng cường hệ thống bảo vệ khách hàng thông qua cụ thể hoá yêu cầu về giải quyết khiếu nại của khách hàng mua dịch vụ bảo hiểm, từng bước cân nhắc việc yêu cầu thành lập quĩ bảo đảm để bảo vệ quyền lợi khách hàng khi doanh nghiệp bảo hiểm mất khả năng thanh toán. 2. Giải pháp và khuyến nghị đối với chính sách hỗ trợ ngành và công tác quản lý bảo hiểm. 2.1. Tăng cường hệ thống hỗ trợ của Nhà nước cho sự phát triển của thị trường Nhằm tạo ra sự cạnh lành mạnh, với trọng tâm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đang hoạt động trên thị trường nhằm sẵn sàng với điều kiện cạnh tranh cao hơn trong tương lai, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ chung cho ngành bảo hiểm. Hệ thống này cần có những đặc điểm sau: - Phạm vi của hệ thống ưu đãi Cần điều chỉnh lại hệ thống chính sách ưu đãi đặc biệt, giành riêng cho các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước vì chính sách như vậy không phù hợp với các cam kết đãi ngộ Quốc Gia (NT) trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Như vậy Nhà nước nên lập một hệ thống chính sách hỗ trợ phát triển chung giành cho mọi doanh nghiệp bảo hiểm thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau nhằm tạo mọi mặt cân bằng cần thiết cho sự phát triển lành mạnh và hiệu quả của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt phải đẩy mạnh trong giai đoạn 3-5 năm năm tới nhằm chuẩn bị cho các doanh nghiệp bảo hiểm hiện có mặt trên thị trường trở nên sẵn sàng với điều kiện cạnh tranh trong thời gian thực hiện cam kết trong Hiệp định. - Nội dung của chính sách ưu đãi Chính sách ưu đãi nên giới hạn ở khía cạnh mang tính chất xúc tác và tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp bảo hiểm tiếp xúc với các yếu tố giúp tăng cường năng lực của mình. Cụ thể như : + Tăng cường hệ thống nghiên cứu phát triển sản phẩm bảo hiểm + Tăng cường hệ thống thông tin thị trường bảo hiểm + Củng cố hệ thống đào tạo công cộng cho ngành bảo hiểm + Tăng cường hệ thống thông tin thị trường đầu tư. 2.2. Khuyến nghị đối với công tác quản lý Nhà nước về bảo hiểm - Tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý Nhà nước về bảo hiểm Trên cơ sở thực trạng về cơ quan quản lý bảo hiểm đã trình bày ở trên, cần áp dụng kết hợp giữa các biên pháp nâng cao năng lực ngắn hạn và dài hạn. Cụ thể như cần tiến hành ngay việc bổ sung cán bộ đồng thời nâng cao trình độ của các cán bộ quản lý ngành bảo hiểm song song với việc nghiên cứu đề xuất cơ cấu tổ chức phù hợp cho một cơ quan quản lý bảo hiểm Nhà nước. - Phát triển hệ thống thông tin giám sát hiện đại và hữu hiệu Thực tế trên thế giới cho thấy, một hệ thống thông tin giám sát hiện đại và hữu hiệu là công cụ rất mạnh cho công tác quản lý Nhà nước về bảo hiểm, vì vậy Nhà nước cần xem xét đầu tư và triển khai ngay, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cơ quan quản lý bảo hiểm. Tăng cường quan hệ hợp tác với cơ quan quản lý bảo hiểm Hoa Kỳ nói riêng và cơ quan quản lý bảo hiểm của các nước có quan hệ thương mại dịch vụ. Như đã phân tích ở phần đánh giá tác động, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý bảo hiểm trong giám sát hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại nhiều quốc gia là hết sức cần thiết. Hiện nay, nhiều cơ quan quản lý bảo hiểm tại các nước khác nhau đã thiết lập những mối quan hệ này dưới hình thức những biên bản thoả thuận hay biên bản ghi nhớ về hợp tác. Vì vậy cơ quan quản lý bảo hiểm tại Việt Nam cần phối hợp ngay với các cơ quan quản lý bảo hiểm tại các bang của Hoa Kỳ xây dựng kế hoạch thiết lập quan hệ hợp tác chính thức nhằm tăng cường tính hữu hiệu của hoạt động quản lý Nhà nước và giám sát đối với hoạt động bảo hiểm. 3. Giải pháp từ phía doanh nghiệp bảo hiểm Ngoài các giải pháp từ phía hệ thống văn bản pháp qui và công tác quản lý Nhà nước, không thể không đề cập đến các giải pháp từ phía các doanh nghiệp bảo hiểm vì đây là thành tố quan trọng nhất quyết định việc thực hiện hiệu quả các cam kết về mở cửa thị trường bảo hiểm trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Cụ thể các doanh nghiệp bảo hiểm đã chú trọng tới các