Đề tài Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Mục lục Lời nói đầu 1 I. Tiền đề ra đời và tồn tại của tài chính 2 II. Bản chất của tài chính 2 III. Chức năng của tài chính 4 1. Chức năng phân phối của tài chính 4 2. Chức năng giám đốc của tài chính 5 IV. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 6 1. Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN 6 2. Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 9 V. Vai trò của tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường 11 1. Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vĩ mô của Nhà nước 11 2. Vai trò tài chính có trọng lượng trong điều hành cơ chế thị trường đi theo các mục tiêu kinh tế xã hội đã được xác định 11 VI. Các công cụ tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp 12 1. Ngân sách nhà nước 12 2. Thuế 17 3. Tiền tệ - tín dụng 24 4. Dự trữ tài chính và bảo hiểm 28 Kết luận 32 Lời mở đầu Trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH hiện hay, việc lực chọn phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là một bước đi đúng đắn. Tuy nhiên, để đảm bảo tránh được nguy cơ chệch hướng XHCN thì Nhà nước cần phát huy tốt vai trò của mình trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Một trong những công cụ hiệu quả của Nhà nước đó là công cụ tài chính. Trong báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn Nga các Ban Tài chính các Xô-Viết ngày 18/5/1918, V. I. Lênin đã phát biểu: “Chúng ta phải thực hiện bằng được những cải cách vững chắc về mặt tài chính. Chúng ta nên nhớ rằng nếu chính sách tài chính của chúng ta không thu được thắng lợi thì mọi cách giải quyết của chúng ta sẽ thất bại”. Đồng chí Lê Duẩn, nguyên Bí thư Đảng uỷ Đảng Cộng sản Việt Nam, trong tác phẩm Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì CNXH, tiến lên dành những thắng lợi mới, cũng đã khẳng định: “Tài chính, ngân hàng là trung tâm phân phối thu nhập quốc dân, trung tâm thanh toán và trung tâm thần kinh của toàn bộ nền kinh tế quốc dân”. Việc lựa chọn đề tài Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn của đề án trong sự phát triển kinh tế – xã hội hiện nay. Tuy nhiên, do những hạn chế về mặt thời lượng và trình độ, đề án mới chỉ dừng lại phân tích các khía cạnh bản chất, chức năng của tài chính, vai trò của các công cụ tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Cần thiết phải có những nghiên cứu sâu hơn để đề án mang tính khả thi. Trong quá trình thực hiện đề án, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo GS – TS Phạm Quang Phan .Em xin chân thành cảm ơn thầy đã giúp em hoàn thành tốt đề án này!

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1645 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n chung của nền kinh tế, điều kiện riêng của từng ngành, khuyến khích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm, khuyến khích suất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch kinh tế theo hướng của Nhà nước; tiếp thục hoàn thiện chính sách thu phí, lệ phí và chế độ huy động các khoản đóng góp của nhân dân. Tăng cường các biện pháp chống gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế, lậu thuế bằng việc tăng cường thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế hành chính. Về chi NSNN cần đảm bảo duy trì sự hoạt động của bộ máy Nhà nước, củng cố quốc phòng – an ninh, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, văn hoá, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Chi đầu tư từ nguồn NSNN phải được thực hiện tập trung, dứt điểm theo từng công trình, đáp ứng yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả, định hướng đầu tư xã hội, thu hút nhiều nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Chú ý tập trung chi đầu tư cho các vùng kinh tế trọng điểm để tạo động lực phát triển cho cả nền kinh tế, tạo cơ sở giải quyết tốt yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; bố trí hợp lý các khoản dự phòng, dự trữ tài chính và trả nợ. Sáu là, tiếp tục đổi mới các hcính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho việc thúc đẩy xuất khẩu, xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị trường mới. Mở rộng hệ thống bảo hiểm và an ninh xã hội nhằm huy động sự tham gia của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội. Cơ chế quản lý thống nhất, chặt chẽ mọi khoản chi NSNN, chú trọng đổi mới quản lý các khoản chi từ nguồn vốn nước ngoài, vốn sự nghiệp kinh tế, vốn chương trình mục tiêu quốc gia. Mở rộng phạm vi xã hội hoá một số khoản chi NSNN, thực hiện cơ chế tự trang trải chi tiêu, xây dựng mô hình tự lo chi phí ở một số đơn vị hành chính sự nghiệp cung cấp các dịnh vụ công cộng, thay thế phương thức cấp kinh phí trực tiếp bằng việc Nhà nước mua sản phẩm theo giá cả phù hợp với chất lượng và tiến độ. Bảy là, cải cách cơ bản chế độ tiền lương, giải quyết dứt điểm những bất hợp lý trong chính sách tiền lương và thu nhập, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ yếu, kết hợp vói các hình thức phân phối khác nhằm bảo đảm phân phối công bằng trong xã hội. Củng cố và sắp xếp lại hệ thống các quỹ hiện có nhằm đổi mới phương thức quản lý, nâng cao khả năng bảo toàn, phát triển vốn và chất lượng, hiệu quả sử dụng vốn; bảo đảm lợi ích của các nhà đầu tư và an toàn tài chính. Đa dạng hoá các công cụ hoạt động và hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ, các quỹ đầu tư nhằm động viên sự tham gia đóng góp của cộng đồng và của nước ngoài hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ. Tám là, tiếp tục đổi mới chính sách, cơ chế quản lý và điều hành NSNN. Đổi mới quy trình thành lập, chấp hành và quyết toán NSNN các cấp theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, bao đảm tính kịp thời, đầy đủ, chính xác và phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện đại hoá hệ thống thống kê, kế toán, dự báo nhằm nâng cao hiệu quả của công tác điều hành NSNN. Chủ động và sử dụng linh hoạt các giải pháp tài khoá “nới lỏng” hay “thắt chặt” cho phù hợp với diễn biến và tình hình thực tế. Phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn cũng như cơ chế phối hợp, kết hợp giữa các cơ quan có liên quan đến thu và chi NSNN. Cải thiện môi trường pháp lý về NSNN để quản lý và điều hành nền tài chính quốc gia bằng pháp luật và ban hành các cơ chế, chính sách dựa trên cơ sở chủ yếu là Luật NSNN đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 2, thông qua. 2. Thuế a. Khái niệm, ý nghĩa và tầm quan trọng của thuế trong điều chỉnh vĩ mô của nhà nước. Thuế là một hình thức phân phối lại được Nhà nước sử dụng để động viên một phần thu nhập của các pháp nhân và thể nhân, là khoản đóng góp mang tính chất pháp lệnh mà Nhà nước bắt buộc mọi người dân hoặc các tổ chức kinh tế phải nộp cho NSNN để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình.Khoản nộp về thuế mang tính chất không hoàn trả trực tiếp, một phần được hoàn trả dưới dạng gián tiếp thông qua các trợ cấp xã hội, phúc lợi công cộng. Thuế là một phạm trù kinh tế khách quan, xuất hiện và tồn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của Nhà nước và sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư. Để thoả mãn nhu cầu chi tiêu của mình và của xã hội, Nhà nước phải dùng quyền lực để tham dự vào việc phân phối một phần sản phẩm xã hội, đặt ra chế độ thuế buộc mọi người dân phải đóng góp. Phương thức động viên tài chính đầu tiên xuất hiện trong lịch sử, đó là thuế. Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội, sự phát triển ngày càng cao của kinh tế hàng hoá, tiền tệ, sự gia tăng mạnh mẽ của quyền lực Nhà nước đã phát sinh những chi tiêu to lớn và làm nảy sinh những biến đổi mới về thuế, các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị được hình thành và phát triển có tính hệ thống. Với những bước tiến của lịch sử, chỉ dùng thuế không đủ, Nhà nước còn phải phát hành công trái hoặc phát hành thêm giấy bạc, nhưng thuế vẫnlà phương thức đông viên tài chính chủ yếu của Nhà nước thuộc các chế độ xã hội khác nhau. Hiện nay, thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của Nhà nước ta, chiếm xấp xỉ 85% tổng số thu NSNN. Nó đã đảm bảo được các khoản chi thường xuyên và trả nợ của NSNN. Điều này đã chứng minh vai trò và ý nghĩa quan trọng của thuế đối với nền tài chính nước ta. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường thì sự điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước phải phù hợp với yêu cầu khách quan, không thể là sự can thiệp tuỳ tiện bằng mệnh lệnh hành chính, mà là tìm tòi những phương thức và công cụ có hiệu quả để quy luật giá trị và các quy luật khác của nền sản xuất hàng hoá có điều kiện phát huy đầy đủ tác dụng, khắc phục tính tự phát của thị trường. Nhà nước điều chỉnh thị trường bằng chiến lược và kế hoạch định hướng, bằng chính sách và công cụ kinh tế như giá cả, lãi suất, thuế là chủ yếu. Sự điều chỉnh của Nhà nước phải nhanh nhạy và linh hoạt để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, có hiệu quả và công bằng xã hội. Nhà nước điều khiển thị trường và thị trường định hướng hoạt động cho các doanh nghiệp. Trong nhiều công cụ kinh tế được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thì thuế là một phương tiện có tầm quan trọng đặc biệt. Một chính sách thuế được ban hành hợp lý, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, thì nó sẽ góp phần khắc phục sự trì trệ và lạc hậu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, ổn định và lâu dài. Ngược lại, một chính sách thuế không phù hợp sẽ trở thành một vật cản, gây trở ngại cho sự lớn mạnh của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, thậm chí có thể gây nên khủng hoảng kinh tế chính trị. b. Vai trò của Thuế trong điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước Trong nền kinh tế thị trường, thuế có ba vai trò chủ yếu sau: Thứ nhất, thuế là công cụ để huy động nguồn thu quan trọng cho NSNN. Huy động nguồn thu quan trọng cho NSNN là vai trò chủ yếu của nhiều chính sách thuế. Bất kỳ Nhà nước nào cũng phải thu thuế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Thuế là nguồn vật chất quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của bộ máy quyền lực Nhà nước. Thứ hai, thuế góp phần điều chỉnh kinh tế. Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả, đến quan hệ cung cầu, đến cơ cấu đầu tư và sự phát triển hoặc suy thoái của nền kinh tế. Căn cứ vào tình huống cụ thể, Nhà nước có thể chủ động điều hành về thuế. Lúc hoàn cảnh kinh tế quá thịnh thì việc gia tăng thuế sẽ có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của tổng cầu, làm giảm bớt sự phát triển kinh tế. Lúc hoàn cảnh kinh tế sa sút, sản suất suy thoái thì việc hạ thấp thuế sẽ có tác dụng nâng cao nhu cầu tổng thể, nhờ đó mà xúc tiến phục hưng kinh tế. Thuế có tác động trực tiếp đến giá cả, đến thu nhập, vì vậy dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích luỹ và đầu tư. Việc quy định thuế lợi tức, thuế ưu đãi đối với các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích như sản xuất nhiều hàng hoá xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu cần thiết, đầu tư vào những vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, không thuận lợi…là nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế một cách đồng bộ trong cả nước theo hướng có lợi. Thông qua áp dụng thuế suất thấp đối với các mặt hàng thiét yếu, phổ thông Nhà nước tác động làm cho giá cả hạ, tiêu dùng tăng lên đáng kể, cũng qua đó cho phép doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế cao. Áp dụng thuế suất cao đối với hàng hoá xa xỉ, dịch vụ cao cấp sẽ tác động làm cho giá cả tăng, giảm mức tiêu dùng sản xuất. Như vậy thuế không những có ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu mà còn góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ý muốn. Đối với thuế xuất nhập khẩu, thông qua việc xác định các mặt hàng chịu thuế tương ứng với các mức thuế suất có phân biệt, Nhà nước đã phát huy tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thúc đẩy các hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu theo định hướng đã đề ra. Thứ ba, thuế góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối. Trong nền kinh tế thị trường, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, để tự thị trường điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhập sẽ càng tập trung, tạo hai cực đối lập nhau, một thiểu số người sẽ giàu có lên nhanh chóng và đa số người nghèo cuộc sống vẫn không được cải thiện. Tình trạng trên chẳng những liên quan tới vấn đề đạo đức công bằng mà còn tạo nên sự đối lập giai cấp, và làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự phát triển kinh tế của một đất nước. Trong thực tiễn sự, phát triển kinh tế của một quốc gia; là kết quả nỗ lực cộng đồng của toàn dân, mội thành viên trong xã hội đều có ngững đóng góp nhất định của họ. Thành quả của sự phát triển kinh tế, nếu không chia sẻ cho mọi người cùng hưởng thì rõ ràng là mất đi công bằng. Bởi vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước trong sự phân phối thu nhập trong xã hội, đặc biệt thông qua công cụ thuế. Việc điều hoà thu nhập được thể hiện qua thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế đánh cao vào những mặt hành dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của người giàu, hoặc thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của công ty hoặc cá nhân có thu nhập. Nhìn chung đối tượng càng có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, có thu nhập thấp thì nộp ít, thu nhập chỉ đủ đảm bảo cuộc sống bình thường thì không phải nộp thuế. Số tiền Nhà nước thu được sẽ được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng xã hội. Cơ chế thuế như vậy sẽ tạo điều kiện để chuyển dịch thu nhập từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp, để rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. c. Thực trạng Sau gần ba năm thực hiện chiến lược cải cách hệ thống chính sách thuế giai đoạn 2001 – 2010, đến nay chúng ta đã thu được một số thành tựu đáng khích lệ: Vai trò huy động nguồn thu cho NSNN đã được thực hiện và phát huy mạnh mẽ trong thực tiễn cuộc sống. Thuế đã dược ban hành dưới hình thức luật, pháp lệnh, tính pháp lý của chính sách thuế đã được nêu lên rõ rệt nên đã có tác dụng nâng cao quyền lực của Nhà nước trong việc thu thuế và ý thức trách nhiệm của người nộp thuế. Nguồn thu về thuế đã tăng lên đáng kể, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu NSNN và đáp ứng dược yêu cầu chi thường xuyên và trở nợ nước ngoài của NSNN, góp phần chống lạm phát và ổn định vật giá. Chúng ta đã thực hiện được một chính sách thuế thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Điều này không những phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sản xuất kinh doanh trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, mà còn đặt ra đòi hỏi cácc doanh nghiệp quốc doanh phải vươn lên hoạt động có hiệu quả, khắc phục dần hiện tượng ỷ lại vào Nhà nước, hạn chế được những lợi dụng mức chênh lệch về thuế trước đây để trốn, lậu thuế dưới hình thức núp bóng quốc doanh, tập thể. Tuy nhiên, hệ thống chính sách thuế hiện hành còn tồn tại nhiều hạn chế sau: Hệ thống thuế chưa bao quát được hết nguồn thu. Với sự phát triển của kinh tế thị trường, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh mới, đối tượng thu mới đã và đang xuất hiện, cho đến nay ta vẫn chưa có chính sách thu hoặc chưa nghiên cứu định hướng thu cho phù hợp như: hoạt động kinh doanh bất động sản, hoạt động sản xuất kinh doanh của doang nghiệp Việt Nam có vốn đầu tư ở nước ngoài, dịch vụ môi giới đầu tư, công ty cổ phần… Động viên về thuế hiện hành cũng chưa đề cập đến việc phân phối lại một phần vào tích luỹ của quá khứ như thuế tài sản, thuế thừa kế… Hoặc ngay trong từng sắc thuế, diện thu thuế cũng còn bị hạn chế chưa được nghiên cứu mở rộng, như chưa thực hiện thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng xăng dầu, dịch vụ cao cấp…hoặc một số mặt hàng nhập khẩu nhằm hạn chế để bảo vệ sản xuất nội địa và thúc đẩy phát triển công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu. Chính sách thuế của ta còn phức tạp, chưa rõ ràng và chưa phù hợp với điều kiện, trình độ của người thu và nộp thuế. Tính chất gián thu và trực thu còn lẫn lộn trong các chính sách thuế, chưa có sự phân biệt rõ ràng. Do mỗi sắc thuế hiện nay phải đạt nhiều mục tiêu cùng một lúc nên cơ cấu thuế suất thường phức tạp, có nhiều thuế suất khác nhau. Thậm chí trong cùng một ngành nghề cũng phân biệt thuế suất khá chênh lệch. Nội dung luật thuế và các văn bản hướng dẫn lại không xá định rõ những phạm trù kinh tế mà theo đó sẽ áp dụng các mức thuế khác nhau nên đã gây khó khăn cho việc thu và nộp thuế, tạo sơ hở trong chính sách, dễ gây tuỳ tiện và tiêu cực khi thực hiện. Biểu thuế suất, thuế nhập khẩu hiện có tới 50.000 mặt hàng khác nhau, có nhiều loại không thể xếp vào loại , chương, nhóm nào được nhưng có mặt hàng lại có thể xếp vào nhiều loại, chương, nhóm khác nhau. Việc phân chia quá chi ly về thuế vừa gây chậm trễ, khó khăn trong việc tra cứu để tính và nộp thuế, vừa phải chi phí tốn kém cho việc quản lý thuế mà cuối cùng cũng không đạt được những mục tiêu ban đầu đề ra. Mặt khác phạm vi miễn giảm thuế còn quá rộng và chưa theo một nguyên tắc nhất quán nên đã khiến cho nguồn thu về thuế bị ăn mòn, đồng thời tạo kẽ hở trốn thuế, tránh thuế, tỷ lệ thuế đặt ra do đó không sao phát huy được trọn vẹn. Việc ban hành luật pháp về thuế chưa đồng bộ, thời điểm ban hành giữa luật, pháp lệnh thuế và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành chi tiết chính sách thuế còn cách xa nhau nên làm cho người thi hành phải chờ đợi khá lâu, không những làm cho việc thu thuế bị chậm trễ, mà còn làm cho tác dụng của luật pháp bị hạn chế. Hơn nữa điều này còn tạo ra tâm lý coi trọng thông tư hơn pháp luật, pháp lệnh, coi trọng cơ quan hành pháp hơn cơ quan lập pháp. Quan niệm này hoàn toàn xa lạ với Nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng. Sự thống nhất chung của pháp luật không được thực hiện nghiêm chỉnh, vẫn còn tình trạng ngành chủ quản tự hướng dẫn các đơn vị trực thuộc thi hành nộp thuế khác với luật quy định làm rối trong việc thực hiện chính sách thuế ở cơ sở. Tình trạng “loại phí, lệ phí” còn diễn ra phổ biến ở các địa phương, Nhà nước không thể kiểm soát nổi, hầu hết các khoản thu này không được nộp vào NSNN và sử dụng có hiệu quả. Bên cạnh đó vai trò của Nhà nước trong việc xử lý và cưỡng chế thi hành luật và pháp lệnh còn bị xem nhẹ nên vấn đề dây dưa nợ thuế, thất thu còn xảy ra rất đa dạng và phức tạp. Về cơ bản, chính sách thuế vẫn chưa khắc phục được hiện tượng thu thuế chồng chéo, trùng lắp qua các khâu (điều nay được thể hiện rõ ở việc đánh thuế doanh thu qua các khâu sản xuất, lưu thông) nên đã gây ra áp lực đẩy giá lên cao làm ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu dùng. Thuế suất của một số sắc thuế hiện nay còn cao, chưa hợp lý nên đã gây ra cản trở cho sản suất kinh doanh như thuế doanh thu đối với hoạt động kinh doanh vàng bạc(2%), hoặc đối với hoạt động kinh doanh tiêu thụ hàng nhập khẩu (8%), thuế tiêu thụ đặc biệt đối với bia (50%)… Kinh nghiệm quản lý thuế ở nhiều nước cho thấy, mức thuế đặt ra vừa phải thì Nhà nước còn thu được thuế, mức thuế đặt ra quá cao thì sẽ thúc đẩy tình trạng buôn gian, bán lậu, trốn lậu thuế sẽ phát triển và thất thu ngày càng lớn. Nội dung một số luật thuế hiện nay còn chưa rõ ràng, chắc chắn và có một số điểm chưa phù hợp với thực tiễn khách quan. Các nhà đầu tư nước ngoài thường có nhận xét, nhìn vào luật thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài người ta không hể tính toán được các khoản thuế phải nộp một cách chắc chắn và từ đó tìm ra hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ thu được qua hoạt động đầu tư vào Việt Nam. Đây cũng là một vấn đề cản trở việc khuyến khích thu hút đầu tư vốn nước ngoài vào nước ta. Hoặc cơ sở tính thuế lợi tức hiện nay không tính đến các chi phí thiệt hại do khách quan gây ra là một điều bất hợp lý, không thể chấp nhận. Vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh trong chính sách thuế hiện nay. Ví dụ doanh nghiệp tư nhân phải nộp thuế lợi tức bổ sung đối với số lợi tức vượt mức quy định nhưng các doanh nghiệp khác không phải nộp. Hoặc kinh tế quốc doanh được hưởng ưu đãi thuế mà các doanh nghiệp khác không được hưởng như: được xét giảm thuế lợi tức trong trường hợp phần lợi nhuận còn lại không