Nhưng Việt Nam vẫn là một trong n hững nước nghèo nhất trên thế giới, do có xuất phát điểm rất thấp, lại phải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài, thường xuyên bị thiên tai, lại đang phải đương đầu với nhiều vấn đề xã hội, nên một số chính sách vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế nảy sinh trong quá trình biến động nhanh chóng của xã hội. Số lượng trẻ em đặc biệt khó khăn được chăm sóc còn hạn chế, mức hỗ trợ chưa cao- đây là một điều khó tránh khỏi trong giai đoạn hiện nay. Trong tương lai cùng với quá trình phát triển đất nước, cùng với những tiến bộ về kinh tế xã hội, hệ thống chính sách Bảo trợ xã hội cần tiếp tục được nghiên cứu, điều chỉnh, sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp chăm sóc, trợ giúp nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Cần có những chính sách tạo ra môi trường bình đẳng trong các dịch vụ xã hội(giáo dục, y tế.) để những trẻ em thiệt thòi được hưởng lợi. Bên cạnh đó cần có những biện pháp, cơ chế thúc đẩy việc thực hiện các chính sách đã ban hành có hiệu quả. Cần quan tâm đến những giaỉ pháp tuyên truyền, phòng ngừa và đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở cấp cơ sở, đẩy mạnh nghiên cứu đúc kết rút kinh nghiệm những mô hình chăm sóc và phòng ngừa đối với TEHCĐBKK.
86 trang |
Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 680 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường công tác quản lý của nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục Tehcđbkk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần bố trí một khoản kinh phí cho các tổ chức hội hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc nguồn huy động trong nước, quốc tế.
Đào tạo, tập huấn nội dung tuyên truyền cho cán bộ các cấp hội đặc biệt là cấp cơ sở, nội dung đào tạo phải được biên soạn, biên tập thống nhất từ trung ương.
Các tổ chức hội đưa nội dung tuyền truyền về giáo dục TEHCĐBKK vào nội dung công việc hàng năm của Hội, để huy động nội lực, cũng như để xây dựng phong trào hoạt động của Hội.
- Triển khai thực hiện các nội dung tuyên truyền do các cơ quan Trung ương phát động như tuyên truyền tháng hành động, phát tờ gấp cho trẻ em và gia đình trẻ em, biên tập, biên soạn tài liệu hướng dẫn các kỹ năng chăm sóc trẻ...
2. Tăng cường các biện pháp tác động vào gia đình, nhà trường, cộng đồng làng xóm
2.1. Hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình
Như đánh giá ở trên, đại bộ phận TEHCĐBKK ở nông thôn, gia đình nghèo, do vậy cuộc sống của các em gặp nhiều khó khăn. Để nâng cao mức sống cho các em trước tiên phải nâng cao mức sống cho chính gia đình các em bằng cách hỗ trợ gia đình phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội như xoá đói giảm nghèo, chương trình việc làm, chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn và có những biện pháp trợ giúp cụ thể, thiết thực đối với gia đình các em như:
- Hướng dẫn cách làm ăn: Thông qua chương trình XĐGN, Việc làm, các tổ chức đoàn thể Hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên, Hội phụ nữ... xây dựng các kênh hướng dẫn kỹ thuật đối với những gia đình nghèo có TEHCĐBKK.
- Hỗ trợ các phương tiện, công cụ phát triển sản xuất: Đối với những hộ nghèo, hộ có TEHCĐBKK thiếu đất, phương tiện sản xuất cần có những biện pháp hỗ trợ để họ đủ đất sản xuất (đối với hộ có nhu cầu sử dụng đất sản xuất), hoặc hỗ trợ phương tiện để chuyển đổi ngành nghề phù hợp, tăng thu nhập cho gia đình.
- Ưu tiên cho vay vốn: Với nguyên tắc hỗ trợ cho vay vốn với lãi suất thấp không phải thế chấp, chính quyền địa phương, các đoàn thể bảo lãnh cho vay. Nguồn cho vay từ nguồn Ngân hàng phục vụ người nghèo, hoặc các nguồn khác.
2.2. Phát triển cơ sở hạ tầng phúc lợi xã hội
-Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phúc lợi xã hội như: giao thông, trường học, trạm y tế, chợ xã, nước sạch, trung tâm văn hóa, thư viện... Một mặt thúc đẩy sản xuất hàng hoá, mở rộng giao lưu kinh tế,mặt khác nâng cao trình độ dân trí, văn hoá xã hội cho cộng đồng dân cư. Những công trình có liên quan và tác động trực tiếp đến trẻ em đặc biệt khó khăn đó là: Cơ sở y tế xã, trường học, nước sạch, trung tâm văn hoá xã. Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở y tế ở tất cả các xã, tủ thuốc thôn bản, đào tạo đội ngũ cán bộ để thực hiện tốt việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phòng chống dịch bệnh. Trong đó đặc biệt ưu tiên các xã nghèo miền núi, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa... Vì trên thực tế cơ sở vật chất, thiết bị y tế các xã nghèo rất hạn chế, thêm vào đó là thiếu đội ngũ cán bộ y tế đủ năng lực do đó công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu rất hạn chế. Đối với xã vùng cao, địa bàn rộng, phải tính đến cả y tế thôn, bản. Vì thực tế không phải khi nào ốm cũng có thể đến được bệnh viện, đặc biệt là đối với TEHC ĐBKK. Các cơ sở y tế phải đáp ứng các yêu cầu nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phục hồi chức năng cho TETT và phòng chống dịch bệnh, nguy cơ dẫn đến bị tàn tật của trẻ em.
-Trong những năm tới để từng bước xoá bỏ rào cản, tạo môi trường thuận lợi cho TETT nói riêng và người tàn tật nói chung cần thiết có những văn bản quy định bắt buộc khi xây dựng những công trình phúc lợi xã hội cần phải có thiết kế hành lang cho người tàn tật sử dụng, đặc biệt là những khu chung cư, bến tàu, nhà ga, khu vui chơi công cộng... như lối đi không bậc thang, lắp đặt những phương tiện dành cho người tàn tật; lối đi có màu sắc dễ nhận cho những người kém thị lực; báo hiệu bằng âm thanh ở nơi có đèn báo hiệu qua đường cho những người mù; thiết kế những chỗ ngồi an toàn cho người tàn tật trong ô tô, tầu hoả... đây là những giải pháp hiệu quả nhất để giúp cho TETT hoà nhập được với cuộc sống cộng dồng.
2.3. Hoàn thiện pháp luật và tăng cường thể chế
Một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến trẻ rơi vào tình trạng đặc biệt khó khăn đó là do môi trường gia đình mất an toàn. Trở lại với giải pháp phòng ngừa vậy vấn đề hạn chế trẻ tránh rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn chính là tác động vào gia đình, cộng đồng làng, xóm. Trước tiên phải có những biện pháp mạnh nghiêm cấm việc cha, mẹ ngược đãi, đối xử thô bạo với con cái, có quy định trách nhiệm gánh chịu của cha mẹ như: Đối với trẻ em hư, vi phạm pháp luật, nghiện ma tuý thì bố mẹ chịu xử phạt hành chính hoặc phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những hành vi của con mình, hoặc nghỉ việc tạm thời để ở nhà quản lý, dạy con học...(áp dụng kinh nghiệm Nhật Bản) Nếu có quy định bắt buộc như vậy sẽ phần nào hạn chế được tình trạng trẻ em bỏ học, trẻ em hư, trẻ em nghiện ma tuý... và cũng sẽ giảm chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này.
2.4. Hỗ trợ phát triển tổ chức vì TEHCĐBKK
Giải pháp này nhằm tập hợp, huy động nguồn lực đóng góp cho sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ TEHCĐBKK. Đây cũng là loại hình tổ chức có sự tham gia tự nguyện của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp hảo tâm trong và ngoài nước. Do điều kiện ngân sách có hạn của Nhà nước việc huy động các nguồn lực cộng đồng vào công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là rất cần thiết. Giải pháp khuyến khích phát triển các tổ chức hội vì TE HCĐBKK như hội Bảo trợ trẻ em, hội Bảo trợ trẻ em mù, hội Phát triển năng khiếu trẻ em tàn tật... là rất quan trọng.