vấn đề sau: - Tăng số vốn kinh doanh - Tăng số lượng sản phẩm - Mở rộng địa bàn hoạt động - Đào tạo chuyên gia đánh giá rủi ro, tính phí bảo hiểm, trích lập dự phòng nghiệp vụ - Hiện đại hoá công nghệ thông tin, công nghệ quản lý như công nghệ thông tin tính phí bảo hiểm, trích lập dự phòng nghiệp vụ, theo dõi quản lý hợp đồng bảo hiểm. Có thể thấy các doanh nghiệp đã có những bước chuẩn bị về cả biện pháp tăng cường qui mô cũng như nâng cao chất lượng của hoạt động kinh doanh. Đây là biểu hiện tích cực cho sự sẵn sàng thích ứng với điều kiện mới của thị trường khi các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được đưa vào thực hiện. II. Giải pháp đối với dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế Trên cơ sở phân tích các cam kết trong Hiệp định liên quan đến dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế; hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành; phân tích tác động của Hiệp định tới ngành dịch vụ kế toán, kiểm toán nguồn vốn và tư vấn thuế phát triển một cách lành mạnh theo đúng định hướng. 1. Những khuyến nghị sửa đổi hệ thống khuôn khổ pháp lý nhằm điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ kiểm toán kế toán - Kiến nghị sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp lý nhằm thực hiện các cam kết về dịch vụ kế toán, kiểm toán trong Hiệp định. + Bổ sung vào dự án Luật kế toán các nước qui định diều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán nguồn vốn và tư vấn thuế theo các phương thức cung cấp qua biên giới, tiêu dùng nước ngoài, hiện diện thương mại và hiện diện thể nhân. Ban cán sự Đảng bộ Bộ Tài chính đã thông qua Nghị quyết về chương thình hành động của Ngành Tài chính thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó một hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kế toán, kiểm toán các hoạt động của nền kinh tế quốc dân là xây dựng Pháp lệnh về Kiểm toán. Đây là một văn bản có tính pháp lý cao để thể chế hoá các quy định nêu trên và nó không chỉ nhằm mục đích thực hiện cam kết trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ mà còn nhằm tạo lập một khung pháp lý phù hợp với vị trí, vai trò ngày càng cao của ngành dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển một cánh sâu rộng hơn. + Bổ sung, sửa đổi Nghị định 07/CP và hệ thống văn bản hướng dẫn theo hướng thể chế hoá các cam kết về dịch vụ kế toán, kiểm toán nguồn vốn và tư vấn thuế trong Hiệp định mà các qui định hiện hành chưa có hoặc chưa phù hợp. Những sửa đổi và bổ sung đã được thể hiện trong phần đánh giá tác động của Hiệp định lên khung thể chế, cụ thể: bổ sung qui định đối với hình thức cung cấp qua biên giới, tiêu dùng nước ngoài; qui định không cho phép thành lập chi nhánh đối với các công ty nước ngoài; bổ sung, sửa đổi các qui định về nội dung, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh chuẩn bị cho việc mở cửa cho các công ty Mỹ xâm nhập thị trường Việt Nam đảm bảo việc cấp giấy phép dựa trên cơ sở đánh giá khách quan, minh bạch. Các qui định về nội dung, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh nên được ban hành theo hướng phù hợp với điều VI - Qui định Nội luật - Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS trong khuôn khổ WTO và qui định chi tiết trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán nhằm mục đích chuẩn bị cho việc gia nhập WTO sau này, cụ thể : * Các yêu cầu, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh cần phải được thiết lập, công bố công khai và phải mang tính khách quan không gây cản trở. Các tài liệu, hồ sơ yêu cầu không quá nhiều tránh tình trạng tạo ra gánh nặng cho bên nộp đơn ngoài mục đích đảm bảo yêu cầu về bằng cấp và giấy phép. * Đối với các yêu cầu về cư trú nếu không phải thuộc diện đưa vào lộ trình cam kết theo quy định của điều XVII của Hiệp định thương mại dịch vụ, cần phải xem xét áp dụng các biện pháp càng ít hạn chế về thương mại càng tốt. * Các khoản phí về cấp giấy phép chỉ nên nhằm mục đích bù đắp chi phí hành chính, không có tác động ngăn cản hoạt động hành nghề, và không bao gồm các khoản chi phí xác minh, xử lý và kiểm tra thông