Trên đây là tình hình thực tiễn cũng như những chính sách nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực cũng như đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam.
Đây là một công việc đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc toàn diện với các ngành kinh tế của Việt Nam, chiến lược và thực tế xuất nhập khẩu của các nước ASEAN, kinh nghiệm của các nước này trong việc điều chỉnh chính sách kinh tế để thực hiện AFTA. Việc nghiên cứu một vấn đề rộng lớn lại chỉ bó hẹp trong thời gian và số lượng nhỏ không tránh khỏi được nhiều hạn chế. Do đó, công việc nghiên cứu tiếp tục các tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam, xây dựng và hoạch định chính sách cần phải tiếp tục ở mức độ sâu hơn với sự chủ trì của các cơ quan chức năng cấp bộ ngành và các viện nghiên cứu.
44 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của việc tham gia CEPT/AFTA đối với thương mại của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xu hướng phân bổ sản xuất là cơ sở sản xuất từ nơi giá cao tới nơi có giá thấp. Mức chênh lệch giá càng lớn thì hướng di chuyển sản xuất sẽ càng mạnh khi các hàng rào mậu dịch được xóa bỏ. Như vậy, các nước thành viên FTA sẽ mua bán lẫn nhau các mặt hàng mà một nước thứ ba ngoài FTA sản xuất với giá thành tương đương, nhưng bị hàng rào thuế quan ngăn chặn xâm nhập.
Những tác động cụ thể đối với Việt Nam về lĩnh vực thương mại và cơ cấu sản xuất như sau:
1.1. Đối với xuất khẩu.
Hiện tại ASEAN gồm 10 nước dân số trên 500 triệu dân. Đây là một thị trường lớn là yếu tố giúp huy động tiềm năng lao động và tài nguyên dồi dào của Việt Nam vào phát triển xuất khẩu.
Trong mấy năm vừa qua, tốc độ tăng kim nghạch buôn bán Việt Nam với các nước trong khối ASEAN tăng lên với tốc độ gần 30% năm. Doanh số chiếm 1/3 kim nghạch ngoại thương của Việt Nam.
Câu hỏi đặt ra là với AFTA tốc độ tăng cũng như tỷ trọng của kim ngạch buôn bán với ASEAN có tăng lên đáng kể không và nếu có thì ảnh hưởng ra sao đối với sản xuất trong nước ?. Để trả lời, cần xem xét cụ thể cơ cấu buôn bán của Việt Nam với các nước trong khối.
Xét về cán cân buôn bán với ASEAN Việt Nam luôn ở tư thế nhập siêu. Mặc dù xuất khẩu tăng, đặc biệt nhờ mặt hàng chủ đạo là dầu thô xuất sang Singapo, tuy nhiên triển vọng gia tăng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN chưa có nhữnh hứa hẹn thay đổi mạnh, do cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Xét về cơ cấu mặt hàng, Việt Nam xuất sang các nước ASEAN gồm: dầu thô, gạo, đậu, cao su... rất nhiều mặt hàng nông sản chưa chế biến được các nước xét vào danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao để làm chậm quá trình giảm thuế. Số các mặt hàng nông sản được các nước thành viên ASEAN bổ sung vào CEPT để áp dụng việc cát giảm thuế ngay chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ, trong khi những mặt hàng chủ đạo là dầu thô và nông sản chưa chế biến chiếm hầu hết kim nghạch xuất khẩu Việt Nam. Tác động kích thích chủ yếu của CEPT là đối với các công nghiệp chế biến, bởi vì việc cắt giảm thuế suất lớn chính là đối với các mặt hàng này. Như vậy, những nước có trình độ phát triển cao hơn như Singapo, Malaixia có ưu thế hơn trong việc cạnh tranh hàng hoá của mình khi những hàng rào thuế quan, phi thuế quan cắt giảm và xóa bỏ.
Sự chênh lệch về mức thuế hiện và thuế suất dưới 5% sau khi thực hiện AFTA đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến mà Việt Nam có thể tăng cường xuất khẩu trong tương lai gần như đồ nhựa, da, cao su, dệt may cũng không lớn.
Với cơ cấu xuất khẩu hiện nay, lợi ích mà Việt Nam thu được từ AFTA không đáng kể. Nếu như cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng mạnh những sản phẩm công nghiệp chế biến thì sự cắt giảm giảm đáng kể về thuế có thể trở thành một kích thích đối với doanh nghiệp sản xuất cho xuất khẩu. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam so với hàng hóa các nước ASEAN trên thị trường các nước này còn rất yếu ớt, bời vì hàng hóa công nghiệp mà Việt Nam đang và sẽ sản xuất cũng tương tự các hàng hóa của các nước ASEAN. Với trình độ công nghệ thua kém hơn (và ngay cả tương đương trong tương lai) thì Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh trên thị trường ASEAN dựa trên tính độc đáo của chủng loại và mẫu mã hàng hóa. Vì vậy trong việc giảm thuế nhập khẩu của các nước ASEAN sẽ không làm tăng rõ rệt cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên các thị trường này.
Đối với xuất khẩu sang thị trường ngoài ASEAN thì lợi ích mà AFTA đem lại cho sản xuất của Việt Nam là làm giảm giá thành sản xuất, nhờ mua được vật tư đầu vào với giá hạ hơn từ các nước ASEAN. Tuy nhiên, cũng cần thấy là các nước ASEAN khác cũng xuất khẩu sang thị trường thế giới những hàng hóa tương tự cũng hưởng lợi ích tương tự, nhờ vậy cũng tăng được sức cạnh tranh tương tự.
1.2. Đối với nhập khẩu:
Việt Nam nhập từ ASEAN chủ yếu là những nguyên liệu dùng cho sản xuất và hàng công nghiệp như nhôm, hóa chất, hàng điện tử... Hơn 1/2 tổng số nhóm hàng thuế suất nhập khẩu hiện thấp hơn mức 5%. Đó là những hàng hóa vật tư phục vụ sản xuất hoặc hàng tiêu dùng thiết yếu.
Thấy rằng cơ cấu sản xuất và cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và một số nước ASEAN không khác nhau nhiều lắm. Có rất nhiều mặt hàng cùng sản xuất có thể cạnh tranh nhau trên thị trường Việt Namvà thị trường ngoài ASEAN như các loại nông sản chưa chế biến, ô tô, xe máy, xe đạp... Hiện tại sản xuất một số mặt hàng của Việt Nam còn thua kém sức cạnh tranh so với các nước trong khối bởi thua về chất lượng, chủng loại và cả số lượng. Vì thế, các nước này đang cố gắng chiếm lấy thị phần ở Việt Nam. Việc áp dụng AFTA sẽ tạo điều kiện hơn cho các nước ASEAN trong việc nâng cao cạnh tranh về giá cả và về thủ tục hải quan so với các hàng hóa của các nước ngoài khối ( như Trung quốc, Hàn Quốc. Đài Loan...) vào thị trường Việt Nam. Chiếm lấy một thị phần ở Việt Nam là điều mà các nhà kinh doanh nước ngoài quan tâm hàng đầu, bởi vì thị trường Việt Nam có tiềm năng lớn về dung lượng, lại thuộc loại không đòi hỏi cao về chất lượng hàng hóa. Có lý do để lo ngại rằng do Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn các nước ASEAN khác, sức cạnh tranh của hàng hóa yếu nên đứng trước những thử thách vô cùng lớn khi tham gia AFTA. Hiện nay, hàng hóa nhập khẩu đang tràn ngập thị trường, làm điêu đứng không ít ngành công nghiệp bản địa như dệt, giày dép, hàng cơ khí, đồ điện dân dụng... thậm chí cả khi hàng rào thuế quan đang còn được duy trì khá cao. Đặc biệt, đáng lo ngại là hàng hóa có hàm lượng chất xám và kỹ thuật cao, bởi vì sự chênh lệch về trình độ rất rõ rệt. Khi mà hàng rào bảo hộ bị cắt giảm thì sản xuất trong nước chịu sức ép lớn gấp nhiều lần. Thế nhưng điều này cũng có chiến lợi do tham gia AFTA các doanh nghiệp Việt Nam sớm bị đặt trong môi trường cạnh tranh quốc tế nó có ảnh hưởng tích cực đến những sản phẩm công nghiệp mà Việt Nam có lợi thế so sánh trước mắt. Nhưng kinh nghiệm một số nước đi trước, nếu bảo hộ kéo dài quá lâu các ngày sản xuất trong nước sẽ không phát triển lành mạnh và không thể trở thành lợi thế so sánh để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Do đó, dù gia nhập AFTA hay không, Việt Nam cũng nên từng bước giảm bớt thuế quan theo một thời khóa biểu định trước. Lịch trình cắt giảm thuế CEPT rất gần với chiến lược công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu mà trước mắt là các nghành có hàm lượng lao động cao, các nghành chế biến nông-lâm-thuỷ sản. Nhìn từ góc độ này, ta thấy việc gia nhập AFTA của Việt Nam sẽ không trở thành một phụ đảm mới cho Việt Nam, ngược lại ta có thêm cơ hội để xâm nhập vàp thị trường các nước.
