Đề tài Tác động của việc gia nhập WTO tới một số ngành kinh tế chủ chốt của Trung Quốc

LỜI NÓI ĐẦU 1. lí do chọn đề tàI Sau 15 năm kiên trì đàm phán, ngày 11/12/2001 Trung Quốc đã chính thức trở thành thành viên thứ 143 của WTO. Từ đó đến nay đã được gần 5 năm, khoảng thời gian chưa phải đã đủ dài để có thể đánh giá một cách chính xác tác động tới mọi mặt trong đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của Trung Quốc. Tuy nhiên chúng ta đều có thể nhận thấy rằng sau gần 5 năm tham gia vào ngôi nhà chung WTO, đã có rất nhiều ảnh hưởng tới nền kinh tế Trung Quốc, tích cực có mà tiêu cực cũng có. Trung Quốc cũng đã tận dụng được nhiều cơ hội mà WTO đem lại và ứng phó một cách tốt nhất với những ảnh hưởng tiêu cực không thể tránh khỏi. Là một một sinh viên học chuyên ngành trung quốc muốn nghiên cứu về TRUNG QUỐC muốn hiểu rõ về nền kinh tế TRUNG QUÔC thì đây quả thực là một đề tài “nóng hổi” ,là môt cánh cửa lớn cần phải mở. Chính vì vậy mà em chọn đề tài: “Tác động của việc gia nhập WTO tới một số ngành kinh tế chủ chốt của Trung Quốc” 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài tập trung phân tích các tác động từ việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tới một số ngành kinh tế của nước này. Phân tích những biến chuyển cụ thể trong một số ngành kinh tế chủ chốt của TRUNG QUỐC 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu như trên, đối tượng nghiên cứu của niên luận là một số ngành kinh tế chủ chốt của Trung Quốc - đặc điểm, tác động, đối sách và thực trạng của các ngành này từ sau khi Trung Quốc gia nhập WTO cho đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Niênluận sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu bao gồm : phương pháp thu thập, so sánh, phân tích và tổng hợp tài liệu nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. 5. Bố cục của đề tài NgoàI phần lời nói đầu và kết luận, đề tàI gồm 4 chương ChươngI: Những tác động chung của việc gia nhập wto tới nền kinh tế của trung quốc Chương II: Tác động đến ngành nông nghiệp CHƯƠNG III: Tác động đến ngành công nghiệp CHƯƠNG IV: Tác động đến ngành dịch vU MỤC LỤC Lời nói đầu Chương I: Những tác động chung của việc gia nhập wto tới nền kinh tế của Trung Quốc 1. Đặc điểm cơ bản của các ngành kinh tế chủ chốt Trung Quốc trước khi gia nhập WTO 1.1 tăng trưởng tốc độ cao 1.2sự chênh lệch trong phát triển kinh tế 1.3ngày càng dược tự do hoá 2. những tác động chung tới kinh tế trung quốc từ việc gia nhập wto 2.1 tác động tích cực 2.2 tác động tiêu cực Chương II: Tác động đến ngành nông nghiệp 1. Vài nét về nông nghiệp Trung Quốc 1.1 đặc điểm cơ bản 1.2 những khó khăn trở ngại chủ yếu 2. dự báo ảnh hưởng tới nông nghiệp 2.1 những tác động tích cực 2.2 những tác động tiêu cực 3. đối sách của Trung Quốc trong lĩnh vực nông nghiệp 3.1 đánh giá đúng đắn tác động đến tong lĩnh vực sản xuất 3.2 tìm và phát huy triệt để lợi thế trong nông nghiệp 4. thực trạng nông nghiệp Trung Quốc từ sau gia nhập WTO Chương III: Tác động đến ngành công nghiệp 1. những khó khăn thách thức chung của công nghiệp Trung Quốc 2. tác động đến một số ngành công nghiệp cụ thể 3. đối sách của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghiệp 4. thực trạng ngành công nghiệp từ sau khi gia nhập WTO Chương IV: Tác động đến ngành dịch vụ 1. đặc điểm ngành dịch vụ Trung Quốc 2. tác động chung 3. nghiên cứu và nắm vững các qui tắc của WTO 4. thực trạng ngành dịch vụ Trung Quốc từ sau gia nhập WTO Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1905 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của việc gia nhập WTO tới một số ngành kinh tế chủ chốt của Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản phẩm nông nghiệp Trung Quốc đều thấp hơn so với thị trường quốc tế nên việc thực hiện các cam kết như giảm mạnh thuế quan và xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường trong nước cho hàng ngoại nhập sẽ có tác động mạnh đến thị trường trong nước. Nó sẽ làm tăng khó khăn cho việc ổn định sản xuất, thị trường và giá cả nông sản Trung Quốc, làm mất đi tấm lá chắn bảo hộ truyền thống, khiến cho nhập khẩu gia tăng. Khi nhập khẩu nông sản tăng, đến lượt nó sẽ làm giá hàng nông sản ở thị trường nội địa giảm. Hậu quả là sản xuất nông nghiệp trong nước suy giảm, số người thất nghiệp trong nông nghiệp gia tăng. Mà nhập khẩu nông sản có điểm khác so với nhập khẩu hàng công nghiệp. Đó là, khi nhập khẩu hàng công nghiệp sẽ có khả năng nhập được một phần kỹ thuật trong đó còn nhập khẩu nông sản thì khó mà tận dụng được kỹ thuật và tri thức bao hàm trong đó. Thứ hai, an toàn thực phẩm và kiểm dịch : Đây là những đòi hỏi có lợi và tất yếu đối với mọi quốc gia, song ít nhất trong thời gian đầu thì đây lại là một khó khăn rất lớn cho nền sản xuất lạc hậu và phân tán của Trung Quốc mà xưa nay quản lí nhà nước về mặt này thường yếu kém. Nông sản xuất khẩu của Trung Quốc rất dễ bị các hệ thống kiểm dịch chặt chẽ, nghiêm ngặt, đòi hỏi độ minh bạch cao của các nước phát triển khác cản trở. Thứ ba, xuất khẩu nông sản bị ảnh hưởng nặng nề. Hàng xuất khẩu của nông nghiệp Trung Quốc có cơ cấu không hợp lí: nhiều sản phẩm sơ cấp (lương thực, thức ăn gia súc, lông, tơ, bông…) còn sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao và giá trị gia tăng cao thì ít, hàng truyền thống nhiều mà hàng có tính sáng tạo thì lại ít…Do đó thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu nông sản không cao. Mặt khác thị trường xuất khẩu nông sản của Trung Quốc cũng không hợp lí, chủ yếu mới chỉ tập trung vào Hồng Kông, Macao, Nhật Bản, Mỹ, Tây Âu còn các thị trường khác thì hầu như chưa chiếm lĩnh được. Thứ tư, chống bán phá giá và chống trợ giá là những biện pháp cần thiết để đảm bảo công bằng của hoạt động mậu dịch tự do. Tuy nhiên nó cũng có nguy cơ bị nhiều nước lạm dụng, coi đó là cái cớ để bảo hộ nông sản nước mình, gây khó dễ cho các sản phẩm nông nghiệp có hàm lượng lao động cao của Trung Quốc vì những loại sản phẩm này có sực cạnh tranh đáng kể về giá cả . Như vậy theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, do mức độ bảo hộ của nhiều sản phẩm nông nghiệp Trung Quốc sau khi gia nhập WTO vẫn giữ nguyên hoặc thay đổi nhỏ nên tác động của việc thực hiện các cam kết của nước này với WTO trong lĩnh vực nông nghiệp là không quá mạnh nếu xét trong ngắn hạn và trung hạn, dù việc này sẽ khiến cho sản xuất nông nghiệp sụt giảm (so với trường hợp không gia nhập) và thất nghiệp trong lĩnh vực này gia tăng. Việc gia nhập WTO nhìn chung sẽ có tác động tiêu cực tới sản lượng của các sản phẩm sử dụng nhiều đất đai và tích cực với các sản phẩm sử dụng nhiều lao động. Ngoài ra mức độ tác động của việc gia nhập WTO tới nông nghiệp của Trung Quốc là mạnh hay nhẹ còn phụ thuộc vào những chính sách cụ thể sau khi gia nhập. Tóm lại, gia nhập WTO với nông nghiệp Trung Quốc vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức, vừa