Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp và phân tích các báo cáo để đánh giá các nội dung hoạt động của tổ chức tín dụng. Về cơ bản, hệ thống giám sát từ xa là một hệ thống thông tin. Đó là việc sử dụng phương pháp phân tích bảng cân đối kế toán và các chỉ tiêu thống kê định kì của NHTM để những nhà làm công tác quản lý vĩ mô nắm được một cách thường xuyên tình hình, báo động cho NHTM những vấn đề cần thiết, kiến nghị những biện pháp khắc phục thích hợp, kịp thời và "chỉ điểm" cho thanh tra tại chỗ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm đỡ tốn thời gian và công sức. Ở một số nước trên thế giới còn bao gồm cả "việc xét cấp giấy phép cho các ngân hàng và ra chỉ thị cho các ngân hàng".
82 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường hoạt động thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thể tránh khỏi.
Một số cán bộ thanh tra còn thiếu chiều sâu của nghề thanh tra, tuy 100% đã học qua lớp thanh tra cơ bản nhưng kinh nghiệm thanh tra, tính chủ động sáng tạo trong công việc và khả năng độc lập công tác còn bị hạn chế.
+ Mặc dù 100% đã được đào tạo về vi tính, ngoại ngữ trình độ B-C trở nên nhưng cán bộ giỏi vi tính, sử dụng thành thạo ngoại ngữ, vi tính phục vụ trong công việc chuyên môn còn ít.
2.3.4.3- Cơ chế điều hành thiếu tập trung, còn chồng chéo và chưa rõ ràng về trách nhiệm, quyền hạn:
Về mặt pháp lý, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước là thanh tra nhà nước đặt tại ngành ngân hàng để thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ. Mối quan hệ của thanh tra ngân hàng nhà nước và thanh tra nhà nước là mối quan hệ phụ thuộc và bị chỉ đạo về công tác tổ chức và nghiệp vụ bên cạnh sự chỉ đạo trực tiếp của Thống đốc ngân hàng nhà nước. Đây là thể hiện nguyên tắc song trùng lãnh đạo đối với công tác thanh tra của ngân hàng Nhà nước, nhằm tạo cho tổ chức này có vị thế tương đối độc lập trong quá trình hoạt động theo pháp lệnh thanh tra. Tuy nhiên trong thực tế còn có nhiều ý kiến tranh luận về quan hệ song trùng lãnh đạo này về mục tiêu, trách nhiệm, quyền hạn của hai ngành là thanh tra nhà nước và ngân hàng nhà nước.
ở cấp độ thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, chế độ song trùng lãnh đạo thể hiện ở việc thanh tra chi nhánh vừa chịu sự quản lý trực tiếp của giám đốc ngân hàng nhà nước tỉnh, vừa chịu sự chỉ đạo của Thanh tra NHNN Việt nam. Bên cạnh đó phải có sự phối kết hợp chặt chẽ với thanh tra nhà nước tỉnh để công tác thanh, kiểm tra không bị chồng chéo nhưng cững không để xảy ra tình trạng bỏ trống trận địa. Việc đặt tổ chức thanh tra chi nhánh theo mô hình như trên trong thời gian qua về cơ bản là phù hợp vì nếu tổ chức thanh tra trực thuộc hoàn toàn thanh tra NHNN Việt nam thì công tác thanh tra sẽ kém nhanh nhạy, không đối phó kịp thời với diễn biến thực tế. Còn nếu chỉ trực thuộc sự quản lý của giám đốc NHNN tỉnh thì có thể dẫn đến tình trạng ý kiến, kết quả và kết luận, kiến nghị thanh tra hoàn toàn phụ thuộc vào ý kiến chỉ đạo của thủ trưởng; làm giảm đi tính độc lập và hiệu quả của công tác thanh tra. Tuy nhiên, cần phải nghiên cứu để làm rõ mức độ song trùng lãnh đạo đến đâu, cần phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, phạm vi chỉ đạo của từng cấp đến đâu để công tác thanh tra đạt kết quả cao nhất.
2.3.4.4- Sự chỉ đạo và phối kết hợp của thanh tra NHNN Việt nam với thanh tra chi nhánh còn chưa sâu sát và chặt chẽ:
Một số vướng mắc về quy trình nghiệp vụ, hoặc các kiến nghị của chi nhánh với thanh tra Ngân hàng Nhà nước Trung ương nhưng không được giải đáp hoặc không có phản hồi của thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt nam.
2.3.4.5- Việc áp dụng các chế tài trong thanh tra còn chưa đúng mức:
Sau khi luật ngân hàng nhà nước Việt nam ra đời, Nghị định số 52/2003/NĐ-CP ngày 19/5/2003, sau đó được thay thế bởi Nghị định số 96/2008/NĐ-CP ngày 26/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xác định rõ thanh tra ngân hàng là thanh tra nhà nước chuyên ngành về ngân hàng, do đó có quyền xử phạt theo pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Việc ban hành nghị định số 20/2000/NĐ-CP ngày 15/06/2000, sau đó thay thế bởi Nghị định số 202/2004/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã nâng cao vị thế của thanh tra ngân hàng, trang bị cho cán bộ thanh tra ngân hàng một chiếc “gậy” khi thực thi nhiệm vụ. Tuy nhiên, qua thực tế tại chi nhánh cho thấy việc áp dụng chế tài này còn dè dặt.