2. Tác động tới đầu tư nước ngoài:
Kinh tế các nước ASEAN có truyền thống gắn bó với các trung tâm công nghiệp và thương mại lớn trước hết là Mỹ, Nhật và EU, nơi các công ty xuyên quốc gia lớn luôn tìm kiếm cơ hội để thực hiện đầu tư nước ngoài. Các nước ASEAN cũng đã đạt được sự phát triển kinh tế đáng kể trong những thập niên vừa qua và một số nước thành viên đó đã bắt đầu có khả năng xuất khẩu vốn. Tuy nhiên, tất cả các nước thành viên vẫn là những nước khao khát vốn đầu tư nước ngoài với những mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào hai yếu tố: Thứ nhất là trình độ, kỹ thuật của từng nước; thứ hai là nguồn vốn sẵn có hay là khả năng huy động vốn.
Đối với Việt Nam việc thực hiện AFTA chắc chắn sẽ dẫn đến tăng luồng đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam từ các nguồn trong ASEAN và ngoài ASEA.
Đối với các nhà đầu tư, Việt Nam có một thị trường tiềm năng lớn, chi phí nhân công thấp, lực lượng lao động có khả năng tiếp nhận nhanh chóng kỹ thuật mới, vị trí địa lý thuận lợi và những khuyến khích về tài chính hấp dẫn. Bên cạnh những lợi thế so sánh đó đối với các nước ngoài ASEAN, nguyên tắc xuất xứ hàng hóa của ASEAN đã được quy định theo thỏa thuận của AFTA sẽ là một yếu tố kích thích đầu tư vào Việt Nam. Theo nguyên tắc này, một sản phẩm được coi là một hàng hóa ASEAN nếu như 40% hàm lượng giá của nó xuất xứ từ một nước ASEAN. Yêu cầu này thấp hơn so với yêu cầu tương tự ở các khu vực thương mại tự do khác. Việc đầu tư để sản xuất ở một nước nằm bên trong hàng rào AFTA rõ ràng đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư. Với Việt Nam gia nhập AFTA, sức thu hút đầu tư nước ngoài sẽ có thể lớn hơn.
Đối với các nhà đầu tư trong ASEAN, họ sẽ quan tâm đến sự di chuyển một ngành sản xuất tiêu tốn nhiều lao động sang Việt Nam, bởi vì một số nước thành viên ASEAN khác đã bắt đầu được lợi thế về nguồn lao động giá rẻ.
3. Tác động tới nguồn thu ngân sách:
Hệ thống thuế Việt Nam nói chung và thuế xuất nhập khẩu nói riêng đang trong quá trình hoàn thiện và sẽ có những thay đổi căn bản có thể dẫn đến những thay đổi lớn vì tỷ trọng thuế gián thu trong tổng thu ngân sách. Đồng thời kim nghạch nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước ASEAN sẽ có nhiều thay đổi và kéo theo tỷ trọng nhập khẩu của Việt Nam cũng thay đổi theo. Việc thuế nhập khẩu được cắt giảm song đồng thời áp dụng VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt thì phân giảm do thu của thuế nhập khẩu sẽ được bù đắp bằng hai loại thuế trên.
Việc giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu đầu vào của sản xuất sẽ làm giảm chi phí và giá thành sản phẩm, dẫn đến tăng khả năng cạnh tranh và khả năng sản xuất. Điều này dẫn đến tăng thu ở các loại thuế khác như thuế doanh thu, thuế lợi tức...
Giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập từ các nước ASEAN và tương ứng là tăng nhập khẩu từ các nước ASEAN có thể dẫn đến việc giảm kim ngạch nhập khẩu cùng các mặt hàng đó từ các nước ngoài khối, do vậy có thể gây ra giảm số thu thuế nhập khẩu từ khu vực ASEAN.
Nhìn chung khi chúng ta tham gia thực hiện cắt giảm thuế để thiết lập khu vực thương mại tự do ASEAN, tổng số thu vào ngân sách có thể sẽ không có biến động lớn bởi vì việc giảm thu do giảm thuế nhập khẩu sẽ được bù đắp lại bởi phần tăng lên do tăng kim ngạch nhập khẩu và tăng phần thu từ các mức thuế khác và điều này cũng phần nào phù hợp với xu hướng tất yếu khi mỗi nền kinh tế phát triển là giảm tỷ trọng về thuế gián thu và tăng tỷ trọng của thuế trực thu trong cơ cấu thu từ thuế.
Chương II: tình hình thực hiện cept- AFTA của Việt Nam trong thời gian qua
I. Những cam kết thực hiện CEPT-AFTA
Việt Nam gia nhập ASEAN ( 7/1995 ) và ký Hiệp định CEPT vào thời điểm mà các nước thành viên khác đã có 3 năm để thực hiện. Theo quy chế của ASEAN đối với một thành viên mới, thời hạn để Việt Nam hoàn thành quá trình tham gia thiết lập AFTA ( bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế, thời hạn chuyển dần từ danh mục loại trừ tạm thời sang danh mục cắt giảm thuế quan cũng như ra hạn chế để hoàn thành cắt giảm thuế quan) sẽ muộn hơn các nước thành viên khác 3 năm. Có nghĩa là, Việt Nam bắt đầu giảm thuế từ 01/01/1996 và kết thúc vào năm 2006. Các mặt hàng trong danh mục loại trừ tạm thời sẽ chuyển dần sang danh mục cắt giảm thuế quan theo 5 bước, mỗi bước áp dụng cho 20% số mặt hàng của danh mục loại trừ tạm thời và bước đầu tiên được bắt đầu thực hiện từ năm 1998 và bước kết thúc 2003.
So với các nước thành viên khác, Hiệp định CEPT được các nước thành viên thoả thuận và ký kết năm 1992 song việc thực hiện chỉ bắt đầu 01/01/94. Như vậy các nước đã có khoảng thời gian 2 năm để thực hiện tất cả các vấn đề liên quan, và đối với Việt Nam thời gian để chuẩn bị cho việc tham gia Hiệp định CEPT là không quá nửa năm. Cũng có quan điểm cho rằng Việt Nam có đủ thời gian để chuẩn bị vì Việt Nam là quan sát viên của ASEAN từ tháng 7 năm 1992. Nhưng thực tế ý đồ chỉ đạo các Bộ, ngành chuẩn bị để tham gia ASEAN, và nhất là tham gia thực hiện AFTA chỉ được đưa ra từ giữa năm 1995. Thời gian chuẩn bị như vậy là rất bị động, nhất là nêu liên hệ với thời gian đệ trình các danh mục hàng hóa theo chương trình CEPT là trong tháng 12/1995.