Đây là những tổ chức xã hội tự nguyện, được tập hợp nhằm đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của trẻ em. Những tổ chức này không bị chi phối bởi ranh giới cấp bậc, chức vụ chính quyền mà dựa trên nguyên tắc tình nguyện, bình đẳng, tập hợp và liên kết hỗ trợ TEHCĐBKK, do vậy đảm bảo thoả mãn những nhu cầu và sở thích, nguyện vọng của các đối tượng tham gia. Đối với những TEHCĐBKK tìm thấy ở đây sự cảm thông sâu sắc và sự gần gũi giúp đỡ của những người hảo tâm. Hình thức hội sẽ giúp cho TE HCĐBKK không tự ti, vun đắp ý trí vươn lên, trợ giúp những thiếu hụt của bản thân.
ở Việt nam các tổ chức dạng này chưa được phát triển nhiều, những năm qua chủ yếu là hoạt động của hội Bảo trợ người tàn tật và TEMC, hội Người mù. Nhưng đã có số lượng không nhỏ trẻ được hội trợ giúp về vật chất, giáo dục, y tế, đào tạo dạy nghề, chỉnh hình phục hồi chức năng... Phát triển các hình thức hội vì trẻ em ĐBKK là xu thế và là điều cần thiết khi thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác phòng ngừa, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục TEHCĐBKK. Để phát triển các tổ chức vì TEHCĐBKK Nhà nước cần có những giải pháp:
Ban hành văn bản cho phép thành lập, hoạt động của các cơ sở BHXH tư nhân, các hội như hội bảo trợ TETT, hội bảo trợ trẻ em mù, hội bảo trợ TETT hiếu học, hội bảo trợ TEHCĐBKK, TEMC... những hội này tập hợp những trẻ em cùng dạng và cùng sở thích, cùng cảnh ngộ để giúp các em hoà đồng và giúp cho các nhà hảo tâm có điều kiện giúp đỡ.
Quy định thống nhất quản lý hoạt động của các loại hội và tạo điều kiện cho các hội này hoạt động có hiệu quả, vì quyền lợi của TEHCĐBKK.
Cho phép các hội được quyền huy động nguồn lực đóng góp của các cá nhân, tổ chức Chính trị xã hội, các doanh nghiệp, nhà hảo tâm... trong và ngoài nước vào mục đích chăm sóc TEHCĐBKK như: Trợ giúp trong giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, phát triển năng khiếu, hỗ trợ vật chất bảo đảm cuộc sống.... Cho phép và khuyến khích các tổ chức, cá nhân là người bảo trợ chính cho hoạt động của hội.
Giai đoạn đầu khi các hội chưa có khả năng huy động nguồn lực, Nhà nước có thể hỗ trợ một khoản kinh phí tối thiểu ban đầu đề duy trì hoạt động, tuyên truyền giới thiệu nội dung hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng (kể cả trên mạng Internet), hàng năm các địa phương cần có khoản ngân sách hỗ trợ khi các hội gặp khó khăn.
Đối với những cá nhân, tổ chức có nhiều đóng góp cho sự nghiệp vì TEHCĐBKK cần có biểu dương khen thưởng phù hợp, kịp thời.
Về mặt quản lý, nghiêm cấm mọi cá nhân, tổ chức lợi dụng việc thành lập các tổ chức vì trẻ em để huy động đóng góp nhằm mục đích vụ lợi riêng.
3. Hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế hỗ trợ trực tiếp đời sống vật chất, tình thần sức khoẻ cho nhóm TEHCĐBKK
Trên cơ sở Bộ Luật Lao động, Pháp lệnh người tàn tật, Nghị định 81/CP, Nghị định 55/1999/NĐ-CP, Nghị định 07/2000/NĐ-CP và một số văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến chế độ chính sách đối với TEHCĐBKK, tiếp tục xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện các chính sách đã có và bổ sung thêm những chính sách mới cho phù hợp với tình hình phát triển KT-XH, nhu cầu được chăm sóc của trẻ em HCĐBKK và khả năng ngân sách Nhà nước.
3.1. Chính sách giải pháp nuôi dưỡng, chăm sóc về vật chất
Chính sách mới cần phải nâng cao mức trợ cấp cứu trợ xã hội cho đối tượng trẻ em ở cả trung tâm và cộng đồng để có thể đảm bảo được nhu cầu tối thiểu của trẻ em. Đồng thời chính sách mới chỉ nên khống chế mức trợ cấp cứu trợ xã hội tối thiểu, để tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các địa phương có điều kiện nâng mức trợ cấp cho phù hợp với mặt bằng cuộc sống của từng địa phương, đặc biệt là các đô thị, các vùng kinh tế phát triển như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bà rịa - Vũng tàu, Khánh Hoà, Quảng Ninh...
Chính sách mới cũng cần tạo cơ chế để các địa phương tự quyết định các mức trợ cấp khác ngoài nhu cầu về ăn, ở của trẻ em như: Học tập, chăm sóc sức khoẻ, huy động nguồn lực của cộng đồng để chăm sóc TEHCĐBKK được tốt hơn....
Bổ sung chính sách trợ cấp xã hội cho cả các cháu bị bỏ rơi mà các gia đình tự nguyện đón nhận các cháu về nuôi, mức trợ cấp tối thiểu cũng phải bằng các cháu bị bỏ rơi được nuôi dưỡng ở các cơ sở xã hội cùng lứa tuổi.
Cần có chính sách trợ cấp kịp thời đối với nhóm trẻ em bị hậu quả chất độc hoá học, dị dạng, dị tật là con tất cả đối tượng tham gia kháng chiến và không tham gia kháng chiến, không có sự phân biệt nguồn gốc xuất xứ sinh ra dị dạng, dị tật.
Chính phủ cần có quy định rõ ràng nguồn ngân sách đảm bảo xã hội có mục chi cho cứu trợ thường xuyên, hoặc chi cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cơ chế giám sát đối với UBND các tỉnh trong việc thực hiện chính sách cứu trợ xã hội, chăm sóc TEHCĐBKK. Đây là một biện pháp thiết thực nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của xã hội đối với TEHCĐBKK và nâng cao hiệu lực pháp lý, chính sách của Nhà nước.
3.2. Chính sách, giải pháp hỗ trợ về y tế
Để đạt được mục tiêu đảm bảo cho TE HCĐBKK được khám chữa bệnh khi đau ốm; được hưởng lợi từ các chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, trong đó nhóm TEHCĐBKK gia đình nghèo, gia đình chính sách được miễn giảm viện phí ngoài việc phát triển cơ sở hạ tầng thuộc ngành y tế như đã trình bày ở phần trên, cần thực hiện những giải pháp:
+ Trong bối cảnh đất nước còn nghèo và trình độ phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng, các tỉnh, do vậy chính sách, cơ chế khám chữa bệnh miễn giảm viện phí cho TEHCĐBKK con đối tượng chính sách, con hộ nghèo đói cũng phải hết sức linh hoạt, tuỳ tình hình thực tế có thể áp dụng 1 trong các hình thức sau:
Cấp thẻ Bảo hiểm y tế hàng năm với mệnh giá 30.000đ/trẻ/năm
áp dụng hình thức khám chữa bệnh miễn phí thực thành thực chi, thông qua hình thức cấp giấy khám chữa bệnh miễn phí: Hình thức này tiết kiệm được chi phí, vì không phải tất cả những người được cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí đều đi khám chữa bệnh tại các bệnh viện. Hình thức này phù hợp với các tỉnh nghèo, không đủ ngân sách mua thẻ BHYT cho tất cả các đối tượng xã hội.