tin... - Các giải pháp chính sách nhằm đảm bảo thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế phát triển lành mạnh, cạnh tranh công bằng theo đúng định hướng chiến lược đổi mới, phát triển công tác kế toán, kiểm toán Việt Nam. + Xây dựng, ban hành đầy đủ hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam: Chuẩn mực kiểm toán là những nguyên tắc căn bản của kiểm toán, quy trình nghiệp vụ của các cuộc kiểm toán, hệ thống chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán. Theo nghĩa rộng hơn, chuẩn mực kiểm toán là những nguyên tắc cơ bản và những hướng dẫn giải thích, những nguyên tắc chỉ đạo công việc kiểm toán. Hệ thống chuẩn mực không chỉ là căn cứ để tiến hành hoạt động kiểm toán mà còn là căn cứ để kiểm soát, đánh giá chất lượng kiểm toán, là căn cứ xác định các mối quan hệ nhân quả giữa kết quả kiểm toán và việc sử dụng kết quả kiểm toán, giữa kiểm toán viên và các bên hữu quan, đồng thời là căn cứ xác lập mô hình, nội dung đào tạo, huấn luyện và là thước đo chất lượng đội ngũ kiểm toán viên. Do đó, thiết lập và công bố chuẩn mực kiểm toán là một nhu cầu tất yếu của hoạt động kiểm toán, đặc biệt trong bối cảnh Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được quốc hội hai nước thông qua với hệ quả là sự thâm nhập của các đối thủ cạnh tranh lớn từ Mỹ nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường dịch vụ kiểm toán Việt Nam bảo vệ lợi ích của bên sử dụng thông tin kiểm toán. Cho đến nay, Bộ Tài chính đã soạn thảo và ban hành 10 chuẩn mực kiểm toán đó là: Chuẩn mực (CM) số 200 - Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính; CM 210 - Hợp đồng kiểm toán; CM 230 -Hồ sơ kiểm toán; CM 700 - Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính; CM 250 - Xem xét tính tuân thủ pháp luật và các qui định trong kiểm toán báo cáo tài chính; CM 310 - Hiểu biết về tình hình kinh doanh; CM 500 - bằng chứng kiểm toán; CM 510 - Kiểm toán năm đầu tiên, số dư đầu năm tài chính; CM 520 - Quy trình phân tích; CM 580 - Giải trình của giám đốc. Trong thời gian tới Bộ Tài chính cần phải xúc tiến quá trình xây dựng chuẩn mực kiểm toán, đảm bảo đúng tiến độ kế hoạch xây dựng, cụ thể trước mắt nên tập tung vào các chuẩn mực sau: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ; lập kế hoạch kiểm toán; Kiểm toán và ước tính kế toán; Các bên hữu quan; Chọn mẫu kiểm toán; Gian lận và sai sót; Kiểm toán năm đầu tiên, số dư đầu năm tài chính. Hệ thống chuẩn mực được xây dựng cần đảm bảo các yêu cầu sau: * Đảm bảo phù hợp với hệ thống pháp luật và trình độ quản lý kinh tế - tài chính của nước ta; * Đúc kết và kế thừa kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động kiểm toán và các qui định về công tác thanh tra, kiểm tra tài chính - kế toán có liên quan; * Phù hợp với chuẩn mực và thông lệ kiểm toán quốc tế để tạo ra sự hoà nhập, công nhận của quốc tế đối với nghề nghiệp kiểm toán Việt Nam; * Nghiên cứu và vận dụng có chọn lọc chuẩn mực kiểm toán quốc tế phổ biến trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh điều kiện thực tiễn của Việt Nam; * Phù hợp với trình độ và định hướng phát triển kiểm toán Việt Nam. + Xây dựng, ban hành hệ thống các chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp: Cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế là một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp và tư vấn pháp lý cao. Báo cáo kiểm toán không chỉ có tác động tới quá trình ra quyết định của bản thân công ty được kiểm toán mà còn có tác động tới các bên có lợi ích liên quan, đó là: Các chủ sở hữu, trong trường hợp công ty Nhà nước đó là các Bộ, ngành chủ quản, cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại các doanh nghiệp; cơ quan thuế; các chủ nợ như ngân hàng, các tổ chức tín dụng; các bạn hàng; tổ chức công đoàn đại diện cho người lao động, và các tổ chức xã hội có liên quan khác...Ngoài ra, người kiểm toán viên có điều kiện tiếp cận những thông tin bí mật của công ty nếu bị lộ có thể có tác động lớn đến vị trí của công ty trên thị trường... Như vậy, đòi hỏi người hành nghề kiểm toán không những chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cao, đặc biệt trong điều kiện thị trường ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp với sự tham gia của các công ty kiểm toán nước ngoài. Do đó, yêu cầu về một hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là cấp thiết. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của Mỹ và một số nước có ngành kiểm toán phát triển như Anh, Canada, úc... và các chuẩn mực quốc tế là những tài liệu cần phải tham khảo khi xây dựng, đồng thời cũng phải xem xét đến điều kiện kinh tế - tài chính và pháp luật đặc thù của Việt Nam. + Ban hành các văn bản pháp qui quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ kế toán và tư vấn thuế: Hiện nay, theo qui định của Nghị định 07/CP (điều 13) ngoài dịch vụ kiểm toán, các công ty kiểm toán và các kiểm toán viên được cung cấp các dịch vụ khác như kế toán, tư vấn thuế, tư vấn tài chính... Tuy nhiên, hệ thống các văn bản hiện hành vẫn tập trung vào quản lý hoạt động kiểm toán, dịch vụ kế toán và tư vấn thuế vẫn chưa được điều chỉnh rõ ràng. Do đó, các qui định điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ kế toán và tư vấn thuế (đặc biệt là định nghĩa về hai loại hình dịch vụ này) cần phải được luật hoá vào trong dự thảo Luật kế toán và Pháp lệnh kiểm toán ban hành các văn bản pháp qui hướng dẫn các hoạt động cung cấp hai loại hình dịch vụ này. + Hoàn thiện các qui định, chính sách về giá phí dịch vụ: Nghị định 07/CP (Điều 22) quy định chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán có nội dung “Bộ Tài chính qui định khung giá phí kiểm toán để áp dụng thống nhất trong hoạt động kiểm toán”. Tuy nhiên, trong thực tiễn quản lý nội dung này không thể thực hiện được vì hiện nay vẫn chưa có qui định cụ thể hướng dẫn thực hiện chức năng này, bên cạnh đó trong nền kinh tế thị trường giá phí kiểm toán được xác định bởi quan hệ cung cầu và cạnh tranh trên thị trường. Do đó, chức năng quản lý của Nhà nước này thiếu tính thực tiễn vì nó can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp và thiếu các công cụ thi hành. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự điều tiết của Nhà nước là vô cùng cần thiết nhằm đảm bảo cạnh tranh công bằng. Do đó, Nhà nước cũng cần phải có biện pháp điều tiết nhưng tránh can thiệp quá sâu về giá phí trên thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế để tránh trường hợp các công ty hạ giá phí dịch vụ một cách không lành mạnh để tranh giành khách hàng và không đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp. Đối với dịch vụ kiểm toán báo cáo quyết toán công trình XDCB, hiện nay mức giá phí được tính dựa trên Thông tư 70/2000/TC-BTC ngày 17/7/2000. Theo ý kiến của các công ty kiểm toán, mức giá phí này còn thấp. Bộ Tài chính cũng nên xem xét lại mức qui định này cho phù hợp với điều kiện hiện nay nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường kế toán, kiểm toán. + Tăng cường chất lượng dịch vụ, Bộ Tài chính phải nhanh chóng xây dựng và ban hành các chuẩn mực kiểm toán, đặc biệt là các chuẩn mực về chất lượng hoạt động kiểm toán. Ban hành các qui định bắt buộc mua bảo hiểm nghề nghiệp. Ngoài ra, vai trò kiểm tra chất lượng của Hiệp hội kế toán cũng cần phải được tăng cường hơn nữa, một biện pháp khác là tăng cường công tác kiểm tra chất lượng của đội ngũ kiểm toán viên, đặc biệt là đối với kiểm toán viên là người nước ngoài. Hiện nay, đối với các kiểm toán viên có chứng chỉ do các Hiệp hội kế toán nước ngoài cấp, Bộ Tài chính chỉ tiến hành sát hạch kiến thức về luật pháp kinh tế, tài chính, kế toán, và kiểm toán Việt Nam. Do đó, cần phải có cơ chế, nội dung kiểm tra sát hạch kiểm toán viên nước ngoài một cách phù hợp nhằm đảm bảo các kiểm toán viên nước ngoài hành nghề ở Việt Nam có đủ trình độ và kinh nghiệm. Đồng thời tiến hành đổi mới qui trình, nội dung kiểm tra cấp chứng chỉ kiểm toán viên đối với kiểm toán viên trong nước (quá trình này đòi hỏi sự tham gia tích cực của các tổ chức hội nghề nghiệp) nhằm nâng cao giá trị, uy tín của CPA Việt Nam ngang tầm với các chứng chỉ CPA quốc tế của Anh, Mỹ...; đây không chỉ nhằm mục đích nâng cao chất lượng của kiểm toán viên