Tóm tắt.
 Trong những năm gần đây, tỉnh Quảng Trị bước vào giai đoạn đổi mới và phát triển kinh 
 tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên cần huy động mọi tiềm năng lao động của con 
 người và tài nguyên thiên nhiên. Bởi vậy, việc kiểm kê, đánh giá lại tiềm năng thiên nhiên, trong 
 đó có tài nguyên nước trở nên cần thiết và cấp bách. Bài báo này công bố kết quảđánh giá tài 
 nguyên nước mặt của tỉnh dựa trên việc sử dụng các số liệu thực đo khí tượng thủy văn 32 năm 
 (19772008) tại các trạm đo hiện có ở trong và lân cận tỉnh kết hợp với phép nội suy và tổng hợp 
 địa lý cùng các phương pháp tương tự thủy văn và mô hình toán. Các kết quả nghiên cứu cho thấy: 
 do nằm trong vùng có lượng mưa năm khá lớn nên Quảng Trị là một trong những tỉnh có nguồn tài 
 nguyên nước mặt khá dồi dào. Tổng lượng dòng chảy hàng năm hình thành trên toàn bộ các lưu 
 vực sông của tỉnh rất lớn, đạt cỡ 6,673 km3. Mức đảm bảo nước tính trung bình hàng năm cho một 
 người dân hiện tại của tỉnh Quảng Trị cao gấp hơn 2,2 lần so với trung bình của cả nước.Tuy 
 nhiên, tổng lượng dòng chảy này lại phân phối rất không đều theo các tháng trong năm nên lũ lụt, 
 hạn hán vẫn có nguy cơ thường trực trên hầu hết các lưu vực sông của tỉnh. Mặc dù chỉ kéo dài 4 
 tháng nhưng mức độ tập trung dòng chảy trong mùa lũ khá lớn, chiếm tới 62,580 tổng lượng 
 dòng chảy cả năm. Mùa kiệt kéo dài tới 8 tháng nhưng có tổng lượng dòng chảy chỉ chiếm khoảng 
 2037,5 tổng lượng dòng chảy cả năm. Chất lượng nước của các sông hồ trong tỉnh hiện tại nhìn 
 chung vẫn còn sạch, đạt tiêu chuẩn loại B cho cấp nước nông nghiệp và công nghiệp. 
Tài nguyên nước mặt tỉnh Quảng Trị
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
13 trang | 
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2180 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tài nguyên nước mặt tỉnh Quảng Trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ  25, Số 3S (2009) 472‐483 
472 
_______ 
Tài nguyên nước mặt tỉnh Quảng Trị 
Nguyễn Thị Nga*, Nguyễn Phương Nhung 
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 25 tháng 11 năm 2009 
Tóm tắt. Trong những năm gần đây, tỉnh Quảng Trị bước vào giai đoạn đổi mới và phát triển kinh 
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên cần huy động mọi tiềm năng lao động của con 
người và tài nguyên thiên nhiên. Bởi vậy, việc kiểm kê, đánh giá lại tiềm năng thiên nhiên, trong 
đó có tài nguyên nước trở nên cần thiết và cấp bách. Bài báo này công bố kết quả đánh giá tài 
nguyên nước mặt của tỉnh dựa trên việc sử dụng các số liệu thực đo khí tượng thủy văn 32 năm 
(19772008) tại các trạm đo hiện có ở trong và lân cận tỉnh kết hợp với phép nội suy và tổng hợp 
địa lý cùng các phương pháp tương tự thủy văn và mô hình toán. Các kết quả nghiên cứu cho thấy: 
do nằm trong vùng có lượng mưa năm khá lớn nên Quảng Trị là một trong những tỉnh có nguồn tài 
nguyên nước mặt khá dồi dào. Tổng lượng dòng chảy hàng năm hình thành trên toàn bộ các lưu 
vực sông của tỉnh rất lớn, đạt cỡ 6,673 km3. Mức đảm bảo nước tính trung bình hàng năm cho một 
người dân hiện tại của tỉnh Quảng Trị cao gấp hơn 2,2 lần so với trung bình của cả nước.Tuy 
nhiên, tổng lượng dòng chảy này lại phân phối rất không đều theo các tháng trong năm nên lũ lụt, 
hạn hán vẫn có nguy cơ thường trực trên hầu hết các lưu vực sông của tỉnh. Mặc dù chỉ kéo dài 4 
tháng nhưng mức độ tập trung dòng chảy trong mùa lũ khá lớn, chiếm tới 62,580 tổng lượng 
dòng chảy cả năm. Mùa kiệt kéo dài tới 8 tháng nhưng có tổng lượng dòng chảy chỉ chiếm khoảng 
2037,5 tổng lượng dòng chảy cả năm. Chất lượng nước của các sông hồ trong tỉnh hiện tại nhìn 
chung vẫn còn sạch, đạt tiêu chuẩn loại B cho cấp nước nông nghiệp và công nghiệp. 
1. Điều kiện địa lý tự nhiên và tình hình 
nghiên cứu khí tượng thủy văn tỉnh Quảng Trị  
Tỉnh Quảng Trị nằm trong phạm vi từ vĩ 
tuyến 16o18’ đến 17o10’ vĩ Bắc và từ kinh tuyến 
106o32’đến 107o34’ kinh Đông, với tổng diện 
tích tự nhiên 4744,15 km2, chia thành 10 đơn vị 
hành chính, trong đó có 2 thị xã (Đông Hà, 
Quảng Trị) và 8 huyện (Vĩnh Linh, Gio Linh, 
Triệu Phong, Hải Lăng, Cam Lộ, Hướng Hoá, 
Đakrông và Cồn Cỏ). 
 Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943 
 E-mail: ngant1956@yahoo.com 
Dãy Trường Sơn phân chia lãnh thổ tỉnh 
Quảng Trị thành hai khu vực Đông Trường Sơn 
(chỉ chiếm phần nhỏ) và Tây Trường Sơn 
(chiếm phần lớn). Theo hướng dốc chung từ 
Tây sang Đông, địa hình tỉnh phân hóa thành 4 
dạng chủ yếu: núi trung bình và núi thấp, đồi 
bát úp, đồng bằng và vùng cát ven biển. Địa 
chất trong tỉnh khá phức tạp. Địa tầng phát triển 
không liên tục. Các trầm tích có tuổi từ 
Paleozoi hạ tới Kainozoi, trong đó trầm tích 
Paleozoi chiếm chủ yếu, gồm 9 phân vị địa 
tầng; 6 phân vị địa tầng còn lại thuộc trầm tích 
Meozoi và Kainozoi. 
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 473
Thổ nhưỡng trong tỉnh tương đối đa dạng. 
Vùng đồng bằng ven biển có vỏ phong hoá chủ 
yếu phát triển trên đá bazan, ngoài ra còn có 
trầm tích biển và phù sa sông, gồm các tiểu 
vùng: bazan Vĩnh Linh, cồn cát-bãi cát và đất 
nhiễm mặn cửa Tùng. Vùng gò đồi có vỏ phong 
hoá phát triển trên đá Mắcma và sa phiến thạch, 
gồm hai tiểu vùng: đất đỏ Bazan và đồi thấp sa 
phiến thạch. Vùng đồi, núi thuộc dãy Trường 
Sơn gồm tiểu vùng đất bazan và tiểu vùng đất 
sa phiến thạch. 
Từ một vùng đất gần như vành đai trắng 
trong thời gian chiến tranh (độ che phủ tự nhiên 
7,4%) nhưng nhờ chương trình hỗ trợ trồng 
rừng PAM, các chương trình Quốc gia 327, 264 
và phong trào trồng rừng, trồng cây nhân dân 
do tỉnh phát động và đầu tư, chỉ sau chưa đầy 
30 năm, độ che phủ rừng tự nhiên đã tăng lên 
tới gần 37%. Thành quả này có ý nghĩa quan 
trọng đối với vấn đề phục hồi hệ sinh thái, 
phòng hộ, giữ đất, điều tiết nguồn nước và khí 
hậu của tỉnh. 
Quảng Trị có chế độ khí hậu nhiệt đới gió 
mùa với những nét dị thường phản ánh tác động 
cực kỳ quan trọng của địa hình Trường Sơn đối 
với hoàn lưu khí quyển: so với các tỉnh phía 
Nam, Quảng Trị có một mùa đông tương đối 
lạnh còn so với các tỉnh phía Bắc, Quảng Trị có 
một mùa đông tương đối ấm; chênh lệch nhiệt 
độ giữa tháng nóng nhất và lạnh nhất khá cao, 
tới 9  10oC; lượng mưa năm khá phong phú, 
độ ẩm cao; có khá nhiều hiện tượng thời tiết đặc 
biệt, mang tính chất thiên tai khí hậu như bão, 
mưa lớn gây lũ lụt, gió Tây khô nóng,... ảnh 
hưởng xấu đến đời sống cây trồng, vật nuôi và 
con người 1. 
Hình 1. Bản đồ mạng lưới sông và các trạm khí tượng thủy văn tỉnh Quảng Trị. 
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 
474
Mạng lưới sông trong tỉnh khá phát triển, 
mật độ sông suối trung bình đạt xấp xỉ 1,0 
km/km2. Các sông chảy trên địa phận tỉnh 
Quảng Trị thuộc bốn lưu vực hệ thống sông 
chính: Thạch Hãn (chiếm 51,3 diện tích tỉnh), 
Bến Hải (22,5), Mê Kông (gồm hai nhánh Sê 
Păng Hiêng và Sê Pôn, chiếm 15,6) và Ô Lâu 
(7,2). Ngoài ra, vùng cát ven biển còn có một 
số sông nhỏ, hầu như độc lập với các hệ thống 
sông nói trên, chiếm khoảng 3,4 diện tích 
toàn tỉnh 2. 
Do có dãy Trường Sơn án ngữ ở phía Tây, 
phần lớn các sông của Quảng Trị đều có chung 
các đặc điểm là ngắn, được đặc trưng bởi hai bộ 
phận thượng và hạ lưu tương phản nhau rõ rệt. 
Đoạn thượng lưu sông thường dốc, thung lũng 
sâu và hẹp, quá trình đào lòng và xâm thực giật 
lùi mạnh, nhiều thác ghềnh nên lũ thường xuất 
hiện đột ngột. Đoạn hạ lưu của các sông thuộc 
sườn Đông Trường Sơn chảy qua vùng đồng 
bằng trước khi đổ ra biển thường có lòng dẫn 
mở rộng, chảy quanh co uốn khúc, độ dốc nhỏ, 
hiện tượng tách dòng, phân nhánh rất phổ biến 
nên thường gây ra hiện tượng bồi xói rất phức tạp. 
Trong tỉnh Quảng Trị có 3 trạm khí tượng 
cơ bản là: Đông Hà, Khe Sanh và Cồn Cỏ; 1 
trạm đo lưu lượng duy nhất là Gia Vòng (các 
trạm thủy văn khác như: Hiền Lương trên sông 
Bến Hải; Thạch Hãn, Cửa Việt trên sông Thạch 
Hãn và Đông Hà trên sông Cam Lộ chỉ tiến 
hành quan trắc mực nước, trong đó các trạm 
Bến Thiêng, Hiền Lương hiện đã ngừng hoạt 
động) (hình 1). Mưa được quan trắc tại tất cả 
các trạm khí tượng và thủy văn. Ngoài các trạm 
này, trước đây còn có một số trạm đo mưa nữa 
như: Vĩnh Linh (19591977), Hiền Lương 
(19611977), Quảng Trị (19611971), Ba Lòng 
(19781991) và Tà Rụt (19781990). Các trạm 
khí tượng thủy văn và đo mưa nói trên đều do 
Trung Tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia quản 
lý. Ngoài ra còn một số trạm do các ngành khác 
quản lý như trạm Rào Quán trên sông Rào 
Quán, được xây dựng để đo lưu lượng và mực 
nước (chỉ trong 3 năm 19831985) phục vụ 
việc thiết kế và xây dựng nhà máy thủy điện 
Rào Quán trên sông Rào Quán; trạm Đăkrông 
trên sông Đăkrông tiến hành quan trắc mực 
nước trong mùa lũ để phục vụ công tác chống 
lụt. 