Để có thể phân tích rõ tình hình thực hiện AFTA của Việt Nam, trước hết cần làm rõ về mặt tổ chức tham gia thực hiện AFTA. Như chúng ta đã biết AFTA được thực hiện thông qua các yếu tố:
Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT.
Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hóa giữa các nước thành viên.
Công nhận việc xóa những quy định hạn chế đối với ngoại thương.
Hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô.
Và thực tiễn thực hiện AFTA của Việt Nam trong thời gian vừa qua cũng sẽ được phân tích cụ thể theo 3 lĩnh vực cho các ngành phụ trách:
Lĩnh vực cắt giảm thuế quan.
Lĩnh vực loại bỏ các hạn chế định lượng (Qrs) và các rào cản phi thuế quan khác (NTBs).
Lĩnh vực hợp tác hải quan.
Lĩnh vực cắt giảm thuế quan:
Tham gia thực hiện khu vực thương mại tự do ASEAN, Việt Nam gặp không ít khó khăn trong việc xây dựng chương trình cắt giảm thuế quan theo Hiệp định CEPT do xuất phát điểm nền kinh tế Việt Nam thấp hơn so với các nước thành viên khác.
Bảng 1: Cơ cấu thuế suất của biểu thuế nhập khẩu Việt Nam (1999)
0%-5%
6%-10%
11%-20%
21%-60%
trên 61%
Số nhóm mặt hàng
tỷ trọng (%)
Số nhóm mặt hàng
Tỷ trọng (%)
Số nhóm mặt hàng
Tỷ trọng (%)
Số nhóm mặt hàng
tỷ trọng (%)
Số nhóm mặt hàng
tỷ trọng (%)
1700
53,1
199
9,31
636
19,81
546
17
25
10,78
Nguồn biểu thuế xuất nhập khẩu, Bộ tài chính
Trong tổng hơn 3000 nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam, hơn một nửa tổng số nhóm mặt đã phù hợp với mức thuế tiêu chuẩn đặt ra cho chương trình CEPT, điều đó có nghĩa là về thực chất Việt Nam chỉ phải thực hiện giảm thuế cho gần 50% của tổng số nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu hiện hành. So với các nước thành viên ASEAN khác khi bắt đầu thực hiện chương trình cắt giảm thuế theo Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung thì tỷ lệ thuế suất từ 0%-5% của Việt Nam nhiều hơn rất nhiều ( như Inđônêxia khi bắt đầu tham gia chương trình CEPT chỉ có 9% tổng số nhóm mặt hàng có thuế suất dưới 5%, Thái Lan có 27%, Philipin có 32%). Đây là một thuận lợi khi Việt Nam tham gia thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo quy định của Hiệp định CEPT.
Tuy nhiên, trong cơ cấu biểu thức nhập khẩu của Việt Nam, mức thuế suất thấp chủ yếu áp dụng cho các mặt hàng là nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu. Tỷ trọng lớn của số các thuế suất trong khoảng 0%-5% phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn khi nhiều nguyên vật liệu là đầu vào mà sản xuất trong nước chưa đủ khả năng đáp ứng. Các thuế suất trên 60% được áp dụng chủ yếu đối với các mặt hàng xa xỉ phẩm, đồ dùng thiết bị với mục đích điều chỉnh tiêu dùng.
Cho đến thời điểm 01/01/1996 Việt Nam chỉ áp dụng đối với các hàng hóa nhập khẩu với một loại thuế chung nhất là thuế nhập khẩu với mức thuế suất tương đối cao so với các nước khác, nhất là hàng hóa xa xỉ phẩm.
Về mặt số học dơn thuần, hiện nay các nước ASEAN chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch của Việt Nam trong khi số thu từ thuế nhập khẩu của Việt Nam chiếm đến 1/4 trong tổng số thu ngân sách. Do đó nếu dự kiến thương mại giữa ASEAN và Việt Nam vẫn giữ ở mức hiện nay trong khi giảm toàn bộ thuế suất của thuế nhập khẩu xuống mức thuế chung là 5% trong các điều kiện hiện hành về các chính sách thì số thuế sẽ giảm đi đáng kể cho việc giảm nguồn thu từ thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa ASEAN từ các nước ASEAN.
Trên tinh thần CEPT/AFTA là xây dựng các danh mục hàng hóa để thực hiện chương trình cắt giảm thuế và để thực hiện phương án chung, thực hiện AFTA của Việt Nam, trong thời gian qua chúng ta đã tiến hành nghiên cứu, phân loại các ngành sản xuất trong nước theo 3 nhóm dựa trên khả năng cạnh tranh, ưu thế, tiềm năng những khó khăn vướng mắc hiện tại... để xây dựng tiến trình giảm thuế quan cụ thể cho từng ngành hàng một cách hiệu quả nhất.
Nhóm ngành hàng có thế mạnh xuất khẩu.
Nhóm các ngành hàng có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu trong tương lai.
Nhóm các ngành có tiềm năng cạnh tranh kém.
1. Lịch trình giảm thuế cho các ngành hàng có thế mạnh xuất nhập khẩu:
Đây là những nhóm hàng bao gồm những hàng mà trong thời gian trước mắt những lợi thế so sánh của Việt Nam dựa trên nguồn tài nguyên đa dạng phong phú, nguồn dao động dồi dào, có thể tiếp thu tay nghề nhanh có thể tác dụng nhiều nhất. Cụ thể là ngành hàng nông sản ( với các mặt hàng gạo, cà phê, chè hạt điều...), cao su sơ chế, thuỷ sản, dệt may.
Sau đây là một số mặt hàng cụ thể quan trọng trong nhóm các mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu .
a. Hàng nông sản:
Mặt hàng gạo:
Lịch trình dựa vào tham gia CEPT của gạo
2003
2004
2005
2006
10%
10%
10%
5%
Mặt hàng gạo tuy là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam, đang cần được mở rộng thị trường xuất khẩu nhưng được đưa vào thực hiện CEPT theo lịch trình chậm nhất vì những lý do sau :
Lý do kinh tế:
Mặt hàng này sẽ vẫn còn cần Nhà nước quản lý chặt chẽ cung cầu và giá cả trên thị trường trong nước vì là mặt hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến đại bộ phận dân chúng, nhất là nông dân.
Việc bảo hộ cho nông dân cần được trực tiếp duy trì trong thời gian nhiều năm nữa, tránh những bất ổn không lường trước được đối với mặt hàng này trong cả khâu sản xuất lẫn tiêu thụ.
Tránh những khả năng có thể gạo Thái Lan, nhất là loại gạo chất lượng tràn vào xâm nhập thị trường nước ta vì Thái Lan là nước mạnh nhất về xuất khẩu gạo trong ASEAN và đã đưa mặt hàng này vào thực hiện CEPT.
Lý do kỹ thuật:
Ba nước Philipin, Inđônêxia, Malaixia là những thị trường mà nước ta có thể đẩy mạnh xuất khẩu gạo thì đều đã để gạo trong danh mục nhạy cảm cao và chỉ đưa gạo vào cắt giảm theo CEPT từ 2010 và kết thúc 2020. Do đó, nếu ta đưa gạo vào thực hiện CEPT sớm hơn từ nay đến năm 2010 cũng không được ưu đãi của các nước này, mặt khác khi đó sản xuất trong nước sẽ trực tiếp bị sức ép cạnh tranh của gạo Thái Lan là đối thủ đang mạnh hơn.
- Có thể tăng lượng gạo xuất khẩu sang ASEAN qua việc đàm phán thương mại song phương hoặc theo kênh hợp tác kinh tế chung trong ASEAN chứ chưa khai thác được khả năng tăng xuất khẩu sang ASEAN theo cơ chế CEPT trước năm 2010.
Mặt hàng cà phê:
Lịch trình đưa vào CEPT:
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Sơ chế
15%
15%
15%
10%
10%
5%
Thành phẩm
45%
35%
25%
20%
20%
20%
15%
10%
5%
Cà phê có lịch trình cắt giảm nêu trên được xây dựng căn cứ vào các lý do sau:
Lý do kinh tế:
- Cà phê sơ chế là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam và đang được xuất khẩu sang các nước ASEAN khác.
