Qua 15 năm đổi mới, thực hiện đường lối do Đảng ta đề xướng. Đất nước ta – dân tộc ta đã thu được những thành tựu to lớn cả về kinh tế và xã hội. Kinh tế thoát khỏi khủng hoảng triền miên hàng chục năm qua và bước đầu thờ kì phátt riển toàn diện và tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng GDP bình quân một năm của thời kỳ 1996 đến năm 2000 đạt 7% so với 3,9% thời kỳ 1986 – 1990. Lạm phát giảm từ 774,6% năm 1986 xuống còn 67,4% năm 1990; 12,7% năm 1995; 0,1% năm 1999; 0% năm 2000. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ trên 2 con số. Bình quân thời kỳ 1991 – 1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996 – 2000 trên 13,2%. Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp như điện, than, vải, thép, xi măng,., tăng nhanh hơn trong những năm đổi mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân, xuất khẩu. Riêng ngành công nghiệp khai thác dầu khí, xuất hiện trong thời kỳ đổi mới với sản lượng 40 ngàn tấn dầu thô năm 1986 đã tăng lên 15 triệu tấn năm 2000 với giá trị xuất khẩu 3,3 tỉ USD. Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối thế kỷ XX đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm và đa thành phần, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Bộ mặt đất nước thay đổi theo chiều hướng ngày càng văn minh và hiện đại. Hàng loạt các công trình thế kỷ đã mọc lên: thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Thác Mơ, Yaly, đường dây 500 KV Bắc – Nam, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ, cầu Bến Thuỷ, cầu Sông Gianh, Quán Hàu, cầu Mỹ Thuận – một kỳ quan của khu vực Đông Nam á, nâng cấp quốc lộ 1A, quốc lộ 5, quốc lộ 18, cùng nhiều sân bay, bến cảng đã và đang được nâng cấp và hiện đại hoá. Cùng với các cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phục vụ sản xuất là hàng loạt các công trình phúc lợi phục vụ đời sống nhân dân như bệnh viện, trạm y tế, trường học, nhà ở cho người nghèo, nhà tình nghĩa. Đến năm 2000, điện lưới quốc gia phủ 98% số huyện, 70% số xã và 98% số hộ thành thị, 60% số hộ nông thôn. Hệ thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng mới và nân gcấp đang vươn tới mọi miền đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa. Thu nhập và đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Thu nhập của dân cư tăng bình quân 10% trong 15 năm đổi mới và năm 1999 đạt 295 nghìn đồng/người/tháng, tăng 30% so với năm 1996. Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt trên 10%, số hộ nghèo giảm xuống, từ trên 51% trong thập niên 80 xuống còn 13,3% năm 1999 và 11% năm 2000. văn hoá, y tế và giáo dục được nhà nước quan tâm và đầu tư thoả đáng. Đến nay, cả nước đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ và hoàn thành phổ cập tiểu học. Năm 2001-2002 có 25 triệu học sinh các cấp, cứ 3 người dân có 1 người đi học, 100% số xã có trạm y tế, 40% số xã có bác sĩ.
16 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tại sao phải phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Đổi mới nền kinh tế việt nam là một cao trào của toàn dân do đảng cộng sản việt nam khởi xướng và lãnh đạo. Công cuộc đổi mới thật sự bắt đầu từ năm 1986. Công cuộc đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính tri, văn hoá, xã hội... Trong hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế đất nước, vai trò chủ đạo, dẫn dắt, điều tiết nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của kinh tế Nhà nước luôn được Đảng quan tâm, coi trọng và đã đạt được những thành tựu bước đầu rất khả quan cả trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, cả đường lối đối nội và đối ngoại của đất nước. Chính vì vậy tại Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, cạnh tranh lành mạnh trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Để phát huy hơn nữa vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi kinh tế Nhà nước phải đổi mới để giữ vững vai trò chủ đạo, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Vì vậy việc nghiên cứu những giải pháp để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay là hết sức quan trọng. Do đó tôi đã chọn đề tài :“Tại sao phải phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa? Anh chị phải làm gì để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế thị truờng ở nước ta.”
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo bộ môn dẫ giúp em hoàn thành bài tiểu luận này. Trong quá trình làm bài không tránh khỏi những thiéu sót mong thầy giáo thông cảm.