2. Tài nguyên nước mưa tỉnh Quảng Trị 
2.1. Chuẩn mưa năm và dao động của mưa năm 
trong thời kỳ nhiều năm 
Chuẩn mưa năm là lượng mưa năm trung 
bình trong thời kỳ nhiều năm đã tiến tới ổn 
định. Nó đặc trưng cho mức độ phong phú nước 
mưa của từng khu vực. 
Dựa theo kết quả tính toán chuẩn mưa năm 
(bảng 1) của 12 trạm đo mưa (với liệt số liệu từ 
năm 1977 đến năm 2008), trên nền của bản đồ 
địa hình, bằng phương pháp nội suy tuyến tính 
có xét đến ảnh hưởng của địa hình, bản đồ đẳng 
trị chuẩn mưa năm tỉnh Quảng Trị đã được xây 
dựng. Kết quả thể hiện trên hình 2. 
Bảng 1. Chuẩn mưa năm tại các trạm trong và lân cận tỉnh Quảng Trị 
TT Trạm Chuẩn mưa năm (mm) TT Trạm Chuẩn mưa năm (mm) 
1 Đông Hà 2276,8 7 A Lưới 3542,8 
2 Khe Sanh 2090,9 8 Huế 2859,3 
3 Cồn Cỏ 2190,1 9 Phú ốc 2856,6 
4 Gia Vòng 2492,3 10 Tà Rụt 1958,0 
5 Thạch Hãn 2599,6 11 Lệ Thủy 2289,0 
6 Cửa Việt 2288,0 12 Tâm lưu vực sông Rào Quán tính đến trạm Rào Quán 2898,4 
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 475
Hình 2. Bản đồ đẳng trị chuẩn mưa năm tỉnh Quảng Trị. 
Phân tích bản đồ đẳng trị chuẩn mưa năm 
tỉnh Quảng Trị trên hình 2 có thể phát hiện thấy 
hai đặc điểm nổi bật: 
- Quảng Trị nằm trong vùng mưa tương đối 
lớn của nước ta. Lượng mưa hàng năm tính 
trung bình trên phạm vi toàn tỉnh (theo phương 
pháp đường đẳng lượng mưa) đạt 2402,8 mm. 
- Trong phạm vi tỉnh Quảng Trị, lượng mưa 
năm phân bố không đều theo không gian, phụ 
thuộc vào hướng sườn dốc và phù hợp với xu 
thế tăng dần của mưa theo độ cao địa hình. Nơi 
mưa ít nhất là những thung lũng khuất gió như 
Khe Sanh (2070,3 mm), Tà Rụt (1936,7 mm) và 
phía hữu ngạn của thượng nguồn sông Sê Pôn 
( 1800 mm). Nơi mưa nhiều nhất ( 3000 mm) 
là khu vực núi cao thuộc dãy Trường Sơn ở 
phía Tây của tỉnh, thượng nguồn các sông Rào 
Quán, Cam Lộ. Khu vực trung lưu của các sông 
Bến Hải, Cam Lộ có lượng mưa hàng năm cỡ 
2400-2600 mm. Khu vực trung lưu sông Thạch 
Hãn; khu vực thị xã Đông Hà; vùng đồng bằng 
ven biển thuộc hạ lưu các sông Thạch Hãn, Bến 
Hải và khu vực đảo Cồn Cỏ có lượng mưa hàng 
năm trong khoảng từ 2200 đến 2400 mm. Lưu 
vực sông Thác Mã, Ô Lâu nằm ở rìa phía Bắc 
của tâm mưa A Lưới nên có lượng mưa hàng 
năm tương đối lớn, cỡ 2600-2800 mm. 
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 476
Lượng mưa năm không chỉ thay đổi theo 
không gian mà còn thay đổi cả theo thời gian. 
Mức độ biến đổi của lượng mưa năm trong thời 
kỳ nhiều năm được đánh giá bởi hệ số biến đổi 
lượng mưa năm Cvx còn qui luật thay đổi của 
lượng mưa năm trong thời kỳ nhiều năm được 
thể hiện trên đường lũy tích sai chuẩn lượng 
mưa năm của từng trạm. Kết quả tính toán hệ số 
biến đổi mưa năm tại các trạm trong tỉnh Quảng 
Trị cho thấy: mức độ dao động của mưa năm 
trong thời kỳ nhiều năm ở tỉnh Quảng Trị vào 
loại trung bình. Hệ số biến đổi mưa năm tại đa 
số các trạm dao động trong phạm vi từ 0,20 đến 
0,25, riêng trạm Tà Rụt có địa hình đặc biệt nên 
Cvx  0,31. Trong thời kỳ nhiều năm, các nhóm 
năm mưa nhiều liên tục thường xuất hiện xen 
kẽ với các nhóm năm mưa ít liên tục hình thành 
các chu kỳ mưa không hoàn toàn. Sự xuất hiện 
của những nhóm năm mưa nhiều và mưa ít liên 
tục này gây ra những khó khăn không nhỏ cho 
sản xuất và đời sống. 