Tình trạng trên một phần là sau khi nghị định 202/2004/NĐ-CP ra đời, việc áp dụng các điều khoản trong Nghị định cho đúng là một vấn đề phức tạp và có liên quan đến nhiều lĩnh vực đòi hỏi thanh tra ngân hàng phải nắm vững để áp dụng cho thấu lý đạt tình. Một phần do Nghị định chưa quy định chi tiết và rõ ràng các tình huống vi phạm của TCTD nên nhiều trường hợp không biết xử theo điều nào hoặc nhiều trường hợp vi phạm thiếu không nêu trong Nghị định nên khiông xử phạt được. Tuy nhiên, một phần cũng do tâm lý dè dặt hoặc còn nể nang, chưa cương quyết của cán bộ thanh tra khi tiến hành thanh, kiểm tra. Mặt khác, mức xử phạt của Nghị định 202 quá thấp, không đủ sức răn đe các TCTD, nhất là trong điều kiện lạm phát trượt giá thì những mức phạt cố định quy định trong Nghị định nhanh chóng bị lỗi thời và không còn phù hợp với hiện tại.Qua một thời gian thực hiện Nghị định cho thấy còn nhiều bất cập, chưa sát với thực tế nên việc áp dụng còn hạn chế. Nếu kéo dài tình trạng này sẽ dẫn đến việc coi thường kỷ cương pháp luật, từ đó làm giảm hiệu lực thanh tra.
Tóm lại: Sau hơn mười lăm năm thực hiện đổi mới về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng theo pháp lệnh thanh tra, thanh tra chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh Nghệ An đã có những thay đổi đáng kể. Từ một tổ chức thanh tra yếu, bị động đã trở thành một tổ chức thanh tra mạnh về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý - điều hành, đủ sức thực hiện các nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch do thanh tra NHNN Việt nam đề ra, phục vụ đắc lực cho việc thực hiện vai trò quản lý của chi nhánh ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn, góp phần vào việc ổn định tiền tệ và đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, hoạt động thanh tra của chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh Nghệ An thời gian qua còn gặp không ít khó khăn, tồn tại và bất cập: lực lượng cán bộ thanh tra mỏng, trình độ còn chưa đồng đều, hiệu lực thanh tra còn chưa cao ... Đó là những vấn đề bức xúc đòi hỏi chi nhánh NHNN tỉnh Nghệ An và thanh tra chi nhánh phải có giải pháp khắc phục để hoạt động của thanh tra chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh Nghệ An ngày càng lớn mạnh.
Chương 3
Giải pháp nâng cao hiệu lực thanh tra của NHNN
đối với các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ An
3.1- Định hướng hoạt động ngân hàng và Thanh tra Ngân hàng giai đoạn 2001 - 2010:
Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2001-2010 đã được đại hội Đảng IX thông qua, ngành ngân hàng đã đề ra chiến lược phát triển của ngành giai đoạn 2001-2010 với mục tiêu dài hạn là “Thực thi chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên tắc của thị trường. Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng Việt Nam.
Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng. ứng dụng công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng thuận lợi và thông thoáng đến mọi doanh nghiệp và dân cư, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh và đời sống, chú trọng nông nghiệp nông thôn.
Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Giải quyết nợ tồn đọng đi đôi với tăng cường những chế định pháp lý, kinh tế và hành chính về nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ quyền thu nợ hợp pháp của ngườì cho vay. Tăng cường năng lực tự kiểm tra của các tổ chức tín dụng và công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng, không để xẩy ra đổ vỡ tín dụng.
Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Phân biệt chức năng của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương mại Nhà nước, chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng thương mại. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong kinh doanh. Giúp đỡ và thúc đẩy các tổ chức tín dụng trong nước nâng cao năng lực quản lý và trình độ nghiệp vụ, có khả năng cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết của ta với quốc tế. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp nhà nước. Sắp xếp lại các ngân hàng cổ phần, xử lý các ngân hàng yếu kém. Đưa hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân đi đúng hướng và bảo đảm an toàn.
Một số chỉ tiêu quan trọng:
- Tốc độ tăng vốn huy động 20-25% / năm.
- Tốc độ tăng cho vay đối với nền kinh tế 16-20% / năm cho cả giai đoạn 2001-2010; phấn đấu đưa tỷ lệ đầu tư tín dụng chiếm khoảng 25-30% đầu tư toàn xã hội. Trong đó tín dụng trung dài hạn chiếm khoảng 40% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Chia theo thành phần kinh tế thì cho vay kinh tế nhà nước chiếm 35%, các thành phần kinh tế khác chiếm 65%.
- Các NHTM đạt tỷ lệ Vốn tự có / Tổng tài sản có trên 8%.
- Chất lượng tín dụng: Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5%.
- Khả năng sinh lời của các NHTM bình quân 14-16%.
- Tỷ trọng cán bộ có trình độ đại học và trên đại học nâng từ 36% như hiện nay lên 70% vào năm 2010.
Để thực hiện được chiến lược phát triển và các mục tiêu quan trọng trên, công tác thanh tra của ngân hàng nhà nước phải tiến cả về nội dung và mô hình tổ chức để đảm bảo từng bước thực hiện được nhiệm vụ trước mắt và lâu dài là hạn chế, kiểm soát được rủi ro của hệ thống ngân hàng và cả thị trường tài chính. Hướng cơ cấu lại và cải tiến công tác thanh tra ngân hàng là tuân thủ các nguyên tắc quốc tế về thanh tra ngân hàng đảm bảo ổn định hệ thống tài chính trong nước và quốc tế. Nhất là theo lộ trình mở cửa thị trường tài chính, dịch vụ ngân hàng (từ năm 2006 đối với ASEAN và từ 2008 theo hiệp định thương mại Việt-Mỹ và sau đó là đối với WTO) thì sự cạnh tranh trên thị trường tài chính nội địa sẽ trở nên gay gắt hơn. Rủi ro của các NHTM sẽ tăng lên. Với những thay đổi này, việc đổi mới thanh tra ngân hàng theo hướng đào tạo đội ngũ thanh tra viên có trình độ cao, xây dựng cơ cấu tổ chức hiệu quả đồng thời có cơ chế nâng cao vai trò của kiểm soát nội bộ và trách nhiệm quản lý của hội đồng quản trị và ban giám đốc các ngân hàng thương mại là đòi hỏi cấp bách.