có ảnh hưởng tích cực lại có cả ảnh hưởng tiêu cực. Vấn đề là làm thế nào để biến những ảnh hưởng bất lợi thành có lợi và tìm cách đưa nông nghiệp tiến lên thành một ngành kinh tế hiện đại có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Đối sách của Trung Quốc trong lĩnh vực nông nghiệp Để khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách, nắm chắc cơ hội, các ngành các giới ở Trung Quốc đã đề ra nhiều khuyến nghị về chính sách, biện pháp nhằm phát huy các tiềm năng, thế mạnh của nông nghiệp Trung Quốc, làm cho ngành này tiến lên hiện đại, hội nhập mà không bị lép vế, dần thích ứng với thị trường thế giới, cụ thể là: Đánh giá đúng đắn tác động đến từng lĩnh vực sản xuất Ví dụ về lương thực, hạn ngạch nhập khẩu ban đầu là 18,3 triệu tấn, cao nhất là 22,15 triệu tấn. Quy mô nhập khẩu này mặc dù bằng khoảng 15% tổng mức tiêu thụ trên thị trường lương thực của Trung Quốc nhưng cũng không gây ra những tác động quá lớn, càng không thể gây ra hậu quả mang tính tai hoạ. Hạn ngạch thuế quan cũng chỉ là chỉ tiêu, cũng giống như chỉ tiêu của một kế hoạch nào đó, việc có đạt được chỉ tiêu đó hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu phụ thuộc vào tình hình cung cầu lương thực trong nước. Nếu sản xuất lương thực trong nước phát triển nhanh, cung ứng đầy đủ thì sẽ không phải nhập khẩu nhiều lương thực đến vậy, ngược lại nếu sản xuất lương thực trong nước mà không thuận lợi, cung không đáp ứng đủ cầu thì thậm chí còn phải nhập khẩu nhiều lương thực hơn so với hạn ngạch thuế quan. Về hoa quả, thịt và các mặt hàng nông sản khác: theo hiệp định giữa Trung Quốc và Mỹ, do thuế quan giảm mạnh nên các loại hoa quả Mỹ cũng như thịt bò, gia cầm sẽ được nhập nhiều hơn vào thị trường Trung Quốc, chiếm lĩnh nhiều thị phần hơn, đây là điều hiển nhiên. Tuy nhiên do hàng nông sản Trung Quốc dựa trên cơ sở nông nghiệp hữu cơ chứ không phải là nông nghiệp biến đổi gen như Mỹ và nhiều nước phát triển nên chất lượng sẽ cao hơn và do đó vẫn có thể cạnh tranh được với hàng ngoại nhập. Tìm và phát huy triệt để lợi thế trong nông nghiệp Cạnh tranh giữa nông nghiệp Trung Quốc với các nước phát triển như Mỹ, châu Âu, Canada…trên thực tế là cuộc cạnh tranh giữa nông nghiệp nhỏ và nông nghiệp lớn, giữa nông nghiệp truyền thống và nông nghiệp hiện đại, giữa nông nghiệp tập trung nhiều lao động với nông nghiệp có hàm kượng vốn và kỹ thuật cao. Trong cuộc cạnh tranh này, mỗi bên đều có những lợi thế riêng độc đáo. Vì thế mà một nhiệm vụ cấp bách đối với Trung Quốc là phải tìm ra và thúc đẩy các thế mạnh của mình nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh sẵn có của nông nghiệp nước mình, thâm nhập thị trường quốc tế nhằm giành nhiều thị phần hơn. Phát triển việc chế biến nông sản Chỉ bằng cách phát triển chế biến nông sản và hướng người tiêu dùng vào các sản phẩm an toàn hơn, dinh dưỡng hơn, chất lượng tốt hơn mới có thể tiếp tục phát triển thị trường nông sản. Chế biến nông sản không đồng nghĩa với việc sử dụng công nghệ thấp, mà ngược lại, để có sức cạnh tranh cao, ngành này càng cần được áp dụng những công nghệ tiên tiến và nguyên liệu cho sản xuất phải là các nguyên liệu đặc thù. Tận dụng các thuận lợi mà tư cách thành viên WTO mang lại Về vấn đề lương thực, nguyên nhân căn bản khiến Trung Quốc mất lợi thế là do cơ sở hạ tầng cho sản xuất lương thực yếu kém, đầu tư vốn ít, hàm lượng khoa học kỹ thuật thấp. Để giải quyết những vấn đề còn tồn tại đòi hỏi phải tăng đầu tư khoa học kỹ thuật và đào tạo nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp; nghiên cứu tạo ra những giống mới; tăng đầu tư cho cơ sở hạ tầng để cải thiện tình hình thuỷ lợi; xây dựng các công trình và thực hiện bảo vệ môi trường…Những việc đó nằm trong phạm vi “chính sách hộp xanh” của WTO, Trung Quốc do đó chủ trương lợi dụng triệt để chính sách này. (“Chính sách hộp xanh” là chính sách cho phép trợ cấp để thực hiện một số hoạt động không trực tiếp ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít đến mậu dịch và sản xuất như đầu tư cho cơ sở hạ tầng, cho công tác nghiên cứu, chống thiên tai, bảo vệ môi trường…) Thực trạng nông nghiệp Trung Quốc từ sau khi gia nhập WTO Trái ngược với nhiều ý kiến cho rằng nông nghiệp Trung Quốc sẽ chịu tác động nghiêm trọng từ việc gia nhập WTO của nước này, thực tế từ đó đến nay sản xuất nông nghiệp không có biến động quá lớn. Gia nhập WTO đã thúc đẩy sự tối ưu hoá trong bố cục khu vực nông nghiệp và kết cấu sản phẩm nông nghiệp. Mấy năm gần đây trước tình hình sức cạnh tranh nông nghiệp tương đối yếu, nông dân thu nhập thấp, Trung ương và các cấp địa phương Trung Quốc liên tục áp dụng các chính sách biện pháp nhằm hỗ trợ sản xuất lương thực, bao gồm bảo vệ đất trồng trọt, giảm thuế nông nghiệp, thực hiện cải cách toàn diện sản xuất lương thực, lấy trợ cấp trực tiếp và mở cửa thị trường thu mua bao tiêu làm chính…Với tác động của những biện pháp này, kết cấu nông nghiệp đã phát triển theo hướng hiệu quả cao, chất lượng tốt. Lương thực, ngành chủ yếu của nông nghiệp Trung Quốc cũng đạt thành tựu quan trọng. Từ vụ hè 2002, Trung Quốc đã thoát khỏi cục diện 4 năm liên tiếp giảm sản lượng. Sản lượng lương thực năm 2002 tăng 2,9%. Năm 2004 sản lượng lương thực đạt 469,47 triệu tấn, tăng 9%; sản lượng các nông sản khác cũng đều tăng khá : bông tăng 30,1%; dầu thực vật tăng 8,8%...Sản lượng thịt cả năm đạt 72,6 triệu tấn, tăng 4,7% còn thuỷ sản đạt 48,5 triệu tấn tăng 3,2%. Nhìn chung sản lượng nông sản tăng dần từng năm, sự suy yếu của nông nghiệp do việc gia nhập WTO đã không xảy ra. Nhờ những biện pháp dài hạn trong chuyển đổi cơ cấu, nông nghiệp Trung Quốc bước đầu đã chuyển hướng tích cực. Khuynh hướng “mậu dịch” cho rằng cách hay nhất để tăng thu nhập cho nông dân là chuyển sang sản xuất những nông sản có giá trị cao, có lợi thế cạnh tranh, có khả năng xuất khẩu…đã thể hiện tương đối rõ. Những ngành nông nghiệp xuất khẩu có lợi thế so sánh của Trung Quốc như rau xanh, hoa, hoa quả…phát triển tương đối mạnh, những thực phẩm xanh và thực phẩm hữu cơ cũng phát triển nhanh chóng. Bên cạnh đó xuất khẩu nông sản vẫn gia tăng, trái với nhiều dự đoán trước đây. Xuất khẩu nông sản của Trung Quốc chủ yếu dựa vào một số loại như rau, quả, lạc, thịt, thực phẩm chế biến. Năm 2002, xuất khẩu nông sản Trung Quốc đạt 1,5 tỷ USD so với 369 triệu USD nhập khẩu nông sản. Năm 2003, xuất khẩu nông sản thực phẩm sang thị trường Mỹ tăng 30,82%; xuất khẩu nước hoa quả sang Mỹ tăng 94,33%; xuất khẩu thịt bò tăng 146%. Hầu hết các sản phẩm này đều đòi hỏi sử dụng nhiều lao động, vốn là ưu thế đặc trưng của Trung Quốc . Tổng kết năm 2005, sản lượng lương thực đạt 484,01 triệu tấn, tăng 14,54 triệu tấn so với năm 2004 tương đương mức tăng 3,1%; sản lượng cây nguyên liệu dầu đạt 30,78 triệu tấn , tăng 0,4%; rau và cây ăn quả trên cơ sở giống tốt tăng trưởng ổn định. Tổng sản lượng thịt các loại là 77 