2.2. Phân phối mưa trong năm 
2.2.1. Phân phối mưa năm theo mùa 
Cũng như các nơi khác ở nước ta, lượng 
mưa ở tỉnh Quảng Trị cũng phân phối không 
đều trong năm, một năm hình thành hai mùa rõ 
rệt là mùa mưa và mùa khô. Bảng 3 thể hiện kết 
quả phân mùa mưa-khô cho tất cả 7 trạm đo 
mưa trong tỉnh Quảng Trị theo chỉ tiêu "vượt 
trung bình". Các kết quả phân mùa mưa-khô 
trong bảng 2 cho thấy: 
- Mùa mưa và mùa khô bắt đầu và kết thúc 
không đồng bộ trên toàn tỉnh Quảng Trị: Các 
khu vực thuộc sườn Đông Trường Sơn (Đông 
Hà, Gia Vòng, Cồn Cỏ, Thạch Hãn và Cửa 
Việt) có mùa mưa xuất hiện muộn và ngắn, chỉ 
3-4 tháng (từ tháng IX đến tháng XI hoặc XII) 
còn mùa khô kéo dài tới 8-9 tháng (từ tháng 
XII hoặc I đến tháng VIII). Trong khi đó, các 
khu vực thuộc sườn Tây Trường Sơn (Khe 
Sanh) có mùa mưa đến sớm hơn và kéo dài hơn 
(từ tháng VI đến tháng X, kéo dài 5 tháng, 
tương tự như vùng Tây Nguyên) còn mùa khô 
chỉ kéo dài 7 tháng (từ tháng XI năm trước đến 
tháng V năm sau. 
- Sự phân hóa giữa hai mùa mưa-khô ở tỉnh 
Quảng Trị khá sâu sắc: Ở các khu vực thuộc 
sườn Đông Trường Sơn, tổng lượng mưa của 3 
tháng mùa mưa chiếm tới 58-64 tổng lượng 
mưa năm; trong khi đó, tổng lượng mưa của cả 
9 tháng mùa khô chỉ chiếm 36-42 tổng lượng 
mưa năm. Tại các khu vực thuộc sườn Tây 
Trường Sơn, tổng lượng mưa của 5 tháng mùa 
mưa chiếm tới 72 tổng lượng mưa năm còn 
tổng lượng mưa của 7 tháng mùa khô chỉ chiếm 
38 tổng lượng mưa năm. 
Bảng 2. Kết quả phân mùa mưa-khô tại các trạm đo mưa trong tỉnh Quảng Trị 
Mùa mưa Mùa khô TT Trạm Thời gian  so với Xnăm Thời gian  so với Xnăm 
1 Đông Hà IX  XII 72,31 XII  X 27,69 
2 Cồn Cỏ IX  XI 56,78 XII  X 43,22 
3 Gia Vòng IX  XI 63,49 XII  X 36,51 
4 Thạch Hãn IX  XII 72,85 XII  X 27,15 
5 Cửa Việt IX  XII 72,96 XII  X 27,05 
6 Tà Rụt VIII  XI 61,31 XII  VIII 27,15 
7 Khe Sanh VI  XI 81,36 XII  V 18,64 
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 477
2.2.2. Phân phối mưa năm theo tháng 
Biểu đồ phân phối mưa năm theo tháng tại 
các trạm đo mưa trong tỉnh Quảng Trị (hình 3) 
cho thấy: 
(1) Biểu phân phối mưa năm theo tháng tại 
các trạm đo mưa trong phạm vi tỉnh Quảng Trị 
phân hoá thành 2 dạng khác biệt: dạng 2 đỉnh 
(một năm có 2 cực đại và 2 cực tiểu) và dạng 1 
đỉnh (một năm có 1 cực đại và 1 cực tiểu). 
Dạng 2 đỉnh đặc trưng cho các khu vực thuộc 
sườn Đông Trường Sơn. Ở các khu vực này, 
cực đại chính xuất hiện vào X, cực đại phụ xuất 
hiện vào tháng VI do có mưa "tiểu mãn", cực 
tiểu chính xuất hiện vào 1 trong các tháng IIV 
còn cực tiểu phụ xuất hiện vào tháng VII. Dạng 
1 đỉnh đặc trưng cho các khu vực thuộc sườn 
Tây Trường Sơn. Ở các khu vực này, cực đại 
xuất hiện vào X còn cực tiểu xuất hiện vào một 
trong các tháng IIV. 
(2) Sự phân hoá của mưa năm theo tháng là 
khá sâu sắc: Lượng mưa của tháng cực đại 
(tháng X) chiếm từ 20 đến 29 tổng lượng 
mưa năm. Lượng mưa của tháng cực tiểu (I, II, 
III hoặc IV) rất không đáng kể, chỉ chiếm từ 
0,5 đến 2,1 tổng lượng mưa năm. Tháng 
mưa nhiều nhất có lượng mưa lớn gấp từ 10 lần 
(Cồn Cỏ) đến 54 lần (Tà Rụt) lượng mưa của 
tháng mưa ít nhất. Ba tháng mưa nhiều nhất là 
các tháng IX, X, XI. Ba tháng mưa ít nhất là các 
tháng I, II, III hoặc II, III, IV. Tổng lượng mưa 
của ba tháng mưa nhiều nhất lớn gấp từ 7 lần 
(Cồn Cỏ) đến 18 lần (Tà Rụt) tổng lượng mưa 
của ba tháng mưa nhiều nhất. 
Hình 3. Biểu đồ phân phối mưa trong năm tại các trạm đo mưa trong tỉnh Quảng Trị. 
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 478
3. Tài nguyên nước sông hồ tỉnh Quảng Trị 
3.1. Cơ sở số liệu 
Trên các sông suối của tỉnh Quảng Trị chỉ 
có hai trạm đo lưu lượng dòng chảy: trạm Gia 
Vòng trên sông Bến Hải (từ 1977 đến nay) và 
trạm Rào Quán trên sông Rào Quán 
(19831985). Trong khi đó, mặc dù chưa phủ 
kín nhưng mạng lưới các trạm đo mưa trong 
phạm vi tỉnh tương đối nhiều, tiến hành đo 
tương đối đồng bộ và liên tục, đặc biệt là từ 
năm 1977 đến nay. Với tình hình số liệu thực 
đo như vậy, mô hình toán NLRRM (mô hình 
mưa dòng chảy phi tuyến-None Linear Rainfall 
Runoff Model) do Viện Khí tượng Thủy văn 
xây dựng 3 - một mô hình đơn giản nhưng rất 
hiệu quả - đã được lựa chọn ứng dụng để khôi 
phục số liệu quá trình dòng chảy tại các vị trí 
cần thiết (các trạm thủy văn giả định) trên các 
sông của tỉnh từ số liệu đo mưa tại các trạm đo 
mưa trong tỉnh. 