3.2- Giải pháp nâng cao hiệu lực thanh tra của NHNN tỉnh Nghệ An đối với các NHTM trên địa bàn:
3.2.1- Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy và đào tạo cán bộ:
3.2.1.1- Sắp xếp lại bộ máy thanh tra chi nhánh để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cho giai đoạn phát triển mới:
Trong mọi lĩnh vực, công tác tổ chức và cán bộ luôn là yếu tố then chốt và giữ vai trò quyết định cho sự thành bại của lĩnh vực đó. Đối với công tác thanh tra của NHNN cũng vậy. Trong thời gian qua, công tác tổ chức cán bộ của thanh tra NHNN đã có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực về bố trí hệ thống tổ chức bộ máy cũng như trong công tác đào tạo và đào tạo lại, nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới thì vẫn còn phải tiếp tục phải nghiên cứu và đổi mới. Việc đổi mới phải nhất quán theo phương châm vận dụng sáng tạo theo mô hình tiên tiến trên thế giới vào nước ta, nhưng phải đảm bảo được tính hiện thực và phải tính đến lâu dài, đón đầu và xu hướng tất yếu khách quan, có như vậy quá trình đổi mới mới thực sự biện chứng và khoa học.
Nghị định 96/2008/NĐ-CP của Chính phủ đã xác định rõ thanh tra giám sát ngân hàng là cơ quan thanh tra nhà nước chuyên ngành về ngân hàng thuộc bộ máy của ngân hàng nhà nước. Bộ máy của NHNN được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất từ trung ương xuống địa phương. Do vậy tổ chức thanh tra của NHNN cũng được bố trí thuộc bộ máy NHNN từ trung ương xuống các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Cơ cấu tổ chức này hiện nay đang được áp dụng nhưng thời gian tới sẽ phải thay đổi. Ba phương án thay đổi chính được đưa ra là:
Thứ nhất: Tập trung toàn bộ tổ chức và hoạt động thanh tra của NHNN đối với các ngân hàng thương mại về ngân hàng nhà nước trung ương, chỉ có một bộ máy duy nhất ở trung ương và chịu trách nhiệm thanh tra hội sở chính các ngân hàng thương mại như mô hình của Pháp, Thụy điển và đa số các nước đang áp dụng.
Thứ hai: Tập trung về khu vực, nhưng không trực thuộc NHNN ở đó mà do thanh tra ngân hàng trung ương quản lý và điều hành theo hệ thống một cách triệt để.
Thứ ba: Vẫn có tổ chức thanh tra của NHNN đối với các NHTM đặt tại chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố nhưng không trực thuộc chi nhánh NHNN đó. Mọi vấn đề về biên chế, tiền lương, điều động, bổ nhiệm, chi tiêu đều do chánh thanh tra NHNN Việt nam điều hành. Quan hệ với lãnh đạo chi nhánh NHNN địa phương chỉ là thông tin về những việc phải làm theo chỉ đạo của thanh tra NHNN Trung ương và kết quả công việc đã làm được.
Về lâu dài, tổ chức thanh tra của NHNN nên tập trung ở trung ương là chính, còn các tỉnh có thể thành lập tổ chức thanh tra theo khu vực, trực thuộc sự quản lý và điều hành của thanh tra ngân hàng trung ương. Tổ chức theo mô hình này sẽ đáp ứng được yêu cầu chỉ đạo trực tiếp, thông suốt. Đồng thời tạo cho tổ chức thanh tra, cán bộ - thanh tra viên một môi trường và điều kiện làm việc độc lập hơn. Tuy nhiên, giải pháp này nằm trong kế hoạch lâu dài bởi nó phụ thuộc vào trình độ quản lý, trình độ công nghệ thông tin, điều kiện về cơ sở vật chất của NHNN, ý thức chấp hành pháp luật của NHTM cũng như tiến độ thực hiện cơ cấu lại các Ngân hàng thương mại (nhất là các Ngân hàng thương mại nhà nước).
Trong những năm trước mắt, việc đổi mới tổ chức cán bộ của thanh tra NHNN nên theo hướng kiện toàn và củng cố mô hình tổ chức hiện tại. Với thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh Nghệ An, cần tập trung tăng cường cho thanh tra chi nhánh các cán bộ có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm công tác ngân hàng và có phẩm chất đạo đức để nâng cao cả số lượng và chất lượng đội ngũ thanh tra. Mặc dù số lượng cán bộ thanh tra chi nhánh đã được tăng cường trong những năm vừa qua nhưng biên chế thanh tra vẫn cần phải được tăng cường nhiều hơn nữa. Bởi lẽ, số lượng các chi nhánh TCTD thành lập trên địa bàn ngày càng nhiều, nhiều hơn số lượng cán bộ thanh tra được tăng thêm rất nhiều, số cán bộ thanh tra hiện tại chỉ chiếm 20% biên chế cán bộ của chi nhánh, trong khi định hướng chung khoảng trên 30% biên chế cán bộ của chi nhánh. Mặt khác, do yêu cầu công tác, cán bộ - thanh tra viên phải thường xuyên theo học các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính, chính trị ... Chính vì vậy với biên chế 16 cán bộ như hiện tại không đủ để đáp ứng cho việc thực hiện kịp thời công tác giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ đối với 24 ngân hàng và 43 quỹ tín dụng. Chỉ tiêu đặt ra là đến hết năm 2010 tăng số cán bộ thanh tra lên 20 người.