triệu tấn , tăng 6,3% so với năm trước trong đó thịt bò và cừu tăng 5,6% và 9,3%; sản lượng thuỷ sản cả năm đạt 51 triệu tấn , tăng 4%... [6] Chương III: TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÀNH CÔNG NGHIỆP Những khó khăn. thách thức chung của công nghiệp Trung Quốc Trong ngành công nghiệp có thể nói Trung Quốc đã đạt được những thành công lớn. Từ chỗ thiếu hụt, Trung Quốc hiện nay có thể đáp ứng hầu hết nhu cầu nội địa về hàng công nghiệp. Hơn thế nữa, xét về tổng lượng thì Trung Quốc hiện đang dẫn đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực như sản xuất than, dệt may, ximăng…, thứ hai thế giới về sản xuất hàng điện tử…[19]. Trong 20 năm cải cách mở cửa, tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân luôn có xu hướng tăng và chiếm tới trên 50% GDP cũng như có tới 23% lao động cả nước tham gia sản xuất công nghiệp (bảng 3). Tuy nhiên cho đến trước khi gia nhập WTO ngành công nghiệp Trung Quốc cũng còn phải đứng trước nhiều khó khăn và thách thức: Khủng hoảng thừa Sản xuất hàng công nghiệp của Trung Quốc hiện đang ở trong giai đoạn khủng hoảng thừa với việc 80% các mặt hàng sản xuất ra cung vượt quá cầu. Đặc biệt điều này lại xảy ra trong bối cảnh : quy mô sản xuất công nghiệp của Trung Quốc còn nhỏ bé (Trung Quốc chỉ có duy nhất 1 công ty nằm trong danh sách 500 tập đoàn và công ty lớn nhất thế giới theo như đánh giá của tạp chí Fortune); chất lượng lao động không cao; năng suất lao động thấp (trong ngành luyện kim –ngành mà Trung Quốc đang sản xuất dư thừa, năng suất lao động thua Nhật Bản tới 12 lần); lợi nhuận ở hầu hết các ngành đều thấp; sản xuất công nghiệp chủ yếu vẫn dựa trên công nghiệp truyền thống chứ chưa phải là công nghiệp mũi nhọn (các ngành công nghệ cao chỉ chiếm 5% GDP Trung Quốc trong khi con số này ở các nước phát triển khác như Mỹ, Nhật là 25%); nhiều ngành công nghiệp ở Trung Quốc sử dụng quá nhiều năng lượng, đặc biệt là than, do đó gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng [19]. Mức độ bảo hộ cao Cùng với quá trình cải cách mở cửa và chuẩn bị gia nhập WTO, mức độ bảo hộ của ngành công nghiệp Trung Quốc đã liên tục giảm song vẫn được duy trì ở mức cao (tính đến thời điểm gia nhập WTO). Trong thời kỳ 1995-2001 mức độ bảo hộ đối với ngành công nghiệp Trung Quốc đã giảm mạnh từ 25,3% xuống còn 13,5%. Trong đó đáng chú ý là một số ngành như đồ uống và thuốc lá, may mặc, ôtô… có mức giảm rất lớn. Sau khi gia nhập WTO mức độ bảo hộ với công nghiệp sẽ tiếp tục giảm nhưng mức độ ít hơn , từ 13,5% xuống 6%. Bảng 2: Mức độ bảo hộ nhập khẩu của một số mặt hàng công nghiệp Trung Quốc trước và sau khi gia nhập WTO (thuế quan hoặc tương đương, %) 1995 2001 Sau khi gia nhập WTO Đồ uống và thuốc lá 137,2 43,2 15,6 Khai khoáng 3,4 1,0 0,6 Dệt 56,0 21,6 8,9 May mặc 76,1 23,7 14,9 Công nghiệp nhẹ 32,3 12,3 8,4 Hoá dầu 20,2 12,8 7,1 Luyện kim 17,4 8,9 5,7 Ôtô 123,1 28,9 13,8 Điện tử 24,4 10,3 2,3 Xây dung 13,7 13,7 6,8 Tổng thể ngành công nghiệp 25,3 13,5 6,0 Nguồn : Võ Đại Lược (2005), Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới - thời cơ và thách thức, NXB Khoa học và xã hội, Hà Nội . Những khó khăn mà ngành công nghiệp đang phải giải quyết cùng với mức độ bảo hộ cao và việc Trung Quốc cam kết giảm mạnh bảo hộ sau gia nhập sẽ khiến cho việc gia nhập WTO có tác động mạnh tới ngành công nghiệp nước này (kể cả tích cực và tiêu cực). Nói chung sau khi gia nhập WTO, hàng ngoại nhập khẩu sẽ tăng lên do mức thuế nhập khẩu hạ thấp (từ trung bình là 13% năm 2001 xuống còn 9,2% năm 2008, và sau khi giảm thì mức thuế cao nhất là 47% đối với phim ảnh, rồi đến xe hơi 25% , thấp nhất là sản phẩm kỹ thuật thông tin còn 0% vào năm 2005, các sản phẩm khác như dệt may chỉ còn 11,7%; dược phẩm 4,2%…) Vấn đề về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Xét theo tiêu chuẩn quốc tế, có sự khác biệt rất lớn về khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có quy mô vừa với doanh nghiệp quy mô lớn ở Trung Quốc. Những doanh nghiệp quy mô vừa hoạt động trong thị trường nội địa, có tính cạnh tranh cao, tăng trưởng nhanh và tích cực tiếp cận tới các thị trường nước ngoài. Điều quan trọng nhất là những doanh nghiệp này có cấu trúc chi phí rất linh hoạt nên mềm dẻo trong cạnh tranh. Trong khi đó những doanh nghiệp quy mô lớn không những thường thua xa các đối thủ cạnh tranh nước ngoài mà khoảng cách giữa chúng còn ngày càng rộng ra. Mặc dù đã có nhiều cải cách nhưng khu vực doanh nghiệp nhà nước (chiếm 28,3% tổng sản lượng công nghiệp, 53% lực lượng lao động công nghiệp và 2/3 tín dụng ngân hàng) vẫn tiếp tục là khu vực yếu kém của nền kinh tế. Tỷ lệ các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ lên đến 45%. Tác động đến một số ngành công nghiệp cụ thể Ngành sản xuất ôtô Xét trên khía cạnh quy mô, ngoại thương, kỹ thuật và giá cả thì trước khi gia nhập WTO ngành công nghiệp ôtô Trung Quốc có những đặc điểm sau + Thứ nhất, công nghiệp ôtô là một ngành tiêu biểu cho trình độ công nghiệp hoá của Trung Quốc. Tuy được coi là ngành công nghiệp non trẻ song cũng là ngành công nghiệp quan trọng của nước này. Qua mấy chục năm phát triển, ngành này đã được quy hoạch phát triển trung và dài hạn, các lực lượng trong và ngoài nước được khuyến khích đầu tư vào trong ngành. Các tập đoàn ôtô lớn của thế giới đều đã thăm dò và đầu tư, khiến cho ngành ôtô Trung Quốc tương đối sống động. Sản lượng tăng lên hàng năm : 1990 là 509 ngàn chiếc, 1995 là 1,452 triệu chiếc, 2000 là 1,961 triệu chiếc và 2002 là 3,251 triệu chiếc [17]. Ngoài ra, ôtô cũng là mặt hàng nhập khẩu quan trọng của Trung Quốc: kim ngạch nhập khẩu ôtô đứng vào hàng hai mặt hàng nhập khẩu nhiều nhất trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá đơn chiếc. + Thứ hai, số lượng nhà máy khá lớn (tới 800 nhà máy chế tạo và lắp ráp) được điều hành bởi 200 công ty sản xuất, nhưng do sản xuất phân tán, số lượng ít nên hiệu quả kinh tế thấp, nhiều công ty thường xuyên thua lỗ. 13 công ty lớn nhất chiếm tới 92% số xe sản xuất hàng năm , bình quân khoảng 113 000chiếc/công ty, trong khi đó sản lượng bình quân của các công ty còn lại chỉ vào khoảng 1200 chiếc/năm. Thêm vào đó, xét theo chuẩn mực thế giới, trong ngành ôtô Trung Quốc, trình độ chuyên môn hoá thấp, phân công lao động lạc hậu, trình độ kỹ thuật thấp, chất lượng sản phẩm thấp, phương thức kinh doanh lạc hậu…đặc biệt là trong ngành sản xuất linh kiện. Có thể nói, giá thành sản xuất xe ôtô con ở Trung Quốc cao hơn nhiều so với giá của xe cùng loại ở nước ngoài, tuy nhiên giá xe Trung Quốc lại rẻ hơn chủ yếu là do được bảo hộ cao (năm 1995 là 123,1% và đến năm 2001 vẫn vào khoảng 28,9%) . Tác động từ việc gia nhập WTO Những đặc trưng vốn có cùng với việc mất đi lá chắn bảo hộ cao về thuế quan, phi thuế quan và đầu tư sẽ khiến cho việc gia nhập WTO tác động mạnh tới ngành ôtô của Trung Quốc (đến trước năm 2005 thuế nhập khẩu ôtô Trung