Bộ thông số của mô hình đã được hiệu 
chỉnh dựa trên số liệu mưa và dòng chảy 11 
năm (19791989) tại trạm Gia Vòng và đã 
được kiểm nghiệm cho trạm Gia Vòng dựa trên 
số liệu mưa và dòng chảy độc lập 11 năm 
(19902000) và cho trạm Rào Quán dựa trên 3 
năm (19831985) số liệu dòng chảy tại trạm 
Rào Quán và mưa tại trạm Khe Sanh. Các kết 
quả hiệu chỉnh và kiểm định đều đạt loại tốt 
theo tiêu chuẩn của WMO. Mô hình NLRRM 
với bộ thông số này đã được ứng dụng để khôi 
phục số liệu quá trình dòng chảy 32 năm 
(19772008) tại 9 lưu vực sông, trong đó: 3 lưu 
vực có trạm thủy văn nhưng chỉ đo mực nước 
(các lưu vực sông: Bến Hải-trạm Bến Thiêng, 
Thạch Hãn-trạm Đông Hà, Thạch Hãn-trạm 
Thạch Hãn) và 6 lưu vực khống chế bởi các 
trạm lưu lượng giả định (các lưu vực sông: 
Đăkrông-trạm Ba Binh, Ô Khế-trạm Hải 
Trường, Sê Păng Hiêng-trạm Ta Păng, Ái Tử-
trạm Triệu Ái, La La-trạm Troai và Nhùng-trạm 
Hải Lâm). Ngoài ra, mô hình cũng được ứng 
dụng để khôi phục số liệu quá trình dòng chảy 
29 năm còn thiếu(19771982, 19852008) của 
lưu vực sông Rào Quán-trạm Rào Quán để có 
được chuỗi số liệu quá trình dòng chảy đồng bộ 
với chuỗi số liệu mưa 4. Các số liệu quá trình 
dòng chảy thực đo và khôi phục được nói trên 
là cơ sở số liệu chủ yếu được sử dụng để đánh 
giá tài nguyên nước sông tỉnh Quảng Trị. 
3.2 Tài nguyên nước sông 
3.2.1. Chuẩn dòng chảy năm và dao động 
của dòng chảy năm trong thời kỳ nhiều năm 
Chuẩn dòng chảy năm là trị số dòng chảy 
năm trung bình trong thời kỳ nhiều năm đã tiến 
tới ổn định. Nói theo cách khác, chuẩn dòng 
chảy năm là trị số dòng chảy năm trung bình 
trong thời kỳ nhiều năm với điều kiện cảnh 
quan địa lý không thay đổi, cùng thuộc thời đại 
địa chất ngày nay và cùng mức độ khai thác 
kinh tế sông ngòi 5. Đây là một đặc trưng cơ 
bản và ổn định của nguồn nước của một lưu vực 
sông hay khu vực đã cho. 
Dựa trên 32 năm (1977-2008) số liệu dòng 
chảy năm thực đo tại trạm Gia Vòng và khôi 
phục bằng mô hình NLRRM tại 10 trạm mực 
nước và trạm lưu lượng giả định trong tỉnh 
Quảng Trị, chuẩn dòng chảy năm của các lưu 
vực sông do chúng khống chế đã được tính 
toán. Kết quả được thể hiện trong bảng 3. Bản 
đồ chuẩn mô đun dòng chảy năm tỉnh Quảng 
Trị trên hình 4 được xây dựng dựa trên kết quả 
tính mô đun chuẩn dòng chảy năm Mo (l/skm2) 
tại 11 trạm nói trên. 
Bảng 3. Kết quả tính chuẩn dòng chảy năm cho các lưu vực sông khống chế bởi trạm lưu lượng thực đo 
hoặc giả định trong tỉnh Quảng Trị 
TT Tên trạm 
Diện tích 
lưu vực 
F (km
Chuẩn dòng 
chảy năm 
Q2) 
Chuẩn môđun 
dòng chảy 
năm 
Mo (m
3/s) 
Chuẩn lớp 
dòng chảy 
năm 
Yo (l/skm2) o (mm) 
Chuẩn 
tổng lượng 
dòng chảy năm
W
Chuẩn mưa 
năm bqlv 
X
o (103 m3) o
 (mm) 
Hệ số dòng 
chảy chuẩn 
o 
1 Gia Vòng 300 14,8 49,3 1556,0 466,8 2624,2 0,59 
2 Bến Thiềng 139 6,71 48,3 1522,5 211,6 2602,0 0,59 
3 Đông Hà 480 23,2 48,3 1524,4 731,7 2612,2 0,58 
4 Thạch Hãn 1370 52,1 38,0 1199,4 1643,2 2192,7 0,55 
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 479
5 Hải Trường 47 2,36 50,2 1583,7 74,4 2687,8 0,59 
6 Rào Quán 185 10,4 56,2 1773,1 328,0 2898,4 0,61 
7 Ta Păng 176 9,08 51,6 1629,0 286,4 2782,0 0,59 
8 Triệu Ái 87,1 3,89 44,7 1409,4 122,7 2446,0 0,58 
9 Troai 71,6 2,67 37,3 1175,6 84,2 2165,0 0,54 
10 Hải Lâm 102 4,44 43,5 1372,9 140,0 2400,0 0,57 
11 Ba Binh 536,4 19,1 35,6 1122,8 602,3 2065,0 0,54 
Các kết quả tính toán và thể hiện trên bản 
đồ chuẩn dòng chảy năm tỉnh Quảng Trị cho thấy: 
- Lượng mưa phong phú hàng năm rơi trên 
lãnh thổ tỉnh Quảng Trị đã sản sinh ra một 
lượng dòng chảy dồi dào trên các sông suối. 