Nội dung.
I. Kinh tế Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:
1. Quan niệm về Kinh tế Nhà nước:
Thành phần kinh tế Nhà nước được hiểu là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nước hoặc một phần phụ thuộc sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Như vậy, kinh tế Nhà nước được hình thành thông qua việc Nhà nước đầu tư vốn xây dựng mới từ vốn ngân sách nhà nước hoặc thông qua quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân. Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tài chính thuộc sở hữu Nhà nước như hệ thống ngân hàng, kho bạc, dự trữ quốc gia, và toàn bộ tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước rộng và mạnh hơn bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Phân biệt được hai phạm trù này và nhận thức đầy đủ hơn vai trò kinh tế nhà nước là một bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới
Ngoài ra cũng cần phân biệt sở hữu Nhà nước với thành phần kinh tế nhà nước. Phạm trù sở hữu Nhà nước rộng hơn phạm trù thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế Nhà nước trước hết phải thuộc sở hữu Nhà nước, nhưng sở hữu nhà nước có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng. Thí dụ: đất đai, Nhà nước đại biểu cho toàn dân sở hữu, nhưng kinh tế hộ, hợp tác xã nông nghiệp, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác sử dụng. Ngược lại, sở hữu Nhà nước không phải là kinh tế Nhà nước, chẳng hạn Nhà nước góp vốn cổ phần chiếm tỷ lệ thấp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, thông qua liên doanh, liên kết gọi là thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.
2. Vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nước:
Nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế tồn tại, hoạt động đan xen lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, luôn vận động và có sự chuyển hoá trong quá trình phát triển. Thành phần kinh tế Nhà nước có vai trò mở đường dẫn dắt cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế, cần phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế Nhà nước lên nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền. Phát huy lợi thế nguồn vốn lớn từ ngân sách; lực lượng đào tạo chuyên sâu về trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật; trình độ kỹ thuật, công nghệ hiện đại; quan hệ kinh tế rộng lớn trong và ngoài nước, kinh tế Nhà nước có chức năng tạo lập cơ sở vật chất hạ tầng, sản xuất các hàng hoá dịch vụ công cộng, hỗ trợ, chi phối các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên vai trò chủ đạo ở đây không có nghĩa là chiếm tỷ trọng lớn mà để giữ vai trò này thành phần kinh tế Nhà nước phải nắm được những ngành then chốt, những lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân như công nghiệp nặng, giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng ...
Từ những kết quả mà nền kinh tế đạt được trong năm 2000 như : tăng trưởng GDP 7%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%, giá trị sản xuất các ngành công nghiệp tăng 14%, lạm phát giảm xuống mức không quá 5% ... Trong đó, riêng khu vực kinh tế Nhà nước chiếm 40% GDP, đóng góp gần 40% tổng nộp Ngân sách nhà nước và trên 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thành phần kinh tế Nhà nước đã thực sự chứng tỏ vai trò chủ đạo, chi phối và thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển theo đúng quỹ đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II. Thực trạng của Kinh tế Nhà nước ở Việt nam hiện nay.
1. Những thành tựu của kinh tế Nhà nước đạt được trong hơn 15 năm đổi mới :
Thực hiện hiện đúng đường lối chủ trương chỉ đạo qua các Đại hội Đảng VI ,VII, VIII và gần đây nhất là Đại hội Đảng XI, kinh tế Nhà nước nói chung, DNNN nói riêng đã được sắp xếp lại một bước khá căn bản, đã giảm quá nửa số doanh nghiệp (những doanh nghiệp nhỏ và yếu kém), những doanh nghiệp còn lại được củng cố một bước. Cơ chế quản lý được hình thành ngày càng hoàn thiện giúp các doanh nghiệp chuyển đổi và thích nghi dần với các quy luật của kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế.
