Đề tài Tác động của hoạt động điều tra chống buôn lậu tới kinh doanh thương mại quốc tế của Việt Nam

Đây là vấn đề thường được ít nói đến nhất về các giải pháp để hoạt động chống buôn lậu có hiệu quả hơn. Thực ra Việt Nam có một thái độ khá dè dặt trong vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hải quan. Những lý do chủ yếu nằm ở chính sách bảo hộ trong nước, sự lo ngại trong đảm bảo an ninh kinh tế chính trị. nên việc hợp tác chưa thực sự đi sâu vào hiệu quả, mà còn mang tính chất nửa vời, và trên văn bản giấy tờ. Vấn đề là phải nâng cao khả năng hội nhập trong ngành, nâng cao khả năng hợp tác quốc tế, chú trọng cả việc học hỏi các cách thức chống buôn lậu của các nước. Chống buôn lậu tại Trung Quốc có một số cách thức khiến chúng ta có thể học tập là việc họ thông báo các số điện thoại của Tổng cục hải quan và Hải quan các khu vực khắp đất nước giúp nhân dân thông báo về gian lận giá trị hàng hoá. Hải quan hoan nghênh tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tôn trọng pháp luật, hành động có trách nhiệm cao hơn đối với đất nước và mọi người, tự bảo vệ hoạt động kinh doanh hợp pháp của mình, dũng cảm đứng lên chống lại các hoạt động trái pháp luật, trốn thuế, gian lận giá trị hàng hoá. Tóm lại Nhiệm vụ chống buôn lậu không phải chỉ của các cơ quan chức năng mà đó là nhiệm vụ của toàn dân, trong đó Đảng cộng sản Việt Nam là người đi đầu. Chính vì vậy để có được những biện pháp chống buôn lậu mang lại hiệu quả, thì công tác chống buôn lậu phải được thực hiện toàn diện từ trung ương đến địa phương. Trong đó việc nâng cao năng lực, khả năng của các lực lượng đi đầu trong hoạt động chống buôn lậu là hết sức quan trọng, đặc biệt là Cục Điều tra chống buôn lậu cần phải có những giải pháp mạnh mẽ hơn nữa để đạt hiệu quả cao hơn trong cuộc chiến chống buôn lậu.

doc86 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1863 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của hoạt động điều tra chống buôn lậu tới kinh doanh thương mại quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiểu số nghèo ở đây thì không cải thiện được cuộc sống của mình. Khi những hàng rượu lậu, máy điều hoà được tiêu thụ tại thị trường Việt Nam, ngoài việc Nhà nước bị thất thu thuế thì những doanh nghiệp làm ăn chân chính là phải chịu thiệt hại do sức ép cạnh tranh và sự co hẹp về thị trường. Kết quả sau gần chục năm hoạt động, sự phát triển của Khu thương mại Lao Bảo vẫn chỉ vẻn vẹn như một khu chợ với những mặt hàng nghèo nàn chủ yếu xuất xứ tại Trung Quốc... Có nhiều lý do cho sự phát triển chậm trễ này là sức ép từ đối thủ cạnh tranh, cơ sở hạ tầng... tuy nhiên không ai phủ nhận được là nguyên nhân chủ yếu lại chủ yếu nằm ở sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động buôn lậu. Trước tình hình như vậy, việc các nhà kinh doanh, các nhà đầu tư nản lòng khi muốn đầu tư vào Khu thương mại cũng là đương nhiên. Vào ngày 26/3/2008, UBND tỉnh Quảng Trị ban hành công văn số 671 chỉ đạo các ngành hải quan, công an, bộ đội biên phòng tỉnh.. khẩn trương điều tra làm rõ và xử lý các hoạt động buôn lậu tại Lao Bảo. Vấn đề ở đây, vẫn là làm sao có một chính sách thật phù hợp chứ không phải cứ theo một “mô hình” nào đó đã là tốt. Và cần gia tăng củng cố lại lực lượng chống buôn lậu tại khu vực này. Khi có sự thay đổi hợp lý của chính sách, sự gia tăng của hoạt động điều tra chống buôn lậu ở đây, tình trạng buôn lậu sẽ giảm mức tối đa và sẽ giải quyết được những vấn đề đã nêu ra. Xuất lậu than tại Quảng Ninh đầu năm 2008 Trong thời gian đầu năm 2008, sự kiện đáng chú ý nhất là việc xuất lậu than từ Quảng Ninh sang Trung Quốc. Việc xuất lậu than sang Trung Quốc đã có từ hàng chục năm nay, nhưng tình hình thực sự nóng trong thời gian gần đây.Bắt đầu từ cuối tháng 3 đầu năm 2008, UBND tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Cục Hải quan, bộ đội biên phòng... mở đợt cao điểm xử lý những hành vi trái pháp luật trong hoạt động khai thác, vận chuyển và tiêu thụ than. Ngày 9/4/2008 lực lượng biên phòng Quảng Ninh đã bắt giữ 104 tàu chở hơn 100.000 tấn than, trong đó chỉ có 3 tàu là có đủ chứng từ hợp lệ. Theo Tỉnh ủy Quảng Ninh, trung bình mỗi năm có khoảng 10 triệu tấn than được xuất lậu qua biên giới, tương ứng với thiệt hại 4.500 tỉ đồng mỗi năm. Đó là những con số đáng kinh hoàng, bởi than thổ phỉ ở Quảng Ninh không thể đạt được một nửa con số đó. Nguyên nhân chính do Ông Nguyễn Duy Hưng - Bí thư tỉnh uỷ Quảng Ninh phân tích là do Bộ Công Thương tại các Thông tư số 04 và 05/2007/TT-BCT đã xác định than không phải là mặt hàng cấm, mà chỉ là mặt hàng kinh doanh có điều kiện. Theo quy định của Bộ Công Thương, thương nhân khi làm thủ tục xuất khẩu than phải chứng minh nguồn gốc than hợp pháp là nguồn than được khai thác do các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Theo báo cáo của Công an tỉnh Quảng Ninh qua khảo sát 20 đơn vị thành viên TKV (Tổng công ty than và khoáng sản Việt Nam), trong số 61 hợp đồng đã được ký thì có tới 37 hợp đồng thuê các đơn vị ngoài ngành than (trong đó thực hiện cả việc xúc than nguyên khai, gia công chế biến tận thu và vận chuyển than). Công việc này ban đầu được giao cho Cty cổ phần đầu tư thương mại và dịch vụ TKV nhưng Cty này đã thuê lại các DN khác. Tính đến hết quý I/2008, các DN bên ngoài được thuê đã vận chuyển khoảng 6 triệu tấn than! Việc thuê lượng lớn máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải vào khai trường đã dẫn đến hiện tượng thông đồng, móc ngoặc giữa các đơn vị để vận chuyển khai thác than đưa ra ngoài tiêu thụ. Ngay sau khi những sự kiện trên xảy ra, Cục Điều tra chống buôn lậu cùng một số đồng chí trong Tổng Cục Hải quan đã đến Chi cục Hải quan Vạn Gia và chỉ đạo Cục Hải quan Quảng Ninh tổ chức cuộc họp để báo cáo đoàn công tác. Sau chuyến công tác, Tổng cục hải quan báo cáo lên lãnh đạo Bộ. Theo báo cáo ( Tổng cục Hải quan báo cáo lên Lãnh đạo Bộ ngày 24/4/2008) thì:  Không thể nói là không có hiện tượng xuất lậu than qua biên giới thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ninh, bởi vì do đặc thù biên giới rất phức tạp ; lực lượng của các ngành chức năng mỏng ; phương tiện, trang bị còn thiếu thốn, chưa đáp ứng yêu cầu. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, khẳng định không có bằng chứng nào về sự thông đồng của biên phòng, Hải quan trong việc xuất lậu than qua biên giới. (Báo cáo cũng cho biết khu vực vùng nước thuộc địa bạn hoạt động của Hải quan Vạn Gia quản lý không thể có điều kiện cho phép hơn 200 con tầu cùng lúc neo đậu kể cả khi mực nước thuỷ triều ở mức cao nhất do luồng tàu đi lại rất hẹp, nước chảy xiết, một bên là đá ngầm, một bên là doi cát ngầm rất dễ bị đâm va tai nạn hoặc mắc cạn nếu tàu đi không đúng luồng. Từ thực tế trên, khẳng định cùng một lúc có hơn 200 con tàu với trọng tải hàng ngàn tấn neo đậu tại đây rồi đồng loạt bỏ chạy do báo Tiền Phong đưa tin ngày 21/4/2008 là không đúng). Các cơ quan chức năng kiên quyết triệt phá các đầu nậu khai thác, xuất lậu than trái phép trong tháng 6/2008. Nếu như các cơ quan chức năng, các lực lượng chống buôn lậu không ta tay thì mỗi ngày có đến hàng trăm ngàn tấn than chuyển lậu qua biên giới. Khi các cơ quan chức năng ra tay triệt để và có sự phối hợp giữa các bộ phân khác nhau để cùng đồng tâm triệt phá buôn lậu thì kết quả rất khả quan. Khi chiến dịch này thành công thì sự trong sạch sẽ trở lại với vùng than, sẽ không còn những hiện tượng ăn cắp một lượng lớn tài nguyên đất nước để mang đi bán rẻ và làm lợi cho một số cá nhân, sẽ không còn những cái chết thương tâm của thợ mỏ do sự thiếu an toàn của những lò than thổ phỉ mang lại, và các doanh nghiệp xuất khẩu than làm ăn chân chính có cơ hội để phát triển. Hoạt động điều tra chống buôn lậu khi đảm bảo an ninh kinh tế, an ninh xã hội là đã làm gia tăng tính hấp dẫn của thị trường Việt Nam với các nhà đầu tư quốc tế. Và điều này trong thời gian qua đã làm gia tăng đầu tư cho ngành kinh doanh thương mại quốc tế nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Các nhà đầu tư muốn đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam thì có lý do quan trọng là Việt Nam là một đất nước có nền chính trị ổn định, và có khả năng phát triển kinh doanh. 3. Đánh giá về thực trạng hoạt động điều tra chống buôn lậu tác động tới kinh doanh thương mại quốc tế. Nhìn chung công tác hoạt động điều tra chống buôn lậu của Việt Nam nói riêng và của Cục Điều tra chống buôn lậu nói riêng trong thời gian qua có nhiều phát triển và gặt hái được những thành tựu quan trọng. Có được những thành quả đã nêu thì công sức phần lớn thuộc về sự dũng cảm, mưu trí của những cán bộ trong ngành cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, và sự góp sức của nhân dân. Tuy nhiên hoạt động điều tra chống buôn lậu còn nhiều hạn chế trong công tác điều tra chống buôn lậu khi số lượng các vụ buôn lậu sa lưới, và lượng hàng hoá bắt giữ còn chưa tương xứng với tình hình buôn lậu ở nước ta. Nguyên nhân cho tình trạng này có thể kể ra như sau: Về phía vĩ mô, thì một phần là do các chính sách của Nhà nước còn có nhiều sơ hở khiến cho đối tượng buôn lậu lợi dụng. Bên cạnh đó, bộ phận lớn người dân chưa có ý thức chống buôn lậu, và một bộ phận người dân do không có phương hướng trong phát triển kinh tế đã tham gia vào đường dây buôn lậu. Ngoài ra các chính sách của Nhà nước để hỗ trợ cho hàng rào hải quan của nước ta còn chưa thực sự đầy đủ, đặc biệt là vấn đề cơ chế tài chính cho các đơn vị chống buôn lậu. Về phía các lực lượng chống buôn lậu nói chung và Cục điều tra chống buôn lậu nói riêng thì vấn đề là các kỹ thuật nghiệp vụ của các công chức, cán bộ trong ngành chưa thực sự đồng đều, chưa thực sự thành công trong tuyên truyền vận động quần chúng tham gia chống buôn lậu. Tình báo hải quan mới ra đời nên còn trong quá trình hoàn thiện còn việc ứng dụng công nghệ đang còn chậm chạp. Bên cạnh đó thì hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng chống buôn lậu chưa cao. Tóm lại Cục Điều tra chống buôn lậu là một Cục nghiệp vụ trực thuộc Tổng Cục Hải quan có chức năng chính là chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Trước tình hình đó, Cục Điều tra chống buôn lậu đã có nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau để chống lại sự hoành hành của các đối tượng buôn lậu. Những giải pháp đó đã tạo ra hiệu quả và có những tác động rất tích cực tới hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Bên cạnh những thành quả đạt được thì hoạt động điều tra chống buôn lậu còn một số những tồn tại. Để nâng cao khả năng, hiệu quả chống buôn lậu của lực lượng chống buôn lậu nói chung và Cục Điều tra chống buôn lậu nói riêng, ta sẽ tìm hiểu về những giải pháp cụ thể trong chương III. Chương III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU TRA CHỐNG BUÔN LẬU NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM I. CÁC GIẢI PHÁP NỀN TẢNG ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỐNG BUÔN LẬU THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 1. Trách nhiệm chống buôn là của toàn xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam phải là người đi đầu. Để tạo nên sức mạnh tổng lực, to lớn, mạnh mẽ, rộng khắp, điều trước tiên là trách nhiệm chống buôn lậu cần được quán triệt trong Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Vì Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nên trước một vấn đề lớn của Tổ quốc, hơn ai hết, mỗi tổ chức Đảng, mỗi Đảng viên, phải nhận thức rõ và thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu. Nếu trên địa bàn còn nhiều hiện tượng buôn lậu, thì trách nhiệm trước tiên thuộc về chi bộ Đảng phụ trách. Đảng viên biến chất, đi buôn lậu hay tiếp tay cho buôn lậu cần được xử lý kịp thời, công khai... Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chỉ rõ: Buôn lậu là giặc “nội xâm” và do đó chống buôn lậu phải là cuộc cách mạng lớn của toàn Đảng. toàn dân, của tất cả các ngành, các cấp - một cuộc chiến tranh tổng lực thời bình. Phải nói là đối tượng buôn lậu hiện nay rất đa dạng, bao gồm nhiều tầng lớp, nhiều thành phần xã hội, với những quy mô khác nhau. Chỉ xét ở khía cạnh bảo vệ luật pháp thì chống buôn lậu có nghĩa là không loại trừ bất kỳ một đối tượng nào. Song, thường những trường hợp có quy mô lớn, mức độ nghiêm trọng và làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân là hoạt động buôn lậu hoặc tiếp tay của một số cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước. Hiểu rõ những kẽ hở của hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện, có thế lực và tài lực, họ dùng tiền của Nhà nước để buôn lậu, trục lợi riêng, gây nên những hậu quả lớn về nhiều mặt. Với phương châm chống buôn lậu một cách toàn diện và có trọng tâm, trọng điểm thì không thể không nhằm vào những đối tượng này. 2. Quan điểm xử lý buôn lậu phải xử lý từ gốc Chống buôn lậu muốn có kết quả phải xử lý từ gốc tức là bắt đầu từ công tác phòng ngừa. Chống buôn lậu, một mặt phải có lực lượng đủ mạnh và có chính sách thích hợp để khuyến khích. Mặt khác, muốn chống buôn lậu hiệu quả và căn bản, về lâu dài vẫn phải bằng chính sách và hệ thống luật pháp. Có một lực lượng đủ mạnh để chống buôn lậu là rất cần thiết, để lực lượng này thay mặt Nhà nước, đại diện pháp luật buộc mọi người phải tuân thủ, thực hiện đúng chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những lực lượng này với những kết quả thực thi chỉ là một biện pháp tích cực để đấu tranh chống buôn lậu có kết quả. Muốn có kết quả tận gốc thì phải có những biện pháp phòng ngừa rộng lớn và sâu xa. Quan điểm đó chính là “vì nhân dân, do nhân dân”. a. Xử lý những bất hợp lý về chính sách luật pháp Trước hết là vấn đề lập pháp, hệ thống các văn bản pháp quy cần được xây dựng hoàn thiện, được sửa đổi bổ sung để luôn đảm bảo tính hiệu quả và phù hợp thực tế. Theo các cơ quan chức năng, hiện việc triển khai các biện pháp công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn rất khó khăn bởi hiện hệ thống pháp luật của nước ta chưa đồng bộ, còn chồng chéo, pháp luật vừa thiếu, nhiều điều luật lại chưa phù hợp, ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm không rõ ràng dẫn đến việc áp dụng khó khăn, kém hiệu quả. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật về quản lý XNK và chống buôn lậi còn chung chung, thiếu những chế tài cụ thể và nghiêm minh, không đồng bộ hoặc sơ hở để tội phạm lợi dụng buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán hàng cấm, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. Đơn cử, theo Điều 153 Bộ luật Hình sự thì tội buôn lậu được định nghĩa là buôn bán trái phép qua biên giới, tuy nhiên khái niệm “biên giới” hiện nay đã thay đổi rất nhiều. Nhiều khi công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở, kho ngoại quan nằm sâu trong nội địa rất đa dạng. Do vậy, xác định khái niệm “biên giới mở” hiện nay ra sao là điều cần xem xét, nghiên cứu và điều chỉnh. Để đấu tranh có hiệu quả hơn loại tội phạm này, Quốc hội cần sớm sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (cụ thể là Điều 153-155). Bên cạnh đó, các ngành nội chính cần sớm ban hành các văn bản liên ngành đảm bảo các chế tài chặt chẽ hơn, có định tính, định lượng cụ thể để xử lý chặt chẽ các tội buôn lậu, buôn bán hàng cấm, trốn thuế. Ban chỉ đạo 127 T.Ư cũng cho biết tới đây sẽ đề nghị các Bộ, ngành rà soát lại các quy định đang có “kẽ hở” để tội phạm chính sách lợid dụng, ví dụ như chính sách trao đổi cư dân biên giới theo QĐ 254, rà soát lại thông tư 201 của Bộ GTVT nhằm quản lý chặt chẽ đối với xe ô tô tạm nhập, tái xuất. Về lâu dài, Ban chỉ đạo 127 đang kiến nghị Thủ tướng cho phép xây dựng chương trình quốc gia “chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại” Chính sách quản lý xuất nhập khẩu cần có tính hệ thống, nhất quán để thực hiện đúng chủ trương, đường lối, phát huy năng lực quản lý Nhà nước và hiệu quả thực thi của các ngành chức năng, nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, thúc đẩy kinh tế phát triển theo định hướng mà Đảng, Nhà nước đề ra, để sớm thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, hệ thống văn bản dưới luật của ta lại thường xuyên thay đổi, thiếu tính ổn định tương đối về mặt nội dung, nên việc quán triệt và thực hiện đối với ngành chức năng gặp khó khăn, chưa nói đến quần chúng nhân dân còn hạn chế về nhận thức pháp luật. Để có điều kiện sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, nhân dân ta cần được giáo dục, tuyên truyền tốt hơn nữa. Chúng ta đã có Công báo đăng các văn bản pháp lý của nhà nước và có hệ thống phát hành xuống cơ sở, vấn đề là cơ sở phải tổ chức giải thích, hướng dẫn cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu thấu đáo, để thực hiện tốt trong đời sống. Trên Đài truyền hình Trung ương và địa phương, trong thời gian gần đây đã có chuyên đề chống buôn lậu nhưng cần phát tin thường xuyên hơn nữa. Vấn đề phòng chống buôn lậu trên các chương trình truyền thanh, truyền hình, báo chí cần được quy định chặt chẽ, có kế hoạch, có đôn đốc, có tổng kết và gắn với thực tiễn. Giáo dục, tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân về ý thức chống buôn lậu Hiện nay, chống buôn lậu chưa được nhân dân coi trọng. Người dân thường cho rằng đó là việc của cơ quan chức năng, chứ không mấy để tâm đến hoạt động buôn lậu. Họ chỉ thực sự để tâm khi công tác buôn lậu hay công tác điều tra chống buôn lậu ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của họ. Chuyện kể tại một vùng cư dân gần địa phận Quảng Ninh rằng ở đó có rất nhiều tàu trọng tải khoảng 800 - 1200 tấn được sử dụng để vận tải than đi Trung Quốc. Khi tiếp xúc với các chủ tàu (một bộ phận là chủ các DNTN, công ty TNHH, CTCP) ở đây thì được biết là đa phần họ không phải là chủ than xuất lậu, mà chỉ là đối tượng vận chuyển. Trước tháng 3/2008, họ không hề có một ý thức nào về việc hành động của mình gây tổn hại đến nền kinh tế quốc dân. Đơn thuần, họ vận chuyển hàng hoá cho các Doanh nghiệp khác (thực chất là các công ty xuất lậu than), và chi tiền “làm luật” khoảng 25 triệu cho một chuyến hàng, với họ đó là việc bình thường, quy luật bình thường của người làm kinh doanh. Đến khi tàu của họ bị giữ hàng loạt tại Vạn Gia thì họ cũng chỉ quan tâm tới thiệt hại vật chất do sự việc gây ra. Đây chỉ là một ví dụ về ý thức chống buôn lậu của các công dân Việt Nam, nhưng đó thể hiện là thực trạng chung trên cả nước. Đây là vấn đề thực sự đáng lo ngại cho công tác điều tra chống buôn lậu. Chính vì vậy mà công tác giáo dục, tuyên truyền cần phải thực sự được chú trọng. Đối với thế hệ công dân tương lai của đất nước, ngoài những vấn đề được giáo dục chu đáo và có kế hoạch về những vấn đề sinh tử của dân tộc, chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, luật giao thông, bảo vệ môi trường, đạo đức công dân, hiểm hoạ AIDS... đã được nói đến trong nhà trường. Tuy nhiên ý thức về buôn lậu như một thứ giặc “nội xâm” - cần cảnh báo, thì vẫn còn xa lạ với các học sinh, sinh viên. Chúng ta đã có mô hình ”dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhưng chưa chủ động vận dụng trong công tác chống buôn lậu. Chống buôn lậu còn là trách nhiệm của các đoàn thể quần chúng, nơi tập hợp, tổ chức đông đảo các tầng lớp nhân dân. Cần tăng cường công tác phổ biến thông tin thời sự, pháp luật giúp nâng cao nhận thức về tình hình và hậu quả của buôn lậu hiện nay đối với đất nước, bồi dưỡng ý thức trách nhiệm cho mỗi công dân không tham gia buôn lậu, không ủng hộ buôn lậu, tự giác tích cực tham gia chống buôn lậu, phát huy tinh thần yêu nước, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong sản xuất và tiêu dùng: “sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật”, “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”, “dùng hàng nội là yêu nước”...Thường xuyên bảo vệ và bồi dưỡng những chuẩn mực đạo đức, lối sống truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, phát huy sức mạnh cảu công luận trong việc giải quyết các vấn đề ích nước, lợi dân; tôn vinh doanh nghiệp chân chính, có tài; đề cao lối sống tín nghĩa, cao thượng, tẩy chay bọn cơ hội, chạy theo tiền tài, thiếu nhân