Tính trung bình (theo phương pháp đường đẳng 
trị) trên phạm vi toàn tỉnh, mô đun dòng chảy 
năm cũng đã đạt tới 45,4 l/skm2, tương đương 
với lớp dòng chảy hàng năm 1431,2 mm. Hệ số 
dòng chảy năm trung bình trên phạm vi toàn 
tỉnh đạt khoảng 0,60 (nghĩa là trung bình hàng 
năm, trong tổng lượng mưa rơi trên lãnh thổ 
tỉnh Quảng Trị, có khoảng 60 sản sinh ra 
dòng chảy còn phần bị tổn thất chiếm khoảng 
40). Hàng năm, trên toàn bộ sông suối tỉnh 
Quảng Trị hình thành một tổng lượng dòng 
chảy cỡ 6,673 km3, trong đó có tới 78,4% đổ 
trực tiếp ra biển đông; 7,55 chuyển qua tỉnh 
Thừa Thiên Huế rồi đổ vào phá Tam Giang để 
rồi từ đó đưa ra biển qua của Thuận Hải; còn lại 
15,8 được chuyển qua tỉnh Savanakhet của 
nước bạn Lào. Mức đảm bảo nước tính trung 
bình hàng năm cho một người dân hiện tại của 
tỉnh Quảng Trị (tổng số dân lấy theo niên giám 
thống kê 2005) là 10545 m3/người, cao gấp 
hơn 2,2 lần so với trung bình của cả nước 
(4750 m3/người). 
Hình 4. Bản đồ đẳng trị chuẩn mô đun dòng chảy năm tỉnh Quảng Trị. 
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 480
- Trong phạm vi tỉnh Quảng Trị, chuẩn 
dòng chảy năm phân phối không đều theo 
không gian, biến đổi phù hợp với sự biến đổi 
của lượng mưa năm, nghĩa là cũng theo xu thế 
tăng dần theo độ cao địa hình với phạm vi biến 
đổi từ 30 l/skm2 đến 60 l/skm2. Lưu vực sông 
Sê Păng Hiêng, thượng lưu các lưu vực sông 
Bến Hải, Rào Quán, Cam Lộ (thuộc khu vực 
núi cao phía Tây của tỉnh) và lưu vực sông 
Ô Lâu-vùng rìa tâm mưa A Lưới (của tỉnh Thừa 
Thiên Huế)-có lượng mưa hàng năm phong phú 
nhất nên cũng có lượng dòng chảy năm dồi dào 
nhất. Mô đun dòng chảy hàng năm ở các lưu 
vực và phần lưu vực này đạt tới 5060 l/skm2. 
Lưu vực sông Sê Pôn và phần nằm trên sườn 
Tây Trường Sơn của lưu vực sông Đakrông có 
lượng mưa hàng năm ít ỏi nhất cũng là những 
lưu vực có lượng dòng chảy năm nghèo nhất 
tỉnh. Mặc dầu vậy, so với các nơi khác, mô đun 
dòng chảy năm ở đây vẫn thuộc loại khá, cỡ 
3040 l/skm2. Vùng đồng bằng và vùng cát ven 
biển tỉnh Quảng Trị có lượng mưa hàng năm 
vào loại trung bình nên dòng chảy năm của 
sông suối ở đây cũng vào loại trung bình. 
Chuẩn mô đun dòng chảy năm dao động trong 
khoảng 3845 l/skm2. Các khu vực còn lại có 
mưa năm thuộc loại khá nên cũng có chuẩn 
dòng chảy năm vào loại khá (cỡ 4050 l/skm2). 
Kết quả tính hệ số biến đổi dòng chảy năm 
trong thời kỳ nhiều năm và phân tích các đường 
lũy tích sai chuẩn dòng chảy năm tại các trạm 
lưu lượng thực đo và giả định cho thấy: 
- Mức độ biến động trong thời kỳ nhiều 
năm của dòng chảy năm lớn hơn của mưa năm. 
Hệ số biến đổi dòng chảy năm của các lưu vực 
sông khác nhau dao động trong phạm vi từ 0,27 
đến 0,33. 
- Cũng như mưa năm, dao động của dòng 
chảy năm trong thời kỳ nhiều năm cũng có xu 
thế chu kỳ nhưng không chặt chẽ. Những nhóm 
năm nhiều nước liên tục và ít nước liên tục xuất 
hiện xen kẽ nhau tạo thành những chu kỳ nước 
không hoàn toàn. 
- Dao động của dòng chảy năm của các 
sông khá đồng bộ với nhau và với dao động của 
mưa năm. Những năm mưa nhiều cũng là 
những năm dòng chảy sông suối phong phú và 
ngược lại. 
3.2.2. Phân phối dòng chảy trong năm 
* Phân phối dòng chảy năm theo mùa: 
Phù hợp với chế độ mưa-ẩm, chế độ dòng 
chảy trong các sông suối tỉnh Quảng Trị cũng 
phân hoá theo mùa. Một năm hình thành hai 
mùa dòng chảy rõ rệt là mùa lũ và mùa kiệt. Sử 
dụng chỉ tiêu “vượt trung bình”, mùa lũ và mùa 
kiệt của tất cả các lưu vực sông có số liệu dòng 
chảy (hoặc thực đo, hoặc được khôi phục bằng 
mô hình toán) trong tỉnh Quảng Trị đã được 
phân chia với các kết quả như thể hiện trong 
bảng 4. Các kết quả phân mùa dòng chảy cho 
thấy: so với các sông suối ở Bắc Bộ và Nam 
Bộ, mùa lũ trên các sông suối trong tỉnh Quảng 
Trị xuất hiện muộn hơn và duy trì trong khoảng 
thời gian ngắn hơn. Mức độ phân hoá giữa hai 
mùa lũ-kiệt trên các sông suối ở đây cũng khá 
sâu sắc. Đối với các sông chảy trên sườn Đông 
của dãy Trường Sơn, mùa lũ trung bình thường 
bắt đầu từ tháng IX và kết thúc vào tháng XII, 
chỉ kéo dài 4 tháng. Đối với các sông chảy trên 
sườn Tây Trường Sơn, mùa lũ trung bình cũng 
chỉ kéo dài 4 tháng nhưng bắt đầu và kết thúc 
sớm hơn 1 tháng (từ tháng VIII đến tháng XI). 