Từ 1990 đến nay nước ta đã tiến hành 3 lần tổ chức sắp xếp lại hệ thống DNNN. Lần thứ nhất (1990 - 1993), tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh với mục tiêu thay thế nền kinh tế kế hoạch mang tính hành chính bằng một nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả sắp xếp trong giai đoạn này về số lượng đã cắt giảm 1/2 số doanh nghiệp Nhà nước, về mặt kinh tế đã có sự thay đổi căn bản trong tư duy kinh tế: doanh nghiệp Nhà nước lấy lợi nhuận làm mục tiêu cơ bản, nhưng vẫn đảm nhận vai trò làm hình mẫu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cả hai khâu sản xuất và lưu thông phân phối; DNNN không còn bị bó hẹp kinh doanh theo ngành và lãnh thổ; DNNN bắt đầu biết đến khái niệm cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác trên thị trường. Kinh tế Nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong đó DNNN ( gồm DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi mơí, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế
Đổi mới DNNN lần thứ hai (1994-1997), Chính phủ tiến hành thành lập các DNNN với tổng vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số vốn của doanh nghiệp Nhà nước, đó là các tổng công ty 91, tổng công ty 90. Việc sắp xếp này đã hình thành các Tổng công ty Nhà nước chi phối được những ngành kinh tế quan trọng như điện năng, dịch vụ bưu chính viễn thông, hàng không, vận tải đường sắt, viễn dương, giao thông vận tải, xây dựng.... Một số tổng công ty đã trở thành hạt nhân của những tập đoàn kinh tế đa ngành. Với thực tế hiện nay, kinh tế Nhà nước chưa thật sự đáp ứng được vai trò này trên các mặt hiệu quả sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý tổ chức cũng như phương thức phân phối. Đồng thời, việc đổi mới, phát triển kinh tế Nhà nước chưa thật sự có những chuyển biến đáng kể. Hiện nay kinh tế Nhà nước đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Quán triệt tinh thần Nghị quyết cảu Đại hội Đảng IX đề ra đó là cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đổi mới, phát triển kinh tế Nhà nước, phân loại, sắp xếp lại hệ thống DNNN, tìm ra giải pháp, phương hướng đổi mới kinh tế Nhà nước nhằm tăng cường vai trò chủ đạo Kinh tế Nhà nước đang là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu, giải quyết
Hiện nay doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được tổ chức lại theo hình thức và cơ cấu: 17 tổng công ty 91, 76 tổng công ty 90 và trên 4.000 doanh nghiệp Nhà nước độc lập. Đến năm 2000, cả nước đã sáp nhập hơn 3.000 doanh nghiệp, giải thể khoảng 3.500 doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), cổ phần hoá gần 400 doanh nghiệp Nhà nước. Nhờ vậy trình độ tích tụ và tập trung vốn trong DNNN được nâng lên. Số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng đã giảm đáng kể và số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng tăng từ 10% lên 20% từ năm 1994- 1998; sản xuất kinh doanh phát triển và hiệu quả được nâng lên .Đóng góp của khu vực kinh tế Nhà nước trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) qua các năm :
Đơn vị : (%)
Các khu vực
kinh tế
Năm
1991
Năm
1992
Năm
1993
Năm
1994
Năm
1995
Năm
1996
Năm
1997
Năm
1998
Năm
1999
Năm
2000
GDP
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
Khu vực kinh
tế Nhà nước
29,3
30,6
39,2
40,1
40,2
39,9
40,5
40,0
38,7
39,0
Khu vực kinh tế ngoài QD
70,7
69,4
60,8
53,5
53,5
52,7
50,4
50,0
49,1
47,7
Đ.tư trực tiếp nước ngoài
0
0
0
6,4
6,3
7,4
9,1
10,0
12,2
13,3
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản).
Từ những số liệu cụ thể trên chứng tỏ thành phần kinh tế Nhà nước thực sự có vai trò chi phối, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển đúng quỹ đạo, góp phần vào việc tăng cường vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
2. Những tồn tại và hạn chế của kinh tế Nhà nước.
Sau hơn 15 năm đổi mới, bên cạnh những tiến bộ trong việc phát triển khu vực kinh tế Nhà nước còn có những tồn tại và hạn chế, biểu hiện chủ yếu ở những mặt sau:
- Sự phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước còn nhỏ bé về quy mô và dàn trải về ngành nghề. Nhiều doanh nghiệp cùng loại hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong chính khu vực kinh tế nhà nước với nhau. Doanh nghiệp Nhà nước còn dàn trải trên tất cả các ngành nghề từ sản xuất đến thương mại, du lịch, dịch vụ gây tình trạng phân tán, manh mún về vốn trong khi vốn đầu tư nhà nước rất hạn chế, gây chi phối, xé lẻ các nguồn lực kể cả hoạt động quản lý nhà nước, không thể tập trung vào những ngành, lĩnh vực chủ yếu, then chốt.