cách... Hiện nay, vai trò của ngành Hải quan trong việc tham gia xây dựng chính sách vẫn chưa phù hợp. Nhiều chính sách mở của một số Bộ, ngành, địa phương, tạo thông thoáng cho DN nhưng lại không tính đến yếu tố có thể bị lợi dụng để buôn lậu, vận chuyển hàng hoá trái phép mà không có sự tham gia của hải quan. Ðiều này dẫn đến tình trạng hoạt động chống buôn lậu của các lực lượng chống lậu nói chung và lực lượng hải quan nói riêng không thể kiểm soát xuể. Chính vì vậy, ngay trong những chính sách mang tính xuất phát (liên quan đến hoạt động xuất, nhập khẩu) như vậy cần có sự phối hợp. Cụ thể là cần có sự tham gia của ngành Hải quan, hoặc có xem xét đến những yếu tố có thể làm phát sinh buôn lậu để có thể cho ra đời những cơ chế, chính sách hài hoà và mang tính phối hợp, tránh tình trạng “ việc ai người nấy làm “ sẽ không mang lại hiệu quả cho ai cả 3. Phát triển kinh tế là công tác hiệu quả nhất. Phát triển kinh tế là quan điểm xử lý toàn diện, triệt để và hiệu quả nhất. Vấn đề trọng tâm vẫn là bài toán kinh tế mà đáp số của nó là phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, tiến tới không ngừng nâng cao mặt bằng cuộc sống vật chất và tinh thần cho nhân dân mọi vùng, cả nông thôn và thành thị, nhất là đối với nhân dân vùng biên giới và ven biển. Để giải bài toán này, chúng ta cần một số điều kiện, đó là: ngành nghề, tiền vốn, công nghệ cao và lực lượng lao động có trình độ, có tay nghề vững vàng và cách tổ chức, quản lý xã hội khoa học, phù hợp với thực tiễn... Nước ta còn nhiều người chưa có và có nhiều nghề không đủ nuôi sống người lao động. Do đó đã có trường hợp ý thức được buôn lậu là phi pháp, một số người vẫn nhắm mắt làm liều vì miếng cơm, manh áo hàng ngày. Trong bối cảnh đất nước mở cửa và tồn tại kinh tế thị trường, nếu công cuộc xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho người lao động không đạt được bước tiến đáng kể thì nguy cơ xuất hiện vực sâu ngăn cách giữa các bộ phận nhân dân là vấn đề mà Nhà nước phải tính đến để chủ động có giải pháp điều tiết. Mặt khác, quần chúng nhân dân cần phải có nhận thức mới rằng, đã qua rồi cái thời mà mọi chuyện lớn nhỏ đều đổ lên vai Nhà nước. Ngày nay người dân tự mình phải biết tạo công ăn việc làm. Một triết lý tự nhiên cần được thể hiện rõ trong lối sống - vận động để tồn tại mà trước hết là tự thân vận động. Thực tiễn công tác ở địa phương cho thấy rất nhiều hộ gia đình ở vùng biên giới không tham gia buôn lậu mà chỉ tập trung đầu tư cho sản xuất, chọn ngành nghề thích hợp hoặc những hộ chuyên kinh doanh hàng xuất khẩu, chấp hành thuế tiểu ngạch một cách nghiêm túc nhưng biết cách tính toán thì thu nhập ổn định và đời sống nâng cao, con cái được học tập tiến bộ. Ngược lại, điều rất đáng tiếc là nhiều hộ gia đình chuyên nghề buôn lậu thì tuy thu nhập cao hơn nhưng không ổn định, có lúc rủi ro trong buôn bán nên thua lỗ, hàng hoá bị tịch thu. Kết quả cuối cùng của họ là cái nghèo cũng nhanh chóng trở lại, thậm chí có người bị pháp luật nghiêm trị, phải chịu án tù và phạt tiền, danh dự không còn, gia đình tan nát. Chúng ta chấp nhận, mong muốn và khuyến khích mọi người giàu lên, nhưng không chấp nhận làm giàu bằng những thủ đoạn phi pháp, buôn lậu, trốn thuế. Trong tình hình phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường cũng có thể kinh doanh một cách có văn hoá, kinh doanh có lãi mà vẫn đảm bảo đạo lý con người. Thực tế là trong kinh doanh, doanh nghiệp có thể thu lợi nhuận cao bằng phát minh, sáng chế, đổi mới cơ chế quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, chiếm lĩnh thị trường bằng mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, giá cả phải chăng... Tiếc rằng vì lợi nhuận cao, nhiều kẻ tán tận lương tâm đã lao vào con đường buôn bán phi pháp, phá hoại nền kinh tế đất nước, phá hoại nền an ninh quốc phòng, làm ô nhiễm môi trường xã hội, môi trường sinh thái, nhập lậu những sản phẩm văn hoá đồi truỵ phá hoại thuần phong mỹ tục của nhân dân ta... Phát triển kinh tế là một giải pháp cơ bản có ý nghĩa toàn diện trong việc giải quyết các vấn đề lớn của quốc gia, trong đó có chống buôn lậu. Xét về mặt kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế làm tăng tổng sản phẩm quốc dân, tăng khối lượng và chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của hàng nội địa với hàng ngoại ngay ở thị trường trong nước. Kinh tế trong nước phát triển tạo thế ổn định trên cán cân ngoại thương sẽ làm hạn chế xu thế “nước chảy chỗ trũng” của hàng lậu. Phát triển kinh tế sẽ củng cố những khả năng giải quyết tốt những vấn đề kinh tế - xã hội, càng hoàn thiện phương án toàn dân - toàn diện - tổng lực trên mặt trận chống buôn lậu, đảm bảo cho sự thành công của công tác khó khăn và phức tạp này. 4. Tăng cường hiệu lực của hàng rào hải quan Hình thành hàng rào hải quan Mỗi quốc gia đều hình thành hàng rào hải quan của nước mình nhằm bảo vệ nền kinh tế đất nước và chống các âm mưu phá hoại của kẻ thù bên trong và bên ngoài. Hàng rào hải quan dùng để kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu, bảo vệ cho hàng hoá trong nước cạnh tranh thắng lợi với hàng ngoại mà trước hết là ngay trên thị trường nội địa và hạn chế xuất khẩu những mặt hàng chiến lược để đảm bảo sự cân đối của của thị trường trong nước, cấm xuất những loại hàng chỉ được phép lưu hành trong thị trường nội địa, không cho nhập những loại hàng có hại về kinh tế, chính trị, môi trường sinh thái, văn hoá, xã hội. Hàng rào hải quan nước ta không chỉ hiểu máy móc, đơn thuần là trách nhiệm riêng của ngành hải quan mà là hàng rào hải quan toàn diện, đầy đủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hàng rào hải quan nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực hải quan, quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu và chống buôn lậu qua biên giới; trong đó, chống buôn lậu là chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Hàng rào hải quan là một khái niệm rộng, bao gồm hàng rào hải quan vô hình (hay người ta thường gọi là hàng rào phi thuế quan thuế) và hàng rào hải quan hữu hình (còn được gọi là hàng rào quan thuế). Bắt đầu từ hệ thống luật pháp, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đây là hệ thống mang tính chất sách lược và chiến lược trong việc bảo vệ nền kinh tế quốc gia, bảo vệ sản xuất và thị trường nội địa. Một trong những nguyên nhân quyết định thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc là Đảng đã đề ra được đường lối, chính sách đúng đắn và biết tổ chức nhân dân thực hiện từng bước vững chắc, chú trọng trước hết vào các nhiệm vụ trọng tâm của đất nước. Ngày nay, trong chính sách, pháp luật liên quan đến vấn đề chống buôn lậu, chúng ta cần đánh giá đúng thực trạng tình