+ Có chính sách khuyến khích các cơ sở y tế tư nhân khám chữa bệnh miễn phí cho TEHCĐBKK như: Miễn giảm thuế, đào tạo, tập huấn.
+ Phát triển hình thức khám chữa bệnh lưu động, mở các phòng khám, tư vấn chăm sóc sức khoẻ cho đối tượng yếu thế nói chung, TEHCĐBKK nói riêng, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn.
+ Lồng ghép việc chăm sóc sức khoẻ cho TEHCĐBKK trong các chương trình y tế cộng đồng như: Chương trình phòng chống biếu cổ, chống suy dinh dưỡng, chương trình phòng chống thiếu I ốt, phục hồi chức năng tại cồng đồng... có những quy định ưu tiên đối với TEHCĐBKK.
3.3. Chính sách, giải pháp hỗ trợ về giáo dục
Để thực hiện phương châm tạo cơ hội TEHCĐBKK có khả năng sinh hoạt và nguyện vọng đi học được đến trường học cần có chính sách, cơ chế hỗ trợ trực tiếp:
Miễn giảm học phí và các khoản đóng góp cho TEHCĐBKK con gia đình nghèo và gia đình chính sách.
Hỗ trợ vở viết, sách giáo khoa cho những TEHCĐBKK gia đình khó khăn không đủ kinh phí để cho các em đến trường.
Học bổng khuyến khích đối với những TEHCĐBKK có kết quả khá, giỏi.
Tiếp tục mở rộng giáo dục hoà nhập, đây là một giải pháp đúng, có hiệu quả song cần có chính sách hỗ trợ đào tạo, chế độ trợ cấp cho giáo viên phù hợp.
Đầu tư hoàn thiện hệ thống giáo trình đào tạo, cho các loại hình đào tạo chuyên biệt (trẻ em mù, trẻ em câm...).
Đối với những trẻ không thể theo được các lớp học hoà nhập cần có lớp học chuyên biệt theo từng loại tật (mù, câm).
Có chính sách khuyến khích các tổ chức xã hội, cá nhân giúp đỡ TEHCĐBKK trong học tập. Đặc biệt là biểu dương, khen thưởng, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Mở các lớp học tình thương, lớp vừa học vừa làm, dạy văn hoá với dạy nghề, phục hồi chức năng.
Cần có chính sách, cơ chế hỗ trợ các tổ chức, cá nhân mở các lớp học chuyên biệt cho TETT. Tạo môi trường cho việc mở rộng các hoạt động dịch vụ chăm sóc phục hồi chức năng, dạy văn hoá cho TETT, giảm dần sự bao cấp của Nhà nước. Trong thực tế không phải tất cả các gia đình có TETT đều thuộc diện nghèo đói, do vậy cần mở cơ chế “dịch vụ”, cơ chế này mang lại hiệu quả của việc chăm sóc, dạy dỗ đối với TETT, vì các cơ sở dịch vụ có chuyên môn, có cơ sở vật chất, trẻ được sống trong môi trường hoà nhập. Mặt khác cơ chế “dịch vụ” này cũng rất có hiệu quả kinh tế - xã hội. Vì nếu gia đình để TETT nặng ở nhà phải có người chăm sóc, đưa đến cơ sở “dịch vụ” chăm sóc sức khoẻ, dạy học... giảm được chi phí xã hội.
3.4. Về chỉnh hình phục hồi chức năng
Tạo cơ hội cho TETT được chỉnh hình phục hồi chức năng, hoà nhập cộng đồng, đặt trọng tâm vào phục hồi chức năng cộng đồng với các hình thức phù hợp. Trong bối cảnh đất nước còn nghèo thì cũng cần có cơ chế rõ ràng đối với từng nhóm đối tượng TETT. Nhóm TETT dưới 6 tuổi, nhóm TETT do hậu quả chất độc hoá học (dị tật, dị dạng), nhóm TETT con gia đình nghèo, nhóm TETT khác để có chính sách, cơ chế “hỗ trợ”, “dịch vụ” cho phù hợp. Cần có cơ chế khuyến khích kết hợp chỉnh hình phục hồi chức năng ở các trung tâm với phục hồi chức năng ở cộng đồng như một quy trình tất yếu.
- Ưu tiên cấp phát cho không dụng cụ chỉnh hình đối với nhóm TETT khó khăn, trẻ em dị dạng dị tật. Hỗ trợ một phần để gia đình có thể mua thiết bị như xe lăn, xe đẩy cho trẻ. Mặt khác tạo điều kiện để các nhóm TETT khác tiếp cận dễ dàng với các hoạt động chỉnh hình phục hồi chức năng. Việc phân ra các nhóm trẻ tàn tật khác nhau là để có chính sách cơ chế hỗ trợ phù hợp trong từng giai đoạn chứ không có tính chất phân biệt, vì thực tế ngân sách Nhà nước không thể bao cấp tất cả các đối tượng yếu thế, trong đó có TETT.
- Kết hợp chỉnh hình, phục hồi chức năng hiện đại với phục hồi chức năng dựa vào y học cổ truyền, y học dân tộc, điều này đặc biệt phù hợp với vùng cao miền núi.
- Có chính sách đào tạo và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ y tế cơ sở kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ chỉnh hình và phục hồi chức năng cho TETT cộng đồng. Hoặc đào tạo và phụ cấp đối với đội ngũ cộng tác viên.
3.5. Chính sách giải pháp về học nghề - việc làm:
Đối với nhóm TEHCĐBKK có khả năng lao động, có nguyện vọng được học nghề, tạo việc làm cần được hỗ trợ học nghề và tạo việc làm, mặc dù Bộ Luật lao động đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút nhóm yếu thế học nghề tạo việc làm, song cần có các chế tài đủ mạnh để thực thi vấn đề này:
Nhà nước có chính sách đào tạo nghề miễn phí cho TEHCĐBKK. Mở rộng các cơ sở dạy nghề miễn phí cho TEHCĐBKK thuộc Nhà nước quản lý.
Cần có chính sách khuyến khích các cơ sở tư nhân dạy nghề tạo việc làm cho TEHCĐBKK, như chính sách miễn giảm thuế, hỗ trợ kinh phí để các cơ sở thu hút trẻ em đến tuổi lao động vào làm việc.
Chính sách khuyến khích và ưu tiên một số nghề, công việc dành riêng cho lao động là người tàn tật. Nếu các tổ chức kinh tế khác làm các nghề, công việc dành riêng cho người tàn tật thì phải áp dụng mức thuế cao gấp 2 đến 3 lần, không nên áp dụng biện pháp hành chính thông thường.
Hỗ trợ học phí, các khoản đóng góp chi phí đào tạo cho TEHCĐBKK khi học ở các trường dạy nghề, cơ sở đào tạo nghề, trung học chuyên nghiệp cao đẳng và đại học. Tuy vậy, cần phải căn cứ vào từng nhóm đối tượng để có mức hỗ trợ, không nên hỗ trợ một cách bình quân, tràn lan và tập trung ưu tiên cho nhóm khó khăn nhất.
Cùng với những quy định bắt buộc doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhận một tỷ lệ lao động là người tàn tật, cũng cần có văn bản quy định những nghề đặc thù dành riêng cho người tàn tật và quy định một số nghề chỉ đào tạo người tàn tật ngoài ra không đào tạo đối với những người bình thường. Những quy định này sẽ tạo ra thị trường lao động của một số nghề chỉ có người tàn tật cạnh tranh với nhau tránh được cạnh tranh của người tàn tật với những người bình thường.
Hỗ trợ cơ sở sản xuất kinh doanh tiếp nhận TEHCĐBKK đến tuổi lao động vào làm việc:
Gắn liền bước tiếp theo của giải pháp hỗ trợ TEHCĐBKK học nghề cần thiết phải có giải pháp mở rộng chỗ làm việc, để đảm bảo sau khi TE HCĐBKK lớn lên có nghề có chỗ làm việc ổn định. Giải pháp này sẽ tác động ngược trở lại đối với những TEHCĐBKK cố gắng vươn lên để học được một nghề nhất định. Nhà nước tiếp tục mở rộng các hình thức tạo việc làm, thông qua việc phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh dành riêng cho người tàn tật, người lao động yếu thế...