Cà phê thành phẩm có bước cắt giảm chậm hơn là vì khâu chế biến của ta còn kém, cần có thêm thời gian để các doanh nghiệp tập trung đầu tư thích đáng cho khâu này, đảm bảo tăng dần sức cạnh tranh với hàng của ASEAN
Lỗi kỹ thuật:
Theo quy định đối với danh mục cắt giảm các mặt hàng hiện có thuế suất từ 20% trở xuống phải đạt từ 0%-5% vào 2003: các mặt hàng hiện có thuế suất trên 20% phải hạ xuống tới 20% hoặc thấp hơn vào năm 2001.
Chè: Lịch trình cắt giảm giống cà phê.
a. Ngành thủy sản:
Xuất khẩu của khu vực địa phương ngày càng tăng chiếm tới 73% kim ngạch xuất khẩu thủy sản (1996). Giá trị xuất khẩu hàng năm 21%. Năm 1996, xuất khẩu đạt 550 triệu USD, trong đó ASEAN chiếm 12% kim ngạch xuất khẩu hải sản. Việt Nam đứng 19 trên thế giới về tổng sản lượng thứ 30 về kim ngạch xuất khẩu, thứ 5 về sản lượng tôm nuôi.
Từ năm 1991-1995 trung bình hàng năm tổng sản lượng tăng 6,4%, giá trị xuất khẩu tăng 21%.
Lịch trình đưa thủy sản tham gia CEPT:
Hầu hết các mặt hàng thủy sản đều được đưa vào danh mục cắt giảm ( trừ mặt hàng để làm giống )
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
20%
15%
15%
15%
10%
10%
5%
Lý do kinh tế:
Tuy ASEAN không phải là thị trường chính nhưng thủy sản vẫn là thế mạnh xuất khẩu trong khu vực của ta.
Tận dụng ưu đãi của các nước ASEAN theo CEPT cho hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam, nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Lý do kỹ thuật:
Các nước đều đã đưa hàng thủy sản vào cắt giảm nên theo lịch trình này thì theo lịch trình này thì hàng xuất khẩu của ta sẽ được hưởng mức ưu đãi nhiều trong khi ta chỉ cắt giảm thuế nhập khẩu ở mức vừa phải.
c. Ngành dệt may:
Trong 5 năm qua toàn ngành dệt may đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 11% năm: xuất khẩu tăng 59%, chiếm 13,2% tổng kim ngạch xuất khẩu . Khả năng cạnh tranh của ngành dệt may nước ta so với các nước khác trong khu vực được đánh giá tương đối tốt. Việt Nam có lợi thế về nguồn nhân công dồi dào, có khả năng tiếp thu nhanh công nghệ tiên tiến, giá công lao động thấp nhất.
- Ngành may mặc đã được đổi mới khá nhiều về thiết bị, công nghệ, nên chất lượng sản phẩm và giá thành có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực.
Tơ tằm và lụa có khả năng cạnh tranh tốt so với các nước trong khu vực, có thể tăng cường hơn nữa xuất khẩu sang ASEAN.
Lịch trình dựa vào tham gia CEPT:
Sợi:
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
20%
20%
15%
15%
15%
10%
5%
Vải:
2002
2003
2004
2005
2006
40%
35%
30%
20%
5%
May mặc:
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
50%
45%
40%
35%
20%
20%
20%
15%
10%
5%
Lý do:
Sợi đa số các loại sợi được cắt giảm trước là những mặt hàng Việt Nam không nhập từ ASEAN... nên lịch trình này thực tế sẽ hầu như không ảnh hưởng đến số thu và sản xuất trong nước.
- Vải giày dép: có lịch trình cắt giảm gần như muộn nhất để tránh cạnh tranh trong lĩnh vực này của hàng từ ASEAN, kéo dài hạn bảo hộ cho sản xuất trong nước và hạn chế ảnh hưởng gián thu. Hơn nữa, hiện nay mặt hàng giày dép của Việt Nam sản xuất hầu như chỉ xuất khẩu sang thị trường qua khu vực ASEAN.
- May mặc: lĩnh vực này có thể cạnh tranh được trên thị trường trong khu vực được đưa vào cắt giảm sớm để tranh thủ ưu đãi CEPT; tăng tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, năng cao hiệu quả xuất khẩu.
d. Mặt hàng cao su ( cao su tự nhiên )
Từ năm 1991-2000 xuất khẩu cao su của Việt Nam tăng trưởng bình quân 18,6%/năm. Nhìn chung việc xuất khẩu cao su sơ chế có hiệu quả rất cao do giá thành sản xuất thấp.
So với các nước ASEAN khác như Inđônêxia, Malaixia và Thái Lan là những nước xuất khẩu cao su lớn trên thế giới, sản lượng cao su của nước ta còn rất nhỏ, chỉ xấp xỉ 1/10 đến 1/17 sản lượng hàng năm của ta còn hạn chế về số lượng, cơ cấu chủng loại sản phẩm và khách hàng truyền thống.
Năm 1998, ASEAN chiếm 17% kim ngạch xuất khẩu cao su trong đó riêng Singapo chiếm 13%.
Các mặt hàng cao su sơ chế đến nay đã đưa vào thực hiện CEPT, với thuế suất hiện hành rất thấp (1%) nên thực tế sẽ không phải cắt giảm thuế.
2. Lịch trình giảm thuế cho các ngành hàng có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu trong tương lai.
Lịch trình giảm thuế nhìn chung sẽ được dự kiến với tiến trình chậm nhất cho phần lớn các ngành hàng trong nhóm này để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể phát triển lên một mức độ nhất định trước khi phải đối đầu với môi trường cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN. Khi các mặt hàng này được đưa vào giảm thuế, các chính sách thương mại khác thông qua tỷ giá và biện pháp bảo hộ phi thuế quan sẽ giữ một vai trò rất quan trọng góp phần giảm thu cho ngân sách đồng thời tạo điều kiện trực tiếp bảo hộ cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Sau đây là lịch trình cụ thể của một số mặt hàng thuộc các ngành hàng có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu trong tương lai.
a. Ngành rau quả
Rau quả tươi
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Rau
20%
20%
15%
15%
10%
5%
Củ
20%
20%
20%
15%
15%
15%
10%
10%
5%
Quả
30%
20%
20%
20%
20%
10%
5%
Rau quả có chế biến
2002
2003
2004
2005
2006
40%
30%
20%
15%
5%
b. Ngành thực phẩm chế biến:
Lịch trình đưa vào tham gia CEPT.
Mỡ và dầu động vật loại chưa tinh chế, men, axít béo công nghiệp...
1998
1999
2000
2001
2002
2003
10%
10%
10%
10%
10%
5%
Thịt các loại mỡ động vật hoặc thực vật loại đã tinh chế, thịt cá chế biến...
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
15%
15%
15%
15%
10%
10%
5%
c. Ngành sữa:
Lịch trình đưa vào tham gia CEPT
2003
2004
2005
2006
20%
15%
15%
5%
d. Ngành điện tử
Lịch trình tham gia CEPT.
Thiết bị điện công suất lớn, thiết bị chuyên dùng, phụ tùng, thiết bị điện kỹ thuật cao sẽ được tiến hành cắt giảm:
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
20%
15%
15%
15%
10%
10%
5%
10%
10%
10%
10%
10%
10%
5%
Thiết bị công suất vừa và nhỏ, các thiết bị nghe nhìn đồ điện gia dụng...
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
Biến thế, ác quy đèn
30%
25%
20%
15%
5%
Cát sét
50%
45%
25%
5%
Ti vi
60%
55%
45%
25%
5%
e. Ngành hàng cơ khí
Đa số máy móc công cụ, phức tạp, thiết bị kỹ thuật, phụ tùng, dụng cụ thô sơ...