Việt Nam mà còn nhằm mục đích thúc đẩy tiến trình hội nhập về kế toán, kiểm toán cụ thể là việc ký kết các Hiệp định công nhận bằng cấp (MRA) với các nước. Ngoài ra phải có yêu cầu kiểm tra định kỳ và chương trình đào tạo thường xuyên đối với các kiểm toán viên có chứng chỉ nhằm đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ cung cấp dịch vụ. + Nâng cao địa vị pháp lý và chức năng của tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Như đã phân tích ở phần trên, hiện nay Hội nghề nghiệp kế toán vẫn đóng vai trò thụ động trong quá trình quản lý, hướng dẫn hoạt động nghề nghiệp. Để nâng cao năng lực hoạt động của và năng lực nghề nghiệp kiểm toán ở Việt Nam cần khẩn trương luật hoá vai trò, chức năng của các tổ chức nghề nghiệp như Hội kế toán Việt Nam, Câu lạc bộ Kế toán trưởng, Hội đồng quốc gia về kế toán trong dự án Luật kế toán và Pháp lệnh kiểm toán. Vai trò, chức năng của các hội nghề nghiệp cần phải được qui định theo hướng cho phép các tổ chức này tham gia một cách tích cực vào quá trình quản lý và hướng dẫn hoạt động kiểm toán tại Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực: * Xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán, và hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, và công tác kiểm tra tuân thủ các chuẩn mực trên; * Kiểm soát , quản lý hành nghề, kiểm tra chất lượng hoạt động; * Công tác đào tạo đội ngũ kế toán, kiểm toán viên công chứng (CPA) và tổ chức thi cấp chứng chỉ. Về phía bản thân Hội kế toán Việt Nam cần hoạch định chiến lược xây dựng và phát triển hội thực sự trở thành một tổ chức nghề nghiệp theo một lộ trình phù hợp với chiến lược hội nhập kế toán và kiểm toán. Cụ thể: Nghiên cứu sửa đổi Điều lệ Hội; thành lập mới hoặc thành lập Chi hội kiểm toán trong Hội kế toán Việt Nam; thành lập trường hoặc trung tâm đào tạo chuyên gia kế toán, kiểm toán. Việc thành lập chi hội kiểm toán sẽ thúc đẩy cạnh tranh trên cơ sở vận hành trên cơ chế tự điều tiết của Hội và sẽ giảm bớt phần nào sự can thiệp hành chính không cần thiết đối với các vấn đề thuần tuý chuyên môn của các công ty kiểm toán. Với tư cách là một tổ chức đại diện cho các công ty kiểm toán hoạt động trên thị trường kiểm toán Việt Nam, Chi hội kiểm toán sẽ là cầu nối có hiệu quả giữa các công ty kiểm toán, cơ quan quản lý Nhà nước và khách hàng cũng như người sử dụng thông tin báo cáo tài chính thông qua việc cung cấp thông tin, đào tạo nghiệp vụ, xây dựng qui trình và quản lý chất lượng hoạt động...từ đó tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh giữa các công ty hội viên. Chi hội sẽ tham gia xây dựng các quy tắc, chuẩn mực, kiểm tra đạo đức nghề nghiệp, kiểm tra chéo chất lượng hoạt động ... Hội đồng quốc gia về kế toán cần tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động. Hội đồng cần phải có trụ sở và bộ máy chuyên trách. Các ban tư vấn về kế toán và kiểm toán cần có chế độ và chương trình làm việc thường xuyên, chủ động tư vấn với Chính phủ và Bộ tài chính trong việc phát triển nghề nghiệp và dịch vụ kế toán, kiểm toán ở Việt Nam ... + Quy định về chế độ tiền lương Như đã phân tích ở phần thực trạng, hiện nay chế độ tiền lương giữa các công ty thuộc các thành phần kinh tế có sự khác biệt lớn. Đặc biệt là công ty có vốn đầu tư nước ngoài do có sự hỗ trợ của các công ty mẹ cho nên tổng quỹ lương rất cao (thậm chí cao hơn doanh thu). Các công ty Nhà nước thực hiện quản lý đơn giá tiền lương 27% trên doanh thu, và bị khống chế mức tiền lương bình quân do Bộ trưởng Bộ LĐTBXH công bố hàng năm, ví dụ mức khống chế năm 2000 là 2.000.000 đ/người/tháng theo quyết định số 861/2000/QĐ-BLĐTBXH ngày 29/8/2000. Thực trạng này gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình thu hút đội ngũ chất xám ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ đào tạo, dẫn đến vị thế thấp trong cạnh tranh. Đề nghị Bộ Tài chính và các bộ ngành liên quan (Bộ LĐTBXH...) có chính sách lương và thu nhập kiểm toán viên phù hợp với cường độ lao động và tương đối bình đẳng nhằm giảm bớt sự chênh lệch về chính sách tiền lương giữa các công ty thuộc các thành phần kinh tế trong khi vẫn đảm bảo