Quốc từ 80% đến 100% giảm còn 25%, thuế nhập khẩu linh kiện rời từ 25% đến 60% giảm xuống còn 10%. Hạn ngạch nhập khẩu ôtô nguyên chiếc và linh kiện rời sẽ xoá bỏ từng phần, còn về đầu tư thì sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ phải từng bước xoá bỏ quy định vốn của các nhà đầu tư nước ngoài không được quá 50%): + Một mặt, việc xoá bỏ các rào cản về thuế quan và phi thuế quan sẽ khiến cho nhập khẩu tăng ; áp lực cạnh tranh từ phía hàng nhập khẩu cũng như từ phía các nhà đầu tư nước ngoài sẽ khiến cho số lượng nhà máy và việc làm trong lĩnh vực này giảm đáng kể. Chịu tác động mạnh nhất là các ngành sản xuất linh kiện, các ngành sản xuất những loại xe thiếu khả năng cạnh tranh (xe du lịch, xe tải trên 8 tấn, xe chuyên dụng và xe chở khách…) + Mặt khác, sức ép cạnh tranh cũng buộc ngành công nghiệp ôtô Trung Quốc phải tái cấu trúc lại cả về cơ cấu nhà máy cũng như cơ cấu sản phẩm (giảm số lượng nhà máy kém chất lượng và tập trung vào những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh…) cũng như nâng cao kỹ thuật, công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế... Như vậy có thể thấy tác động lớn nhất đối với ngành ôtô Trung Quốc không phải giá cả mà là yếu tố kỹ thuật và chất lượng. Trong dài hạn sức cạnh tranh của ngành này sẽ được nâng cao, chất lượng dịch vụ sẽ tốt hơn đặc biệt là dịch vụ hậu mãi. Các ngành kinh tế bổ trợ cho ngành ôtô cũng sẽ phát triển kéo theo những tác động lan toả tích cực tới toàn bộ nền kinh tế . Sau khi gia nhập WTO, đứng trước sự cạnh tranh gay gắt, ngành công nghiệp này của Trung Quốc tất yếu sẽ gặp phải không ít thách thức nhưng cũng không phải là không có lối thoát bởi trong vòng 5 đến 10 năm sau khi gia nhập WTO, ngành này của Trung Quốc vẫn nhận được sự bảo trợ dành cho các ngành công nghiệp non trẻ. Hơn nữa việc cắt giảm và xoá bỏ hạn ngạch nhập khẩu linh kiện rời cũng như giảm thuế nhập khẩu mặt hàng này cũng không phải hoàn toàn bất lợi, bởi điều đó cũng có thể góp phần làm giảm giá thành sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất ôtô, giúp các doanh nghiệp này mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Những nhà máy sản xuất ôtô quy mô nhỏ và sản xuất linh kiện lạc hậu sẽ khó có thể đứng vững trên thị trường, phải chịu nhiều tác động thậm chí bị đào thải, song nếu xét trên toàn cục thì điều này là có lợi cho sự phát triển toàn nền kinh tế . Ngành dệt may Dệt may là một trong số những ngành trụ cột của nền kinh tế Trung Quốc do tác dụng quan trọng của nó trong việc thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của hơn 1 tỷ người trong nước, xuất khẩu thu ngoại tệ, tích luỹ xây dựng đất nước và là thị trường to lớn cho rất nhiều ngành nghề khác. Trong suốt hơn 20 năm cuối thế kỷ XX, ngành dệt Trung Quốc phát triển với tốc độ bình quân khoảng 17%/năm, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc trong tổng kim ngạch ngành này của thế giới cũng tăng lên nhanh chóng: từ 3,5% năm 1978 đã tăng lên 13% năm 1998, trở thành cường quốc hàng đầu về xuất khẩu hàng dệt may, vượt qua cả Italia, Đức, Hồng Kông…[17]. Bảng 3 : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc thời kỳ 1990-2001 Năm Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may (tỷ USD) Tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu (%) 1990 16,80 - 1998 42,83 23,30 1999 43,12 22,12 2000 52,08 20,89 2001 53,28 20,01 Nguồn : Cục thống kê Hải quan Trung Quốc , 2001 Ngành dệt may Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh tương đối lớn, chủ yếu là do giá thành lao động rẻ. Giá cả hàng dệt may Trung Quốc thường rẻ hơn của các nước khác 10% đến 50%, nếu so với riêng các nước phát triển thì còn rẻ hơn nhiều lần. Nhờ lợi thế đó mà hàng dệt may Trung Quốc có mặt ở rất nhiều thị trường trên thế giới. Trung Quốc là nguồn cung cấp lớn nhất về sản phẩm dệt may tại Mỹ, Nhật, EU…Ngành dệt may không chỉ có đóng góp to lớn về mặt kinh tế mà còn có vai trò quan trọng về mặt xã hội khi góp phần tạo ra rất nhiều việc làm cho người dân Trung Quốc . Một số đặc điểm cơ bản Các doanh nghiệp quốc doanh trong ngành dệt may Trung Quốc thua lỗ liên miên và luôn đứng đầu trong danh sách các doanh nghiệp thua lỗ trong cả nước (dù những năm gần đây đã có biến chuyển nhất định nhưng tình hình cũng chưa thực sự thay đổi một cách cơ bản). Ngoài ra các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc chủ yếu sản xuất gia công sản phẩm nên giá trị gia tăng thấp và nhiều khi không phản ứng lại được một cách linh hoạt trước những thay đổi của nhu cầu trên thị trường quốc tế. Đầu tư đối với ngành dệt còn thấp, đặc biệt là đầu tư tài sản cố định và đầu tư đổi mới trang thiết bị, khiến cho khả năng cạnh tranh của ngành không liên tục được nâng cao. Ngoài ra lợi thế cạnh tranh của ngành chủ yếu là dựa trên sức lao động rẻ hay nói cách khác là lợi thế về giá cả nên khó có thể duy trì được lâu dài (vì giá thành lao động và nguyên liệu theo xu thế chung cũng sẽ tăng lên) trong khi đó khả năng cung cấp toàn cầu về sản phẩm dệt may lại đang quá dư thừa. Xét trên tổng thể, ngành dệt may Trung Quốc vẫn duy trì được mức độ xuất siêu cao nhưng với một số sản phẩm cụ thể (len lông cừu, sợi tổng hợp, sản phẩm dệt chuyên dụng, sản phẩm dệt kim…)thì lại nhập siêu nhiều. Hơn thế nữa, với việc mở cửa thị trường, nhập siêu các sản phẩm dệt ngày càng tăng [21]. Trước WTO , dệt may đang là ngành nhận được nhiều sự bảo hộ của chính phủ như trợ cấp tài chính, cho vay với lãi suất thấp, chế độ hoàn thuế xuất khẩu, miễn giảm thuế giá trị gia tăng…Mức độ bảo hộ dù đã giảm nhưng vẫn ở mức cao, ngành dệt còn 21,6% năm 2001 (giảm từ 56% năm 1995) còn với ngành may mặc là 23,7% (giảm từ mức 76,1% năm 1995) Tác động khi Trung Quốc gia nhập WTO Một mặt, việc gia nhập WTO sẽ tạo cho ngành dệt may Trung Quốc có cơ hội đàm phán mậu dịch đa phương bình đẳng về thương mại hàng dệt may. Nhờ sự bảo hộ của Hiệp định về các sản phẩm dệt may(ATC) với nội dung là trong 10 năm quá độ 1995 -2005 phải từng bước xoá bỏ hạn chế về số lượng, tiến đến hoàn toàn tự do hoá thương mại hàng dệt may, Trung Quốc đang rút dần khoảng cách về vị trí xuất khẩu với các thành viên khác của WTO. Hơn nữa khi gia nhập WTO, Trung Quốc còn có cơ hội để khai thác thị trường mới, thay đổi tình hình thị trường xuất khẩu quá tập trung trước đây để tăng mạnh kim ngạch mậu dịch. Mặt khác, mặc dù việc thực hiện các cam kết sẽ khiến cho nhập khẩu gia tăng nhưng chính sức ép cạnh tranh sẽ buộc ngành dệt may phải thay đổi cách quản lí, cải tổ cơ cấu sản xuất cũng như sản phẩm, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Ngành dệt may Trung Quốc sẽ phát triển theo hướng cao cấp hoá và dựa trên những lợi thế so sánh chủ yếu của mình. Sức cạnh tranh được nâng cao cùng với việc thị trường xuất khẩu được mở rộng sẽ khiến cho kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng, thị phần của Trung Quốc trên