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
20%
15%
15%
15%
10%
10%
5%
Máy móc gia dụng cao cấp, một số máy công cụ, đồ cơ khí đơn giản là những mặt hàng trong nước đã sản xuất được
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Kim khí gia dụng
40%
35%
25%
5%
Bơm chất lỏng
25%
20%
20%
20%
15%
15%
15%
Quạt các loại
50%
40%
30%
5%
Máy giặt
40%
35%
25%
5%
Ô tô tải<5 tấn
60%
40%
30%
5%
f. Ngành tàu thuyền:
Hầu như một mức thuế được áp dụng hiện nay là 0%, chỉ có một mức 5% nên việc đưa nhóm hàng này vào thực hiện không đòi hỏi phải giảm thuế.
g. Ngành hoá chất:
Mặt hàng thuốc trừ sâu đã có thuế suất thấp (2-3%)
Mặt hàng phân bón hóa học đã có thuế suất thấp (0%) nhưng có thể nâng lên vượt quá 5%.
Cao su tự nhiên và cao su tổng hợp, các sản phẩm cao su dùng trong công nghiệp, xăm lốp của ôtô 20 tấn.
1998
1999
2000
2001
2002
2003
20%
20%
15%
15%
10%
5%
Các loại xăm lốp ô tô của phần lớn các loại ô tô còn lại:
2002
2003
2004
2005
2006
30%
25%
20%
10%
5%
h. Ngành xi măng:
Lịch trình đưa vào CEPT.
2003
2004
2005
2006
15%
15%
10%
5%
3. Lịch trình giảm thuế cho các ngành hàng có tiềm năng cạnh tranh kém:
Lịch trình cắt giảm ngành hàng này với tiến trình chậm nhất, tuy nhiên các giải pháp về định hướng chuyển dịch đầu tư phải bắt đầu xúc tiến trong thời gian sớm nhất. Nếu không có sự chuẩn bị trước cho các doanh nghiệp sẽ khó tránh khỏi tình trạng doanh nghiệp bị giải thể kèm theo nhiều vấn đề về kinh tế.
a. Ngành thép:
Lịch trình dựa vào tham gia CEPT
Thép kỹ thuật:
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
20%
15%
15%
15%
10%
10%
5%
15%
10%
10%
10%
5%
Thép xây dựng và loại thép hình
2003
2004
2005
2006
30%
20%
10%
5%
b. Ngành giấy:
Giấy nguyên liệu, giấy bao gói, giấy kỹ thuật.
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
20%
15%
15%
15%
10%
10%
5%
Giấy in, giấy viết, giấy vệ sinh, giấy bao gói
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
30%
30%
30%
30%
30%
30%
25%
20%
10%
5%
c. Mặt hàng đường:
1997
2003
2004
2005
2006
25%
35%
30%
25%
5%
35%
45%
40%
35%
5%
II. Thành tựu thách thức và triển vọng:
Hợp tác lĩnh vực thương mại và đầu tư là vấn đề bao trùm trong hầu hết những đánh giá tổng kết về thành tựu của các hoạt động hợp tác kinh tế Việt Nam-ASEAN trong 5 năm qua. Có thể thấy rằng các nước ASEAN đã thực sự trở thành một trong những bạn hàng và nhà đầu tư quan trọng nhất của Việt Nam.
Kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và ASEAN 1995-99
Đơn vị (tỷ USD)
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tỷ lệ so với tổng kim ngạch của Việt Nam so với thế giới
1995
1,112
3,490
23,9%
1996
1,364
4,152
33,4%
1997
1,911
5,077
25,5%
1998
2,372
6,122
29,7%
1999
2,463
5,751
Nguồn : Thực tại hợp tác kinh tế Việt Nam-ASEAN, nhưng thuận lợi và trở ngại. Hội thảo 5 Việt Nam tham gia ASEAN, Học viên Quan hệ quốc tế, 20/6/2000.
Trong hoạt động thương mại, năm 1995 tổng giá trị buôn bán giữa Việt Nam và ASEAN mới là 3,490 tỷ USD chiếm 23,9% tổng kim ngạch buôn bán của Việt Nam với thế giới , trong đó kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN lần lượt là 1,12 và 2,378 tỷ USD.
Nhưng đến năm 1996, chỉ sau 1 năm sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN thì tổng kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng lên đến 4,152 tỷ USD tương đương với 33,4% tổng kim ngạch buôn bán của Việt Nam với thế giới, tăng gần gấp 1,2 lần về số tương đối, tăng xấp xỉ 0,7 tỷ USD về số tuyệt đối so với năm 1995. Liên tiếp những năm sau đó, tổng kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và ASEAN ngày càng tăng và thường ở mức cao hơn so với năm 1995. Riêng về xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN hàng năm cũng tăng ở mức hai con số.
Thông qua tiếp thu công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến và cọ sát trong cạnh tranh, các ngành, và doanh nghiệp nước ta đã nâng cao được sức cạnh tranh, mở rộng thị trường xuất khẩu.Từ con số 0 đến nay chúng ta đã có tới 200 mặt hàng được đánh giá là có khả năng tạo được đáng giá là khả năng tạo được chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
Hoạt động đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam cũng khả quan.
Đầu tư của ASEAN vào Việt Nam ( tính đến 4/2000)
Nước
Số dự án
Vốn đăng ký(triệu USD)
Singapo
235
6765,8
Thái Lan
984,06
Malixia
941,82
Philipin
254,25
Inđonêxia
243,55
Nguồn Việt Nam Investment Review, số 448/15-21 tháng 5/2000
Trong lĩnh vực thương mại, mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu có tăng nhưng Việt Nam vẫn đứng trước một số hạn chế và thách thức về tình hình nhập siêu đối với các đối tác ASEAN với kim ngạch và tỷ lệ khá lớn mà nguyên liệu sâu xa do trình độ sản xuất của Việt Nam còn rất hạn chế, chưa có khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm chế tạo so với các nước trong cùng khu vực nhất là các nước ASEAN-6 (6 nước cũ).
Năm 1995 nhập siêu là 1266 triệu USD, đạt tỷ lệ 113,8%, năm 1996 là 1424 triệu USD (104,4%); năm 1997 là 1,255 triệu USD (67,5%), năm 1998 là 1377 triệu USD (58,1%) và năm 1999 là 825 triệu USD (33,5%).
Ngoài những nhân tố bất ổn định về chính trị, ở một số quốc gia ASEAN như Inđônêxia, Myanma những xu hướng biến động trong tình hình kinh tế nội bộ ASEAN sau khủng hoảng thực sự đặt ra những thách thức đối với quan hệ hợp tác của Việt Nam ASEAN.
Thứ nhất, do các nước trong khu vực muốn nhân cơ hội phục hồi sau khủng hoảng để cải tạo lại cơ cấu kinh tế nên xu thế bảo hộ mậu dịch đang trở lại và các nền kinh tế Đông Nam á đang có những dấu hiệu giảm sút nỗ lực tự do hóa kinh tế và thương mại được thể hiện qua việc trì hoãn thực hiện tiến trình đã đề ra của AFTA. Ngoại trừ Thái Lan, là nước khá tích cực trong việc thực hiện tiến trình cắt giảm thuế của AFTA, gần đây các nước như Philipin, Malaixia, Inđônêxia đều nêu ra lý do cần có thời gian để thích ứng với tình hình mới sau khủng hoảng để xin tạm hoãn việc giảm thuế quan đối với các mặt hàng sẽ phải xúc tiến giảm thuế trong năm 2000 và xuống tới 5-0% vào năm 2002. Đây chính là thách thức do chính các nước ASEAN tạo ra do xu hướng trở lại xu thế bảo hộ công nghiệp trong nước đã gây khó khăn cho việc thực hiện AFTA, AIA và AICO.
Thứ hai, ASEAN đang phải chịu tác động của việc trong quốc gia nhập WTO cũng như áp lực cạnh tranh thương mại đầu tư giữa các khối kinh tế, các nước và các khu vực kinh tế trên toàn cầu.