Mặc dầu chỉ kéo dài 4 tháng nhưng mức độ tập 
trung dòng chảy trong mùa lũ vẫn khá lớn, 
chiếm tới 62,580 tổng lượng dòng chảy cả 
năm.Mùa kiệt trung bình trên các sông suối tỉnh 
Quảng Trị kéo dài tới 8 tháng. Đối với các sông 
chảy trên sườn Đông Trường Sơn, nó bắt đầu từ 
tháng I và kết thúc vào tháng VIII. Thời gian 
bắt đầu và kết thúc của mùa kiệt trong các sông 
suối chảy trên sườn Tây Trường Sơn sớm hơn 
trên sườn Đông trung bình khoảng 1 tháng (bắt 
đầu vào tháng XII năm trước và kết thúc vào 
tháng VII năm sau). Tổng lượng dòng chảy 
trung bình của 8 tháng mùa kiệt đối với các 
sông chảy trên sườn Đông Trường Sơn chiếm 
khoảng 2024 còn đối với các sông chảy 
trên sườn Tây Trường Sơn thì lớn hơn, chiếm 
khoảng 3035 tổng lượng dòng chảy năm.
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 481
 Bảng 4. Mùa dòng chảy trên các lưu vực sông có trạm lưu lượng thực đo hoặc giả định trong tỉnh Quảng Trị. 
Mùa lũ Mùa kiệt TT Lưu vực Thời gian  so với Qnăm Thời gian  so với Qnăm 
1 Sông Bến Hải-trạm Gia Vòng IX  XII 79,8 I  VIII 20,2 
2 Sông Bến Hải-trạm Bến Thiêng IX  XII 76,4 I  VIII 23,6 
3 Sông Thạch Hãn-trạm Đông Hà IX  XII 76,9 I  VIII 23,1 
4 Sông Thạch Hãn-trạm Thạch Hãn VIII  XI 65,1 XII  VII 34,9 
5 Sông Thác Mã-trạm Hải Trường IX  XII 75,8 I  VIII 24,2 
6 Sông Rào Quán-trạm Rào Quán VIII  XI 66,9 XII  VII 33,1 
7 Sông Đăkrông-trạm Ba Binh VIII  XI 70,5 XII  VIII 29,5 
8 Sông Ái Tử-trạm Triệu Ái IX  XII 76,6 I  VIII 23,4 
9 Sông Sê Păng Hiêng-trạm Ta Păng VIII  XI 65,9 XII  VII 34,1 
10 Sông La La-trạm Troai VIII  XI 66,8 XII  VII 33,2 
11 Sông Nhùng-trạm Hải Lâm IX  XII 76,5 I  VIII 23,5 
* Phân phối dòng chảy năm theo tháng: 
 Biểu đồ phân phối dòng chảy năm theo 
tháng dạng bình quân nhiều năm của các lưu 
vực sông có số liệu (hoặc thực đo, hoặc được 
khôi phục bằng mô hình toán) trong tỉnh Quảng 
Trị được thể hiện trên hình 5. Qua đó có thể 
thấy: 
- Cũng như mô hình phân phối mưa trong 
năm, mô hình phân phối dòng chảy trong năm 
của các lưu vực sông trong tỉnh Quảng Trị cũng 
phân hóa thành hai dạng tương ứng với hai 
sườn Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn: 
dạng 2 đỉnh và dạng 1 đỉnh. Dạng phân phối 2 
đỉnh đặc trưng cho các lưu vực sông nằm trên 
sườn Đông Trường Sơn. Tại các lưu vực này, 
cực đại chính thường do mưa lũ lớn gây bởi sự 
kết hợp của các hình thế thời tiết như bão, áp 
thấp nhiệt đới, không khí lạnh, dải hội tụ nhiệt 
đới và thường xuất hiện vào tháng XI. Cực đại 
phụ do mưa tiểu mãn gây ra, thường xuất hiện 
vào tháng V hoặc VI. Cực tiểu chính thường 
xuất hiện vào tháng IV và cực tiểu phụ thường 
xuất hiện vào tháng VII. Dạng phân phối 1 đỉnh 
đặc trưng cho các lưu vực sông nằm trên sườn 
Tây Trường Sơn. Tại các lưu vực này, cực đại 
cũng thường do mưa lũ lớn gây bởi sự kết hợp 
của các hình thế thời tiết như bão, áp thấp nhiệt 
đới, không khí lạnh, dải hội tụ nhiệt đới và tính 
trung bình nhiều năm thường xuất hiện vào 
tháng X. Cực tiểu thường xuất hiện vào tháng 
III. 
- Biên độ dao động của dòng chảy tháng 
trong năm khá lớn. Lượng dòng chảy của tháng 
có dòng chảy lớn nhất (tháng X) chiếm tới 
2230 tổng lượng dòng chảy cả năm. Lượng 
dòng chảy của tháng kiệt nhất (tháng III hoặc 
IV) chỉ chiếm khoảng 0,71,8 tổng lượng 
dòng chảy năm. Điều đó có nghĩa là, lượng 
dòng chảy của tháng có dòng chảy cực đại lớn 
gấp tới 1525,6 lần lượng dòng chảy của tháng 
có dòng chảy cực tiểu. 
Như vậy, mặc dù nhìn chung tổng lượng 
dòng chảy năm trong các sông suối trong tỉnh 
Quảng Trị khá phong phú nhưng do phân phối 
không đều theo thời gian và không gian nên đã 
tạo ra những mâu thuẫn giữa nguồn nước đến tự 
nhiên với nhu cầu dùng nước của con người, 
làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống. 