Bên cạnh việc tăng cường số lượng, mối quan tâm lớn là chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra. Số cán bộ các phòng ban khác thuộc chi nhánh NHNN qua sắp xếp lại phần lớn không đủ điều kiện về trình độ chuyên môn, độ tuổi hoặc yêu cầu khác. Chính vì vậy, để tăng cường đội ngũ cán bộ thanh tra có chất lượng cần phải có biện pháp tuyển dụng cán bộ đang làm việc tại các NHTM, chú ý chế độ đãi ngộ xứng đáng để thu hút và giữ chân các cán bộ thanh tra có năng lực, qua đó có thể lựa chọn được những cán bộ có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm hoạt động ngân hàng về ngân hàng nhà nước nói chung và thanh tra nói riêng. Mặt khác, những cán bộ không phù hợp với hoạt động quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của NHNN phải được kiên quyết xử lý. Làm được như vậy thì chất lượng cán bộ của chi nhánh NHNN nói chung và thanh tra nói riêng chắc chắn sẽ được nâng cao, tạo tiền đề vững chắc cho việc nâng cao chất lượng hoạt động.
3.2.1.2- Đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thanh tra:
Công tác đào tạo thời gian qua còn dàn trải, chưa đi vào chiều sâu vì vậy cán bộ thanh tra nắm các vấn đề rất chung chung, không cụ thể dẫn đến hoạt động thực tiễn cũng đặt vấn đề rất chung chung, không dám nói hoặc không thể nói vấn đề một cách cụ thể, mạnh dạn. Trước mắt, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ thanh tra của chi nhánh cần tập trung vào một số nghiệp vụ sau:
- Bồi dưỡng các cán bộ đã có kinh nghiệm, bề dầy trên 3 năm về công tác thanh tra các kiến thức cần thiết như quản lý nhà nước để đủ tiêu chuẩn đề nghị bổ nhiệm thanh tra viên.
- Đào tạo đội ngũ thanh tra viên làm trưởng đoàn thanh tra về trình tự, các bước thanh tra, phương pháp thu thập và phân tích, xử lý thông tin, phương pháp tập hợp và trình tự giải quyết vấn đề của một cuộc thanh tra.
- Đào tạo lại về quy trình thanh tra tại chỗ cho cán bộ, thanh tra viên thanh tra tại chỗ.
- Đào tạo phương pháp, kĩ năng chạy và phân tích giám sát từ xa cho những cán bộ giám sát.
- Đào tạo hoặc bổ sung một cán bộ có trình độ đại học luật để tư vấn về các vấn đề pháp lý trong hoạt động ngân hàng trên địa bàn.
- Đào tạo hoặc bổ sung một cán bộ giỏi về vi tính (cả phần mềm và phần cứng) để hoạt động thanh tra chủ động và đạt kết quả cao hơn.
Việc đào tạo mới phải kết hợp với mạnh dạn sàng lọc cán bộ để tạo ra một đội ngũ cán bộ thanh tra thực sự mạnh. Trong quá trình hoạt động, những người không đủ điều kiện về phẩm chất, năng lực hoặc những người không đáp ứng được các điều kiện, yêu cầu của giai đoạn mới phải mạnh dạn đưa ra khỏi lĩnh vực hoạt động thanh tra. Hơn nữa, việc đào tạo phải gắn liền với tự đào tạo và nghiên cứu khoa học. Cán bộ vừa học, vừa làm, vận dụng các kiến thức đã được học vào thực tiễn và phát hiện những bất hợp lý, những vấn đề bất cập nảy sinh và có biện pháp xử lý kịp thời.
3.2.1.3- Đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành và phân công cán bộ của thanh tra NHNN tỉnh một cách hợp lý và khoa học:
a- Tuân thủ nghiêm ngặt quy chế làm việc và mối quan hệ công tác trong lãnh đạo thanh tra, với cán bộ thanh tra; quan hệ với lãnh đạo NHNN và các phòng ban khác:
Tổ chức thanh tra chi nhánh đặt dưới sự điều hành trực tiếp của chánh thanh tra chi nhánh. Bên cạnh đó, theo quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố ban hành kèm theo quyết định số 1440/2004/QĐ-NHNN, quyền hạn nhiệm vụ của giám đốc chi nhánh được quy định rõ: “Giám đốc trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra theo quy định của Thống đốc” . Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác thanh tra , cần phải điều hành tổ chức thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh tuân thủ nghiêm ngặt theo quy chế làm việc đã ban hành:
- Giám đốc chỉ đạo công tác thanh tra thông qua chánh thanh tra. Chánh thanh tra điều hành thông qua các phó chánh thanh tra phụ trách các phần hành. Các phó chánh thanh tra điều hành trực tiếp thanh tra viên và cán bộ thanh tra. Thanh tra viên giúp việc cho phó chánh thanh tra điều hành trực tiếp; phó chánh thanh tra tham mưu cho chánh thanh tra; chánh thanh tra tổng hợp tình hình và chịu trách nhiệm tham mưu cho Giám đốc. Cơ chế chỉ đạo điều hành và tham mưu như trên nhằm đảm bảo tính tập trung thống nhất và phân định rõ trách nhiệm - quyền hạn, đồng thời phát huy tính dân chủ, sáng tạo của tập thể trong tham mưu, đề xuất. Cơ chế này phải được vận hành thường xuyên, trừ các trường hợp bất thường và đột xuất.
- Chánh thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh điều hành công tác thanh tra trên cơ sở chương trình thanh tra hàng năm có chia ra kế hoạch quý. Chương trình này được xây dựng trên cơ sở chương trình, kế hoạch thanh tra do Chánh thanh tra NHNN Trung ương xây dựng và chương trình công tác của NHNN tỉnh. Định kì hàng quý phải sơ kết, rút kinh nghiệm và báo cáo bằng văn bản cho giám đốc NHNN tỉnh và chánh thanh tra NHNN Trung ương để có chỉ đạo kịp thời và sát sao.