Thứ ba, tại ASEAN-10 hiện có sự chênh lệch về trình độ phát triển thực tế chia làm 2 khối, ASEAN-6 và ASEAN-4 (Việt Nam thuộc ASEAN-4) vì vậy khó có thể có sự phát triển thống nhất và đồng đều để khai thác thế mạnh tập thể ASEAN.
Nhóm ASEAN-4 là nhóm có trình độ phát triển thấp hơn nên có những khó khăn riêng. Chẳng hạn do việc kết hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan chức năng và doanh nghiệp vì những bỡ ngỡ ban đầu trong chuyển đổi cơ chế kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới nên những khó khăn lúng túng trong việc thực hiện các yêu cầu của CEPT/ AFTA là không tránh khỏi. Mốc 2006 cho Việt Nam phải được mức thuế 0-5% cho tất cả các dòng thuế thực sự là khó khăn lớn vì cho đến nay dòng thuế trên 20% chỉ còn chiếm 8,4% dòng thuế trong danh mục CEPT 1999 và trong đó nhiều dòng thuế còn ở mức quá cao tới 25%, 30%, 40-45% tới năm 2005. Việc giảm đột ngột những dòng thuế này cho phù hợp với yêu cầu về thời hạn và tỷ lệ vào 2006 sẽ chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến kinh tế thương mại nước ta.
Chương III : NHữNG BIệN PHáP CƠ BảN NHằM THúC ĐẩY thương mại QUốC Tế TRONG Việt Nam TRONG QUá TRìNH HộI NHậP
I. Các biện pháp điều chỉnh để Việt Nam bắt nhập với các nước ASEAN
1. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành trong công tác ASEAN.
Các chương trình hợp tác kinh tế trong ASEAN do chính các nước ASEAN xây dựng đều phục vụ lợi ích ở mức độ khác nhau của tất cả các nước trong khối và đều không làm chính quyền các nước này mất quyền kiểm soát. Vì vậy cần nghiên cứu các Hiệp định, chương trình hợp tác của ASEAN một cách khách quan, khoa học để có giải pháp cụ thể và phù hợp với chủ trương, chính sách và tình hình trong nước. Đối với những điểm phù hợp cần khai thác như một sức đẩy đối với công cuộc cải cách kinh tế và cải cách hành chính trong nước.
Để công tác ASEAN vận hành tốt đòi hỏi sự tham gia phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành với nhau, giữa csc cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp. Chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện và cải tiến cơ chế điều phối một cách toàn diện thống nhất. Cần nghiên cứu để có phương án tham gia các hoạt động ASEAN một cách bình đẳng chủ động, phù hợp với tình hình trong nước và xu hướng chung của ASEAN.
Về mặt đối ngoại, chúng ta cần đóng góp một cách tích cực vào nỗ lực của ASEAN trong việc xây dựng, duy trì môi trường hoà bình ổn định, hợp tác và phát triển khu vực trên thế giới. Trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục quan tâm, tìm ra những lợi ích tương đồng để có một chính sách đối ngoại chủ động cùng với các nước thành viên khác của ASEAN thực hiện tốt hơn nỗ lực này.
Về mặt đối nội, chúng ta cần phát hiện và hệ thống hoá những điểm khác biệt về cơ cấu, chính sách kinh tế, thủ tục hành chính trong nước so với nhu cầu thực hiện các chương trình hợp tác của ASEAN, từ đó có cơ sở xem xét, điều chỉnh bổ sung một cách khoa học nhằm tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy cải cách hành chính và cải cách kinh tế của nước theo hướng đã chọn. Nói cách khác, những nhu cầu nào phù hợp với chủ trương chính sách của Đảngvà nhà nước thì cần được thúc đẩy thực hiện nhanh và có hiệu quả hơn, những điểm chưa phù hợp vẫn có giải pháp nhằm đảo bảo lợi ích quốc gia, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác ASEAN
Để có thể tham gia tích cực vào hoạt động trong ASEAN, đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác ASEAN cần làm quen dần với “ phong cách ASEAN “ nắm được quy trình hình thành các văn bản và các chương trình, dự án hợp tác. Điều quan trọng hơn cả là đội ngũ cán bộ này cần ý thức được tính bình đẳng về trách nhiệm trong ASEAN. Mỗi cuộc họp bàn về một vấn đề thực sự là một cuộc đàm phán trong môi trường đa phương để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình đồng thời lại quan hệ mật thiết tới các mối quan hệ song phương.
Cần coi hoạt động ASEAN là môi trường, là điều kiện gấp rút tăng cường đội ngũ cán bộ vừa am hiểu về chuyên môn, vừa thông thạo tiếng nước ngoài và có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đa phương nhưng lại về những vấn đề hết sức cụ thể và chuyên sâu ở tất cả các cấp, các ngành. Trong xu hướng tăng cường đối thoại, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới , ngoại ngữ không chỉ cần thiết cho cán bộ làm công tác ASEAN mà cho tất cả các cán bộ làm công tác đối ngoại.
3. Công tác thông tin tuyên truyền về ASEAN
Công tác thông tin tuyên truyền cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của các hoạt động tham gia ASEAN. Ngoài việc cần thông tin một cách đầy đủ, có hệ thống phục vụ, bộ máy làm công tác ASEAN để các tầng lớp nhân dân có nhận thức đúng đắn về đường lối hội nhập nhưng không hòa tan của Đảng và Nhà nước ta, nhận thức đúng đắn về những cơ hội và thách thức, về quyền lợi và trách nhiệm của một nước thành viên. Một trong những mục tiêu trọng tâm của công tác thông tin tuyên truyền về ASEAN là phải giúp các doanh nghiệp trong nước có thông tin về tình hình kinh doanh, thị trường khu vực, phân tích dự báo được những thăng trầm biến động để có biện pháp đề phòng khi tham gia làm ăn. Cần phải dùng thông tin để xóa đi những quan điểm cho rằng tham gia ASEAN, ngoài lợi ích chính trị Việt Nam sẽ bị thua thiệt về kinh tế, và cả quan điểm cho rằng Việt Nam là thành viên nghèo nhất nên sẽ nhận được nhiều sự hỗ trợ giúp đỡ từ tổ chức này và cộng đồng quốc tế.
II. Những biện pháp cơ bản nhằm thúc đẩy thương mại quốc tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập
1. Các biện pháp ưu tiên phát triển:
Phù hợp với các lĩnh vực cần được ưu tiên phát triển đã xác định các biện pháp khuyến khích cụ thể cần được đưa ra các chính sách điều chỉnh vĩ mô như: Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp, Chính sách đầu tư trong nước, Chính sách về tỷ giá, Chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, Chính sách tài chính tiền tệ...
1.1. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp:
Tận dụng triệt để khả năng về thu hút vốn đầu tư từ những nước trong khối cũng như ngoài khối của AFTA để khai thác những lợi thế sẵn có của Việt Nam về tài nguyên, sức lao động và thị trường mới. Xây dựng một môi trường đầu tư thuận lợi hơn so với các nước thành viên ASEAN khác với các chính sách ưu đãi ổn định và rõ ràng, những thuận lợi về cơ sở hạ tầng. Cụ thể là:
Bổ xung và hoàn thiện hơn nữa các chính sách đầu tư nước ngoài trực tiếp như chính sách góp vốn, chính sách công nghệ và kỹ thuật, chính sách đất đai và nhà ở cho người nước ngoài, chính sách lao động và tiền lương, chính sách bảo hiểm, chính sách khai thác và chế biến, chính sách nội tiêu và ngoại tiêu.
+ Cải tiến, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư nước ngoài trong các thủ tục hành chính như: các thủ tục cấp giấy phép đầu tư, kinh doanh xuất nhập khẩu, thủ tục cấp đất đai, cấp giấy phép xây dựng, thủ tục hải quan, nộp thuế...