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 482
Hình 5. Biểu đồ phân phối dòng chảy trong năm tại các trạm lưu lượng thực đo 
và giả định trong phạm vi tỉnh Quảng Trị. 
3.2.3. Chất lượng nước sông 
Các kết quả phân tích các mẫu nước trong 
các sông hồ tỉnh Quảng Trị cho thấy: hầu hết 
các chỉ tiêu vật lý-hóa học-vi sinh của các mẫu 
nước đều nằm trong giới hạn của tiêu chuẩn 
chất lượng nước mặt loại B (TCVN 5942-
1995), một số chỉ tiêu đạt tiêu chuẩn chất lượng 
loại A. Điều đó có nghĩa là chất lượng nước 
mặt tại các sông suối trên địa bàn tỉnh Quảng 
Trị còn khá tốt, hầu như chưa bị ảnh hưởng bởi 
các hoạt động công nghiệp, đảm bảo tiêu chuẩn 
chất lượng nước mặt loại B, có thể sử dụng tốt 
cho nông nghiệp và các mục đích khác. Tuy 
nhiên, nếu dùng cho mục đích sinh hoạt thì phải 
thông qua xử lý (theo qui định) trước khi sử 
dụng. Riêng chất lượng nước kênh thuộc khu 
vực thị trấn Gio Linh đã chớm bị ô nhiễm do 
ảnh hưởng của nước thải sinh hoạt, một số chỉ 
tiêu như Nitrit (NO2-) và chất rắn lơ lửng đã cao 
hơn nhiều giá trị giới hạn cho phép của tiêu 
chuẩn chất lượng nước mặt loại B 6. Sự ô 
nhiễm nước mặt này có nguy cơ ảnh hưởng tới 
chất lượng nước của các giếng đào trong khu 
vực có độ sâu không đủ tới mạch nước ngầm. 
3.3. Tài nguyên nước hồ 
Tỉnh Quảng Trị hiện có gần 200 công trình 
hồ chứa, đập dâng lớn, vừa và nhỏ với tổng 
dung tích khoảng 211 triệu m3. Các kết quả 
phân tích chất lượng nước trong các mẫu nước 
tại 4 địa điểm: đập Bến Than trên sông Bến 
Hải, hồ La Ngà trên sông Bến Hải, hồ Kinh 
Môn trên sông Bến Hải và đập Vĩnh Phước trên 
sông Vĩnh Phước cho thấy: trừ hàm lượng chất 
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 3S (2009) 472‐483 483
rắn lơ lửng của mẫu nước tại hồ đập Bến Than 
và Vĩnh Phước khá cao còn hầu hết các chỉ tiêu 
vật lý-hóa học-vi sinh của các mẫu nước hồ đập 
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đều nằm trong giới 
hạn cho phép của tiêu chuẩn chất lượng nước 
mặt loại B (TCVN 5942-1995), một số chỉ tiêu 
còn đạt tiêu chuẩn chất lượng nước loại A 6. 
Như vậy, chất lượng nước mặt tại các hồ đập 
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị còn khá tốt, đảm 
bảo tiêu chuẩn chất lượng nước mặt loại B dùng 
cho nông nghiệp và các mục đích khác. Tuy 
nhiên, nếu dùng cho sinh hoạt thì phải xử lý 
(theo quy định) trước khi sử dụng. 
4. Kết luận 
Các kết quả đánh giá tài nguyên nước mặt 
tỉnh Quảng Trị nêu trên là đủ tin cậy và có thể 
được sử dụng làm cơ sở khoa học cho công tác 
quy hoạch khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên 
thiên nhiên nói chung và tài nguyên nước nói 
riêng. 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được hoàn thành với sự hỗ 
trợ kinh phí của đề tài cấp ĐHQG (mã số QT-
09-52). Các tác giả xin chân thành cảm ơn sự 
giúp đỡ nói trên. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc, Khí hậu Việt 
Nam, Hà Nội, 1993. 
[2] Tổng cục Khí tượng-Thuỷ văn, Đặc trưng hình 
thái lưu vực sông Việt Nam, Hà Nội, 1985. 
[3] Lương Tuấn Anh, Một mô hình mô phỏng quá 
trình mưa-dòng chảy trong các lưu vực vừa và 
nhỏ ở miền Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Hà 
Nội, 1996. 
[4] Nguyễn Thị Nga, Ứng dụng mô hình mưa-dòng 
chảy phi tuyến khôi phục số liệu dòng chảy các 
lưu vực sông tỉnh Quảng Trị, Đề tài ĐHKHTN, 
mã số TN-07-35, Hà Nội, 2007. 
[5] K.P. Klibasev, I.F. Goroskov, Tính toán thuỷ 
văn. (Bản dịch từ tiếng Nga của Ngô Đình Tuấn 
và Lê Thạc Cán). Nhà xuất bản Khoa học Kỹ 
thuật, Hà Nội, 1975. 
[6] UBND tỉnh Quảng Trị, Sở Khoa học Công nghệ, 
Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng chất lượng 
nước mặt trên cơ sở chỉ số chất lượng nước 
(WQI) ở một số vùng trọng điểm của tỉnh Quảng 
Trị phục vụ quản lý nguồn nước và phát triển 
bền vững, Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học và 
phát triển công nghệ, Đông Hà, 2004. 
Surface water resources of Quang Tri province 
Nguyen Thi Nga, Nguyen Phuong Nhung 
Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, College of Science, VNU 
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 
This paper presents surface water resources evaluation results of Quang Tri province based on 
meteo-hydrological measured data of 32 years (1977-2008) at rain and flow measuring stations that 
locates in and next to Quang Tri province combine with use geographic interpolation, synthetization 
methods and methods of hydrological similarity and mathematical model. Study results show that the 
province is in region that has rather large annual rainfall so annual flow quantity in rivers of the area is 
rather rich. However, because they ditribution irregular on space and temporal so water use in the area 
met none small difficults. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
12) Nga Nhung 472-483.pdf