b- Bố trí cán bộ thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh theo tổ phân tích giám sát và tổ thanh tra tại chỗ phù hợp với 2 phương thức thanh tra đang tiến hành:
- Tổ phân tích và giám sát từ xa: Tổ này đặt dưới sự điều hành trực tiếp của một đồng chí phó chánh thanh tra và gồm các cán bộ - thanh tra viên có trình độ vi tính, có trình độ và kĩ năng phân tích tổng hợp nhanh nhạy, có nhãn quan bao quát về hoạt động của các NHTM, đáp ứng được yêu cầu đặt ra là tổng hợp và phân tích giám sát từ xa. Đủ sức tham mưu cho chỉ đạo công tác thanh tra qua phương thức giám sát từ xa và kiểm tra hoạt động của các NHTM trên máy vi tính của NHNN và hệ thống máy tính của các NHTM. Kết quả của bộ phận này phải chuyển kịp thời cho các thanh tra viên được phân công theo dõi các NHTM biết để yêu cầu từng NHTM giải trình ngay những vấn đề biến động lớn chưa rõ qua giám sát từ xa. Ngoài nhiệm vụ trên, tổ này còn có nhiệm vụ khai thác và quản lý các luồng thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng và thông tin từ báo chí để phục vụ cho công tác thanh tra, giám sát.
- Tổ thanh tra viên chuyên trách theo dõi các ngân hàng thương mại trên địa bàn đặt dưới sự điều hành trực tiếp của một đồng chí phó chánh thanh tra. Tổ này gồm những cán bộ, thanh tra viên có kinh nghiệm, bề dày trong công tác thanh tra tại chỗ, có khả năng độc lập trong quá trình thanh tra và là lực lượng chính trong các cuộc thanh tra tại chỗ, thiết lập đề cương cho các cuộc thanh tra. Mỗi NHTM đều có các thanh tra viên, cán bộ thanh tra theo dõi. Việc theo dõi được thiết lập thành hồ sơ, trong đó phải phản ánh đầy đủ các hoạt động của NHTM đó về tổ chức, cán bộ. Những diễn biến về tình hình hoạt động của NHTM tại từng thời điểm cũng như cả quá trình. Những biến động lớn và các vụ việc phát sinh tại các NHTM phải được cập nhật và phản ánh kịp thời cho lãnh đạo thanh tra.
Cơ chế chỉ đạo điều hành và phân công cán bộ của tổ chức thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh có thể được mô tả theo sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ cơ chế điều hành và phân công cán bộ của
thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh Nghệ An
Quan hệ chỉ đạo điều hành
Quan hệ thông tin, tham mưu, báo cáo
Quan hệ chỉ đạo điều hành
Quan hệ thông tin, tham mưu, báo cáo
Thanh tra
NHNN TW
Giám đốc
NHNN tỉnh
Chánh thanh tra
NHNN tỉnh
Phó chánh
thanh tra
Phó chánh
thanh tra
NHTM
NHTM
Tổ thanh
tra viên chuyên trách
Tổ tổng hợp
phân tích
giám sát
từ xa
C.Quan
hữu quan
C.I.C,
Báo chí
3.2.2 - Những giải pháp về nghiệp vụ thanh tra của NHNN:
3.2.2. Những giải pháp về Nghiệp vụ Thanh tra của NHNN
Các giải pháp về nghiệp vụ thanh tra được xuất phát từ quan điểm, nhận thức rằng sự tồn tại cùng một lúc hai phương thức thanh tra trong công nghệ thanh tra ngân hàng như hiện nay là cần thiết và đúng đắn. Trong mối quan hệ giữa hai phương thức thì phương thức giám sát từ xa là thường xuyên, bổ trợ và quan trọng. Còn phương thức thanh tra tại chỗ là truyền thống, cơ bản và quyết định. Từ quan điểm, nhận thức đó cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
3.2.2.1- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện phương thức giám sát từ xa:
Để công tác giám sát từ xa đảm bảo tính kịp thời và phát huy tác dụng thiết thực, cần phải giải quyết được những vấn đề sau:
Thứ nhất: Các ngân hàng thương mại phải thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo đang áp dụng (Quyết định 477 và 1747/QĐ-NHNN). Bên cạnh đó, chế độ thông tin báo cáo cần bổ sung một số báo cáo mà tổ chức tín dụng phải gửi thanh tra NHNN để có đủ tư liệu phân tích, giám sát gồm:
- Báo cáo chi tiết các khoản hùn vốn liên doanh, bảo lãnh của NHTM bao gồm cả bảo lãnh mở L/C, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các loại bảo lãnh khác. Để trên cơ sở đó, kết hợp với số liệu tín dụng, thanh tra NHNN mới có đánh giá đầy đủ, toàn diện và chính xác về hoạt động đầu tư của NHTM.
- NHTM phải báo cáo thanh tra NHNN khi có phát sinh các khoản tiền gửi lớn, bất thường của một tổ chức hoặc cá nhân. Thanh tra NHNN sẽ điều tra theo nguyên tắc bí mật để khẳng định nguồn gốc hình thành khoản tiền này nhằm đề phòng và ngăn ngừa hoạt động “rửa tiền” thông qua các NHTM.
Thứ hai: Phải tiếp tục cải tiến chương trình giám sát từ xa đối với chi nhánh một tổ chức tín dụng, áp dụng chương trình lập trình phần mềm hiện đại để xây dựng chương trình giám sát từ xa phù hợp với sự phát triển của các NHTM hiện nay và sự thay đổi của các quy định chế độ trong ngành ngân hàng. Các chỉ tiêu giám sát - đặc biệt là các chỉ tiêu về pháp luật và quy chế - chỉ áp dụng cho một tổ chức tín dụng độc lập chứ không sử dụng được cho chi nhánh một tổ chức tín dụng.