được các nguyên tắc của kinh tế thị trường, tôn trọng quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp và đảm bảo định hướng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước, cụ thể trước mắt mức khoán % trên doanh thu cần phải cao hơn mức 27% (một lí do khác cho việc thay đổi mức khoán là vì doanh thu mới không bao gồm thuế GTGT) + Tăng cường tính pháp lí của báo cáo tài chính đã được kiểm toán và báo cáo kiểm toán; trách nhiệm của kiểm toán viên. Điều1, Nghị định 07/CP về Qui chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế Quốc dân qui định: “...Sau khi có xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các đơn vị kế toán là căn cứ cho việc điều hành, quản lý hoạt động của đơn vị, cho các đơn vị quản lý cấp trên và cơ quan quản lý Nhà nước xét duyệt quyết toán hàng năm của các đơn vị kế toán, cho cơ quan thuế tính toán số thuế và các khoản nộp khác của đơn vị đối với ngân sách Nhà nước, cho các cổ đông, nhà đầu tư, các bên tham gia liên doanh, các khách hàng và các tổ chức, cá nhân xử lý các mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quá trình hoạt động của đơn vị ”. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện kiểm toán độc lập báo cáo tài chính hầu như chỉ nhằm mục đích duy nhất là đáp ứng yêu cầu của Luật định. Các tài liệu, số liệu đã được kiểm toán vẫn chưa mang tính pháp lý cao khi được sử dụng làm căn cứ xét duyệt quyết toán của cơ quan Nhà nước, cơ quan thuế và phục vụ cho các bên có liên quan... Để thúc đẩy sự phát triển của ngành kiểm toán, góp phần thực hiện công khai hoá minh bách báo cáo tài chính, đưa công tác quản lý tài chính, kế toán trong các doanh nghiệp đi vào nề nếp, tăng cường công tác quản lý và điều hành kinh tế - tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp...,cần phải nâng cao tính pháp lý của các báo cáo tài chính đã dược kiểm toán, cụ thể cần phải có qui định về tính pháp lý trong dự thảo Pháp lệnh kiểm toán, và có hướng dẫn thực hiện cụ thể trong Nghị định và các văn bản dưới Luật khác. Đồng thời với việc nâng cao tính pháp lý của báo cáo tài chính đã được kiểm toán cũng cần phải nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên, công ty kiểm toán. Qui định kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, công ty kiểm toán, khách hàng và cộng đồng và trách nhiệm của công ty kiểm toán phải được Luật hoá vào dự thảo Pháp lệnh kiểm toán và chi tiết, rõ ràng trong các văn bản dưới Luật. + Mở rộng phạm vi đối tượng kiểm toán, phạm vi khách hàng của các công ty kiểm toán: Theo qui định hiện hành (điều 37 Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam), chỉ có báo cáo tài chính của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh bắt buộc phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập của Việt Nam, tỷ lệ doanh nghiệp từ các khu vực khác thực hiện kiểm toán tự nguyện là rất thấp. Do đó, để phát triển thị trường dịch vụ kế toán, cần phải hoàn thiện các văn bản pháp qui ràng buộc nghĩa vụ phải kiểm toán báo cáo tài chính. Các định chế tài chính, ngân hàng và kinh doanh (Luật doanh nghiệp, Luật Ngân hàng và Luật kinh doanh chứng khoán...) cần xác định rõ các đối tượng bắt buộc phải sử dụng dịch vụ kiểm toán. Về nghĩa vụ kiểm toán báo cáo tài chính, cần phải tránh hai khuynh hướng sau: Tránh qui định bắt buộc mọi doanh nghiệp, mọi đối tượng hàng năm đều phải kiểm toán báo cáo tài chính hoặc khuynh hướng hoàn toàn thực hiện qui chế kiểm toán. Qui định kiểm toán bắt buộc đối với mọi đối tượng vừa không hợp lý, vừa không khả thi, vì về nguyên tắc, ngoài một số định chế tài chính, ngân hàng ràng buộc thì việc sử dụng dịch vụ kế toán, kiểm toán là tự nguyện “thuận mua vừa bán” giữa nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng. Bên cạnh đó, bản thân kiểm toán là một hoạt động kinh tế (dựa trên nguyên tắc lợi ích phải nhiều hơn chi phí bỏ ra để có được dịch vụ) nên không phải khách hàng nào cũng đủ khả năng tài chính để chi trả và không phải lúc nào việc sử dụng dịch vụ kế toán, kiểm toán đều đảm bảo tính hiệu quả về kinh tế. Ngoài ra, nếu qui định bắt buộc kiểm toán báo cáo tài chính đối