bảo đảm mức tối thiểu để trích lập hai quỹ phúc lợi và khen thưởng. Thiết nghĩ, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường việc phân biệt như trên là không hợp lý, trái với quan điểm cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc đánh thuế có phân biệt giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước như hiện nay đã tạo ra những chênh lệch lớn trong cạnh tranh kinh tế, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước tìm cách liên doanh với nước ngoài để hưởng ưu đãi về thuế, tránh thuế hợp pháp. Thiết nghĩ, việc khuyến khích thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho sự phát triển kinh tế đều có tầm quan trọng như nhau, việc phân biệt đối xử về thuế như trên là không hợp lý và không phù hợp với thông lệ quốc tế, cần thay đổi. Trong các sắc thuế của ta còn để ra nhiều trường hợp ưu đãi miễn giảm thuế, nội dung miễn giảm cũng không được quy định rõ ràng nên dễ gây tình trạng tuỳ tiện trong việc thực hiện luật thuế, không bảo đảm công bằng, vì người này xin được giảm thuế thì người khác cũng tìm mọi cách để được ưu đãi. d. Phương hướng hoàn thiện chính sách thuế Qua phân tích một số hạn chế nêu trên có thể đưa đến kiến nghị phương hướng hoàn thiện chính sách thuế như sau: Cần xây dựng một hệ thống thuế tương đối hoàn chỉnh, bao quát được hết các đối tượng và các nguồn phải thu, phải sử dụng các hình thức đa dạng để có thể thu được thuế ở những lĩnh vực, những đối tượng có thể điều tiết. Trước mắt cần nghiên cứu bổ sung chính sách thuế nhằm động viên vào các loại hình sản xuất kinh doanh mới xuất hiện như kinh doanh bất động sản, hoạt động dịch vụ môi giới đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam có vốn đầu tư nước ngoài…định hướng thu thuế vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ sẽ hình thành như công ty cổ phần, kinh doanh chứng khoán và các chứng phiếu có giá trị…Cần mở rộng diện thu thuế của một số sắc thuế trên cơ sở sắp xếp lại thuế suất và cơ cấu thuế suất của các loại thuế, cần thu thuế tiêu thụ đặc biệt vào các mặt hàng xăng dầu, các dịch vụ cao cấp và một số mặt hàng nhập khẩu cần hạn chế để bảo vệ sản xuất trong nước và khuyến khích công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu. Có kế hoạch nghiên cứu thuế đánh vào tài sản để khi có điều kiện có thể ban hành chính sách cụ thể. Thực hiện cơ cấu thuế suất đơn giản, với mức thuế suất vừa phải và mở rộng diện thu thuế. Mỗi sắc thuế chỉ nên tập trung vào một hoặc hai mục tiêu chủ yếu. Để đạt được nhiều mục tiêu như: Đảm bảo nguồn htu cho ngân sách, kích thích sản xuất phát triển theo đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội thì cần phải sử dụng nhiều loại thuế để bổ sung lẫn nhau trong một hệ thống thuế nói chung. Trong thời gian tới vẫn cần coi trọng thuế gián thu hơn thuế trực thu. Muốn có hệ thống thuế ổn định về cơ cấ cần phải lấy thuế gián thu làm trụ cột cho cả hệ thống. Thuế gián thu đáng vào hàng hoá và dịch vụ, được tính trong giá cả hàng hoá, dịch vụ. Thuế này có khung hướng ổn định hơn thuế trực thu vì ngay cả khi nên kinh tế giảm sút thì người ta vẫn phải mua sắm và tiêu dùng cho những nhu cầu cần thiết, Nhà nước vẫn thu được thuế. Thuế trực thu đánh vào thu nhập, thường không ổn định vì nó phụ thuộc vào sự tăng giảm của hiệu quả kinh tế, của thu nhập dân cư và doanh nghiệp. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế một nước còn kém phát triển như nước ta hiện nay, do năng suất lao động còn thấp, hiệu quả kinh doanh chưa cao, thu nhập còn ít ỏi nên thuế trực thu chưa trở thành một nguồn thu lớn của ngân sách. Đồng thời việc quản lý thuế trực thu rất phức tạp và tốn kém, Việc coi trọng thuế gián thu còn xuất phát từ nguyên lý: việc đánh thuế vào những gì mà đối tượng chịu thuế lấy đi của xã hội sẽ có tác dụng tốt hơn là đánh vào những gì mà đối tượng chịu thuế nhập vào cho xã hội. Thực hiện phương hướng này, sẽ có lợi cả về mặt nghiệp vụ quản lý lẫn tâm lý người nộp thuế. Về nghiệp vụ, thu thuế gián thu sẽ đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, đỡ tốn kém hơn nhiều so với thuế trực thu. Về tâm lý, đánh thuế gián thu người chịu thuế sẽ dễ dàng chấp nhận, đôi khi còn kiêu hãnh khi trả giá cho sự tiêu dùng cao cấp của mình. Pháp luật về thuế cần được ban hành đồng bộ, thống nhất từ trên xuống. Thời điểm ban hành về luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành cụ thể, chi tiết chính sách thuế cần đồng bộ một lúc, không cách xa nhau làm ảnh hưởng đến việc thi hành và tính nghiêm túc của pháp luật. Nhà nước thống nhất quản lý lệ phí trong cả nước. Việc ban hành lệ phí ở các địa phương phải được phép của cơ quan thuế, tiền thu lệ phí phải nộp cho NSNN. Mức thu được tính toán trên nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí và điều tiết một phần nào cho ngân sách. Đề cao vai trò của Nhà nước trong việc xử lý và cưỡng chế thi hành chính sách thuế, chống thất thu có hiệu quả. Cần xem xét lại việc quy định về thuế suất, tính cách thuế của một số thuế suất (như thuế doanh thu, thuế lợi tức). Trên cơ sở rà soát lại các mức tích luỹ và mức thuế huy động đối với các mặt hàng hoặc ngành nghề, mà xác định lại thuế suất doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt cho phù hợp, giải quyết thoả đáng lợi ích Nhà nước và người nộp thuế. Nhìn chung trong điều kiện sản xuất kinh doanh có nhiều biến động như hiện nay chính sách thuế cần phải được điều chỉnh linh hoạt không nên cứng nhắc. Nhiều qui định có thể phù hợp với điều kiện khi ban hành chính sách thuế, nhưng lại trở nên lạc hậu trong quá trình thực hiện một vài năm sau đó. Vì vậy việc sửa đổi, bổ sung chính sách cho phù hợp là một đòi hỏi khách quan nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của công cụ thuế đối với việc phát triển kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, để đảm bảo khuyến khích các doanh nghiệp trong va ngoài nước đầu tư vốn để phát triển kinh tế ở nước ta thì vấn đề quan trọng là chính sách thuế đặt ra phải rõ ràng, chắc chắn, làm cho người có vốn đầu tư có thể nhanh chóng tính toán được hiệu quả thu được sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước. Không nên tạo cho chính sách thuế mang đặc tính thoả hiệp, thương lượng, có thể vận dụng thực hiện thao nhiều cách khác nhau. Nếu không định rõ được các chuẩn mực để dựa vào đó mà áp dụng các thuế suất hoặc ưu đãi thuế thì không nên phân biệt đối xử về thuế. Chính sách thuế cũng cần phải có tác động nhất định trong việc hạn chế sự cạnh tranh về lợi nhuận tối đa dẫn tới độc quyền, đầu cơ và sự phá sản của những người sản xuất nhỏ. Cần phải có chính sách thuế bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nếu giữa các doanh nghiệp có sự khác biệt về điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh thì cần phân biệt về mức thuế phải nộp. Những chênh lệch về thuận lợi do tự nhiên mang lại phải được huy động vào NSNN. Ngược lại thì cần có ưu đãi miễn giảm thuế lợi tức cho các doanh nghiệp quốc doanh để đảm bảo mức trích tối thiểu vào vào hai quỹ phúc lợi và khen thưởng hiện hành. Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút vốn trong nước và nước ngoài nhằm đầu tư phát triển kinh tế đòi hỏi cần áp dụng một chính sách thuế thống nhất đối với doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nếu có ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì cũng nên thực hiện đối với cả các doanh nghiệp trong nước. Cần thu hẹp phạm vi ưu đãi miễn, giảm thuế và cần quy định rõ ràng tiêu chuẩn các trường hợp được miễn giảm nhằm tạo nên sự bình đẳng về thuế và sự nghiêm minh của pháp luật, khắc phục tính thoả hiệp , thương lượng của chính sách thuế. Mọi vấn đề mang tính chất xã hội như các chính sách đối với người nghèo, tàn tật, thương binh, liệt sỹ… cần được xử lý dưới hình thức chi Ngân sách, không nên gắn yêu cầu này đòi hỏi chính sách thuế phải đáp ứng. 3. Tiền tệ – tín dụng a. Khái niệm Tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt tách ra làm vật ngang giá chung cho các hàng hoá khác. Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất khác. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tiền tệ vẫn là một hàng hoá đặc biệt đóng vai trò làm vật ngang giá chung, làm trung gian trong việc trao đổi, cũng có năm chức năng và tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế thị trường TBCN. Nhưng bản chất xã hội của nó đã thay đổi. Tiền tệ không biểu hiện quan hệ bóc lột mà phản ánh quan hệ kiểu mới giữa người với người: quan hệ bình đẳng, hợp tác, tương trợ giữa thành thị và nông thôn, giữa Nhà nước và nhân dân. Nó không biến thành tư bản mà trở thành công cụ của Nhà nước chuyên chính vô sản, dùng để xây dựng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ tiền tệ mà người chủ sở hữu tiền tệ cho người khác vay trong thời gian nhất định để thu món lời gọi là lợi tức. Tín dụng là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá, tại cùng một thời điểm, tồn tại những chủ thể kinh tế đang cần thêm vốn để đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ… nhưng cũng đồng thời tồn tại những vốn tiền tệ nhàn rỗi của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức… như tiền tiết kiệm của các hộ gia đình, tiền hàng chưa mua nguyên vật liệu, tiền lương chưa tới kỳ thanh toán, tiền khấu hao tài sản cố định đang trong quá trình tích luỹ…Do đó, việc điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân là một sự cần thiết khách quan. b. Vai trò Thông qua công cụ tiền tệ – tín dụng, Nhà nước can thiệp vào các hoạt động kinh tế, quản lý và hướng dẫn các hoạt động đó theo một chính sách nhất định. Kinh tế thị trường có đặc trưng cơ bản là tiền tệ được sử dụng như một trong hai công cụ tác động có hiệu lực nhất đến hầu hết các hoạt động kinh tế và điều chỉnh các mặt kinh tế – xã hội, đảm nhiệm thực thi các mối quan hệ kinh tế thông qua hệ thống thị trường: thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ, thị trường vốn… Khác với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vai trò của tiền tệ bị bó hẹp, mối quan hệ tiền tê - tín dụng luôn luôn được đặt trong khung của các kế hoạch mang tính pháp lệnh. Do đó, tiền tệ trở nên phụ thuộc và mờ nhạt so với các công cụ kế hoạch và giá cả gần như là một phương tiện thụ động tham gia quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội. Trái lại, tiền tệ – tín dụng trong nền kinh tế thị trường luôn luôn sống động, có phạm vi rộng khắp liên quan và chi phối đến tất cả quá trình tái sản xuất của cải xã hội. Để thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô của công cụ tiền tệ, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều thông qua các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Trong đó các chính sách tiền tệ đều hướng vào các mục tiêu chủ yếu là tạo ra và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, kiểm soát lạm phát và ổn định tiền tệ. Tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể từng nước mà thứ tự ưu tiên của các chính sách tiền tệ được chính phủ mỗi nước hướng đến sẽ không giống nhau. Song tựu chung lại thì mục tiêu cao nhất của chính sách tiền tệ là tăng trưởng kinh tế. Vai trò của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng hết sức quan trọng trong việc huy động và tập trung các nguồn vốn thăng dư nhàn rỗi trong nề kinh tế dưới hình thức “đi vay” để tái phân phối các nguồn vốn nàycho các nhu cầu cần vốn để phát triển kinh tế của các thể nhân và pháp nhân dưới dạng “cho vay”. Song để thực hiện được chức năng “vay để cho vay” phục vụ góp phần tăng trưởng kinh tế, chính phủ thường thông qua Ngân hàng trung ương để có một chính sách lãi suất để điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lãi suất có vai trò kích thích hoặc hạn chế đầu tư, mở rộng hoặc thu hẹp đầu tư ở ngàng, lĩnh vực này. Thực chất lãi suất là một loại giá của tiền tệ để các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệpvà các nhà quản lý có thể tính toán lựa chọn ngành nghề cần đầu tư để tạo mức lợi nhuận cao. Tuy vậy, Chính phủ không thể trực tiếp can thiệp vào lãi suất vì trong thị trường “cơ chế lãi suất là cơ chế thị trường”. Nhưng Ngân hàng trung ương có thể dịch ra khung lãi suất để điều chỉnh lãi suất thị trường, chẳng hạn để có thể thu hút tiền tệ, Chính phủ có thể cho phép nới rộng khung lãi suất để nâng lãi suất tiền gửi nhằm tạo nguồn vốn dồi dào cho tín dụng để thức đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời sự nhạy cảm của thị trường lại xuất hiện khi lãi suất huy động ra tăng thì lãi suất cho vay cũng ra tăng, dẫn đến tác động làm giảm nhu cầu đầu tư. Thêm vào đó, khi lãi suất đi vay của các ngân hàng cao sẽ thu hút một khối lượng tiền tệ trong tổng quỹ tiền tệ tiêu dùng của xã hội làm thu hẹp thị trường tiêu thụ từ đó cũng làm hạn chế khả năng đầu tư. Trên lý thuyết, để khuyến khích đầu tư, các chính phủ đều tìm cách tăng cung tiền để giảm lãi suất. Nhưng trong thực tế, cần thấy rằng, Chính phủ không thể trực tiếp can thiệp vào mức cung tiền tệ cho từng thời kỳ mà chỉ có thể áp dụng chính sách “thắt chặt” hoặc “mở rộng” mức cung tiền của nền kinh tế để gián tiếp tác động vào cung cầu tiền tệ và tạo ra các cơ hội để tăng đầu tư trong nền kinh tế. Mục tiêu thứ hai trong chính sách tiền tệ của chính phủ là tạo công ăn việc làm, đặc biết đối với các quốc gia chậm phát triển với nguồn nhân lực ngày càng gia tăng nhanh hơn số lượng việc làm, dẫn đến tình trạng thất nghiệp và bán thất nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này trong chính sách của Ngân hàng trung ương, các chương trình đầu tư tín dụng được hướng vào các dự án công cộng nhằm giải quyết công ăn việc làm, tạo ngành nghề