3.2.2.2- Nâng cao chất lượng và hoàn thiện phương thức thanh tra tại chỗ:
Chất lượng thanh tra tại chỗ có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực của toàn bộ hoạt động thanh tra, bởi vì thông qua hoạt động thanh tra tại chỗ có thể xác định được toàn bộ ưu điểm, các tồn tại trong việc chấp hành cơ chế, quy chế, pháp luật; đánh giá thực trạng hoạt động của một NHTM hay chi nhánh ngân hàng thương mại trong một giai đoạn nhất định. Để khắc phục được những hạn chế của công tác thanh tra tại chỗ, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
a- Xây dựng và hoàn thiện quy trình thanh tra tại chỗ để áp dụng chung, thống nhất cho tất cả các đoàn thanh tra. Trong đó nội dung cốt lõi cần đạt được và những điểm cần chú ý của từng giai đoạn là:
* Giai đoạn chuẩn bị thanh tra: yêu cầu đặt ra cho các đoàn thanh tra trong giai đoạn này là phải nắm chắc mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra. Trưởng đoàn phải bao quát đề cương, tìm ra những vấn đề trọng tâm để tập trung làm rõ trong quá trình thanh tra. Trưởng đoàn lên kế hoạch và phân công công việc cho từng đoàn viên thanh tra. Từng đoàn viên phải nghiên cứu đề cương, đặc biệt nghiên cứu sâu phần công việc được phân công để lập kế hoạch chi tiết cho việc tiếp cận và thực hiện thanh tra. Trong giai đoạn này ngoài việc nghiên cứu các văn bản chế độ có liên quan cần thu thập thêm các thông tin, số liệu từ giám sát từ xa, từ trung tâm thông tin tín dụng, từ các cơ quan pháp luật, thông tin qua báo chí, thông tin từ đối tượng thanh tra, thông tin tích luỹ được qua theo dõi của cán bộ thanh tra và từ các cuộc thanh tra trước.
Đối với thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh Nghệ An, trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra, việc ra quyết định thanh tra nên thay đổi theo hướng để chánh thanh tra ra quyết định thanh tra. Theo nghị định 96/2008/NĐ-CP thì chánh thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố được quyền ra quyết định hoặc đề nghị giám đốc chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố ra quyết định thanh tra, kiểm tra tổ chức tín dụng và tổ chức khác có hoạt động ngân hàng. Vì vậy, việc giám đốc ra quyết định thanh tra là đúng luật định. Nhưng để chánh thanh tra chi nhánh NHNN ra quyết định thanh tra theo chương trình, kế hoạch thanh tra đã được giám đốc NHNN tỉnh phê duyệt sẽ có các thuận lợi cơ bản sau:
- Nâng cao tính chủ động và độc lập trong hoạt động thanh tra. Đảm bảo được tính kịp thời trong mọi trường hợp, kể cả thanh tra đột xuất.
- Việc báo cáo tiến độ và kết quả thanh tra với người ra quyết định thanh tra sẽ thuận lợi và trực tiếp hơn vì chánh thanh tra trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động thanh tra.
- Người ra quyết định thanh tra lúc này vừa là người có thẩm quyền về xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Chính vì vậy mà trong thời gian tới nên để chánh thanh tra chi nhánh là người ra quyết định thanh tra các NHTM trên địa bàn.
* Giai đoạn tiến hành thanh tra: Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình một cuộc thanh tra tại chỗ. Yêu cầu đặt ra là bằng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm và nghệ thuật thanh tra để đi sâu kiểm tra hoạt động của NHTM một cách cụ thể. Tìm ra những mặt làm tốt, những tồn tại và vi phạm, những vướng mắc của cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện, khẳng định một cách chắc chắn kết quả hoạt động của NHTM trên các mặt đã thanh, kiểm tra. Các đoàn viên, trong quá trình làm việc với đối tượng thanh tra phải lập các biên bản làm việc để làm tài liệu chứng minh cho các đánh giá, kết luận của mình một cách cụ thể, xác đáng. Đây là cơ sở quan trọng nhất để tổng hợp kết luận chung của toàn bộ cuộc thanh tra và tránh được tình trạng bị đối tượng thanh tra phủ nhận kết quả thanh tra. Hơn nữa, đây là quy trình cần thiết để có thể thực hiện xử phạt vi phạm hành chính đúng thủ tục, trình tự.
* Giai đoạn kết thúc cuộc thanh tra: Nhiệm vụ của giai đoạn này là phải tổng hợp tình hình toàn bộ cuộc thanh tra và ra văn bản kết luận thanh tra. Đây là giai đoạn quyết định, thể hiện toàn diện nhất vai trò của đoàn thanh tra và công cụ thanh tra. Trách nhiệm và vai trò của trưởng đoàn thanh tra lúc này là hết sức quan trọng. Yêu cầu với một kết luận thanh tra là phải ngắn gọn, súc tích, văn từ đảm bảo hiểu đơn nghĩa. Kết luận phải nêu rõ được thực trạng hoạt động, ưu - khuyết điểm của đối tượng kiểm tra. Các kiến nghị phải rõ ràng về thời gian, đối tượng thực hiện và phải quy định rõ thời hạn thực hiện các kiến nghị , quy định việc báo cáo tiến độ thực hiện kiến nghị về thanh tra NHNN để theo dõi.
Ngoài việc kết luận rõ đúng - sai và có các kiến nghị cụ thể đối với đối tượng thanh tra, kết luận thanh tra sẽ rất có trọng lượng nếu có những kiến nghị bổ xung sửa đổi về cơ chế chính sách, kiến nghị với các bộ, ngành có liên quan. Bởi lẽ, một mặt nó thể hiện kiến thức sâu rộng và tầm nhìn của cán bộ thanh tra. Mặt khác nó sẽ tạo điều kiện để đối tượng thanh tra có thể chấn chỉnh, thực hiện được các kiến nghị mà kết luận thanh tra đã đề ra.
b- Phải đổi mới phương thức tiến hành thanh tra theo hướng sử dụng linh hoạt các hình thức thanh tra tại chỗ để bổ sung khiếm khuyết của từng hình thức thanh tra. Nên sử dụng phối hợp các hình thức thanh tra sau:
- Thanh tra diện rộng: thường do thanh tra NHNN Trung ương tổ chức và chỉ đạo, áp dụng đối với các NHTM có vấn đề phức tạp nổi cộm cần thanh tra làm rõ để quyết định những vấn đề lớn liên quan đến NHTM đó. Hoặc thanh tra để nắm rõ thực trạng hoạt động của NHTM lớn; thanh tra để tổng kết, đánh giá việc thực hiện những chủ chương, chính sách, quy chế lớn của nhà nước, của ngành nhằm phục vụ cho công tác điều hành và quản lý vĩ mô.