- Trình độ kỹ thuật, khoa học công nghệ còn lạc hậu dẫn đến năng lực cạnh tranh kém và thua thiệt trong hội nhập về kinh tế với khu vực và quốc tế. Hầu hết trong khu vực kinh tế Nhà nước mà đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước có máy móc, thiết bị nhập khẩu từ nhiều nước, thuộc nhiều thế hệ, chủng loại khác nhau. Có nhiều ý kiến cho rằng nhiều hệ thống dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị của nước ta lạc hậu so với khu vực và thế giới từ 10 - 30 năm.
- Trong khu vực kinh tế Nhà nước đang tồn tại hiện tượng thiếu việc làm, số lao động dư thừa lớn. Thực trạng hoạt động các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số các doanh nghiệp Nhà nước, số doanh nghiệp còn lại liên tục lỗ trong nhiều năm, hoặc có lãi mang tính chất tượng trưng về số liệu, lãi giả lỗ thật. Một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước tạo được tỷ lệ lợi nhuận thấp hơn so với đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tỷ lệ tăng trưởng đóng góp của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước vào GDP tăng không đáng kể trong thời gian vừa qua trong khi đó ngân sách Nhà nước liên tục phải cấp vốn cho đầu tư xây dựng, cấp bổ sung vốn lưu động, bù lỗ, hỗ trợ giảm bớt khó khăn về tài chính cho các DNNN. Đồng thời, Nhà nước còn phải miễn giảm thuế, xoá nợ, khoanh nợ, miễn giảm lãi cho các doanh nghiệp Nhà nước. Theo đánh giá hiện nay chỉ có 40% doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh thực sự hiệu quả, 40% chưa hiệu quả, khi lỗ khi lãi, không ổn định, còn lại 20% hoạt động thực sự chưa hiệu quả, thua lỗ liên tục.
* Nguyên nhân của những yếu kém của kinh tế Nhà nước:
- Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ chế mới đang hình thành, cơ chế cũ chưa được xoá bỏ triệt để và nhiều vấn đề do lịch sử để lại không thể giải quyết trong một sớm một chiều. Nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn trước mắt là hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu lại và đổi mới hoạt động DNNN hiện có, phân định rõ các loại doanh nghiệp để có chính sách giải pháp phù hợp; thực hiện sáp nhập, khoán kinh doanh, cho thuê hoặc giao, bán, giải thể, phá sản các doanh nghiệp Nhà nước quy mô nhỏ thua lỗ kéo dài không cổ phần hoá được và Nhà nước không cần nắm giữ để sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước, bảo đảm việc làm, thu nhập, quyền lợi hợp pháp của người lao động. Cần xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn, sự điều tiết của Nhà nước có tính chất độc quyền, hoặc cơ quan chức năng ổn định thị trường, giá cả để đảm bảo công bằng, tạo môi trường cạnh tranh, phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế. Nghiên cứu, áp dụng các hình thức tổ chức quản lý trong các DNNN. Tăng cường hoạt động của kinh tế Nhà nước trong phân phối lưu thông, xây dựng văn minh thương nghiệp và đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng.
- Nhận thức chưa thống nhất và chưa đầy đủ về chủ trương sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Nhiều vấn còn đề chưa rõ, chưa được tổng kết thực tiễn để có giải pháp kịp thời và nhất quán như: quyền quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước; quyền chủ sở hữu nhà nước; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và chủ động kinh doanh của doanh nghiệp ...
- Cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với kinh tế thị trường định hướng XHCN, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, người lao động trong DNNN nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự than gia cảu các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại. Trước mắt thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng ...
- Cải cách hành chính tiến hành chậm, chưa theo kịp đòi hỏi thực tiễn của tiến trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn kém, còn gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, chưa phát huy quyền tự chủ, tính năng động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
- Đội ngũ cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp Nhà nước nói chung còn chưa đáp ứng với yêu cầu, một bộ phận không nhỏ kém năng lực, phẩm chất và tinh thần thiếu trách nhiệm, thêm vào đó công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế còn nhiều điều bất cập.