hình, nhận thức đúng về quy luật phát triển kinh tế xã hội, về vị trí của nước ta trong nền kinh tế thế giới (đặc biệt là trong khu vực) và trong các quan hệ quốc tế, vừa thống nhất thu cho ngân sách, bảo vệ được sản xuất trong nước, đủ sức thuyết phục, đủ sức xử lý có hiệu quả nhất là các biện pháp hành chính trong chính sách xuất nhập khẩu, các biện pháp kinh tế thông qua chính sách thuế xuất nhập khẩu, các chính sách về tỷ giá hối đoái, sự phân cấp ngân sách, chế độ khen thưởng... và cuối cùng, tất cả những chính sách ấy đều nhằm mục tiêu chống buôn lậu, bảo vệ sản xuất trong nước. Tiếp theo là hàng rào hải quan được hình thành bằng biện pháp tổ chức, quản lý, kiểm tra, kiểm soát. Trước hết tại tất cả các cửa khẩu như sân bay, cảng biển, biên giới đất liền và bất cứ nơi nào có diễn ra hoạt động xuất nhập khẩu đều phải thành lập các đơn vị hải quan đủ mạnh để hoàn thành nhiệm vụ hàng rào quan thuế và các chức năng nhiệm vụ được giao. Trong sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và xã hội đất nước hiện nay, với nhiệm vụ chống buôn lậu, các đơn vị hải quna cần phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chống buôn lậu của biên phòng, công an, quản lý thị trường và được sự hỗ trợ của quân đội, nhất là lực lượng cảnh sát biển, bộ đội hải quân và quần chúng nhân dân thì mới hình thành hàng rào hải quan vững chắc với hai thứ quân chủ lực và lực lượng quần chúng nhân dân. Mối quan hệ này, trước đây chúng ta làm chưa tốt nên trên thực tế còn chồng chéo lên nhau, làm hạn chế kết quả công tác đấu tranh chống buôn lậu. Lực lượng chống buôn lậu cần phải được tăng cường phương tiện đầy đủ và hiện đại để đối phó với sự đa dạng, phức tạp và nguy hiểm của loại công tác đặc biệt này. Bên cạnh đó lực lượng còn phải kiện toàn tổ chức, hết sức chú ý đến nhân tố con người, giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi của người làm công tác chống buôn lậu, tăng cường trang thiết bị mới, hiện đại cho họ, để không những đấu tranh có hiệu quả đối với những đối tượng nhỏ và lẻ như hiện nay mà còn đủ sức đối phó với lực lượng buôn lậu mạnh hơn, có tổ chức và mức độ nguy hiểm hơn. Sự kiện quan trọng là....... nhằm tăng cường việc bảo vệ và quản lý vùng lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải của Tổ quốc. Quân đội là lực lượng chính quy và hùng mạnh, nơi hội tụ cao trí tuệ, tuổi trẻ, khoa học kỹ thuật và kỷ luật thép. Từ nhận thức chống buôn lậu là một cuộc cách mạng lớn thì quân đội, với chức năng bảo vệ Tổ quốc, cần phải có vai trò tích cực, chủ động trong sự nghiệp đấu tranh chống buôn lậu, bảo vệ tổ quốc về chính trị, văn hoá. Nhiệm vụ chống buôn lậu đối với ngành Hải quan và các lực lượng khác như: biên phòng, công an, quản lý thị trường đã được quy định rõ, nhưng trong giai đoạn mới, Nhà nước nên nghiên cứu, có thể giao thêm những nhiệm vụ cụ thể phù hợp cho một bộ phận quân đội để đáp ứng tình hình hiện nay (Tại một số nước, có bộ phận quân đội được cử đi làm đường sá nơi địa hình phức tạp hoặc đi trấn giữ biên giới kết hợp với sản xuất ở nơi nạn buôn lậu hoành hành...). Biện pháp có tính chiến thuật này cũng phù hợp với tinh thần sẵn sàng nhận nhiệm vụ của quân đội và sự tin cậy của nhân dân. Đất nước ta có đường biên giới dài, trên bộ địa hình phức tạp, trên biển thì thiếu phương tiện, tình hình đó đòi hỏi phải có sự hỗ trợ và hợp đồng tác chiến của quân đội, để lực lượng chống buôn lậu thực sự trở thành một đội quân tổng lực, chuyên nghiệp và có vũ trang. Nhân dân là động lực chính Hiện nay tại một số khu vực nơi bọn buôn lậu hoành hành thì cư dân biên giới không phải là “tai mắt” của Đảng và Nhà nước, mà lại là “tai mắt” của bọn buôn lậu. Để có thể chấm dứt hiện tượng này không phải là điều dễ dàng. Chúng ta đang tiến hành những chiến dịch chống buôn lậu mà trong đó nhân dân là động lực chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong” - câu thơ giản dị hàm chứa một tư tưởng lớn đã được lịch sử bao đời chiêm nghiệm qua triết lý “sâu rễ bền gốc” của Trần Hưng Đạo, qua lý tưởng “nhân nghĩa” nổi tiếng của Nguyễn Trãi và qua hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vừa qua của dân tộc. Công tác chống buôn lậu cần có được chỗ dựa vững chắc trong dân, càn có sự đồng tình giúp đỡ của nhân dân, biết nghe và nhìn bằng tai mắt của nhân dân, bởi chỉ có nhân dân mới là lực lượng thường trực tại chỗ, dàn ra một thế trận mà không đối tượng buôn lậu nào qua mắt được. Tăng cường công tác vận động tuyên truyền và giáo dục nhân dân về bản chất chính nghĩa, cấp bách của sự nghiệp chống buôn lậu, để nhân dân đứng hẳn về phía Nhà nước, cách ly bọn buôn lậu là điều tối cần thiết. Thực tiễn cho hay, sự hưởng ứng và tham gia giúp đỡ của nhân dân là một đảm bảo chắc chắn cho thắng lợi của công tác chống buôn lậu. Do đó, chống buôn lậu không chỉ là nhiệm vụ của các ngành chức năng, mà còn là trách nhiệm của nhân dân. Đó là trách nhiệm của người công dân yêu nước trước tình thế Tổ quốc đang phải gồng mình lên chống buôn lậu. Tư tưởng, chiến lược quyết định những biện pháp chiến thuật. Vấn đề lớn cần phải được quán triệt thống nhất là chống buôn lậu phải được tiến hành như một cuộc cách mạng của lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Do đó, chống buôn lậu phải mang tính đồng bộ trên toàn quốc, phương châm chiến lược là tấn công tiêu diệt chứ không phải tấn công xua đuổi. Có làm được như vậy thì bọn buôn lậu mới không có thời gian để phòng thủ, không có địa bàn để nương náu. Hơn nửa thế kỷ của cách mạng Việt Nam để lại cho chúng ta những bài học và kinh nghiệm phong phú: đánh tổng lực bằng chủ lực và lực lượng nhân dân, đánh từ nông thôn đến thành thị, bằng nhiều mũi giáp công, đánh trên mọi phương diện, phát huy cao độ thế mạnh của cuộc chiến tranh toàn dân.Chống buôn lậu phải chống mạnh tay, phải đều đặn và toàn diện để tránh trường hợp bỏ sót các đối tượng tinh vi. Qua mỗi chiến dịch cũng cần có tổng kết, học tập, rút kinh nghiệm, thảo luận và thống nhất biện pháp nhằm phát huy thành quả, khắc phục những mặt chưa làm tốt, đối mặt với tình hình mới nảy sinh. Đấu tranh ngăn chặn những hành vi phi pháp của các đối tượng kinh tế và chống buôn lậu là những công việc phức tạp, nguy hiểm. Nhiều cán bộ chiến sĩ phải đổ máu, gia đình chịu nhiều đau thương mất mát, các cán bộ trực tiếp làm công tác giải quyết, xử lý đe doạ qua thư điện thoại và bằng nhiều phương cách khác...Trước thực tế đó, sức mạnh của lực lượng chống buôn lậu cần phải được củng cố, kiện toàn công tác phối hợp với các ngành chức năng, trước hết là công an, tăng cường sự bảo vệ về pháp lý đối với những người thi hành công vụ. Công tác khen thưởng nên tổ chức kịp thời và đãi ngộ thích đáng, cả về tinh thần và vật chất. Theo ý kiến của PGS Lê Thanh Bình trong cuốn “Chống buôn lậu và gian lận thương mại”, NXB Chính trị quốc gia, 1998 thì nên có danh hiệu “Dũng sĩ chống buôn lậu” dành cho những chiến sĩ có công trong công cuộc chống buôn lậu. Đối với nhân dân tích cực tham gia và có nhiều đóng góp cho công tác chống buôn lậu cần phải có chế độ đãi ngộ, động viên khuyến khích thật tốt.Cần tích cực giác ngộ, khuyến khích các phần tử buôn lậu chuyển sang hợp tác với ngành chức năng chống buôn lậu, thông qua tuyên truyền, giáo dục, sức ép pháp lý và có chế độ động viên thích đáng. Về phương diện tài chính, không nên xem kết quả thu từ chống buôn lậu là một nguồn thu ngân sách, mà dùng số thu đó một phần trích thưởng xứng đáng cho người có công trong việc chống buôn lậu. Phần còn lại để phục vụ cho công tác của các ngành chức năng nhằm tăng cường lực lượng và phương tiện, để lại cho địa phương bồi dưỡng sức dân, tạo thế trận nhân dân trong công tác chống buôn lậu. II. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHO CỤC ĐIỀU TRA CHỐNG BUÔN LẬU 1. Các giải pháp nâng cao khả năng nghiệp vụ của Cục Điều tra chống buôn lậu Phải xác định được trọng điểm và có phương án cụ thể cho từng địa bàn, từng chuyên đề, từng lĩnh vực nghiệp vụ. Chống buôn lậu đạt hiệu quả nhất là khi các lực lượng chủ động đấu tranh chống buôn lậu ngay từ khi hình thành. Các đơn vị phải chú ý xây dựng cơ sở bí mật rộng khắp, phải xây dựng được cơ sở của mình trong nội bộ doanh nghiệp, các tập đoàn... nhằm điều tra nắm tình hình phát hiện tin tức tài liệu ngay khi bọn buôn lậu bắt tay vào công tác chuẩn bị. Thực hiện tốt phương châm “phát hiện sâu và đánh tận gốc” thì các hành vi vi phạm mới không còn cơ hội phát triển. Cách thức buôn lậu mỗi nơi một khác nhau, chính vì vậy không thể có một kế hoạch chung cho tất cả các địa bàn và tất cả các chuyên đề. Nên khi xác lập một chuyên án cần phải khảo sát nghiêm túc, thu thập đầy đủ các dữ kiện trên cơ sở khảo sát kỹ ở địa bàn của mình và phương án phối hợp với các bộ phận khác. Có như vậy mới có thể đạt được hiệu quả. Thường xuyên tiến hành công tác điều tra cơ bản, nắm tình hình tại các địa bàn trọng điểm để kịp thời phát hiện những đối tượng trọng điểm, những vụ việc nổi cộm, có rủi ro cao khi áp dụng phương thức quản lý hải quan theo quy trình mới làm cơ sở cho công tác dự báo tình hình và đề xuất các biện pháp xử lý những sơ hở, vướng mắc trong quy trình nghiệp vụ, trong đó tập trung phát hiện: - Các loại ma tuý tổng hợp, tân dược có chứa chất gây nghiện, heroin, tiền chất nhập lậu trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan; phát hiện và ngăn chặn các mặt hàng : ngoại tệ, tiền Việt Nam giả, đồ cổ, văn hoá phẩm có nội dung xấu, rượu, thuốc lá ngoại, đường ăn, hàng điện lạnh cũ/mới, máy tính xách tay, máy ảnh kỹ thuật số, phụ tùng ôtô đã qua sử dụng, máy móc thiết bị đã qua sử dụng, rác thải công nghiệp, tân dựoc, mỹ phẩm, vải, quần áo các loại. Phát hiện và ngăn chặn tình trạng xuất lậu quặng thô, than, gỗ quý hiếm , xăng dầu, vàng, ngoại tệ... - Tăng cường công tác nắm tình hình, tập trung phát hiện và đấu tranh với các đối tượng là các chủ đầu nậu lớn chuyên mua thu gom hàng, các đầu nậu chuyên tổ chức vận chuyển hàng lậu thuê, các doanh nghiệp đã vi phạm pháp luật về Thuế, Hải quan và chuyên kinh doanh những mặt hàng nhạy cảm. có thuế xuất cao; các doanh nghiệp thường xuyên hủy tờ khai khi đã phê duyệt mức độ kiểm tra, các doanh nghiệp thường xuyên đăng ký kiểm tra vào giờ cao điểm; các doanh nghiệp nhập khẩu phần mềm khai báo giá nhập khẩu với trị giá lớn so với thực tế. - Phát hiện các phương thức, thủ đoạn lợi dụng bất cập trong cơ chế chính sách như: khai báo giá tính thuế để trốn thuế, hàng chuyển cửa khẩu, hàng tạm nhập - tái xuất, lợi dụng áp dụng Quản lý rủi ro đưa hàng lậu thông quan qua luồng xanh; chính sách ưu đãi các Khu kinh tế cửa khẩu và các Doanh nghiệp kinh doanh trong Khu kinh tế cửa khẩu, định mức miễn thuế đối với cư dân biên; hàng hoá, nguyên phụ liệu gia công - đầu tư, hàng phi mậu dịch, hàng miễn thuế... Biện pháp vận động quần chúng tham gia chống buôn lậu Thực hiện thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hải quan và các văn bản pháp luật liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu tới mọi tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp. Quan tâm hơn đối với công tác vận động quần chúng, không buôn lậu và không tiếp tay cho buôn lậu, đặc biệt là đồng bào dân tộc tại khu vực cửa khẩu biên giới. Vận động các doanhnghiệp, các thành phần kinh tế chấp hành nghiêm những chính sách, pháp luật về xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, hiểu được chức năng, nhiệm vụ của hải quan; cộng tác giúp đỡ hải quan hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra, thông qua hoạt động của mình, lực lượng điều tra chống buôn lậu phải tranh thủ được sự giúp đỡ, phối hợp của các ngành nhất là các ngành cơ quan quân đội, thương mại..., các cơ quan chức năng tại địa phương, chính quyền đoàn thể các cấp nơi có hoạt động hải quan. Biện pháp trinh sát bí mật, tình báo hải quan Các cán bộ làm công tác này cần được đào tạo bài bản hơn bởi đây là biện pháp chủ yếu và mang tính đặc thù của công tác điều tra chống buôn lậu thuộc ngành Hải quan nhằm phát hiện, thu thập tin tức, tài liệu có liên quan đến hoạt động chống buôn lậu làm cơ sở để áp dụng các biện pháp nghiệp vụ khác nhằm đấu tranh có hiệu quả với mọi hành vi và đối tượng buôn lậu. Trong hoạt động này, tình báo hải quan đóng vai trò hết sức quan trọng. Các công tác chủ yếu phải tiến hành bao gồm: Công tác điều tra nghiên cứu để nắm vững thông tin về hoàn cảnh khách quan (bối cảnh quốc tế, tình hình khu vực, tình hình buôn lậu...) Công tác kiểm tra và xác minh đầu mối nghi vấn Công tác cơ sở bí mật bao gồm tuyển lựa, xây dựng, lãnh đạo và sử dụng những người ngoài biên chế ngành Hải quan trong vai trò cộng tác, có thể sử dụng biện pháp mua tin Công tác chuyên án là quá trình bí mật tiếp cận với một cá nhân, hay tổ chức, hay đường dây buôn lậu cụ thể. Công tác trinh sát ngoại tuyến là bố trí theo dõi các hoạt động của đối tượng để phục vụ các yêu cầu cụ thể đặt ra. Công tác trinh sát kỹ thuật là khi có yêu cầu và điều kiện cho phép, lực lượng điều tra chống buôn lậu có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật như máy ảnh, máy quay phim... để ghi lại hình ảnh âm thanh có liên quan của các đối tượng buôn lậu Công tác xác minh bí mật Hoàn thành việc rà soát, đánh giá thực trạng công tác tuyển chọn, xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở bí mật của lực lượng kiểm soát hải quan và ban hành chế độ hồ sơ, mẫu ấn chỉ cơ sở bí mật. Biện pháp tuần tra kiểm