Chính sách thuế: Miễn hoặc giảm thuế đối với những cơ sở sản xuất dành riêng cho người tàn tật. Trong những năm qua những quy định đối với những cơ sở sản xuất có từ 51% lao động là người tàn tật được ưu đãi: Cấp lại 100% thuế lợi tức, thuế vốn, cấp lại 50% thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, phần thuế này thuộc vốn Nhà nước trợ giúp và phải được ghi tăng vào tài sản của doanh nghiệp và phải sử dụng đúng theo những quy định của cấp phát và kiểm soát về tài chính hiện hành. Đây cũng chỉ là đối với những cơ sở kinh doanh của Nhà nước, trong thời gian tới mở rộng chính sách ưu đãi tương tự đối với những doanh nghiệp tư nhân. Phần miễn và giảm thuế được ghi vào tài sản của công ty và doanh nghiệp được quyền quyết định sử dụng.
Đối với những doanh nghiệp có 75% lao động là người tàn tật cho phép được miễn 100% các loại thuế, nhưng toàn bộ những khoản thuế đó đều phải nhập vào vốn để mở rộng sản xuất và thu hút thêm người tàn tật vào làm việc.
- Chính sách ưu tiên đầu tư: Khuyến khích mở rộng sản xuất thu hút lao động là TEHCĐBKK đến tuổi lao động bằng cách Nhà nước ưu tiên về mặt bằng ở những vị trí thuận lợi, giá thuê đất thấp; hỗ trợ công nghệ thiết bị, hỗ trợ chi phí đào tạo công nhân; cho vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, trợ giúp pháp luật... những giải pháp này giúp cho doanh nghiệp có thể đứng vững trong giai đoạn đầu khi mới thành lập còn gặp nhiều khó khăn.
Ngoài những chính sách ưu đãi về thuế, vốn, đất đai và các điều kiện phát triển ban đầu cũng có những chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, cung ứng nguyên liệu... toàn bộ những chính sách này dần từng bước được hoàn thiện và thể chế trong những nội dung văn bản quy định của Chính phủ, các Bộ, ngành chức năng.
3.6. Chính sách, giải pháp hỗ trợ hoạt động văn hoá, thể thao, vui chơi giải trí
Đặc điểm của TEHCĐBKK ít có điều kiện thoả mãn những nhu cầu vui chơi giải trí, thưởng thức văn hoá. Nhưng ngược lại những đặc điểm của TEHCĐBKK cho thấy do thiếu hụt một số chức năng này thì chức năng khác lại được nổi trội hơn, có khả năng phát triển năng khiếu nghệ thuật. Chính sách hỗ trợ về văn hoá giúp cho trẻ thực hiện quyền được vui chơi, khơi dạy cảm xúc nghệ thuật, vun đắp và nuôi dưỡng trong các em tình yêu cuộc sống, tình yêu cái thiện, cái đẹp và đáp ứng những nhu cầu vui chơi giải trí của các em.
Trong thời gian qua cũng đã có một số giải pháp có hiệu quả như tổ chức hội diễn văn nghệ cho TEHCĐBKK, xây dựng thư viện, nhà truyền thống ở các cơ sở nuôi dưỡng, chương trình biểu diễn nghệ thuật dành riêng cho TEHCĐBKK... Đây cũng mới chỉ là những phong trào mang tính quần chúng, về mặt Nhà nước chưa có quy định ưu đãi dưới hình thức những văn bản hướng dẫn cụ thể. Trong những năm tới cần đẩy mạnh nghiên cứu mảng chính sách này, cụ thể các mặt:
Phần lớn TEHCĐBKK sống ở cộng đồng cùng gia đình, do vậy cần phải đẩy mạnh các phong trào xây dựng gia đình văn hoá, khu phố văn hoá, làng văn hoá... Đưa vào một trong những điều kiện để xét cấp giấy chứng nhận danh hiệu làng văn hoá là việc đảm bảo hoạt động văn hoá, vui chơi đối với TEHCĐBKK.
Đẩy mạnh xã hội hoá đối với việc vui chơi giải trí của TEHCĐBKK, đặc biệt là tại gia đình. Giáo dục và tuyên truyền nâng cao nhận thức đối với các bậc ông, bà cha mẹ về quyền được vui chơi giải trí của trẻ em, gia đình cần tạo mọi điều kiện để các em được thoả mãn như cầu như xem phim, nghe đài, đọc sách, báo, nghe kể truyện... ngay tại gia đình.
- Mở rộng các trường phát triển năng khiếu cho TEHCĐBKK, hiện tại các trường này đang thực hiện có hiệu quả cao, tuy vậy mới chỉ có ở các thành phố và thị xã lớn, còn hầu hết ở các tỉnh khó khăn chưa có. Trong những năm tới ít nhất mỗi tỉnh cần có được một cơ sở, hoặc xen ghép với trường năng khiếu của tỉnh, đối với những tỉnh lớn, có nhiều TEHCĐBKK cần xây dựng theo khu vực, đểtạo cơ hội phát triển tài năng trẻ em. Cùng với việc mở rộng các trường cần quan tâm đầu tư đúng mức để đáp ứng được yêu cầu trang thiết bị như sân chơi, phòng tập văn nghệ, sân khấu ngoài trời, thiết bị nghe, ghi hình, ánh sáng, ti vi, viđeo...
Có ưu tiên trong việc xuất bản những ấn phẩm văn hoá phục vụ cho TEHCĐBKK như giảm, miễn thuế với các ẩn phẩm loại này, chính sách giá cả... để khuyến khích và động viên những tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sản xuất những sản phẩm văn hoá phục vụ cho TEHCĐBKK.
Xây dựng chương trình dành riêng cho TEHCĐBKK như tổ chức các cuộc liên hoan văn hoá, thể thao dành cho TEHCĐBKK, dành riêng những chương trình biểu diễn cho các em, xây dựng những bộ phin hoạt hình gần gũi, những phóng sự về gương vượt bệnh tật vươn lên học tập... những chương trình và nội dung này là tư liệu giúp tuyên truyền và giáo dục sâu rộng đối với TEHCĐBKK.
Các ngành chức năng cần xây dựng chương trình phối hợp lồng ghép các chương trình phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí cho TEHCĐBKK trong các lĩnh vực hoạt động có liên quan, như hoạt động văn hoá, thể thao, biểu diễn nghệ thuật....
Cùng với những chính sách giải pháp hỗ trợ trực tiếp, gián tiếp TEHCĐBKK về văn hoá, thể thao. Nhà nước cũng có biện pháp ngăn cấm đối với các tổ chức cá nhân lợi dụng các em để kiếm lợi, những hoạt động này trong những năm qua mặc dù chưa nhiều nhưng cũng đã xuất hiện và trở thành cách kiếm lời của một số cá nhân.
4. Tăng cường quản lý Nhà nước và phân cấp trách nhiệm
4.1. Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về TEHCĐBKK
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia tăng số TEHCĐBKK là do công tác quản lý còn hạn chế và chưa được phân cấp triệt để. Trong giai đoạn tới cần tập trung biện pháp mạnh về cải cách bộ máy thực hiện chức năng BV, CS&GD trẻ em nói chung, TEHCĐBKK nói riêng. Cùng với việc phân cấp phải có quy định cụ thể chức năng và phạm vi của các cơ quan, các cấp uỷ đảng, chính quyền từ Trung ương đến xã, phường, thôn xóm.
Cấp Trung ương:
Trước tiên khẳng định chức năng chính của cấp trung ương là tạo môi trường thuận lợi bằng chính sách, giải pháp và cân đối các nguồn lực, chỉ đạo hướng dẫn địa phương thực hiện chính sách, kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm. Để thực hiện được cần tập trung làm ngay một số vấn đề sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, thống nhất quan điểm nhận dạng về TEHCĐBKK.