với các hình thức đầu tư vốn tín dụng ưu đãi. Đồng thời cùng với nguồn vốn NSNN, vốn tín dụng hỗ trợ đầu tư dưới dạng cho vay vào lĩnh vực công cộng sẽ thu hút được thêm số lượng lao động đặc biệt là các chương trình tạo việc làm cho người lao động của chính phủ. Thêm vào đó, vồn tiền tệ tăng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nghĩa là sản xuất được mở rộng và do đó tạo được nhiều việc làm hơn cho người lao động. Tuy nhiên, vai trò điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước thông qua chính sách tiền tệ phải giữ được sự cân bằng tương đối giữa hai mục tiêu đó là: lạm phát và thất nghiệp. Bởi vì, trong ngắn hạn có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Đối với nước ta, thực tiễn cho thấy do trước đây chúng ta chưa nhận thức đầy đủ vai trò của công cụ tiền tệ – tín dụng nên tác dụng của nó chưa được phát huy. Công cuộc chống lạm phát trong những năm đầu đổi mới đã cho thấy được việc Nhà nước sử dụng công cụ tiền tệ để chống lạm phát, ổn định kinh tế là rất có hiệu qủa.Trong tình hình hiện nay, chính phủ cần thông qua chíng sách tiền tệ thắt chặt, sử dụng công cụ lãi suất thích hợp để chống lạm phát, ổn định kinh tế, tạo đà cho tăng trưởng đồng thời với mở rộng đầu tư để tạo thêm công ăn việc làm. c. Thực trạng Sau gần 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt dược nhiều thành quả đáng kể trong việc xây dựng và vận dụng các chính sách tiề tệ, được biểu hiện tập trung ở hai vấn đề sau: Thứ nhất, chính phủ đã xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ đúng đắn, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà nước đã thiết lập và vân hành có hiệu quả các cộng cụ điều hành chính sách tiền tệ. Từ đó kiểm soát được khối lượng tiền trong lưu thông, thực hiện cơ chế cung ứng tiền tệ thông qua các nghiệp vụ của ngân hàng. Nhờ đó đã đảm bảo được khối lượng tiền tệ, tín dụng cần thiết cho nền kinh tế quốc dân; đảm bảo hoạt động an toàn cho hệ thống Ngân hàng Thương mại, có tác động tích cực trong việc huy động vốn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Việc thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt phù hợp với nền kinh tế thị trường đã có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, kích thích xuất khẩu, cải thiện một bước cán cân thanh toán quốc tế, kiềm chế lạm phát và kích thích đầu tư phát triển. Thứ hai, nâng cao hiệu suất huy động vốn của nền kinh tế. Nâng cao năng lực và hiệu quả kinh doanh, đổi mới công nghệ trong hoạt động ngân hàng để tăng cường khai thác, thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế và dân cư. Thực hiện cạnh tranh lành mạnh trong hệ thống Ngân hàng Thương mại; duy trì và mở rộng các hình thức huy động vốn; không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, tạo ra sức hấp dẫn thu hút vốn tiết kiệm của các tổ chức và công chúng vào các ngân hàng thương mại. Bên cạnh những thành quả nói trên, quá trình thực hiện chính sách tiền tệ và cơ chế điều hành của chúng ta cũng còn những hạn chế sau: Thứ nhất, về tín dụng Nhà nước: Nhà nước chưa có một chiến lược tổng thể với những kế hoạch vay nợ và trả nợ trung, dài hạn trong mối tương quan chặt chẽ với kế hoặch chi NSNN cũng như với chính sách chính sách phát triển kinh tế – xã hội trung hạn và dài hạn. Đầu mối quản lý, theo dõi nợ quốc gia, sự phân định trách nhiệm giữa các bộ, ngành còn thiếu chặt chẽ. Tiến độ giải ngân và cơ chế quản lý nguồn vốn ODA chậm và phân tán nên việc tổng hợp, đánh giá hiệu quả kinh tế của nguồn vốn này còn hạn chế. Thứ hai, về công cụ của chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng: Hiệu quả của việc phân phối vốn khả dụng giữa các ngân hàng thương mại của thị trường tiền tệ còn thấp. Lãi suất trên thị trường liên ngân hành chưa phản ánh đúng đắn cung cầu vốn khả dụng, chưa thực sự trở thành nguồn cung cấp thông tin trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Công cụ lãi suất tái cấp vốn còn tỏ ra mờ nhạt. Quy mô thị trường mở nhỏ bé, chính sách quản lý ngoại hối, cơ chế điều hàng tỷ giá thiếu linh hoạt; sức mua đối ngoại của đồng tiền nội tệ chưa ổn định, hiệu quả kinh doanh của hệ thông ngân hàng thương mại chưa cao, nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng còn nhiều hạn chế… d. Hoàn thiện chính sách tiền tệ, ngân hàng giai đoạn 2004 – 2010 Để đảm bảo thành công chính sách tự do hoá lãi suất, cần tiếp tục phát triển hệ thống tín dụng ngân hàng, nâng cao tính chuyên nghiệp của các tổ chức tín dụng. Mặt khác, phát triển hợp lý về cấu trúc của thị trường tài chính đảm bảo cho cơ chế điều hoà vốn và cạnh tranh của các tổ chức tín dụng vận hành; tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý đảm bảo cho hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh. Ngân hàng Nhà nước cần tập trung xây dựng cấu trúc các loại lãi suất chủ yếu trên thị trường tiền tệ để can thiệp và điều chỉnh lãi suất thị trường. Khi thị trường chứng khoán trở thành một trong những trục chính của thị trường vốn và có sự bắt nhịp với thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước sẽ tập trung sử dụng công cụ thị trường mở, làm nòng cốt trong việc điều hành cơ chế lãi suất theo cơ chế thị trường ở trình độ cao. Đẩy mạnh chính sách tự do hoá tỷ giá hối đoái phù hợp với xu thế tự do hoá tài chính và sự hội nhập của nền kinh tế. Muốn vậy, phải có bước đi thích hợp để bảo đảm ổn định giá trị tiền tệ quốc gia, kiểm soát lạm phát, kích thích xuất khẩu, thu hút đầu tư, gia tăng tích luỹ ngoại và đảm bảo khả năng trả nợ của quốc gia. Giai đoạn 2001 – 2005, cần tập trung củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; nâng cao tiềm lực dự trữ ngoại tệ quốc gia; tăng cường vai trò người mua bán cuối cùng của Ngân hàng Nhà nước. Giai đoạn 2006 – 2010, nền kinh tế sẽ hội nhập, thị trường tiền tệ phát triển, dự trữ ngoại tệ quốc gia được nâng cao, hệ thống ngân hàng thương mại phát triển và hoà nhập vào đời sống đời sống đầy năng động của thị trường tiền tệ. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước có thể tiến tới thực hiện chính sách tự do hoá tỷ giá hối đoái. Xoá bỏ biên độ giao dịch, và dựa vào quan hệ cung cầu trên thị trường, Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá thị trường liên ngân hàng giữa các đồng tiền để làm cơ sở cho ngân hàng thương mại ấn định tỷ giá giao dịch trong hoạt động của mình. Từ năm 2011 trở đi, tố chất quốc tế hoá của thị trường tiền tệ sẽ đạt mức tương đối cao, đồng tiền Việt Nam có sự chuyển đổi trong các hạng mục trên tài khoản vốn. Lúc ấy, Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi, nghĩa là chế độ tỷ giá được xác định hoàn toàn dựa trên cơ sở biến động của các yếu tố trên thị trường và gián tiếp can thiệp thông qua lãi suất tái cấp vốn thị trường mở. Cần đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại và lành mạnh hoá tài chính các ngân hàng thương mại cổ phần, nhằm xây dựng một hệ thống ngân hàng vững mạnh, tăng cường tính minh bạch, hiệu quả, cạnh tranh; đảm nhận tốt vai trò trung gian trong việc huy động và phân bổ vốn. Tiến tới thành lập và phát triển thị trường liên ngân hàng, trước mắt là tại các trung tâm giao dịch lớn. 4. Dự trữ tài chính và bảo hiểm a. Sự cần thiết khách quan phải có dự trữ Trong quá trình tái sản xuất và hình thành của cải vật chất, do do sự nhân thức thiếu đầy đủ các quy luật thiên nhiên và các đối tượng khác mà con người chưa kiểm tra được, nên tác động của yếu tố đó có thể làm cho con người sản xuất không thu được những kết quả như đã dự định từ trước, làm mất cân đối quá trình sản xuất xã hội. Đó chính là tiền đề khách quan cần phải thiết lập quỹ dự trữ. Trong tác phẩm “Chống duyring”, Ph. Anggen đã chứng minh rằng sự tích luỹ của quỹ dự trữ: “đã và sẽ tồn tại trên cơ sở tất cả các quá trình phát triển của xã hội, chính trị và văn minh”. Mặc dù luôn tồn tại quy định lập quỹ dự trữ, nhưng khả năng để lập ra chúng chỉ xuất hiện trong điều kiện sản xuất khi đã đủ hàng hoá tiêu dùng và ngoài ra còn có sản phẩm thặng dư. Và do đó, sản phẩm thặng dư chính là nguồn để hình thành các quỹ dự trữ. Như vậy nhu cầu thành lập các quỹ dự trữ được xuất hiện trong sự phát triển sản xuất xã hội. b. Phân loại dự trữ Một quốc gia do có sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau dẫn đến việc hính thành các loại dự trữ bảo hiểm khác nhau. Nhìn chung có thể chia chúng thành bốn loại: Một là, các dự trữ bằng hiện vật tập trung của Nhà nước: được hình thành bằng cách lập quỹ dự trữ tập trung và sử dụng theo quyết định của chính phủ và các tổ chức Nhà nước khác. Quỹ này được thành lập nên từ những hiện vật chiến lược như lương thực, thực phẩm và những vật phẩm quý hiếm: vàng, bạc, kim loại… Hai là, các quỹ dự trữ tài chính tập trung toàn quốc gia: bao gồm các quỹ dự trữ của NSNN, Ngân hàng Nhà nước, các Ngành, các Bộ, Tổng cục và các liên hiệp xí nghiệp có 100% vốn của Nhà nước. Dự trữ bằng ngoại tệ và tiền nội địa. Các quỹ dự trữ bằng hiện vật tập trung cũng như quỹ dự trữ tài chính của Nhà nước được phép sử dụng nhằm đề phòng sự mất cân đối trong phạm vi toàn xã hội, phục hồi sự mất cân đối kinh tế, giúp đỡ tài chính cho các Ngành, Bộ, Liên hiệp xí nghiệp và xí nghiệp có 100% vốn của Nhà nước khi cần thiết và tiế hành mua hàng hoá, vật tư thiết bị cần thiết của nước ngoài. Ba là, các quỹ dự trữ phân tán bằng tiền và hiện vật: được lập ở từng đơn vị kinh tế, xí nghiệp tư nhân hay từng vùng nhỏ, hộ gia đình có một ý nghĩa đặc biệt là từng đơn vị kinh tế có thể lập và tự quyết định vấn đề sử dụng quỹ mỗi khi có thiệt hại về kinh tế đối với đơn vị kinh tế đó. Quỹ dự trữ phân tán bằng tiền và hiện vật được phản ánh trên số tiền và hiện vật dự trữ tại các doanh nghiệp tư nhân, số tiền gửi tiết kiệm của dân cư và vàng, đôla mà dân cư mua cất trữ tại các gia đình. Bốn là, quỹ bảo hiểm: là một thành phần tronghệ thống dự trữ Nhà nước đợc hình thành do thu phí bảo hiểm bằng tiền hoặc hiện vật từ người tham gia bảo hiểm và chỉ được chi cho những mục đích nhất định – bồi thường và chi bảo hiểm cho những cá nhân hay đơn vị pháp nhân có tham gia lập quỹ Về nội dung kinh tế thì quỹ bảo hiểm là một thành phần cần thiết của quỹ dự trữ và giữa chúng có sự liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên giữa chúng có sự khác biệt về mục đích và hình thức sử dụng Mục đích chính của quỹ dự trữ là khắc phục những thiệt hại do bất kỳ nguyên nhân nào, mà không cần một điều kiện gì khi cần thiết. Còn quỹ bảo hiểm chỉ dùng để khắc phục những thiệt hại cho trường hợp bất ngờ và thiên tai, đặc biệt chúng được lập nên cho những mục đích nhất định đã được ấn định và đặt điều kiện từ trước. Tất cả các quỹ dự trữ và bảo hiểm nói trên có quan hệ mật thiết với nhau. Sự tương quan tỷ lệ giữa các quỹ đó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển xã hội khác nhau. Nghiên cứu và phân tích nội dung kinh tế của các quỹ dự trữ và bảo hiểm ta thấy chúng có những sự giống nhau cơ bản đó là sự thống nhất của các quỹ trên được hình thành từ một nguồn cơ bản – sản phẩm thặng dư, tức là khi con người đã sản xuất ra số sẩn phẩm nhiều hơn sự cần thiết để duy trì cuộc sống hằng ngày và phần sản phẩm dôi ra đó con người dùng để bù đắp cho sự hao mòn tư liệu sản xuất và ngoài ra còn để tích luỹ cho những khó khăn không ngờ tới. c. Vai trò Nghiên cứu vai trò của dự trữ, bảo hiểm trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, bởi vậy chúng ta chỉ dừng lại phân tích quỹ dự trữ tài chính quốc gia. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới, quỹ dự trữ được tập trung lại một mối để quản lý và sử dụng. Sự quản lý tập trung quỹ dự trữ cho phép Nhà nước thực hiện chính sách tài chính thống nhất, đảm bảo khả năng cấp phát tài chính một cách liên tục cho các biện pháp phát triển kinh tế - xã hội và củng cố khả năng quốc phòng của Nhà nước khi cần thiết. Chẳng hạn, tung dự trữ để ổn định giá cả, lấy từ quỹ dự trữ quốc gia để bù đắp cho những thiệt hại lớn có ảnh hưởng đến dây chuyền sản xuất làm mất sự cân đối trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường, bảo hiểm không những đóng vai trò là người bảo vệ, che chắn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ khỏi bị tác động ngoài ý muốn của họ mà còn thu hút một nguồn vốn đáng kể từ các cá nhân và các doanh nghiệp để đầu tư cho các chương trình kinh tế thông qua thị trường tài chính. d. Thực trạng Theo quyết định số 237/2003/QĐ-TTg ban hành ngày 31/11/2003 của Thủ tướng Chíng phủ, thông tin về dự trữ tài chính quốc gia được liệt vào danh mục Bí mật Nhà nước độ tuyệt mật. Bởi vậy trong bài viết này không đề cấp tới các số liệu về dự trữ tài chính quốc gia. Thị trường bảo hiểm Việt Nam trong mấy năm gần đây đã và đang có những bước phát triển đáng khích lệ. Số thành viên tham gia thị trường bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ không ngừng gia tăng (5 công ty bảo hiểm nhân thọ, 13 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 1 công ty môi giới, một công ty tái bảo hiểm, một số văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài). Doanh thu khai thác phí bảo hiểm tăng mạnh qua từng năm (7.680 tỷ vào năm 2002 và 10.090 tỷ vào năm 2003). Nhờ đó, ngoài việc bồi thường, dự phòng, đóng phí tái bảo hiểm… các doanh nghiệp bảo hiểm còn góp phần hình thành thị trường vốn, mỗi năm gần đây đầu tư trở lại cho nền kinh tế khoảng 4.000 tỷ đồng. Việc mở cửa trong kinh doanh bảo hiểm như cho phép các công ty bảo hiểm nước ngoài đặt văn phòng đại diện ở Việt Nam là yếu tố kích thích phát triển hoạt động bảo hiểm trong nước nâng cao chất lượng phục vụ, kinh doanh bảo hiểm, chống của quyền khi giải quyết bồi thường và tạo điều kiện cho người sản xuất