- Thanh tra chuyên đề: loại hình thanh tra này có thể do thanh tra NHNN Trung ương hoặc thanh tra chi nhánh tiến hành, nhưng thường do thanh tra chi nhánh chủ động tổ chức để thanh tra một mặt nghiệp vụ nào đó mà qua giám sát từ xa, qua các thông tin nắm bắt được thấy cần phải làm rõ. Loại hình thanh tra này thường đòi hỏi ít thời gian và cán bộ hơn thanh tra diện rộng.
- Thanh tra đột xuất: thường phát sinh khi có đơn thư khiếu nại - tố cáo của công dân hoặc qua các phương tiện thông tin đề cập đến yêu cầu thanh tra phải làm rõ ngay để trả lời. Thanh tra đột xuất không thông báo trước cho đối tượng thanh tra để đảm bảo yếu tố bí mật, bất ngờ. Đồng thời hạn chế những hành vi đối phó, cản trở và gây khó khăn cho hoạt động thanh tra.
c- Phải hoàn thiện nội dung thanh tra tại chỗ:
Nội dung thanh tra tại chỗ hiện nay còn đi sâu vào việc kiểm toán hoạt động của các NHTM, tức là làm thay công việc của kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các NHTM, ít đi sâu kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, thanh tra vụ việc, vì vậy việc thanh tra tại chỗ còn mất nhiều thời gian và chưa đi sâu vào hoạt động của đối tượng thanh tra. Do đó cần sửa đổi theo hướng thanh tra NHNN chủ yếu thanh tra việc tuân thủ pháp luật (an toàn hoạt động), hạn chế việc làm thay công việc của kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
3.2.2.3- Phối hợp chặt chẽ hai phương thức thanh tra nhằm đảm bảo cho công nghệ thanh tra của NHNN thực sự phát huy hiệu quả cộng hưởng của từng phương thức thanh tra:
Qua cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định giám sát từ xa cung cấp thông tin, "chỉ điểm" cho thanh tra tại chỗ; giám sát theo dõi ngân hàng thương mại một cách thường xuyên giữa các kì thanh tra tại chỗ. Còn thanh tra tại chỗ sẽ kiểm toán các thông tin đầu vào của giám sát từ xa, đồng thời kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị qua giám sát từ xa. Để vận hành tốt cơ chế phối hợp đó cần phải đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa hai phương thức này. Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, phạm vi của từng phương thức sao cho thông tin đầu ra của bộ phận này sẽ là đầu vào của bộ phận kia và ngược lại. Việc quy định thành hai bộ phận là để có điều kiện chuyên môn hoá về kỹ năng - kỹ thuật, nhưng phải thống nhất trong một công nghệ thanh tra của ngân hàng.
3.2.2.4- Sử dụng có hiệu quả hơn công cụ xử phạt:
Sau khi nghị định 202/2004/NĐ-CP ra đời và được thanh tra NHNN tỉnh triển khai đến các NHTM trên địa bàn, các ngân hàng thương mại đã trú trọng hơn đến công tác tự kiểm tra, kiểm soát để nâng cao chất lượng các mặt nghiệp vụ, hạn chế các sai sót. Tuy nhiên, trong quá trình thanh tra vẫn phát hiện một số tồn tại, khuyết điểm cần xử phạt theo hướng dẫn tại nghị định này. Để việc xử phạt đúng quy trình và phát huy được tác dụng tích cực của nó thì trong thời gian tới phải thực hiện:
Kiên quyết áp dụng xử phạt vi phạm hành chính đối với tất cả các vi phạm của đối tượng thanh tra và Nghị định quy định xử phạt không phân biệt là vi phạm lần đầu hay là lần sau (hiện nay tại Thanh tra Chi nhánh NHNN Nghệ An chỉ mới áp dụng xử phạt đến các hành vi vi phạm nặng hoặc tái phạm).
3.2.2.5- Tổ chức tốt việc thực hiện các kiến nghị sau thanh tra:
Tại các cuộc thanh tra từ năm 2004 đến hết năm 2008, thanh tra chi nhánh đã có trên 1.453 lượt kiến nghị về các mặt nghiệp vụ đối với các NHTM được thanh tra. Các kiến nghị đều có quy định thời hạn chỉnh sửa và yêu cầu báo cáo kết quả về thanh tra NHNN. Tuy vậy, nhiều kiến nghị còn chưa được chỉnh sửa kịp thời, triệt để hoặc còn để tái phạm. Để thực hiện tốt các kiến nghị sau thanh tra , phải thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là: Phải nâng cao chất lượng của kết luận thanh tra. Kiến nghị sau thanh tra phải rõ ràng, cụ thể về thời gian, không gian và đối tượng thực hiện. Hai là: Các đối tượng được thanh tra phải có kế hoạch, biện pháp chỉnh sửa sau thanh tra. Kế hoạch phải cụ thể, rõ ràng cho từng thời gian, cán bộ và phòng nghiệp vụ liên quan. Định kì có lập kế hoạch sơ kết, tổng kết, lập kế hoạch cho kì tới. Hội đồng kỉ luật phải xử lý đúng người, đúng việc: kỉ luật nghiêm những cán bộ vi phạm nhưng cũng theo dõi xoá án kỷ luật kịp thời khi cán bộ khắc phục xong tồn tại, khuyết điểm. Quá trình chấn chỉnh có những việc liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp đòi hỏi phải có thời gian chỉnh sửa phải báo cáo thanh tra NHNN tỉnh để gia hạn xử lý.