- Tổng hợp, hệ thống lại hệ thống luật pháp, chính sách, văn bản quy định thực hiện chính sách, sàng lọc những văn bản hết hiệu lực, lên danh mục những văn bản còn hiệu lực. Trên cơ sở hệ thống văn bản, luật pháp, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước nghiên cứu hướng dẫn địa phương về nội dung chính sách, xác định đối tượng, thủ tục thực hiện, các bước làm ở địa phương.... Nghiên cứu xây dựng một số chính sách mới cho phù hợp với tình hình mới nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2010.
- Thành lập cơ quan điều phối hoạt động vì TEHCĐBKK (đặt tại Bộ LĐTBXH), với các chức năng:
Cơ quan này vừa có chức năng quản lý nhà nước ban hành, xây dựng, chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ TEHCĐBKK.
Quản lý hệ thống sự nghiệp các trung tâm chăm sóc nuôi dưỡng TEHCĐBKK. Trong những năm qua hệ thống trung tâm được phân cấp cho các tỉnh quản lý. Nhưng hiện còn 4 trung tâm thuộc Bộ LĐTBXH quản lý, 2 trung tâm thuộc tổng liên đoàn lao động Việt nam và một số trung tâm thuộc Uỷ ban bảo vệ chăm sóc trẻ em Việt Nam. Bên cạnh đó một thực tế là số trẻ em tâm thần mãn tính ở các tỉnh nhỏ có ít, nếu đầu tư xây dựng trung tâm thì tốn kém và không hiệu quả do vậy cần thiết phải có trung tâm khu vực thuộc quản lý của Bộ LĐTBXH.
Quản lý nhà nước về hoạt động của các hội vì TEHCĐBKK. Trong những năm qua các hội từ thiện phát triển mạnh trên toàn quốc, với chức năng bảo trợ cho các hội của Bộ LĐTBXH không còn phù hợp mà tiến tới cần có biện pháp quản lý hoạt động của các hội bằng luật pháp sao cho phù hợp và hoạt động có hiệu quả, không tràn lan...
Huy động điều phối và cân đối phân phối nguồn huy động quốc tế, quản lý hoạt động của các dự án hợp tác quốc tế, NGO hoạt động tại Việt nam. Quản lý hoạt động này trong những năm qua chưa có sự phối hợp chặt chẽ, tuỳ các Bộ, ngành và các địa phương huy động, chưa có cơ quan tổng hợp điều phối chung. Tình trạng này đã dẫn đến có tỉnh có nhiều dự án, chương trình hợp tác quốc tế, NGO hỗ trợ như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Tháp... nhưng lại có những tỉnh chưa có dự án hỗ trợ.
- Phân rõ trách nhiệm và phạm vi giữa các Bộ, ngành, các tổ chức đoàn thể xã hội đối với công tác BV, CS&GD - TEHCĐBKK. (chức năng giữa Bộ LĐTBXH, Uỷ ban BVCSTEVN, Bộ GD và ĐT, Y tế; chức năng quản lý Nhà nước và chức năng hoạt động sự nghiệp- hoạt động xã hội)
- Phối hợp cùng với Trung ương Mặt trận tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, hội nông dân... nhằm mục đích lồng ghép các hoạt động BV, CS&GD TEHCĐBKK với nội dung hoạt động của các tổ chức hội.
- Xây dựng kế hoạch lồng ghép chương trình bảo vệ, chăm sóc và giáo dục TEHCĐBKK với các chương trình KT-XH khác như: chương trình XĐGN, Việc làm, chống suy dinh dưỡng, phổ cập giáo dục, các chương trình y tế...
- Tăng cường đào tạo nâng cao trình độ lý luận, nghiệp vụ, chuyên môn cho cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục TEHCĐBKK ở các Bộ, các tổ chức đoàn thể xã hội.
- Tăng cường kiểm tra, thanh tra và đặc biệt thanh tra liên ngành.
Các cấp thuộc tỉnh, thành phố:
Vai trò cấp tỉnh đặc biệt quan trọng là cơ quan quản lý Nhà nước trên địa bàn về lĩnh vực chăm sóc TEHCĐBKK. Trên cơ sở những chính sách và chủ trương của Đảng và Nhà nước tỉnh quyết định về các hình thức chăm sóc, trợ cấp và các mức trợ cấp. Hướng dẫn cấp huyện, xã thực hiện những chính sách đã ban hành, tổ chức huy động nguồn lực trong tỉnh... Để làm được những chức năng trên, cấp tỉnh cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Cũng giống như ở Trung ương, tổ chức bộ máy làm công tác BV, CS&GD TEHCĐBKK còn chồng chéo. Nếu như ở trung ương việc phân định trách nhiệm giữa Bộ LĐTBXH với Uỷ ban BVCSTEVN tương đối rõ ràng, nhưng ở cấp tỉnh còn một số tỉnh chưa phân định rõ cả 2 cơ quan cùng làm và như vậy cùng một đối tượng nhưng lại có 2 cơ quan cùng tác động thông qua các hình thức khác nhau. Điều này vừa thể hiện sự thiếu thống nhất củacác cơ quan chức năng, vừa tiêu tốn nguồn lực của Nhà nước. Như vậy để phân định rõ chức năng giữa 2 cơ quan, những hoạt động truyền thông, phong trào giao cho Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, còn với chức năng thực hiện chính sách thì giao cho Sở LĐTHXH. Tình trạng đào tạo cán bộ ở cấp tỉnh cũng chưa được phối hợp chặt chẽ giữa hai cơ quan đã dẫn đến có một số cán bộ được đào tạo 2 lần cùng một nội dung, trong khi đó có cán bộ khác có nhu cầu được đào tạo thì lại chưa được đào tạo, đây cũng là những bất hợp lý cần khắc phục. Hoặc cùng một đối tương nhưng lại có nhiều nội đào tạo cán bộ khác nhau.
Để khắc phục tình trạng thiếu thông tin báo cáo và có cơ sở thực hiện chính sách, các tỉnh cần tổ chức điều tra đanh giá thực trạng TEHCĐBKK. Điều tra xác định số lượng cơ cấu, chất lượng cuộc sống của TEHCĐBKK, từ đó có cơ sở lên kế hoạch, địa chỉ để thực hiện chính sách.
Tập trung đào tạo cán bộ cấp xã, phường. Để có cơ sở đào tạo thì cần thiết phải có phân công cán bộ theo dõi, với những xã nào không có cán bộ chuyên trách LĐTBXH thì có thể giao cho cán bộ kiêm nhiệm của các tổ chức đoàn thể như: Hội phụ nữ, cựu chiến binh, Đoàn thanh niên...
Huyện, xã: Chủ yếu tập trung huy động nguồn lực, điều tra quản lý đối tượng, thực hiện các biện pháp trợ giúp đối tưọng. Tổ chức các hoạt động giúp TEHCĐBKK từng bước hoà nhập cộng đồng
4.2. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát, xử phạt
Một trong những nguyên nhân hạn chế của việc thực hiện chính sách trong những năm qua là công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước về chính sách đối với TEHCĐBKK còn hạn chế, chưa được tăng cường chỉ đạo. Trong những năm tới cần đặc biệt quan tâm, đặc biệt Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội cần tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện chính sách trợ giúp đối với TE ĐBKK thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội và phối hợp liên ngành kiểm tra thực hiện chương trình hành động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục TEHCĐBKK
4.3. Phát triển mô hình BV, CS&GD - TEHCĐBKK có hiệu quả
Để triển khai tốt các giải pháp trợ giúp TEHCĐBKK, thí điểm những hình thức thực hiện có hiệu quả cần tiếp tục phải có những mô hình điểm từ đó đúc rút kinh nghiệm phát triển rộng, đặc biệt là các mô hình chăm sóc ở cộng đồng và mô hình mở nhằm mục đích:
Tăng thêm các hình thức trợ giúp, mở rộng đối tượng trẻ được hưởng thụ chính sách, đặc biệt tập trung các hình thức ở cộng đồng.