soát công khai Với đặc điểm địa hình của biên giới đường bộ và đường biển nước ta, biện pháp tổ chức lực lượng tuần tra kiểm soát công khai để phát hiện, ngăn ngừa mọi hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới cần phải được coi trọng cả về tổ chức biên chế, chỉ đạo, chỉ huy, đào tạo, huấn luyện, trang bị phương tiện...Một số hình thức như: Tuần tra kiểm soát cơ động thường xuyên và đột xuất trên bộ (trong khu vực dọc biên giới, xã ven biển), trên biển, sông biên giới Chốt chặn, kiểm soát lâm thời hoặc cố định trên các trục đường biên giới, cửa sông, cửa biển, sân bay, bến cảng... Tổ chức mật phục, truy bắt buôn lậu qua các đường mòn biên giới. Chỉ huy chỉ đạo xây dựng lực lượng kiểm soát công khai phải cơ động linh hoạt, chủ động, bí mật, bất ngờ, tránh trường hợp bị theo dõi ngược...Triển khai có hiệu quả các đề án về tổ chức lực lượng, trang thiết bị như trang bị tàu thuyền cho lực lượng kiểm soát chống buôn lậu trên biển... Phương thức bố trí lực lượng hợp lý Ngành Hải quan phải có tổ chức hợp lý, chặt chẽ, thống nhất từ Trung Ương, đến cơ sở và có sự phân công, phân cấp rõ ràng giữa các bộ phận nghiệp vụ. Mỗi lực lượng trong Cục cần phải có trình độ chuyên sâu. Ban hành quy chế điều hành và phối hợp trong hoạt động nghiệp vụ kiểm soát Hải quan và hoàn thành Đề án nâng cao năng lực kiểm soát trong Ngành Hải quan. Rà soát những văn bản pháp quy, quy trình nghiệp vụ liên quan đến hoạt động kiểm soát, để tham mưu, đề xuất với Bộ Tài chính, Chính phủ, các Bộ, Ban Ngành liên quan những bất cập, vướng mắc trong quá trình công tác nhằm đưa ra những giải pháp khắc phục những tồn tại, khó khăn để đáp ứng phù hợp với tiến trình hội nhập mới. 2. Các giải pháp tạo sức mạnh cho lực lượng chống buôn lậu a. Chú ý trong vấn đề kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của cán bộ trong ngành. Phải tổ chức chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến cơ sở; tạo ra được hành lang thông tin, chỉ huy xử lý chính xác, nhanh nhạy, bí mật kịp thời.Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy lực lượng kiểm soát các cấp, tập trung đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thu thập xử lý thông tin, quản lý rủi ro, kiểm soát hải quan. Cán bộ Hải quan phải nắm vững luật pháp liên quan đến lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan, các cán bộ trong Cục Điều tra chống buôn lậu phải thành thạo nghiệp vụ, không ngừng học hỏi. Các cán bộ cần được chọn lọc để đưa đi đào tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Đặc biệt, cần phải chú trọng làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đã là cán bộ Hải quan thì phải thực hiện 10 Điều kỷ cương của Công chức Hải quan Việt Nam: Đối với doanh nghiệp và khách xuất nhập cảnh, phải: 1. Văn minh, lịch sự khi tiếp xúc. 2. Công tâm, tận tuỵ khi thi hành công vụ. 3. Nhanh chóng, chính xác khi giải quyết công việc. 4. Thấu hiểu, chia sẻ khó khăn. 5. Coi doanh nghiệp và khách xuất nhập cảnh là đối tác hợp tác. Đối với bản thân, phải: 6. Nắm vững pháp luật, thông thạo nghiệp vụ. 7. Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, kỷ luật công tác. 8. Trang phục chỉnh tề, gọn gàng. 9. Không nhận mọi lợi ích bất hợp pháp. 10. Không làm tổn hại đến truyền thống, danh dự của ngành Hải quan. Cần phải xử lý nghiêm minh những cán bộ hải quan , đặc biệt những cán bộ chống buôn lậu có hành vi tiếp tay cho buôn lậu. Bên cạnh đó cần phải có những chế độ, chính sách, mức lương phù hợp hơn cho đội ngũ công chức hải quan. b. Ứng dụng công nghệ vào công tác đấu tranh chống buôn lậu Để đấu tranh với hiện tượng buôn lậu chưa đủ, còn cần tới việc ứng dụng công nghệ cao vào công tác đấu tranh chống buôn lậu. Bởi vì thủ đoạn của bọn buôn lậu thì ngày càng tinh vi. Nếu lực lượng chống buôn lậu không có những phương tiện hiện đại thì không dễ gì phát hiện được. Cần phải có sự hỗ trợ toàn bộ từ những máy bộ đàm, những tàu cao tốc hiện đại, các máy soi nghiệp vụ... Cục cần Tập trung triển khai Đề án nâng cấp hệ thống quản lý rủi ro áp dụng trong lĩnh vực nghiệp vụ Hải quan giai đoạn 2007 - 2010 và những năm tiếp theo theo. Nâng cấp và hoàn thiện hệ thống phần mềm, cơ sở dữ liệu, chuẩn hoá quy trình nghiệp vụ và các điều kiện đảm bảo công tác thu thập, xử lý thông tin và quản lý rủi ro. c. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng chống buôn lậu Xây dựng hàng rào chống buôn lậu vững mạnh có sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng chuyên môn kiểm soát chống buôn lậu với các lực lượng khác trong và ngoài ngành. Tăng cường hơn nữa công tác phối hợp với các lực lượng chức năng (Công an, Bộ đội biên phòng, Quản lý thị trường...) trong công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại. Sự phân công trách nhiệm phải rõ ràng tránh trường hợp chồng chéo và có thể dẫn đến triệt tiêu lẫn nhau. Thuờng thì Cục điều tra chống buôn lậu phải là cơ quan giữ vai trò tham mưu nòng cốt trong việc phối hợp với các ngành khác. Còn một vấn đề quan trọng nữa chưa thực sự được chú ý, đó là khi Phủ đưa ra những nghị định; các Bộ ngành, các cơ quan chức năng đưa ra những Quyết định, thông tư hướng dẫn... mà Chính phủ, Bộ ngành, các cơ quan chức năng... cho rằng đó là những chính sách có thể giúp kinh tế phát triển, môi trường kinh doanh thông thoáng thì nên có sự tham khảo ý kiến của Tổng cục Hải quan. Vì Hải quan sẽ là cơ quan biết nhiều hơn hết chính sách đó thực sự giúp được kinh tế phát triển hay “giúp” cho buôn lậu gia tăng. Hải quan đặc biệt là bộ phận chống buôn lậu cũng sẽ biết cách phải sửa đổi chính sách thế nào cho hợp lý hơn. Tránh trường hợp đưa ra những chính sách kéo theo phiền hà, ví dụ đơn cử như vụ xe ô tô nhập miễn thuế vào Lao Bảo rồi có tình trạng tiêu thụ trong nội địa, để khắc phục trường hợp như vậy, các cơ quan chức năng ở đó lại đưa thêm một quy định là các xe biển Lao Bảo chỉ được đi công tác tối đa 1 tuần. Đó là điều hết sức nực cười, gây ảnh hưởng tới các doanh nghiệp mua xe về với mục đích sử dụng thực sự, họ không làm sai nhưng vì có những người buôn lậu mà họ bị ảnh hưởng, bị gây phiền hà (vì những chuyến công tác ra bắc vào nam thì đâu phải 1 giới hạn nhất định thời gian là về được, chẳng nhẽ lại cố về qua LB trình diện rồi đi tiếp sao?) Sự phối hợp giữa các bộ phận, các cơ quan chức năng khác nhau không đơn thuần là những sự phối hợp trên văn bản, phải thực sự triển khai trên thực tế. d. Cần có cơ chế tài chính thích hợp cho lực lượng chống buôn lậu Hiện tại, định mức kinh phí chống buôn lậu hiện còn quá thấp. Đại tá Lê Văn Hà, Phó Cục trưởng C15, Bộ Công an nêu ví dụ: trong việc khởi tố hành vi buôn bán gỗ Sưa ở Bắc Ninh, thì riêng mức kinh phí giám định 33 mẫu gỗ phải mất tới 100 triệu