+ Ngay từ bây giờ cần tập trung hơn nữa đến các vấn đề ưu tiên hoàn thiện cơ sở hạ tầng liên quan đến đầu tư trực tiếp như hệ thống giao thông, điện nước bến cảng, vấn đề thông tin liên lạc.
+ Tập trung vào việc kế hoạch hóa giáo dục và đào tạo để nhanh chóng có được đội ngũ lao động với kỹ năng và trình độ cao.
Xây dựng một danh mục cụ thể các ngành nghề , lĩnh vực công nghiệp cần được ưu tiên khuyến khích đầu tư nước ngoài trực tiếp. Danh mục bao gồm:
+ Những ngành cần thu hút đầu tư nước ngoài của những nước công nghiệp phát triển ngoài ASEAN với mục đích sản xuất để xuất khẩu. Đối với những nguồn vốn đầu tư nước ngoài này, cần chú trọng giám sát để ưu tiên đầu tư với công nghệ tiên tiến thích hợp.
+Những ngành sử dụng công nghệ có thể chưa phải là mũi nhọn nhưng thích hợp, sử dụng nhiều lao động với mục đích tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Những nguồn tư nước ngoài trực tiếp này có thể tập trung các nguồn đầu tư từ những nước ASEAN đã bắt đầu có dư thừa vốn, những nước này đang mất dần những lợi thế cạnh tranh về sức lao động và chuyển dần sang những công nghệ cao. Do đó Việt Nam sẽ thích hợp để họ chuyển giao những ngành công nghệ sử dụng nhiều sức lao động.
1.2. Chính sách đầu tư trong nước:
Bên cạnh các nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp, vấn đề hỗ trợ đầu tư trong nước cũng cần được quan tâm. Cần có những biện pháp thích hợp cho khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực tư nhân. Cụ thể:
+ Đối với các xí nghiệp quốc doanh, cần thiết phải tiến hành cải cách theo hướng hiệu suất hóa, chẳng hạn thông qua việc thực hiện về cổ phần hóa một cách thích hợp, có thể áp dụng một số biện pháp về vốn, tín dụng của Nhà nước. Tuy nhiên, cần khẳng định rõ đầu tư của Nhà nước chỉ tập trung vào các xí nghiệp có thể tồn tại được khi không còn hàng rào bảo hộ.
+ Đối với các xí nghiệp tư nhân, có thể áp dụng một số hình thức hỗ trợ về tín dụng, khuyến khích đầu tư tư nhân vào một số ngành công nghiệp phù hợp với quy mô sản xuất nhỏ dễ phát huy lợi thế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như công nghiệp chế biến, công nghiệp lắp ráp điện tử, công nghiệp sản xuất phụ trợ.
Trong giai đoạn đầu tiên phát triển kinh tế, cần tập trung xác định những chính sách phát triển công nghiệp thích hợp trong đó có các biện pháp ưu tiên, khuyến khích đầu tư, cải cách hệ thống ngân hàng để huy động vốn và sử dụng có hiệu quả.
2. Những biện pháp phòng ngừa:
2.1. Các biện pháp bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước:
Tham gia vào AFTA, chúng ta không thể đi ngược với xu hướng chung của quá trình tự do hóa thương mại để tiếp tục duy trì hàng rào bảo hộ mậu dịch. Do đó vấn đề bảo hộ sản xuất trong nước cần được thực hiện như sau.
Nguyên tắc bảo hộ chung:
- Chỉ bảo hộ những mặt hàng sản xuất trong nước đáp ứng nhu cầu có tiềm năng phát triển về sau, tăng thu được ngân sách và giải quyết lao động.
- Nguyên tắc bảo hộ phải được áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Điều này đòi hỏi một định hướng sáng suốt trong việc hoạch định chính sách phù hợp với cơ chế thị trường, tạo điều kiện bình đẳng trong cạnh tranh kinh tế.
- Cơ sở bảo hộ được quy định cho một số ngành nghề và có thời hạn cụ thể. Về nguyên tắc, không có bảo hộ vĩnh viễn bất kỳ ngành nghề nào.
- Việc bảo hộ phải phù hợp với tiến trình tự do hóa thương mại và các hiệp định quốc tế mà Chính phủ ký kết.
Cụ thể đối với CEPT, vì CEPT là Hiệp định quốc tế đầu tiên về hợp tác kinh tế khu vực mà Việt Nam tham gia, trong khi chúng ta còn chưa có kinh nghiệm trong các vấn đề thực hiện bảo hộ thông qua các biện pháp phi thuế quan cũng như vấn đề tiến hành loại bỏ chúng, do đó khi thực hiện AFTA cần cố gắng duy trì việc bảo hộ một cách hợp lý nhất, đồng thời thực hiện những cam kết về cắt bỏ bảo hộ một cách từ từ, để đảm bảo cho các nhà sản xuất trong nước có thể làm quen dần với môi trường không có bảo hộ trên cơ sở từng bước thực hiện các vấn đề sau:
+ Xác định cụ thể chính sách bảo hộ sản xuất trong nước với yêu cầu về mức độ và thời gian bảo hộ thích hợp cho từng ngành sản xuất, phù hợp với chiến lược ưu tiên phát triển những ngành mũi nhọn.
+ Trên cơ sở những yêu cầu về mức độ bảo hộ, xây dựng tiến trình cắt giảm thuế quan cho các mặt hàng trong danh mục loại trừ tạm thời một cách thích hợp theo hướng những mặt hàng nào cần được bảo hộ ở mức cao nhất sẽ được đưa vào cắt giảm thuế sau cùng và những mặt hàng không cần bảo hộ sẽ cắt giảm sớm hơn.
Trước tiên, việc xây dựng hệ thống chính sách phi thuế quan của Việt Nam khi tham gia hợp tác kinh tế với ASEAN phải đảm bảo được các mục tiêu sau:
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thương mại của Việt Nam tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, góp phầm làm tăng thu ngân sách.
+ Bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, khuyến khích đổi mới khoa học kỹ thuật, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế.
+ Góp phần tích cực cho việc hội nhập của Việt Nam vào nền thương mại thế giới, phục vụ chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Việc xây dựng hệ thống chính sách phi thuế quan đồng thời cũng phải quán triệt những nguyên tắc và xây dựng hệ thống phi thuế quan thành bốn loại sau đây:
Loại 1: Những biện pháp phi thuế quan thuế phổ thông trong khuôn khổ WTO:
Giấy phép nhập khẩu tự động và giấy phép không tự động.
Quata: Quy định theo WTO, bao gồm quata định lượng, quata kết hợp có định lượng và thuế, quata kết hợp định lượng và giấy phép đặc biệt.
Kiểm tra trước khi xếp hàng lên tàu.
Quy tắc xuất xứ, thuế đốc kháng...
Loại 2: Những biện phấp kỹ thuật:
Những quy chế về tiêu chuẩn kỹ thuật.
Những quy chế về chất lượng.
Vệ sinh kiểm dịch.
Bảo vệ môi sinh.
Loại 3: Những biện pháp hành chính: bao gồm những quy chế xuất nhập khẩu khác ta hiện nay như đầu mối xuất nhập khẩu, công ty quốc doanh...
Loại 4: Những chính sách vĩ mô khác có tác động điều tiết gián tiếp xuất khẩu : cơ chế tỷ giá hối đoái, thanh toán, lãi suất...
Sau khi hoàn thiện chính sách phi thuế quan chúng ta bắt đầu thực hiện quá trình loại bỏ các rào cản phi thuế quan. Quá trình này được tiến hành kết hợp chặt chẽ với quá trình cắt giảm thuế quan, dựa trên sự phân loại theo cấp độ bảo hộ.
2.2. Một số biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp trong nước.
- Ngăn ngừa cạnh tranh không lành mạnh, ngược đãi với hàng hóa dịch vụ và doanh nghiệp Việt Nam.