thị trường dệt may thế giới cũng sẽ tăng mạnh. Khi mở cửa ngành dệt may, Trung Quốc có thể nhập được nhiều thiết bị và công nghệ tiên tiến thông qua việc tạo lập các xí nghiệp có vốn nước ngoài, thúc đẩy trình độ chung của toàn ngành; đồng thời có thể đầu tư vào ngành dệt may thế giới, hỗ trợ cho các xí nghiệp trong nước mở rộng thêm kênh tiêu thụ sản phẩm . Với quyết tâm khắc phục mọi khó khăn thách thức, phát huy các thế mạnh và điều kiện thuận lợi, Trung Quốc đặt ra chỉ tiêu cho ngành dệt may là từ năm 2005 đến 2010 từ một nước lớn về dệt may Trung Quốc sẽ vươn lên thành nước mạnh về dệt may, với mục tiêu sáu nhất : nhất về chất lượng, nhất về số lượng, nhất về xuất khẩu, nhất về thiết kế, nhất về hiệu quả, nhất về khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các ngành công nghiệp khác 2.3.1 Ngành dược : Trước khi Trung Quốc gia nhập WTO, ngành dược nước này đã mở cửa ở mức độ tương đối thông thoáng. Đã có ít nhất 25 công ty dược phẩm xuyên quốc gia lập chi nhánh và hoạt động kinh doanh tại Trung Quốc. Sau khi gia nhập WTO, thuế nhập khẩu dược phẩm giảm từ 20% xuống còn 6,5%, các công ty nước ngoài sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường, tạo một làn sóng tấn công mạnh vào các xí nghiệp sản xuất thuốc tây ở Trung Quốc. Theo ước tính khoảng 97% loại thuốc Tây sản xuất tại Trung Quốc hiện là sản xuất theo sản phẩm của nước ngoài hoặc thuốc nhập khẩu, không có quyền sở hữu trí tuệ độc lập, chỉ 3% là do Trung Quốc tự bào chế [17]. Trong bối cảnh này Hiệp định sở hữu trí tuệ sẽ trở thành một thách thức với Trung Quốc: nếu tiếp tục mô phỏng sản xuất thì có nguy cơ bị kiện vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu mua bản quyền thì giá thành sản xuất sẽ bị đội lên rất cao, mất khả năng cạnh tranh. Trong khi đó Trung Quốc có ưu thế về thuốc đông dược, sản phẩm đặc sắc này ngày càng được hoan nghênh trên thị trường quốc tế. 2.3.2 Ngành than : Trung Quốc là nước sản xuất than đứng đầu thế giới nhưng xuất khẩu lại không nhiều (1998 Trung Quốc xuất khẩu 32,29 triệu tấn than, chỉ bằng 1/5 Australia). Hơn thế nữa hiệu quả kinh doanh ngành than Trung Quốc còn thấp, thua lỗ nhiều, chất lượng than thấp, chi phí vận chuyển cao…Mặc dù việc gia nhập WTO sẽ làm cho cạnh tranh trong ngành này tăng lên nhưng xuất khẩu than của Trung Quốc sẽ tăng do các điều kiện vận tải sẽ được cải thiện và các mỏ than sẽ được cải tổ lại dưới sức ép của cạnh tranh quốc tế. 2.3.3 Ngành điện : Với phương châm “công nghiệp điện lực đi trước và việc phát triển ngành năng lượng lấy điện lực làm trung tâm”, ngành điện lực Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng, sản xuất điện đã đạt mức thặng dư. Tác động lớn nhất của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với ngành điện lực là sự thay đổi mức độ độc quyền của ngành này, làm tăng cạnh tranh trong việc cung cấp năng lượng với việc đa dạng hoá các nhà sản xuất và với nhiều dạng năng lượng khác nhau (thuỷ điện, nhiệt điện, điện hạt nhân…) Đối sách của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghiệp Công nghiệp Trung Quốc tuy là lĩnh vực có lợi thế so sánh tương đối tốt và trình độ cạnh tranh quốc tế tương đối cao trong ba khu vực ngành nghề của nước này, song nhìn một cách tổng thể thì về mặt thực lực, sáng tạo kỹ thuật, thương hiệu, kết cấu…đều có khoảng cách khá lớn so với trình độ quốc tế. Do đó khi gia nhập WTO Trung Quốc phải “nhìn trước ngó sau”, chuẩn bị kỹ càng trên mọi phương diện. Thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại Nhiều công ty lớn, thành công trên thế giới đều đặt nhân tố quan trọng trong lợi thế cạnh tranh là R&D tại nước mình, còn các khâu sản xuất, lắp ráp cần nhiều lao động hoặc các trung tâm kỹ thuật thì đặt ở Trung Quốc. Như vậy nhiều doanh nghiệp Trung Quốc chỉ có thể làm các công việc sản xuất gia công trong các loại ngành nghề có độ tập trung kỹ thuật thấp, lệ thuộc vào nước khác. Đó là điều mà Trung Quốc và nhiều nước đang phát triển khác đều không muốn. Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghiệp Trung Quốc trên thị trường quốc tế thì thúc đẩy khoa học công nghệ là một trong những nhân tố then chốt nhất. Không thể chỉ dựa vào nhập khẩu kỹ thuật để nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất và thu nhập. Do vậy nhà nước và doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và ứng dụng hơn nữa. Quan tâm hơn đến vấn đề thương hiệu Thương hiệu là bộ phận hợp thành quan trọng trong tài sản vô hình của doanh nghiệp, là biểu hiện tổng hợp của sức cạnh tranh. Các nước phát triển đã đến giai đoạn chuyển từ xuất khẩu sản phẩm, xuất khẩu tư bản sang xuất khẩu thương hiệu. Về mặt này thì Trung Quốc còn có một khoảng cách lớn. Do doanh nghiệp nhìn chung quy mô còn nhỏ, đầu tư cho quảng cáo ít, ý thức về thương hiệu kém, việc bảo vệ thương hiệu dân tộc không cao khiến cho nhiều thương hiệu vốn nổi tiếng trong nước đã bị giành giật giả mạo. Trong điều kiện hội nhập với thế giới Trung Quốc cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề này : (1) Phải coi trọng việc xây dựng ý thức về thương hiệu. Vì sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tràn vào, nếu không có thương hiệu riêng của mình thì các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ chỉ là làm công cho các doanh nghiệp khác ngay trên sân nhà mà thôi. (2) Trong xây dựng thương hiệu Trung Quốc cần kết hợp cả chiến lược nội tại (nâng cao chất lượng sản phẩm , kỹ thuật, nhân tài, quy mô sản phẩm…) và chiến lược bên ngoài (thiết kế thương hiệu, tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị…) để tạo ra thương hiệu ngày càng mạnh hơn. (3) Các doanh nghiệp thành công cần tôn trọng và bảo vệ thương hiệu nổi tiếng của mình, đồng thời không ngừng tìm tòi, đổi mới, sáng tạo kỹ thuật, sáng chế ra sản phẩm mới, tăng sức sống cho thương hiệu. Chuyển đổi biện pháp bảo hộ công nghiệp Sau khi gia nhập WTO, thuế quan giảm mạnh, hạn ngạch, giấy phép cũng được xoá bỏ triệt để, các biện pháp phi thuế quan khác cũng chỉ được sử dụng hạn chế trong phạm vi hẹp. Có nghĩa là các biện pháp bảo hộ truyền thống đã trở nên lỗi thời hoặc không còn hiệu quả nữa. Nhưng nhiệm vụ bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ trong nước lại hết sức quan trọng và có lẽ còn quan trọng hơn trước. Vì thế hiện nay cần thay đổi cách thức bảo hộ, chủ yếu là áp dụng các tiêu chuẩn công nghệ và tiêu chuẩn môi trường để tạo ra các hàng rào ngăn chặn những sản phẩm gây ô nhiễm nghiêm trọng, những sản phẩm chất lượng thấp thâm nhập vào thị trường trong nước, tác động đến những sản phẩm có liên quan của công nghiệp đất nước. Thực trạng ngành công nghiệp Trung Quốc từ sau khi gia nhập WTO Ngành công nghiệp Trung Quốc sau khi gia nhập WTO có những chuyển biến rất lớn. Sản xuất công nghiệp của Trung Quốc năm 2002 tăng 10,2%; năm 2003 tăng 12,6% và năm 2004 tăng 11,5%. Trong năm 2005 vừa