với tất cả các đối tượng thì ngành kiểm toán không thể đáp ứng nổi. Do đó ngoài qui định bắt buộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng khoán, cần qui định các trường hợp cụ thể sau đây cũng phải kiểm toán: * Qui định các Tổng công ty Nhà nước (TCT 90,91) hàng năm đều phải được kiểm toán báo cáo tài chính (Như tinh thần Nghi quyết hội Nghị TW 3-khoá 9). * Đối với các doanh nghiệp độc lập, nên lấy một mức doanh thu nhất định để qui định phải kiểm toán (tại Anh, năm 1996 các doanh nghiệp có doanh thu từ 90.000 bảng trở lên đều bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính). * Các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá phải được kiểm toán báo cáo tài chính và định giá tài sản. * Các doanh nghiệp, tổ chức, và cá nhân vay vốn tại ngân hàng. * Các trường hợp chia tách, sáp nhập, phá sản và giải thể doanh nghiệp. Ngoài ra, hiện nay công ty kiểm toán có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác cho khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các dự án có vốn nước ngoài (trừ trường hợp công ty Ernst&Young gần đây được phép cung cấp dịch vụ kế toán và tư vấn tài chính cho các thành phần knh tế khác). + Giải pháp chính sách đối với doanh nghiệp kiểm toán Nhà nước, đối phó với các thách thức khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực đảm bảo vai trò chủ đạo của khu vực Nhà nước. Duy trì, tiếp tục củng cố và phát triển loại hình công ty kiểm toán là doanh nghiệp Nhà nước. Theo thông lệ phổ biến ở các nước không có công ty kiểm toán là DNNN, tuy nhiên trên thực tế ở nước ta các công ty kiểm toán DNNN đều hoạt động có hiệu quả (chưa có doanh nghiệp nào thua lỗ), chiếm thị phần khá cao, hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước cao (vốn đầu tư Nhà nước không nhiều) được xã hội thừa nhận và ngày càng được tín nhiệm. Bên cạnh đó, theo định hướng phát triển kinh tế với vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước, do đó cần phải tiếp tục được duy trì, củng cố và phát triển loại hình công ty kiểm toán là DNNN. Việc chuyển đổi hình thức sở hữu công ty kiểm toán là DNNN thành công ty cổ phần hoặc công ty hợp danh cần phải dược thực hiện từng bước nhằm đáp ứng nguyện vọng chính bản thân các công ty và phù hợp với chủ trương đổi mới và sắp xếp lại DNNN. Việc chuyển đổi thành công ty cổ phần sẽ giúp doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư cho cải tiến công nghệ và phát triển kinh doanh, đặc biệt tránh được một số khống chế về chính sách tiền lương, tài chính...nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường. Việc chuyển đổi hình thức này cũng góp phần giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, phát triển khách hàng tránh được thành kiến của các công ty nước ngoài, dự án quốc tế đối với các công ty kiểm toán DNNN. Việc chuyển đổi thành công ty hợp danh là loại hình phổ biến và phù hợp với các công ty cung cấp dịch vụ mang tính chuyên nghiệp cao như tư vấn luật, kiểm toán kế toán...Hình thức pháp lý này sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và công ty trong quá trình cung cấp dịch vụ, cũng như các lợi ích khác như đối với các công ty cổ phần. 2. Các giải pháp về phía các tổ chức kiểm toán độc lập Các công ty kiểm toán và chi nhánh, văn phòng cần tích cực xây dựng và áp dụng một hệ thống kiểm soát chất lượng hoạt động trong nội bộ từng công ty để nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường và có thể cạnh tranh có hiệu quả tại thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Cụ thể, mở rộng danh mục dịch vụ, đa dạng hoá dịch vụ và phương thức cung cấp dịch vụ kế toán kiểm toán. Ngoài ra, trong điều kiện Việt Nam bên cạnh những dịch vụ cho các khách hàng lớn cần chú ý một số loại hình dịch vụ sau đây: - Dịch vụ kế toán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh - Dịch vụ xem xét báo cáo tài chính đối với các doanh nghiệp chưa có bộ máy kiểm toán nội bộ và khả năng tài chính hạn chế không thuê kiểm toán báo cáo tài chính. - Dịch vụ tư vấn thuế cho các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế - Dịch vụ tư vấn vế xúc tiến thương mại và