- Hỗ trợ đúng mức các doanh nghiệp Việt Nam thông qua một số biện pháp thích hợp như tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức, dùng các công cụ tài trợ gián tiếp như tổ chức hệ thống thông tin, hỗ trợ tuyên truyền quảng cáo, can thiệp giải quyết những vấn đề phát sinh xâm phạm quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp trên trường quốc tế.
- Tạo thuận lợi về môi trường và thủ tục hành chính để doanh nghiệp khai thác được các lợi thế có được trong quá trình hộp nhập.
- Đặc biệt, chính sách đầu tư thông qua đào tạo cần được coi là trọng điểm nhất để tạo được lợi thế chiến lược trong phát triển . Ngoải ra các hỗ trợ chính thức bằng đầu tư nguồn lực từ ngân sách các cấp số đã có một số nước rất thành công trong việc thể chế hoá nghĩa vụ đào tạo của các doanh nghiệp, qua đó huy động nguồn lực cho đào tạo. Những cách làm tương tự nhằm tài trợ xuất khẩu, tăng cường hiệu quả thông tin...
2.3. Các biện pháp cải cách thuế phù hợp với quá trình AFTA:
Trong bối cảnh hội nhập, quá trình cải tạo chính sách thuế cần đạt được một số mục tiêu sau:
Đảm bảo ổn định thu phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế.
Góp phần thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời khuyến khích đầu tư trong nước.
Tăng cường và thúc đẩy đầu tư nước ngoài đồng thời khuyến khích đầu tư trong nước.
Tăng cường và thúc đẩy sản xuất xuất khẩu .
Phù hợp với xu hướng hội nhập cũng như khả năng quản lý thuế.
Dưới đây là một số hướng thực hiện để hướng tới mục tiêu trên:
* Thực hiện đơn giản hóa các mức thuế suất:
Đối với thuế lợi tức, áp dụng một thuế suất thống nhất cho mọi ngành sản xuất kể cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đồng thời, mức thuế suất cần được nghiên cứu, xác định hợp lý so với mặt bằng chung trong khu vực để tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp từ những nước ngoài khu vực.
Đối với thuế suất nhập khẩu, có thể nghiên cứu để giảm số lượng các mức thuế suất khác nhau để tạo điều kiện quản lý thuế tốt hơn tránh thất thu thuế. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp trong nước cải tiến kỹ thuật công nghệ mới để tạo ra sản phẩm có chất lượng, giá rẻ.
Đối với thuế VAT cũng cần được nghiên cứu, xác định một cách hợp lý để vừa có tác động thuận lợi về số thuế, vừa có tác động hiệu quả tới việc khuyến khích kinh doanh. Ngoài ra, việc ban hành và áp dụng VAT cả đối với hàng nhập khẩu còn tạo điều kiện hạn chế phần giảm thu ngân sách khi ta phải thực hiện các bước cắt giảm thuế nhập khẩu.
* Thực hiện giảm những thuế suất cao.
Tiến hành thực hiện các bước cắt giảm thuế nhập khẩu theo trình đọ phát triển hiện tại của Việt Nam sẽ là một thách thức. Việt Nam cần đạt mục tiêu thực hiện kế hoạch giảm thuế quan trước năm 2003 đối với những ngành có lợi thế so sánh trước mắt và trước năm 2006 với những ngành có lợi thế so sánh tiềm năng. ở đây đòi hỏi một nỗ lực rất lớn về cải cách kinh tế và hành chính.
* Mở rộng diện chịu thuế:
Hạn chế loại bỏ những diện ưu đãi miễn giảm trong mọi sắc thuế.
Mở rộng việc áp dụng phương pháp khấu trừ tại nguồn đối với các trường hợp có nguồn thu phát sinh tại Việt Nam của các đối tượng cư trú nước ngoài.
Đối với thuế nhập khẩu có thể nghiên cứu nâng cao thuế suất 0% lên 3%-5%. Như vậy sẽ bù đắp được thâm hụt ngân sách khi thực hiện cắt giảm thuế nói chung mà vẫn bảo đảm thực hiện các quy định CEPT.
Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt, thực hiện sửa đổi theo hướng mở rộng các mặt hàng phải chịu thuế này.
* Một số biện pháp tài chính:
Bên cạnh những biện pháp, chính sách thuế, chúng ta có thể áp dụng một số biện pháp cải cách trong chế độ tài chính để tạo điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước có thể xuất khẩu được. Chẳng hạn, thông qua các quy định phù hựop về cơ cấu chi phí được trừ khi tính thuế lợi tức, cho phép khấu hao nhanh với một tỷ lệ thích hợp...
* Hoàn thiện công tác quản lý thuế:
Sửa đổi hệ thống mã số hiện hành của biểu thuế xuất nhập khẩu theo mức 8 số phù hợp với danh mục biểu thuế chung của các nước ASEAN.
Nghiên cứu áp dụng việc xác định giá hải quan theo GATT để tránh trốn lậu thuế qua chuyển giá.
Nghiên cứu để áp dụng các mức thuế ưu đãi, thuế phổ thông, thuế suất tạm thời,... phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi khi tham gia vào các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới.
3. Một số biện pháp trước mắt:
+ Tập trung thực hiện các biện pháp để khuyến khích đầu tư từ những nguồn trong nước và nước ngoài bao gồm cả đầu tư nước ngoài trực tiếp ( các hình thức liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài) và vay vốn nước ngoài. Để thu hút vốn đầu tư ngoài những vấn đề cải cách thủ tục hành chính, cần ban hành công bố danh mục, các ngành, lĩnh vực được ưu tiên khuyến khích đầu tư sản xuất xuất khẩu.
+ Chú ý mở rộng hình thức xây dựng khu công nghiệp tập trung với mục đích thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong các khu vực công nghiệp tập trung này các thành phần kinh tế cần được khuyến khích đầu tư phát triển các ngành công nghiệp mang tính phụ trợ này sẽ được tạo điều kiện cho vấn đề giải quyết công ăn việc làm, đồng thời khai thác khả năng cạnh tranh.
+ Cần tập trung lớn nhất vào ngành chế biến nông- thuỷ- hải sản. Đây là ngành có lợi thế so sánh nhất.
+ Nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tuyên truyền cho các doanh nghiệp, khu vực kinh doanh hiểu rõ về AFTA, các cơ chế thực hiện CEPT.
+ Thực hiện đúng cam kết về cắt giảm thuế quan cũng như hàng rào phi thuế quan trong thời hạn 10 năm để thực hiện AFTA.
Kết luận
Trên đây là tình hình thực tiễn cũng như những chính sách nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực cũng như đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam.
Đây là một công việc đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc toàn diện với các ngành kinh tế của Việt Nam, chiến lược và thực tế xuất nhập khẩu của các nước ASEAN, kinh nghiệm của các nước này trong việc điều chỉnh chính sách kinh tế để thực hiện AFTA. Việc nghiên cứu một vấn đề rộng lớn lại chỉ bó hẹp trong thời gian và số lượng nhỏ không tránh khỏi được nhiều hạn chế. Do đó, công việc nghiên cứu tiếp tục các tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam, xây dựng và hoạch định chính sách cần phải tiếp tục ở mức độ sâu hơn với sự chủ trì của các cơ quan chức năng cấp bộ ngành và các viện nghiên cứu.
Tài liệu tham khảo:
Khu vực mậu dịch do ASEAN và tiến trình hội nhập của Việt Nam, Nguyễn Xuân Tháng, NXB Thống kê, Hà nội, 1999
Economic Outbook, Worldbank 3/2000
ASEAN hy vọng vươn tới tầm cao mới quốc tế số 62, 02/08/2000
4. Triển vọng hợp tác kinh tế Việt Nam-ASEAN trong khuôn khổ chương trình thương mại tự do AFTA. Vụ hợp tác kinh tế đa phương 14/06/2000
5.- Tạp chí thương mại
- Tạp chí tài chính
- Thời báo kinh tế
MụC LụC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35191.doc