qua, giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp là 7916 tỷ NDT, tăng 11,4% so với năm trước [3]. Trung Quốc đã thu hút được một loạt kỹ thuật cao mà tiêu biểu là kỹ thuật thông tin chuyển dịch vào với quy mô lớn. Vùng đồng bằng sông Chu Giang, Trường Giang, vùng biển Bột Hải…bước đầu hình thành các khu chuyên doanh của ngành thông tin điện tử. Năm 2002 quy mô ngành thông tin điện tử Trung Quốc đạt 169,2 tỷ USD, tăng 65,5% , đứng thứ 3 thế giới [28] . Bảng 4 : Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp Trung Quốc Năm Mức tăng giá trị (tỷ NDT) Tăng trưởng(%) Tỷ lệ tiêu thụ sản phẩm (%) 2001 4260,7 8,9 97,7 2002 4593,5 10,2 98,0 2003 5361,2 12,6 98,1 2004 6281,5 11,5 98,1 Nguồn : Lê Thu Hà (2005) , “ Kinh tế Trung Quốc sau khi gia nhập WTO ”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới (11/2005). Gia nhập WTO đã thúc đẩy việc điều chỉnh và tối ưu hoá cơ cấu công nghiệp. Năm 2002 : tỷ lệ tăng trưởng của công nghiệp chế biến là 20,3%, vượt qua công nghiệp nguyên liệu với tỷ lệ tăng trưởng chỉ là 15,6%. Điều này có nghĩa là Trung Quốc đã thực sự bước vào giai đoạn công nghiệp hoá toàn diện. Năm 2003: ngành luyện kim đạt lợi nhuận tăng hơn 2 lần; tăng trưởng lợi nhuận của nhiều ngành công nghiệp khác như ngành than, kim loại màu, vật liệu xây dựng đều vượt quá 50%. Năm 2004: Giá trị gia tăng của ngành kỹ thuật cao tăng 23,1% , trong đó sản lượng các sản phẩm thiết bị thông tin cáp quang, điện thoại di động, máy tính xách tay lần lượt tăng từ 14,7% đến 40,3%. Tin học vươn lên với doanh thu vượt mức 2000 tỷ NDT. Năm 2005: sản lượng khai thác than vượt mức 2,19 tỷ tấn, tăng 9,9% (để thúc đẩy ngành công nghiệp than phát triển, Trung Quốc đã xây dựng trọng điểm 13 khu mỏ lớn); sản lượng thép thô đạt trên 350 triệu tấn tăng 24,6%; xi măng đạt 1,06 tỷ tấn, tăng 10%...Do ngoại thương phát triển nên ngành đóng tàu Trung Quốc có nhiều đơn đặt hàng hơn, Trung Quốc đang trên đường trở thành một trong các nước đóng tàu lớn nhất trên thế giới. Năm 2002, Trung Quốc đã đóng được 69 con tàu, có cả tàu chở dầu, chiếm 13% tổng số tàu đóng mới của thế giới. Với chi phí lao động rẻ (bằng 20%-30% chi phí cho công nhân ở Nhật Bản) ngành đóng tàu Trung Quốc hiện đang có lợi thế cạnh tranh lớn. Trong những năm dài thương lượng để gia nhập WTO, không ít ý kiến cho rằng công nghiệp ôtô sẽ là một trong số những “nạn nhân” của việc hội nhập này. Nhưng chỉ khoảng nửa năm sau khi Trung Quốc gia nhập WTO thì phía bị sốc lại là các công ty nước ngoài khi bị 2 công ty nội địa nhỏ, ít tên tuổi qua mặt : bán chạy nhất trong năm 2002 là 2 loại xe nội địa Chery và Merrie chứ không phải các loại xe nước ngoài danh tiếng (trong 4 tháng đầu năm, mức tiêu thụ xe Volkswagen tăng 16% trong khi xe Chery tăng 305%). Ngành công nghiệp ôtô đã có nhiều tiến bộ kể từ khi gia nhập WTO: các nhà sản xuất nội địa đã tự xoay sở để bảo đảm an toàn cho thị trường của họ. Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Trung Quốc cho biết số lượng ôtô sản xuất trong nước đã tăng 38,15% trong vòng 11 tháng đầu năm 2002. Tháng 11/2002 hãng Shanghai General Motors, một liên doanh Mỹ –Trung, tuyên bố lượng ôtô mà họ bán được là 102000 chiếc trong 11 tháng, gấp 2 lần so với số lượng của cả năm 2001. Chỉ riêng tại Bắc Kinh lượng xe bán ra đã tăng 50% trong 10 tháng đầu năm 2002. Con số 3,25 triệu chiếc xe ôtô được sản xuất trong năm 2002 đã đưa Trung Quốc từ vị trí nước sản xuất ôtô lớn thứ 8 lên thứ 5 thế giới, sản lượng xe con từ vị trí thứ 14 lên thứ 10. Năm 2003, sản lượng ôtô đột phá ở mức 4,4 triệu chiếc. Và 5,7 triệu chiếc là sản lượng xe ôtô được sản xuất ra trong năm 2005, tăng 12,1% so với năm 2004 (trong đó xe con là 2,77 triệu chiếc , tăng 19,7%) [6]. Theo ước tính doanh số bán ôtô 3 tháng đầu năm 2006 của Trung Quốc tăng 54% so với cùng kỳ năm trước, nhờ thu nhập gia tăng và giá xe giảm. Hiện Trung Quốc là thị trường ôtô lớn thứ hai thế giới với mật độ 25 ôtô/1000 người. Dự kiến đến năm 2020 số ôtô lưu hành ở Trung Quốc vào khoảng trên 130 triệu chiếc, so với con số 33 triệu chiếc như hiện nay [7]. Như vậy là ngành công nghiệp sản xuất ôtô của Trung Quốc đã không bị tuột dốc như nhiều người tưởng ban đầu, ngược lại nhiều nhà quan sát hiện nay còn cho rằng có lẽ không lâu nữa Trung Quốc sẽ vượt qua Nhật Bản và Hàn Quốc, xuất khẩu xe ôtô giá rẻ đi khắp nơi. Dệt may là ngành được dự đoán có lợi ích lớn và phát triển mạnh sau khi Trung Quốc gia nhập WTO nhưng người ta vẫn không khỏi ngạc nhiên trước tốc độ phát triển của nó. Từ năm 2002, ngay sau khi được buông lỏng một số hạn ngạch của các nước thành viên WTO, ngành dệt may Trung Quốc đã tiến vào thị trường thế giới một cách mạnh mẽ dường như không gì cản nổi. Theo Ngân hàng thế giới, mấy năm gần đây thị phần của ngành dệt may Trung Quốc trên thế giới chiếm khoảng 20% và có thể tăng lên 50% vào năm 2010. Bắt đầu từ 1/1/2005, mọi hạn ngạch hàng dệt may giữa các nước thành viên WTO được xoá bỏ theo Hiệp ước về dệt may của WTO. Đó là một thời điểm gây kinh hoàng cho nhiều nước trên thế giới bởi viễn cảnh không xa về sự thống trị thị trường dệt may thế giới của Trung Quốc . Chương IV: TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÀNH DỊCH VỤ Đặc điểm của ngành dịch vụ Trung Quốc Cùng với quá trình cải cách và mở cửa nền kinh tế, ngành dịch vụ của Trung Quốc đã phát triển mạnh : giai đoạn 1970-2000 tỷ trọng của ngành này trong GDP đã tăng từ 13% lên 33%, tỷ trọng lao động tham gia vào ngành này cũng tăng từ 9% lên 28% (bảng 3). + trình độ phát triển chung của mậu dịch dịch vụ còn tương đối thấp, cơ cấu xuất khẩu chưa hợp lí. Kim ngạch mậu dịch dịch vụ của Trung Quốc năm 1998 chỉ chiếm 1,8% kim ngạch mậu dịch dịch vụ toàn thế giới. Sự phát triển của các ngành dịch vụ Trung Quốc cũng chủ yếu tập trung vào các ngành truyền thống đòi hỏi nhiều lao động còn các ngành tập trung nhiều vốn, kỹ thuật, trí tuệ như tài chính tiền tệ, bảo hiểm, tư vấn…vốn đang rất phát triển trên thế giới thì lại là một khâu yếu của Trung Quốc. + trình độ phát triển của hệ thống thị trường dịch vụ thấp, trình độ xã hội hoá, thương phẩm hoá của dịch vụ còn chưa cao, trình độ phát triển giữa các khu vực không đồng đều. Hệ thống pháp luật, pháp quy đối với các ngành dịch vụ chưa kiện toàn. Nhiều quy định còn quá trừu tượng, khó thực hiện. Có những quy định thì không phù hợp với các quy tắc thương mại quốc tế. Tác động chung Cơ hội phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ Trung Quốc là hết sức nổi bật + Cơ hội cho các ngành dịch vụ Trung Quốc thu hút đầu tư nước ngoài: Cam kết gia nhập của Trung Quốc là sự cải thiện mạnh mẽ nhất, nhiều nhất môi trường đầu tư và điều kiện mậu dịch, qua đó chắc chắn sẽ tăng cường lòng tin của các nhà đầu tư , có lợi cho đầu tư nước ngoài chảy mạnh vào các ngành dịch vụ của nước này. + Cơ hội cho việc thúc đẩy cải cách các ngành dịch vụ của Trung Quốc, nâng cao trình độ cạnh tranh : Sau khi gia nhập WTO, đầu tư nước ngoài chảy mạnh vào trong nước, chắc chắn sẽ làm tăng cạnh tranh, tạo ra sức ép nhất định với các doanh nghiệp trong nước. Về lâu dài sức ép này là một điều tốt bởi sẽ giúp các công ty trong nước tăng cường ý thức về rủi ro, thậm chí là khảo nghiệm về sự tồn vong, thúc đẩy sự cải cách mạnh mẽ. Các công ty nước ngoài vào Trung Quốc còn mang theo những kinh nghiệm thành công, phương thức quản lí kinh doanh tiên tiến vô cùng quý báu mà các công ty trong nước có thể học tập và ứng dụng vào hoạt động của mình. Thách thức cũng không kém phần rõ rệt + Thách thức về việc bị thu hẹp thị phần : Với chất lượng thấp, giá cả cao, cung cách làm việc rườm rà, nhiều ngành dịch vụ Trung Quốc rất dễ phải chịu thua, nhường khách hàng và thị phần cho các công ty nước ngoài, tuy đến sau nhưng lại đầy kinh nghiệm về phong cách phục vụ chu đáo, kỹ thuật phục vụ cao và chất lượng dịch vụ tốt. + Thách thức đối với thể chế quản lí và cơ chế kinh doanh : các ngành dịch vụ Trung Quốc trong một thời gian dài trước đây là do chính phủ độc quyền. Sau hơn 20 năm cải cách mở cửa, cải cách trong các ngành này vẫn diễn ra chậm chạp, gặp nhiều khó khăn, hiệu quả hạn chế, vì vậy vẫn chưa có thể chế và cơ chế thị trường theo đúng nghĩa ở Trung Quốc. Trong khi đó ở các nước phát triển, cơ chế và thể chế thị trường đã hoàn thiện. Tình hình này tạo nên sự chênh lệch lớn đối với thực tế của Trung Quốc, mà chênh lệch càng lớn thì đồng nghĩa với thách thức càng lớn. + Thách thức trong việc giành lấy nhân tài quản lí cao cấp : Khi vào Trung Quốc, các công ty nước ngoài hầu hết sẽ sử dụng chiến lược nhân tài tại chỗ, tuyển dụng nhân tài của chính nước tiếp nhận đầu tư với chế độ đãi ngộ cao, hấp dẫn hơn hẳn, do vậy sẽ khiến các công ty trong nước mất đi một số nhân tài ưu tú. 3. Nghiên cứu và nắm vững các quy tắc của WTO WTO là một thị trường cạnh tranh rộng lớn mà muốn tham gia vào thì phải hiểu rõ các quy tắc cạnh tranh của nó. WTO yêu cầu các nước thành viên thực hiện mọi nguyên tắc gia nhập thị trường và thương mại công bằng song lại không phản đối việc bảo hộ hợp lí thị trường trong nước. Do vậy không những cần nghiên cứu và nắm rõ các quy tắc của WTO đặc biệt là của Hiệp định chung mậu dịch-dịch vụ (GATS) mà còn cần nghiên cứu cả các biện pháp bảo hộ mậu dịch của các nước thành viên khác. Từ đó mới có được những biện pháp thích hợp nhất để bảo vệ, phát triển ngành dịch vụ trong nước. 3.1 Sửa đổi và hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan Theo những quy định trong nguyên tắc về độ minh bạch của WTO, hệ thống pháp luật vốn trước đây dựa vào cách thức quản lí theo mệnh lệnh hành chính nay phải chuyển sang quản lí bằng những quy định pháp luật công khai theo thông lệ quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu mở cửa hơn nữa ngành dịch vụ đòi hỏi Trung Quốc phải nhanh chóng sửa đổi những quy định pháp luật đã lỗi thời, ban hành các quy định mới, vừa phù hợp với quy tắc của WTO và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn vừa phải bảo hộ đúng mức các ngành nghề non trẻ trong nước. Đây là vấn đề không hề đơn giản đối với Trung Quốc trong cuộc đọ sức với các nước phát triển đầy kinh nghiệm, dù vậy thì đây vẫn là vấn đề hết sức quan trọng, cần thực hiện ngay. 3.2Đồng thời mở cửa cả trong và ngoài nước đối với ngành dịch vụ Nhiều ngành dịch vụ của Trung Quốc trước đây đóng kín cửa với bên ngoài, trong nước thì bao vây lẫn nhau, thực hiện hoạt động độc quyền khép kín. Từ khi Trung Quốc thực hiện cải cách đến nay, những ngành độc quyền này đã từng bước mở cửa cho nước ngoài, xuất hiện nhiều doanh nghiệp, thậm chí là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên việc xoá bỏ độc quyền và mở cửa trong nước vẫn còn chậm chạp, thậm chí còn quá ít, không tạo được môi trường cạnh tranh. Hiện nay Trung Quốc đã gia nhập WTO, mở cửa với bên ngoài thông thoáng hơn, sâu rộng hơn, càng thấy rõ sự trì trệ của mở cửa trong nước. Do vậy việc mở cửa của nhiều ngành độc quyền đối với các doanh nghiệp dân doanh sẽ phải có những bước đi mạnh mẽ hơn. Làm tốt công tác bồi dưỡng nhân tài Trong cuộc cạnh tranh này, cạnh tranh về con người là rất quan trọng. Nhanh chóng đào tạo được một đội ngũ các cán bộ giỏi về nghiệp vụ, một đội ngũ làm công tác chuyên môn với số lượng lớn phù hợp với đòi hỏi của thị trường thông tin, bảo hiểm, ngân hàng...là một nhiệm vụ cấp bách. Ngoài ra việc kiện toàn các chính sách bảo vệ nhân tài, tạo môi trường làm việc tích cực nhằm khuyến khích họ phát huy hết khả năng, tránh chảy máu chất xám cũng hết sức cần thiết để ngành dịch vụ Trung Quốc có thể phát triển với tốc độ cao hơn, trình độ kỹ thuật tiên tiến hơn, theo kịp với quốc tế. 4. Thực trạng ngành dịch vụ Trung Quốc từ sau khi gia nhập WTO Gia nhập WTO thực sự là một khởi điểm mới để ngành dịch vụ của Trung Quốc phát triển nhanh. Năm 2003 ngành dịch vụ tăng 7,3% đã đóng góp tới 40% cho tăng trưởng kinh tế Trung Quốc .Các ngành dịch vụ đều có kết quả đáng khích lệ. Tỷ lệ vốn ngân hàng của Trung Quốc đã tăng lên, những khoản nợ xấu giảm rõ rệt, chất lượng vận hành tiền tệ được nâng cao. Những thương nhân nước ngoài đã tham gia vào thị trường chứng khoán Trung Quốc, thúc đẩy việc đổi mới, sáng tạo trong ngành tiền tệ, làm lớn mạnh lực lượng nhà đầu tư. Dưới ảnh hưởng từ hiệu ứng các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài, hoạt động của ngành bảo hiểm trong nước tăng nhanh. Trước khi Trung Quốc chính thức trở thành thành viên của WTO, tất cả các giới ở nước này cũng như dư luận quốc tế đều băn khoăn trước câu hỏi : “Gia nhập WTO, Trung Quốc được gì và mất gì? ”. Trải qua gần 5 năm quá độ thực hiện các cam kết với WTO, mọi người đều cho rằng Trung Quốc đã thành công mỹ mãn nhờ dựa vào hệ thống đa phương để phát triển thương mại và chinh phục thị trường thế giới ; rằng tổng kim ngạch thương mại quốc tế của nước này đã tăng gấp đôi chỉ sau mấy năm vừa qua và tăng trưởng GDP thì vẫn liên tục dẫn đầu thế giới với tốc độ ngoạn mục xấp xỉ hai chữ số; rằng cho tới nay hầu như Trung Quốc chưa mất gì đáng kể trong khi được lợi rất nhiều nhờ gia nhập WTO…Đó là những kết quả đầu tiên, mở ra một thời kỳ mới đầy hứa hẹn đối với đất nước hơn 1,3 tỷ dân này. Ngày càng nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc gia nhập WTO đã thúc đẩy tăng trưởng GDP thực tế của Trung Quốc và khuyến khích nền kinh tế thực hiện các hoạt động đem lại giá trị gia tăng cao hơn. Thực tế, tiến trình thực hiện những cam kết với WTO luôn mở đường và song hành với những nỗ lực phát triển đất nước của Trung Quốc. Sự chuyển mình của nền kinh tế Trung Quốc thể hiện trên nhiều mặt: phạm vi mở cửa rộng hơn và hội nhập quốc tế nhanh hơn, tốc độ cải cách gia tăng hơn. Ngoại thương phát triển sôi động hơn đã thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư tăng mạnh. Các nguồn lực có xu hướng chuyển dịch từ khu vực kém