tìm kiếm, khai thác thị trường Kết luận Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chính thức được thông qua và có hiệu lực đánh dấu một bước đi quan trọng trong quá trình đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh của nền kinh tế để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Quan hệ kinh tế thương mại toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trên cơ sở Hiệp định chắc chắn sẽ đem lại cả cơ hội cũng như thách thức nhất định. Điều đó đặt ra nhiệm vụ quan trọng đối với Nhà nước Việt Nam, mà cụ thể là các cơ quan quản lý Nhà nước, là phải có các biện pháp, một mặt giúp mọi đối tượng trong nền kinh tế tận dụng được các cơ hội từ mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước trong điều kiện mới, mặt khác, hạn chế những tác động tiêu cực có thể phát sinh trong giai đoạn ban đầu. Để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ nêu trên, việc phân tích tác động của Hiệp định là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó, những nội dung cơ bản mà đề tài đã giải quyết được đó là: Đề tài đã tập trung phân tích khá chi tiết các lĩnh vực tài chính chịu tác động như bảo hiểm, kiểm toán kế toán và tư vấn thuế và đưa ra các giải pháp khuyến nghị nhằm đảm bảo thực hiện tốt các cam kết trong Hiệp định và cũng góp phần chuẩn bị tốt cho quá trình ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt Nam. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Danh mục tài liệu tham khảo I. Các văn bản Luật 1. Tóm tắt Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Bộ Thương mại Việt Nam (Vietnam Ministry of Trade) 2. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. 3. Trích các văn bản pháp luật hiện hành có qui định về kiểm toán độc lập. 4. Trích các văn bản, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước liên quan đến kiểm toán độc lập. 5. Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm 6. Nghị định 42/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001 qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm. 7. Nghị định mới về kiểm toán độc lập ân dân-24/ chuong-05.shtml II. Sách tham khảo 8. Tìm hiểu Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và qui chế thương mại đa phương. Tác giả Phạm Minh - Nhà xuất bản thống kê. 9. Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập 1991-2001 và định hướng phát triển đến năm 2010. Bộ Tài chính 25/11/2001 10. Dự thảo chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm giai đoạn 2001- 2010 Bộ Tài chính 11. Đánh giá tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ nhìn từ phía Mỹ. usembasy state.gov/Vietnam/wwwhtagv-htm/ 12. Hiệp định thương mại giữa CHXHCNVN và Hoa Kỳ và quan hệ thương mại thời cơ và thách thức. Tác giả Luật sư tiến sĩ luật học Phan Hữu Thư-Nhà xuất bản Công an Nhân dân. 13. Đánh giá tổng quan thị trường bảo hiểm Việt Nam sau khi có Nghị định 100/CP và những nội dung chính của dự án Luật kinh doanh bảo hiểm, 5/2000. 14. Hiện trạng ngành bảo hiểm Kỷ yếu hội nghị Việt Trung III. Báo và tạp chí 15. Những thách thức đối với công ty kiểm toán Việt Nam sau thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Tác giả Lương Phạm Thuỳ Minh (Đại học kinh tế quốc dân thành phố Hồ Chí Minh) 16. Thị trường dịch vụ kế toán kiểm toán Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. PGS. TS Vương Đình Huệ Hà Mỹ Dung Tạp chí kiểm toán Số 3 Năm 2002. 17. Các giải pháp phát triển hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010. PTS.TS Vương Đình Huệ Tạp chí kiểm toán số 2 Năm 2002. 18. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ bước tiến mới trong tiến trình hội nhập kinh tế của nước ta. TSKH. Trần Nguyễn Tuyên Ban kinh tế Trung ương Châu Mỹ ngày nay số 5-2002. 19. Công tác kế toán, kiểm toán, thống kê trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. http:// www.stockmarket.vnn.vn/tintuc/taichinh/10a0801.htm 20. Tài liệu dịch Yêu cầu kiểm toán và hành nghề kiểm toán ở Mỹ, úc , ấn độ, Nga, Philippine và Nhật bản. IV. Tài liệu và nguồn khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van moi.doc
  • docbia Huyen.doc
Tài liệu liên quan