Giảm bớt đầu tư xây dựng các trung tâm BTXH, chỉ tập trung nâng cấp các cơ có sẵn để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng tập trung(khu vực Nhà nước)
Đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả hệ thống chính sách đã ban hành
Thực hiện chủ trương xã hội hoá, thu hút thêm nguồn lực của xã hội để cùng ngân sách Nhà nước chi cho công tác BV, CS&GD -TEHCĐBKK.
Phòng ngừa và hạn chế trẻ em rơi vào tình trạng hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Với những mục đích này và trên cơ sở phân tích thực trạng công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục TEHCĐBKK, hiệu quả và tính ưu việt của một số loại mô hình cần tập trung nguồn lực phát triển. Cụ thể:
Mô hình chăm sóc tại cộng đồng (tổng hợp các hình thức trợ giúp)
Mô hình trung tâm bảo trợ xã hội theo hướng mở.
Mô hình ngân hàng bò
Mô hình tư vấn
Để phát triển được những mô hình trên trong những năm tới cần tập trung vào những giải pháp:
Tăng ngân sách của nhà nước từ nguồn đảm bảo xã hội để các địa phương có ngân sách chi cho trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng. Bên cạnh đó phát triển các hình thức trợ giúp khác như khám chữa bệnh miễn phí, miễn giảm học phí và các khoản đóng góp...
Có chính sách để các cơ sở Bảo trợ xã hội của nhà nước hoạt động theo phương thức tuyển chọn và ký hợp đồng lao động. Nhà nước chịu trách nhiệm bảo đảm những chi phí theo qui định hiện hành như chi phí nuôi dưỡng, chi phí quản lý. Giám đốc được tuyển chọn và làm việc theo cơ chế hợp đồng lao động có thời hạn. Giám đốc trung tâm chịu trách nhiệm điều hành toàn bộ từ khâu tuyển chọn nhân viên đến khâu tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng bảo đảm chất lượng tốt, tạo cơ hội cho các em có khả năng hoà nhập cộng đồng một cách tốt nhất, nếu không hoàn thành nhiệm vụ, hợp đồng lao động sẽ bị chấm dứt. Với hình thức này sẽ khuyến khích sự năng động của các giám đốc trung tâm, cố gắng tìm những giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm.
Cần có chính sách khuyến khích mở rộng các hình thức chăm sóc đối tượng ở cộng đồng, có cơ chế khuyến khích các tổ chức xã hội, từ thiện, cơ sở kinh tế, tư nhân nhận đỡ đầu trẻ em dưới nhiều hình thức khác nhau, trợ cấp xã hội, học bổng, cấp thẻ Bảo hiểm y tế... đồng thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân có điều kiện thành lập các cơ sở xã hội để nuôi dưỡng TEHCĐBKK từ nguồn kinh phí huy động. Xuất phát từ quan điểm xã hội hoá việc phòng ngừa, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục TEHCĐBKK và khả năng ngân sách Nhà nước có hạn, vì vậy phải khuyến khích các gia đình nhận đỡ đầu chăm sóc TEHCĐBKK, nhằm thực hiện phương châm chăm sóc ở cộng đồng là chủ yếu.
Đối với TEHCĐBKK, trở ngại khi tiếp cận với cộng đồng đó là tâm lý mặc cảm tự ti, hoặc là do không có người lớn ở cạnh để chăm sóc giúp đỡ cho trẻ mỗi khi trẻ gặp khó khăn. Gia đình trẻ giữ vai trò đặc biệt quan trọng nhất là đối với trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em mô côi, trẻ em nghiện ma tuý... sự trưởng thành của trẻ phần nhiều dựa vào sự quan tâm giúp đỡ, động viên của gia đình, nhà trường, cộng đồng. Trong thời gian tới cần thiết phải mở rộng các hình thức tư vấn như:
- Thành lập các trung tâm, văn phòng tư vấn danh riêng cho TEHCĐBKK, đặc biệt là ở thành phố và tập trung vào nhóm đối tượng trẻ em nghiện hút, TELT, LĐTE, TELTPL. Đối với những nhóm trẻ này nhiều khi về mặt tâm lý không muốn người thân, bạn bè biết những khó khăn và trở ngại đang gặp phải. Do vậy vấn đề tư vấn kịp thời hết sức quan trọng có tác động làm thay đổi hành vi của trẻ.
- Tổ chức các nhóm tư vấn cộng đồng, gặp gỡ đối tượng, gia đình động viên giúp đỡ trẻ và gia đình những lúc khó khăn.
Phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tính tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách... để huy động sự hỗ trợ giúp đỡ của cộng đồng làng xóm.
4.4. Tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ quản lý, kỹ năng cho nhân viên làm công tác BV,CS&GD- TEHCĐBKK
Cán bộ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, là điều kiện cần và đủ để thực hiện chính sách hỗ trợ đối với TEHCĐBKK. Cán bộ bao gồm từ cán bộ hoạch định, xây dựng chính sách cho đến cán bộ tổ chức thực hiện chính sách ở cơ sở và những nhân viên xã hội giúp đỡ trực tiếp trẻ em. Xuất phát từ những hạn chế về năng lực cán bộ ở phần trên đòi hỏi định hướng chính sách phòng ngừa và chăm sóc TEHCĐBKK cần đặc biệt quan tâm thực hiện giải pháp tăng cường năng lực cán bộ, ở cả hai mặt là chính sách đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cán bộ và chính sách sử dụng để tăng cường số lượng, đặc biệt là cán bộ cơ sở.
Trong những năm vừa qua mặc dù số lượng cán bộ làm việc đối với TEHCĐBKK có tăng về số lượng, nhưng một thực tế cho thấy các loại hình dịch vụ chăm sóc, trợ giúp trẻ em vẫn chưa phát triển. Điều này có một nguyên nhân không nhỏ là trong công tác cán bộ, chúng ta chưa quan tâm, chưa có mã nghề công việc cho những người làm việc đối với TEHCĐBKK. Trong những năm tới cần có quy định cụ thể đối với những cán bộ xã hội làm việc với TEHCĐBKK từ đó có hệ số lương, phụ cấp đặc biệt (vấn đề này các nước đã thực hiện từ những năm 1970 và có cả đào tạo cán sự xã hội ở bậc đại học và sau đại học).
Đối với những cán bộ làm việc với TETT, người tàn tật. Những người trực tiếp phải tiếp xúc, chăm sóc người tàn tật phải làm việc nhiều hơn và phải vất vả hơn so với những người tiếp xúc đối với những đối tượng xã hội khác, mặt khác còn phải chịu sức ép về mặt tâm lý, tình thần... do vậy có chế độ lương và phụ cấp đặc biệt là rất cần thiết đối với nhóm cán bộ này. Cần có chính sách chế độ ưu đãi đối với cán bộ y tế cơ sở khi nhận thêm công tác chăm sóc sức khoẻ cho TETT; chế độ phụ cấp đặc biệt đối với giáo viên dạy các lớp hoà nhập có trẻ em khuyết tật.
Để đảm bảo chất lượng chăm sóc, cần có quy định cụ thể một cán bộ, y bác sỹ, kỹ thuật viên, giáo viên chăm sóc tối đa bao nhiêu TEHCĐBKK, nếu vượt quá định mức đòi hỏi cần có thêm cán bộ, giáo viên thì các trường, các cơ sở chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em HCĐBKK mới có khả năng đảm bảo chăm sóc tốt được.