- Sự thiếu kiên quyết trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong đổi mới và phát triển thành phần kinh tế Nhà nước. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp, hạ cấp sở hữu thông qua giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước còn chậm. Vẫn còn tồn tại hàng nghìn doanh nghiệp có vốn sở hữu rất nhỏ, còn rất nhiều doanh nghiệp “chết mà chưa chôn” đã làm trì trệ nền kinh tế
III. Sinh viên phải làm gì để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Và phương hướng phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn qua 15 năm đổi mới. Tuy vậy cũng cần phải có những phương hướng để phát triển nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn hội nhập mở cửa với các nước trên thế giới. Những phương hướng cụ thể đó là:
Định hướng phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương. ứng dụng nhanh chóng khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ sinh học; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với thị truờng tiêu thụ; hình thành sự liên kết nông nghiệp – công nghiệp – dich vụ ngay trên địa bàn nông thôn.
Tích cực khai hoang và mở rộng diện tích canh tác ở những nơi còn đất hoang hoá chưa được sử dụng, phân bố lại lao động dân cư; giảm nhẹ tác động của thiên tai đối với sản xuất. Tập trung phát triển các cây công nghiệp chủ lực có khả năng cạnh tranh cao như càphê, cao su, chè, điều, ... ngoài ra đặc biệt chú trọng phát triển các loại rau quả và các sản phẩm đặc trưng khác.
Phát triển khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề đánh bắt ở ven bờ hợp lí. Đầu tư phát triển mạnh ngành nuoi trồng thuỷ hải sản, xây dựng vùng nuôi trồng tập trung, gắn với việc phát triển công nghiệp chế biến chất lượng cao.
Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghệ sơ chế và chế biến về nông thôn và vùng nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ, cung ứng vật tư kỹ thuật, trao đổi nông sản hàng hoá ở nông thôn. . . . tăng nhanh việc làm cho khu vực phi nông nghiệp. Tiếp tục chương trình xoá đói giảm nghèo, chú trọng phát triển các đô thị nhỏ, các điểm bưu điện văn hoá ở xã, làng và các trung tâm văn hoá cụm xã.
Định hướng phát triển công nghiệp
Phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá từng phần các ngàng sản xuất công nghiệp.
Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chú trong công nghệ chế biến và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Xây dựng có lựa chọn, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường và hiệu quả một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất. Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin viễn thông điện tử. Phát triển một số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết. Kết hợp hài hoà giữa phát triển công nghiệp đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu; có những biện pháp bảo hộ hợp lí, bảo đảm công nghiệp phát triển với khả năng cạnh tranh cao, thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp với nhiều qui mô, nhiều trình độ; chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phù hợp định hướng chung và lợi thế của từng vùng.
Định hướng phát triển các ngành dịch vụ.
Đa dạng hoá các ngành dịch vụ, mở rộng thị trường tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tôt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Phát triển thương mại, cả nội thương và ngoại thương, bảo đảm hàng hoá lưu thông thông suốt trong thị trường nội địa và giao lưu buôn bán với nước ngoài. Chú trọng công tác tiếp thị và mở rộng thị trường nông thôn, thị trường miền núi, tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong nước. Phát triển và đa dạng hoá các loại hình và các điểm du lịch sinh thái, du lịch văn hoá. . . hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại.
Tăng nhanh tổng kinh ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số loại mặt hàng nông sản, thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh, tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới.
Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và các ngành mà nước ta có lợi thế.
e)Định hướng phát triến giáo dục và đào tạo.
Tiếp tục quán triệt quan điểm giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục và đào tạo. triển khai thực hiện có hiệu quả luật giáo dục đào tạo. Định hình qui mô giáo dục đào tạo, điều chỉnh cơ cấu đào tạo, nhất là cơ cấu cấp học, ngành nghề và cơ cấu theo lãnh thổ phù hợp với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển nền kinh tế xã hội. Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp.
Định hướng phát triển văn hoá.
Phát huy bản sắc dân tộc, bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng, giữa các vùng trong cả nước và giao lưu văn hoá với nước ngoài. Tiếp tục đưa các hoạt động văn hoá thông tin về vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc. Phát triển phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình, bản làng văn hoá.