hiệu quả sang khu vực có hiệu quả cao hơn. Những tác động không mong muốn tuy có nhưng không lớn. Các ngành nông nghiệp, sản xuất ôtô, dịch vụ phát triển nhanh và không bị nhiều ảnh hưởng tiêu cực như những dự đoán trước khi nước này gia nhập WTO. KẾT LUẬN Gia nhập WTO là một sự kiện lớn trong đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc, đánh dấu công cuộc mở cửa hội nhập quốc tế của Trung Quốc đã bước vào một thời kỳ mới với những biến đổi chắc chắn, sâu sắc và toàn diện. Đối với chính phủ Trung Quốc, đây thực chất là một sự chuyển biến quan trọng về tư duy phát triển, từ tư duy cũ khép kín của nền kinh tế kế hoạch truyền thống sang tư duy mới chủ động mở cửa hội nhập . Họ nhận thức rằng, toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, hội nhập kinh tế thế giới vừa là cơ hội vừa là thách thức- nếu biết nắm thời cơ, vượt qua thử thách thì lợi sẽ nhiều hơn hại, cái bất lợi sẽ biến thành cái có lợi; đồng thời khẳng định rằng trong tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, gia nhập WTO là đồng nhất với mục tiêu cải cách mở cửa và xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc . Tư cách thành viên WTO đem lại cho Trung Quốc những vận hội mới trong phát triển kinh tế, đưa sự phát triển ấy lên một tầm cao mới. Những kết quả đạt được sau gần 5 năm gia nhập WTO của Trung Quốc đã cho thấy hội nhập kinh tế thế giới mang lại lợi ích cho chính các nước thành viên, giúp tăng cường sức cạnh tranh và năng động của nền kinh tế, thúc đẩy mở rộng quan hệ quốc tế và cải cách hệ thống chính sách cho phù hợp với bối cảnh toàn cầu hoá. Nhìn tổng thể, đặc biệt là nhìn từ chiến lược lâu dài, việc gia nhập WTO thực sự là một vận hội, một thắng lợi lớn của Trung Quốc. Quá trình Trung Quốc đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết với WTO là quá trình trưởng thành, thúc đẩy công cuộc cải cách ở Trung Quốc đi vào chiều sâu. Có nhà nghiên cứu Trung Quốc đã viết, kinh tế Trung Quốc sau khi gia nhập WTO có thể khái quát bằng chín chữ “mở cửa mạnh, cải cách mạnh, phát triển mạnh” . Theo dự đoán của rất nhiều chuyên gia trong và ngoài nước thì trong 20 năm tới, tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc tiếp tục thuộc loại cao nhất thế giới. Những gì mà Trung Quốc đã và đang trải qua trong việc hội nhập với thế giới đều có ý nghĩa thời sự nóng hổi và có giá trị tham khảo quan trọng đối với các nước có nhiều nét tương đồng sau khi gia nhập WTO, trong đó có Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Thu Hà (2005) , “Kinh tế Trung Quốc sau khi gia nhập WTO” , Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới (11/2005) . 2. Minh Hiền (2006) , “ 2006 thặng dư thương mại Trung Quốc tăng kỷ lục” , Thời báo kinh tế Việt Nam (186/2006). 3. Bernard Hoekman, Aaditya Mattoo và Phillip English (2004) , Sổ tay về : Phát triển, thương mại và WTO , NXB Chính trị quốc gia , Hà Nội 4. Trịnh Quốc Hùng (2006) , “ Số liệu thống kê tình hình phát triển kinh tế xã hội Trung Quốc năm 2005 ”, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc (2/2006) . 5. Việt Hưng (2006) , “ Trung Quốc đối phó với sự bùng nổ ôtô ” , Tạp chí Ngoại Thương (25/2006). 6. Việt Hưng (2006) , “ Triển vọng kinh tế thế giới năm 2006 : tiếp tục là năm của châu Á” , Tạp chí ngoại thương (19/2006) . 7. Đỗ Tuyết Khanh (2006) , “ Trung Quốc sau 4 năm tham gia WTO : Đánh giá sơ khởi vài nét chính ” , Tạp chí Thời đại mới (3/2006) 8. Lê Bộ Lĩnh (2005) , Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế 2004-2005, NXB chính trị quốc gia , Hà Nội. 9. Lưu Lực (2002) , Toàn cầu hoá kinh tế - lối thoát của Trung Quốc là ở đâu? , NXB Khoa học xã hội , Hà Nội. 10. Võ Đại Lược (2005) , “ Trung Quốc sau khi gia nhập WTO –việc thực hiện những cam kết, tác động và những cải cách” , Báo cáo tổng hợp của Viện kinh tế và chính trị thế giới, Hà Nội. 11. Võ Đại Lược (2004) , Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới –thời cơ và thách thức , NXB khoa học xã hội , Hà Nội . 12. Vương Trung Minh (2005) , Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO , NXB Lao động , Hà Nội . 13. Supachai Panitchpakdi và Mark L.Clifford (2002) , Trung Quốc và WTO- Trung Quốc đang thay đổi, thương mại thế giới đang thay đổi , NXB Thế giới , Hà Nội . 14. Phạm Thái Quốc (2005) , “ Tiềm lực kinh tế của Trung Quốc – Hiện tại và tương lai” , Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới (6/2005) . 15. Nguyễn Hồng Sơn (2000) , “ Trung Quốc bước vào thế kỷ XXI: các vấn đề chiến lược và chính sách ” , Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới (4/2000). 16. Phạm Ích Tống (2006) , “Trung Quốc – một siêu cường mới thách đố Hoa Kỳ và thế giới ” , Tạp chí kinh tế và dự báo (3/2006) . 17. Ngô Thị Trinh (2006) , “ Những đặc điểm cơ bản và xu hướng phát triển kinh tế của các nước đang phát triển 2005 ”, Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới (1/2006). 18. Thông tấn xã Việt Nam (2002) , Các vấn đề quốc tế (2/2002) . 19. Thông tấn xã Việt Nam (2003) , Tin kinh tế quốc tế (1/4/2003). 20. Thông tấn xã Việt Nam (2006) , Tin kinh tế quốc tế (5/2/2006). 21. Thông tấn xã Việt Nam (2006) , Tin kinh tế quốc tế (2/7/2006). 22. Thông tấn xã Việt Nam (2006) , Tin kinh tế quốc tế (17/9/2006). 23. Thông tấn xã Việt Nam (2003) , Tin kinh tế (6/12/2003). 24. Thông tấn xã Việt Nam (2005) , Tin kinh tế (27/5/2005). 25. Thông tấn xã Việt Nam (2005) , Tin kinh tế (30/5/2005). 26. Thông tấn xã Việt Nam (2003) , Tin kinh tế (25/6/2005). 27. Thông tấn xã Việt Nam (2006) , Tin kinh tế (6/9/2006). MỤC LỤC Lời nói đầu Chương I: Những tác động chung của việc gia nhập wto tới nền kinh tế của Trung Quốc 1. Đặc điểm cơ bản của các ngành kinh tế chủ chốt Trung Quốc trước khi gia nhập WTO 1.1 tăng trưởng tốc độ cao 1.2sự chênh lệch trong phát triển kinh tế 1.3ngày càng dược tự do hoá 2. những tác động chung tới kinh tế trung quốc từ việc gia nhập wto 2.1 tác động tích cực 2.2 tác động tiêu cực Chương II: Tác động đến ngành nông nghiệp Vài nét về nông nghiệp Trung Quốc đặc điểm cơ bản những khó khăn trở ngại chủ yếu dự báo ảnh hưởng tới nông nghiệp những tác động tích cực những tác động tiêu cực đối sách của Trung Quốc trong lĩnh vực nông nghiệp đánh giá đúng đắn tác động đến tong lĩnh vực sản xuất tìm và phát huy triệt để lợi thế trong nông nghiệp thực trạng nông nghiệp Trung Quốc từ sau gia nhập WTO Chương III: Tác động đến ngành công nghiệp những khó khăn thách thức chung của công nghiệp Trung Quốc tác động đến một số ngành công nghiệp cụ thể đối sách của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghiệp thực trạng ngành công nghiệp từ sau khi gia nhập WTO Chương IV: Tác động đến ngành dịch vụ đặc điểm ngành dịch vụ Trung Quốc tác động chung nghiên cứu và nắm vững các qui tắc của WTO thực trạng ngành dịch vụ Trung Quốc từ sau gia nhập WTO Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docqth30.doc
Tài liệu liên quan