Cán bộ cơ sở (cán bộ xã, phường) chuyên trách hoặc kiêm nhiệm phụ trách về công tác chăm sóc TEHCĐBKK hiện tại đang thiếu và hầu như các xã ở nông thôn chưa có. Tình trạng thiếu cán bộ cơ sở đã dẫn đến những khó khăn khi triển khai thực hiện những chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước đến với đối tượng. Trong những năm tới cần thiết phải tăng cường ít nhất 1 xã, phường phải có 1 cán bộ kiêm nhiệm hoặc cộng tác viên làm việc với TEHCĐBKK, mỗi huyện có ít nhất 1 cán bộ quản lý theo dõi chung. Bên cạnh đó đối với những thôn, xóm có có nhiều TEHCĐBKK cũng cần có cộng tác viên xã hội chịu trách nhiệm chăm sóc trực tiếp TEHCĐBKK không có người nương tựa. Cán bộ cơ sở này tốt nhất là cán bộ thuộc ngành LĐTBXH, với những xã chưa có cán bộ chuyên trách LĐTBXH thì có thể lấy từ giáo dục, y tế hoặc các tổ chức hội như Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, cựu chiến binh... Giải pháp này không những không làm tăng số biên chế cơ sở mà lại giải quyết tốt được công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục TEHCĐBKK.
Cùng với những giải pháp tăng cường về số lượng cán bộ nhân viên cũng cần thực hiện những giải pháp tăng cường công tác đào tạo cán bộ, nhân viên thông qua các hình thức đào tạo dài và ngắn hạn, đào tạo chuyên đề, đưa vào nội dung học bắt buộc của các trường Sư phạm và các trường đào tạo cán bộ y tế cơ sở, các trường đào tạo cán bộ xã hội, cán bộ quản lý ngành Lao động Thương binh và Xã hội. Tuỳ theo mỗi lĩnh vực đặc thù, nhu cầu mà có hình thức đào tạo cho phù hợp:
Đưa nội dung đào tạo chăm sóc sức khoẻ, chỉnh hình phục hồi chức năng cộng đồng vào làm môn học bắt buộc đối với cán bộ y tế cơ sở. Giải pháp này sẽ mang lại hiệu quả cao vì việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chăm sóc khi đau ốm của TEHCĐBKK sống tại cộng đồng chính là y tế cơ sở, các thày thuốc, y, bác sỹ ở xã biết cả công tác phục hồi chức năng cộng đồng sẽ giảm chi phí cho gia đình cũng như sẽ chăm sóc thường xuyên được trẻ.
Thực hiện chủ trương giáo dục hoà nhập, nhu cầu giáo viên và đào tạo lại giáo viên ở cả ở 3 cấp đại học, cao đẳng và trung học của ngành giáo dục và đào tạo là rất lớn. Trong những năm tới cần đưa môn học giáo dục đặc biệt và là chương trình bắt buộc của tất cả các trường trung học sư phạm. Để làm được phải từng bước và trước tiên phải có khoa giáo dục đặc biệt ở trường đại học quốc gia, đào tạo đội ngũ giáo viên tăng cường cho các trường trung học sư phạm. Bên cạnh đó đối với giáo viên cũng cần có kỹ năng chăm sóc, tuyên truyền và giáo dục đối với TEHCĐBKK, Do vậy cũng cần đưa nội dung này vào đào tạo ở hệ thống trường Sư phạm và coi là môn học bắt buộc đối với giáo viên tiểu học và trung học cơ sở. Thực hiện giải pháp này cũng sẽ không làm tăng thêm số cán bộ và chi phí đào tạo mà vẫn đạt được chất lượng tốt.
Cán bộ xã hội, cán bộ làm việc với TEHCĐBKK: Mở rộng các hình thức đào tạo dài hạn tập trung, quy định mã ngành đào tạo cán bộ xã hội, cả cán bộ đại học, cao đẳng và trung học. Biên soạn tài liệu chuẩn quốc gia, quy định bắt buộc đối với những cán bộ xã hội cần phải đảm bảo các chuyên đề đào tạo nhất định thì mới được làm dịch vụ chăm sóc TEHCĐBKK từ đó bắt buộc những cá nhân, tổ chức muốn được là dịch vụ xã hội thì phải đào tạo cán bộ.
Giải quyết tình trạng yếu của cán bộ cơ sở nhất là cán bộ xã phường, huyện tiếp tục tăng cường đào tạo ngắn hạn bằng các hình thức tập huấn theo từng chuyên đề, tập huấn triển khai thực hiện chính sách, thăm quan các mô hình... đây là những giải pháp cấp thiết và phù hợp trong thời gian ngắn, nhằm đáp ứng nâng cao năng lực cán bộ cơ sở.
5. Giải pháp huy động nguồn lực
Nguồn lực tài chính và con người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện chủ trương, chính sách phòng ngừa, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục TEHCĐBKK. Với chủ trương xã hội hoá công tác xã hội, nguồn lực huy động phải được đa dạng từ nhiều nguồn, cụ thể tập trung vào các nguồn sau:
Ngân sách nhà nước: Nguồn ngân sách Trung ương, ngân sách tỉnh, ngân sách huyện, xã
Nguồn huy động từ cộng đồng: Huy động từ các tổ chức xã hội, tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, các cá nhân hảo tâm trong nước
Nguồn hợp tác quốc tế: Hợp tác song phương, đa phương với các nước, nguồn từ các tổ chức phi chính phủ, cá nhân từ thiện nước ngoài.
Nguồn khác: Nguồn lồng ghép các chương trình KT-XH như XĐGN, việc làm, chương trình phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn...
kiến nghị
Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước, từ thực trạng của trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, từ tình hình thực tiễn của quản lý Nhà nước về lĩnh vực này, em xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Cơ chế chính sách tài chính:
Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước"...tiến tới xã hội công bằng và văn minh", mọi trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như đã qui định trong các văn bản của Nhà nước đều có quyền được hưởng hỗ trọ như nhau không phân biệt là đang ở các tỉnh nghèo, hoặc những tỉnh giàu. Chính vì vậy cần có những sửa đổi tài chính để giúp cho các tỉnh nghèo có khả năng cao hơn trong việc cứu trợ đối tượng xã hội, như sau:
Nhà nước qui định cụ thể về mục chi và tỷ lệ ngân sách dành cho chi chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Như vậy sẽ tránh được tình trạng sử dụng tuỳ tiện nguồn ngân sách bảo đảm xã hội, muốn chi cho cứu trợ xã hội thường xuyên bao nhiêu cũng được tuỳ theo nhận thức của chính quyền địa phương.
Đối với những tỉnh nghèo, tỷ lệ đối tượng hưởng trợ cấp thấp, Nhà nước cần có cơ chế điều hoà ngân sách.
Chính sách đầu tư hợp lý cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đặc biệt khó khăn. Hiện nay tỷ lệ ngân sách dành cho công tác này còn chưa phù hợp với mục tiêu đề ra của chiến lược bảo vệ, chăm sóc trẻ em nói chung- một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế. Cần có chương trình mục tiêu bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Phát triển các mô hình chăm sóc các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Để tăng số lượng trẻ em được chăm sóc, đồng thời nâng cao chất lượng chăm sóc mà không ảnh hưởng đến ngân sách của Nhà nước, cần có chính sách khuyến khích cá nhân. các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động từ thiện, thành lập các cơ sở chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, xây dựng qui chế quản lý các cơ sở Bảo trợ xã hội, tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức muốn tham gia vào công tác này.
Có chính sách để các cơ sở Bảo trợ xã hội của Nhà nước hoạt động theo phương thức tuyển chọn và ký hợp đồng lao động. Nhà nước chịu trách nhiệm đảm bảo những chi phí theo qui định hiện hành như chi phí nuôi dưỡng, chi phí quản lý. Các giám đốc được tuyển chọn và làm việc theo cơ chế hợp đồng lao động có thời hạn. Giám đốc trung tâm chịu trách nhiệm điều hành toàn bộ từ khâu tuyển chọn nhân viên đến khâu tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng bảo đảm chất lượng tốt, tạo cơ hội cho các em có khả năng hoà nhập cộng đồng một cách tốt nhất, nếu không hợp đồng lao động sẽ chấm dứt. Với hình thức này sẽ chấm dứt sự năng động của các giám đốc trung tâm cố gắng tìm những giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm.