đồng. Rồi việc khởi tố điều tra vụ buôn lậu 103 container gỗ trắc ở thành phố Hồ Chí Minh, thì kinh phí vẫn chuyển gỗ lên bờ do đối tượng vi phạm vứt xuống sông cộng với tiền lưu kho, lưu bãi cũng lên tới hàng trăm triệu đồng… Trong khi đó kinh phí điều tra một năm… chỉ được cấp 800 triệu đồng là quá thấp. Còn Phó Tổng cục Trưởng Tổng Cục Hải quan, ông Vũ Ngọc Anh cho biết: Hải quan là lực lượng chống buôn lậu ở mọi địa bàn, nhưng do không đủ kinh phí mua nhiên liệu, nên nhiều khi xuồng của Hải quan chỉ nằm ở căn cứ… chờ tin báo. Chống buôn lậu trên tuyến biển, các lực lượng nói chung rất cần được tập luyện thường xuyên. Nhưng do kinh phí mua nhiên liệu mà Bộ Tài chính quy định cho xuồng chuyên dụng hiện nay quá thấp, nên hầu như tàu, xuồng của lực lượng hải quan chỉ nằm tại căn cứ. Khi nào có thông tin về buôn lậu trên biển thì mới xuất kích. Như vậy hiệu quả của những chuyên án đó khó có thể cao được. Cũng khó khăn về kinh phí chống buôn lậu, nhưng tỉnh Quảng Ninh lại chủ động xuất ngân sách tỉnh. Trong lúc chờ kinh phí của cơ quan Trung ương, thì UBND tỉnh đề xuất với HĐND tỉnh ra nghị quyết hỗ trợ kinh phí cho những chiến dịch cụ thể và bổ sung kinh phí mua sắm trang thiết bị, phương tiện, xăng dầu cho lực lượng chồng buôn lậu. Năm 2007, số tiền phạt mại và tịch hàng hoá buôn lậu của tỉnh lên tới 136 tỉ đồng, tăng 12% so với năm 2006. Từ thực tế vừa nêu, bà Nhữ Thị Hồng Liên, Phó Chủ tịch UBND, kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo 127 tỉnh Quảng Ninh đề xuất: “Chúng tôi kiến nghị với Chính phủ sớm thành lập quỹ chống buôn lậu. Mục đích là để tăng cường tính chủ động cho địa phương để điều chỉnh”. Thứ trưởng Bộ Công thương - Nguyễn Cẩm Tú, kiêm Phó Ban Chỉ đạo 127 Trung ương cho biết, để giải quyết các khó khăn trong công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại trong thời gian tới các bộ, ngành liên quan sẽ xây dựng “Chương trình Quốc gia Chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại” từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015. Trong đó có việc từng bước sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành theo thẩm quyền. Đồng thời đề nghị Chính phủ kiến nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép tái lập “Quỹ chống các hành vi kinh doanh trái pháp luật”. Nhưng điều mà các ngành và địa phương mong muốn khắc phục những khó khăn vừa nêu là phải có lộ trình dứt điểm, tránh tình trạng “năm nào cũng kiến nghị giống nhau”. e. Cần chú trọng công tác hợp tác quốc tế Đây là vấn đề thường được ít nói đến nhất về các giải pháp để hoạt động chống buôn lậu có hiệu quả hơn. Thực ra Việt Nam có một thái độ khá dè dặt trong vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hải quan. Những lý do chủ yếu nằm ở chính sách bảo hộ trong nước, sự lo ngại trong đảm bảo an ninh kinh tế chính trị... nên việc hợp tác chưa thực sự đi sâu vào hiệu quả, mà còn mang tính chất nửa vời, và trên văn bản giấy tờ. Vấn đề là phải nâng cao khả năng hội nhập trong ngành, nâng cao khả năng hợp tác quốc tế, chú trọng cả việc học hỏi các cách thức chống buôn lậu của các nước. Chống buôn lậu tại Trung Quốc có một số cách thức khiến chúng ta có thể học tập là việc họ thông báo các số điện thoại của Tổng cục hải quan và Hải quan các khu vực khắp đất nước giúp nhân dân thông báo về gian lận giá trị hàng hoá. Hải quan hoan nghênh tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tôn trọng pháp luật, hành động có trách nhiệm cao hơn đối với đất nước và mọi người, tự bảo vệ hoạt động kinh doanh hợp pháp của mình, dũng cảm đứng lên chống lại các hoạt động trái pháp luật, trốn thuế, gian lận giá trị hàng hoá. Tóm lại Nhiệm vụ chống buôn lậu không phải chỉ của các cơ quan chức năng mà đó là nhiệm vụ của toàn dân, trong đó Đảng cộng sản Việt Nam là người đi đầu. Chính vì vậy để có được những biện pháp chống buôn lậu mang lại hiệu quả, thì công tác chống buôn lậu phải được thực hiện toàn diện từ trung ương đến địa phương. Trong đó việc nâng cao năng lực, khả năng của các lực lượng đi đầu trong hoạt động chống buôn lậu là hết sức quan trọng, đặc biệt là Cục Điều tra chống buôn lậu cần phải có những giải pháp mạnh mẽ hơn nữa để đạt hiệu quả cao hơn trong cuộc chiến chống buôn lậu. KẾT LUẬN Buôn lậu và chống buôn lậu đang đặt ra những vấn đề hết sức cấp bách và sống còn của bình ổn chính trị, an ninh kinh tế của nước nhà. Buôn lậu gây nên những nguy cơ nghiêm trọng nên việc nhận thức được tầm quan trọng của công tác chống buôn lậu (không phải là việc của riêng ai mà là việc của toàn dân) là điều kiện tiên quyết để chống buôn lậu đạt được hiệu quả. Ngành Hải quan, Cục Điều tra chống buôn lậu nói riêng với công tác chống buôn lậu trực tiếp là một trong những nhiệm vụ chủ yếu, cần phải được tăng cường về pháp lý, lực lượng, trang bị và cần chủ động tổ chức, triển khai tốt công tác chống buôn lậu với mục đích đảm bảo an ninh kinh tế và an ninh chính trị của quốc gia, góp phần tích cực vào sự phát triển và phồn vinh của đất nước. Trước mắt trong năm 2008 công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan nói chung và Cục Điều tra chống buôn lậu nói riêng phải có biện pháp góp phần kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá phục vụ việc đẩy mạnh xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu đảm bảo các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 do Quốc Hội và Chính phủ xác định. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Chống buôn lậu và gian lận thương mại, PGS.Lê Thanh Bình, NXB Chính trị quốc gia 1998 Quyết định số 72/2006/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài Chính ban hànhngày 13/02/2006 Quyết định số 75,76,77,78/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ban hành ngày 08/01/2007 Quyết định số 45,46,47/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ban hành ngày 08/01/2007 Báo cáo công tác năm 2005 và phương hướng công tác năm 2006 của Cục Điều tra chống buôn lậu Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng công tác năm 2007 của Cục Điều tra chống buôn lậu Báo cáo tổng kết công tác Kiểm soát Hải quan năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008 Tài liệu chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ: “Chống buôn lậu qua biên giới” của Tổng cục Hải quan ban hành năm 1996 Tài liệu lưu hành nội bộ: “Hải quan Việt Nam những sự kiện(1945-1995)” ban hành năm 1995 Website Tổng cục Hải quan: www.customs.gov.vn www.chinhphu.vn www.mof.gov.vn www.moi.gov.vn www.tienphongonline.com.vn www.laodong.com.vn www.vnexpress.net Tài liệu tham khảo còn có một số Nghị định, thông tư, báo chí khác... MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11485.doc
Tài liệu liên quan