và người lao động lựa chọn cho mình người bảo vệ tốt nhất. Tuy nhiên khi thị trường bao hiểm Việt Nam mở cửa hoàn toàn, nhiều công ty bảo hiểm lớn của thế giới sẽ “nhảy vào”, lúc đó cuộc cạnh tranh sẽ trở nên quyết liệt hơn nhiều. Các công ty bảo hiểm trong nước sẽ phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt trên các phương diện về chất lượng phục vụ, sản phẩm bảo hiểm, năng lực vốn, giá cả dịch vụ… Riêng về mặt sản phẩm bảo hiểm, các công ty bảo hiểm Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh từ việc cung cấp ngày càng nhiều hơn các sản phẩm bảo hiểm khi có càng nhiều nhà bảo hiểm mới vào thị trường. e. Giải pháp Để đảm bảo việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính quốc gia thực hiện một cách bí mật và có hiệu quả thì việc hình thành và quản lý quỹ dự trữ tài chính quốc gia cần được tập trung thống nhất ở Cục Kho bạc Nhà nước Việt Nam, do Bộ trưởng Bộ Tài chính trực tiếp điều hành. Cục Kho bạc Nhà nước Việt Nam cần nghiên cứu và đề ra các nguyên tắc sử dụng quỹ như định tỷ lệ lập quỹ hàng năm, nguyên tắc sử dụng quỹ hàng năm. Hệ thống tổ chức đảm bảo điều hàng và phối hợp với tất cả các cấp liên quan đến việc sử dụng quỹ một cách có hiệu quả, ứng phó kịp thời với nhu cầu thị trường một cách bí mật. Có thể phân chia thành hai tổ chức quản lý quỹ dự trữ quốc gia tại hai miền Nam, Bắc. Trên cơ sở mạnh của mỗi vùng mà hai trung tâm trên ra những quyết định cần thiết có lợi cho nền kinh tế quốc dân. Hằng năm người lãnh đạo mỗi vùng có trách nhiệm báo cáo đầy đủ những hoạt động của mình tại cuộc họp đại biểu Quốc hội một cách công khai. Tổ chức này trực thuộc Bộ Tài chính do Bộ trưởng Bộ Tài chính trực tiếp chỉ đạo. Việc phát triển và sắp xếp các doanh nghiệp bảo hiểm cần hướng đến mục tiêu phát triển các loại hình doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ theo hướng đa dạng hoá hình thức sở hữu. Bảo Việt sẽ được xây dựng thành một tập đoàn tài chính đa năng hoạt động, trong đó hoạt động chủ yếu là kinh doanh bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm Nhà nước khác sẽ được tiến hành cổ phần hoá. Để có được các tập đoàn bảo hiểm mạnh, ngoài việc liên kết và sát nhập các công ty bảo hiểm trong ngành, các công ty bảo hiểm Việt Nam cần gia tăng liên kết với các tập đoàn tài chính khác, các ngân hàng, các tổ chức tín dụng có mạng lưới rộng khắp để có thể tập dụng các kênh phân phối của ngân hàng và chia sẽ dịch vụ với họ… Hy vọng thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ tiếp tục sôi động, đạt mức tăng trưởng cao, cạnh tranh quyết liệt nhưng “đẹp” và lành mạnh. Các doang nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ tìm được cho mình một hướng đi đúng để đứng vững, hoạt động hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trước xu thế hội nhập phát triển. Kết luận Như vậy, thông qua các công cụ tài chính là NSNN, thuế, tiền tệ – tín dụng, dự trữ tài chính và bảo hiểm, Nhà nước có thể các động tới toàn bộ nền kinh tế như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm lạm phát, ổn định sản xuất, kích thích đầu tư… Những sự điều chỉnh trong chính sách tài chính của quốc gia sẽ kéo theo sự thay đổi hành vi của mỗi chủ thể trong nền kinh tế. Bởi vậy, để đảm bảo cho nền kinh tế vận hành một cách có hiệu quả theo những phương hướng và mục tiêu đạt ra thì nhất thiết phải xây dựng được chiến lược đổi mới chính sách tài chính một cách khoa học và đúng đắn. Trên cơ sở những phân tích trên đây, có thể thấy chính sách tài chính quốc gia nhìn chung cần có những mục tiêu sau đây: Một là, xây dựng một nền tài chính quốc giâ vững mạnh nhằm động viên, phân phối và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng cao, ổn định và bền vững, đồng thời đáp ứng yêu cầu quốc phòng, an ninh và chiến lược phát triển con người, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hai là, Bảo đảm phát huy vai trò điều tra, giám sát của tài chính Nhà nước, làm cho tài chính trở thành công cụ của Nhà nước trong việc kiểm soát, quản lý vĩ mô nền kinh tế, thông qua việc sử dụng hiệu quả các chính sách, pháp luật tài chính, các công cụ tài chính. Ba là, lành mạnh hoá môi trường kinh tế vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế chuyển mạnh sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hù hợp với điều kiện và đặc điểm của Việt Nam. Để thực hiện được các mục tiêu trên, chính sách tài chính quốc gia phải thể hiện được năm quan điểm sau: Thứ nhất, bảo đảm khai thác tối đa các nguồn lực tài chính trong nước kết hợp với huy động các nguồn lực tài chính bên ngoài, coi nguồn tài chính trong nước là quyết định, nguồn tài chính trong nước nhằm xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, ổn định, vững chắc. Thứ hai, gắn việc đổi mới cơ chế tài chính với đổi mới cơ chế quan rlý kinh tế nói chung, đồng thời thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế toàn diện và sâu sắc, phát huy vai trò của các công cụ tài chính – tiền tệ trong nền kinh tế, thực hiện việc điều chỉnh và giám sát kinh tế ở tầm vĩ mô. Thứ ba, chính sách tài chính quốc gia phải được hoạch định trên cơ sở đảm bảo các mối quan hệ kinh tế, các cân đối lớn của nền kinh tế. Thứ tư, chính sách tài chính quốc gia phải hướng vào mục tiêu phát triển và đa dạng hoá các thị trường vốn với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Nó phải được thực hiện phù hợp với nền kinh tế mở cửa ra bên ngoài, nối liền và tiến tới hoà nhập thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Thứ năm, nền tài chính quốc gia phải được quản lý bằng pháp luật. Tăng cường pháp chế XHCN, thực hiện nguyên tắc tiết kiệm và có hiệu quả trong quản lý tài chính. Hi vọng trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ từng bước thực hiện thắng lợi ba mục tiêu kể trên, xây dựng một nền tài chính vững mạnh, hiệu quả, góp phần vào sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục lục Lời nói đầu 1 I. Tiền đề ra đời và tồn tại của tài chính 2 II. Bản chất của tài chính 2 III. Chức năng của tài chính 4 1. Chức năng phân phối của tài chính 4 2. Chức năng giám đốc của tài chính 5 IV. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 6 1. Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN 6 2. Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 9 V. Vai trò của tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường 11 1. Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vĩ mô của Nhà nước 11 2. Vai trò tài chính có trọng lượng trong điều hành cơ chế thị trường đi theo các mục tiêu kinh tế xã hội đã được xác định 11 VI. Các công cụ tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp 12 1. Ngân sách nhà nước 12 2. Thuế 17 3. Tiền tệ - tín dụng 24 4. Dự trữ tài chính và bảo hiểm 28 Kết luận 32

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC2105.doc
Tài liệu liên quan