Chính sách giáo dục
Để cải thiện tình hình giáo dục hiện nay cần thay đổi cơ cấu đầu tư trong giáo dục nhằm khắc phục tình trạng hạn hẹp của ngân sách, mà vẫn tăng cường cho giáo dục cơ sở để phục vụ cho trẻ em nghèo.
Mở rộng mạng lưới giáo dục hoà nhập cho trẻ em khuyết tật, lớp học tình thương cho trẻ em nghèo và cho trẻ em lang thang. Có chính sách trợ cấp cho giáo viên tình nguyện để mô hình này có thể duy trì được lâu dài.
phát triển các hình thức giáo dục thay thế như giáo dục trên đường phố, hoặc mô hình giáo dục như lồng ghép trong các trường chính qui sẽ là một hình thức tốt. Tại các trường phổ thông cơ sở có thể mở các lớp học linh hoạt. Các em lang thang có thể đến lớp vào các giờ thuận tiện, tạo cho các em cảm thấy bình đẳng như trẻ bình thường khác. Các lớp học này có thể mở vào buổi tối mà hỗ trợ cho các em vở viết, sách giáo khoa cơ bản.
Chính sách giáo dục trung học cơ sở bắt buộc: Một vấn đề cần lưu ý trong chính sách giáo dục có liên quan đến phòng ngừa trẻ em lang thang là hiện nay nhiều em lang thang kiếm sống là những trẻ em đã hoàn thành tiểu học và có trình độ văn hoá cấp II. Như vậy các em không còn là đối tượng của Luật giáo dục phổ cập tiểu học. Mặt khác với tốc độ phát triển nhanh chóng về công nghệ và khoa học, để có cơ hội tìm được việc làm đòi hỏi có một trình độ văn hoá nhất định. Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở phổ cập tiểu học thì trong tươn lai sẽ thừa lực lượng giản đơn, nhưng lại thiếu lao động có kỹ thuật. Chính vì vậy đến thời điểm cần ban hành chính sách giáo dục bắt buộc ở cấp trung học. Chính sách này có tác dung tích cực trong việc bắt buộc các gia đình phải đảm bảo cho các em hoàn thành trình độ văn hoá trung học cơ sở, giúp cho việc giảm số trẻ em trong độ tuổi đi học mà kiếm việc làm từ lúc tuổi còn nhỏ. Mặt khác cần có chính sách ohân luồng giữa học văn hoá kết hợp với học nghề ngay từ cấp trung học cơ sở.
Chính sách chăm sóc sức khoẻ
Tạo điều kiện cho nhiều người nghèo đựơc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế như thay đổi cơ caáu đầu tư trong y tế- giảm đầu tư ở bệnh viện lớn, tăng cường đầu tư cho chăm sóc sức khoẻ ở cộng đồng nhất là ở nông thôn nơi có 90% người nghèo sống.
Cần mở rộng các cơ sở khám bệnh từ thiện để các em lang thang có thể đến khám khi cần thiết. Nhiều em nhỏ này đang phải làm việc quá sức, trong điều kiện độc hại, rất nguy hại đến sức khoẻ, nhưng các em không ý thức được điều đó. Các cơ sở từ thiện sẽ là những nơi phát hiện bệnh kịp thời, khuyên bảo các em cũng như cha mẹ các em có biện pháp kịp thời chăm sóc.
Có chính sách để trẻ em lang thang kiếm sống được khám chữa bệnh miễn phí ở các cơ sở y tế tại xã phường nơi các em đang sinh sống.
Chính sách dạy nghề
Chính sách dạy nghề cần khuyến khích các tổ chức sản xuất Nhà nước và tư nhân tham gia vào công tác đào tạo nghề gắn với tạo việc làm. Đây là hình thức đào tạo nghề ngay tại nơi sản xuất. Hình thức này là hình thức vừa học vừa làm, học sinh sẽ có nhiều kinh nghiệm thực tế hơn. Sau thời gian học nghề các cháu có thể được nhận vào làm ngay tại cơ sở sản xuất hoặc cơ sở sản xuất bảo đảm tiêu thụ sản phẩm của các cháu khi các cháu tự tạo việc làm và thu nhập giúp gia đình, tránh tình trạng lãng phí kinh phí kinh phí dạy nghề.
Chính sách chung
Hoàn thiện Luật Lao động: mở rộng phạm vi bao trùm của luật tới lao động ở khu vực không chính thức, để có thể bao quát được cả lao động của các trẻ em đường phố. Đây chính là những căn cứ pháp lý, đồng thời cũng là những phương tiện giáo dục, răn đe nhằm phòng ngừa và giải quyết vấn đề trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố. Tăng cường luật pháp để tác động mạnh tới việc giảm số trẻ em phải kiếm sống trên đường phố.
Trước mắt khi chưa có thể hoàn thiện Luật lao động vì đây là cả quá trình không đơn giản, thì trong pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cần có qui định về xử phạt hành chính đối với gia đình không thuộc diện đói nghèo, để con phải lang thang kiếm sống. Hoặc Nghị định Chính phủ điều chỉnh mối quan hệ lao động ở khu vực không chính thức trong đó có sử dụng trẻ em làm việc cho phù hợp với thực tế. Mặc dù luật pháp chưa thừa nhận đó là " lao động hợp pháp" hoặc nghiêm cấm song trên thực tế nó vẫn tồn tại, do đó cần có chính sách điều chỉnh để bảo vệ lao động trẻ em kể cả trường hợp tự các em quyết định tham gia lao động kiếm sống vì bản thân các em và giúp đỡ gia đình.
Kết luận
"Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai". Đó không đơn thuần là khẩu hiệu. Việc bảo đảm sức khoẻ, học vấn, giáo dục một nhân cách cho trẻ em là một trong những vấn đề sống còn của mỗi quốc gia.
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam ghi rõ:" Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển...Thực hiện nhiều hình thức phân phối đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý nhằm thu hẹp dần về khoảng cách, về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư". Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc" lá lành đùm lá rách", mặc dù trong điều kiện kinh tế đất nước và ngân sách của nhà nước còn rất hạn chế, chính sách Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Đặc biệt khó khăn được Đảng và Chính phủ Việt Nam rất quan tâm. Chính sách đã đề cập tới hầu hết nhu cầu cơ bản của các đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: về nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, hướng nghiệp, dạy nghề. Cho đến nay hầu hết các đối tượng này đã được hưởng sự trợ giúp từ các chương trình kinh tế - xã hội khác nhau và sự trợ giúp cộng đồng dưới các hình thức trợ giúp rất đa dạng, phong phú và có hiệu quả.
Nhưng Việt Nam vẫn là một trong n hững nước nghèo nhất trên thế giới, do có xuất phát điểm rất thấp, lại phải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài, thường xuyên bị thiên tai, lại đang phải đương đầu với nhiều vấn đề xã hội, nên một số chính sách vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế nảy sinh trong quá trình biến động nhanh chóng của xã hội. Số lượng trẻ em đặc biệt khó khăn được chăm sóc còn hạn chế, mức hỗ trợ chưa cao- đây là một điều khó tránh khỏi trong giai đoạn hiện nay. Trong tương lai cùng với quá trình phát triển đất nước, cùng với những tiến bộ về kinh tế xã hội, hệ thống chính sách Bảo trợ xã hội cần tiếp tục được nghiên cứu, điều chỉnh, sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp chăm sóc, trợ giúp nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Cần có những chính sách tạo ra môi trường bình đẳng trong các dịch vụ xã hội(giáo dục, y tế...) để những trẻ em thiệt thòi được hưởng lợi. Bên cạnh đó cần có những biện pháp, cơ chế thúc đẩy việc thực hiện các chính sách đã ban hành có hiệu quả. cần quan tâm đến những giaỉ pháp tuyên truyền, phòng ngừa và đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở cấp cơ sở, đẩy mạnh nghiên cứu đúc kết rút kinh nghiệm những mô hình chăm sóc và phòng ngừa đối với TEHCĐBKK.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT183.doc