Bảo vệ và cải thiện môi trường.
Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường theo hướng phát triển bền vững. Đảm bảo sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tiết kiệm và tái chế, tái sử dụng nguồn tài nguyên không tái tạo được. Tăng cường kiểm tra và giám sát môi trường trong từng dự án đầu tư và từng quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, các vùng lãnh thổ. áp dụng các công nghệ và quy trình sản xuất ít chất thải, ít gây ô nhiễm môi trường.
kết Luận
Qua 15 năm đổi mới, thực hiện đường lối do Đảng ta đề xướng. Đất nước ta – dân tộc ta đã thu được những thành tựu to lớn cả về kinh tế và xã hội. Kinh tế thoát khỏi khủng hoảng triền miên hàng chục năm qua và bước đầu thờ kì phátt riển toàn diện và tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng GDP bình quân một năm của thời kỳ 1996 đến năm 2000 đạt 7% so với 3,9% thời kỳ 1986 – 1990. Lạm phát giảm từ 774,6% năm 1986 xuống còn 67,4% năm 1990; 12,7% năm 1995; 0,1% năm 1999; 0% năm 2000. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ trên 2 con số. Bình quân thời kỳ 1991 – 1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996 – 2000 trên 13,2%. Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp như điện, than, vải, thép, xi măng,..., tăng nhanh hơn trong những năm đổi mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân, xuất khẩu. Riêng ngành công nghiệp khai thác dầu khí, xuất hiện trong thời kỳ đổi mới với sản lượng 40 ngàn tấn dầu thô năm 1986 đã tăng lên 15 triệu tấn năm 2000 với giá trị xuất khẩu 3,3 tỉ USD. Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối thế kỷ XX đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm và đa thành phần, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Bộ mặt đất nước thay đổi theo chiều hướng ngày càng văn minh và hiện đại. Hàng loạt các công trình thế kỷ đã mọc lên: thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Thác Mơ, Yaly, đường dây 500 KV Bắc – Nam, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ, cầu Bến Thuỷ, cầu Sông Gianh, Quán Hàu, cầu Mỹ Thuận – một kỳ quan của khu vực Đông Nam á, nâng cấp quốc lộ 1A, quốc lộ 5, quốc lộ 18, cùng nhiều sân bay, bến cảng đã và đang được nâng cấp và hiện đại hoá. Cùng với các cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phục vụ sản xuất là hàng loạt các công trình phúc lợi phục vụ đời sống nhân dân như bệnh viện, trạm y tế, trường học, nhà ở cho người nghèo, nhà tình nghĩa... Đến năm 2000, điện lưới quốc gia phủ 98% số huyện, 70% số xã và 98% số hộ thành thị, 60% số hộ nông thôn. Hệ thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng mới và nân gcấp đang vươn tới mọi miền đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa. Thu nhập và đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Thu nhập của dân cư tăng bình quân 10% trong 15 năm đổi mới và năm 1999 đạt 295 nghìn đồng/người/tháng, tăng 30% so với năm 1996. Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt trên 10%, số hộ nghèo giảm xuống, từ trên 51% trong thập niên 80 xuống còn 13,3% năm 1999 và 11% năm 2000. văn hoá, y tế và giáo dục được nhà nước quan tâm và đầu tư thoả đáng. Đến nay, cả nước đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ và hoàn thành phổ cập tiểu học. Năm 2001-2002 có 25 triệu học sinh các cấp, cứ 3 người dân có 1 người đi học, 100% số xã có trạm y tế, 40% số xã có bác sĩ...
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế chính trị Mac-Lenin.
Tạp chí Đảng cộng sản.
Báo điện tử.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tác giả: PTS Nguyễn Cúc.
NXB: Thống Kê.
Giáo trình Triết học Mac-Lenin.
Văn kiện đại hội VII, VIII, IX.
C.Mác-t bản:tập 2 quyển 1
C.Mác-Ăngghen toàn tập
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay
Việt Nam trên chặng đường đổi mới và phát triển kinh tế
Học thuyết GTTD trong thời đại ngày nay
Triết lí kinh doanh với quản lý doanh nghiệp
Thời đại chúng ta và sức sống của chủ nghĩa Mác-Lênin
mục lục
Trang
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35868.doc