Ba là: NHTM Trung ương có văn bản chỉ đạo chi nhánh NHTM chỉnh sửa sau thanh tra. Tổng hợp, phân loại các kiến nghị để giao trách nhiệm cho các phòng, ban có liên qua theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, tạo điều kiện cho chi nhánh chấn chỉnh sau thanh tra. Có quy chế khen thưởng chi nhánh thực hiện kinh doanh tốt; xử phạt nghiêm những cá nhân, tập thể thiếu trách nhiệm, vi phạm các quy định trong quá trình kinh doanh và không nghiêm túc chỉnh sửa các kiến nghị sau thanh tra.
Bốn là: Các ngành, các cấp cũng cần quan tâm chỉ đạo để bổ xung, sửa đổi đầy đủ, kịp thời các kiến nghị về chủ chương, chính sách, cơ chế, quy chế của NHNN và các NHTM để hoạt động kinh doanh của các NHTM đảm bảo đúng pháp luật, an toàn, hiệu quả. Các cơ chế chính sách có đầy đủ và đồng bộ thì việc chỉnh sửa của các NHTM mới thực hiện được thuận lợi.
Năm là: Kết thúc thời hạn chỉnh sửa, thanh tra tổng hợp và tổ chức kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị sau thanh tra . Xử lý nghiêm, đúng pháp luật những trường hợp đối tượng thanh tra không nghiêm túc chỉnh sửa, chỉnh sửa thiếu trách nhiệm hoặc còn để tái phạm. Làm được như vậy thì chắc chắn vai trò và vị thế của thanh tra ngân hàng, hiệu lực thanh tra sẽ được nâng cao.
Cơ chế tổ chức và theo dõi việc thực hiệc các kiến nghị có thể thực hiện
NHTM
Trung ương
Thanh tra
NHNN TW
theo sơ đồ sau:
Chi nhánh
NHTM tỉnh
Thanh tra
NHNN tỉnh
3.2.2.6- Tăng cường sự chỉ đạo và phối hợp hoạt động của thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh với kiểm tra nội bộ các NHTM và các cơ quan hữu quan trên địa bàn:
a- Thanh tra NHNN tỉnh tăng cường chỉ đạo và phối hợp với kiểm tra nội bộ các NHTM trên địa bàn:
- Về phía tổ chức kiểm tra - kiểm toán nội bộ các NHTM: phải thực hiện việc báo cáo định kì về thanh tra NHNN tỉnh để tổng hợp tình hình và kết quả hoạt động thanh tra - kiểm tra trên địa bàn. Báo cáo thường xuyên, kịp thời những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ kiểm tra - kiểm soát; những vi phạm lớn phát hiện qua kiểm tra ...
- Về phía thanh tra NHNN tỉnh: Phải coi tổ chức kiểm tra - kiểm toán nội bộ như chân rết trong hệ thống thanh tra - kiểm soát hoạt động các NHTM. Vì nếu tổ chức kiểm tra - kiểm toán nội bộ của chi nhánh NHTM nào hoạt động tốt thì sẽ góp phần đắc lực trong việc giữ cho hoạt động ngân hàng thương mại đó ổn định, làm đầu mối và hỗ trợ cho hoạt động thanh tra đạt kết quả cao. Vì vậy, thanh tra phải quan tâm và phối hợp giúp đỡ cả về củng cố tổ chức kiểm tra - kiểm toán nội bộ, về quy trình nghiệp vụ và kĩ năng kiểm tra - kiểm toán nội bộ, về phối hợp chương trình công tác thanh tra - kiểm tra để đảm bảo không chồng chéo hoặc bỏ sót không thanh, kiểm tra.
b- Tăng cường sự phối hợp với thanh tra nhà nước tỉnh và các cơ quan có liên quan theo hướng:
- Thanh tra Ngân hàng gửi chương trình công tác thanh tra năm cho Thanh tra nhà nước, chủ động phối hợp để hoạt động thanh tra của thanh tra NHNN và thanh tra nhà nước không chồng chéo.
- Quá trình thanh, kiểm tra nếu phát hiện vi phạm hoặc dấu hiệu vi phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của cơ quan, sở, ngành nào thì thanh tra ngân hàng có trách nhiệm thông báo cho thanh tra cơ quan, sở, ngành đó. Ngược lại tổ chức thanh tra của cơ quan, sở, ngành và thanh tra nhà nước tỉnh trong quá trình thanh, kiểm tra nếu phát hiện vi phạm pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng thì có trách nhiệm báo cáo cho thanh tra ngân hàng biết. Nếu những vi phạm đó có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra đồng thời thông báo cho thanh tra ngân hàng.
- Thanh tra ngân hàng nhà nước tỉnh nếu phát hiện dấu hiệu cấu thành tội phạm trong quá trình thanh, kiểm tra thì phải chuyển hồ sơ sang cho cơ quan điều tra có thẩm quyền. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra trong quá trình điều tra các vấn đề có liên quan đến hoạt động của các NHTM, đến lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
3.2.2.7- Các giải pháp khác:
- Thường xuyên duy trì, củng cố mối quan hệ chặt chẽ giữa các phòng ban của chi nhánh trong hoạt động thanh tra. Giám sát, quản lý các ngân hàng thương mại trên địa bàn là nhiệm vụ chung của chi nhánh NHNN tỉnh. Vì vậy, các phòng nghiệp vụ đều phải có trách nhiệm và góp phần thực hiện nhiệm vụ này trên cơ sở nắm bắt, trao đổi thông tin và phối kết hợp với thanh tra chi nhánh để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.
- Đổi mới và trang bị đầy đủ phương tiện hiện đại đảm bảo cho hoạt động thanh tra đạt hiệu quả cao. Đặc biệt là các phương tiện làm việc như máy ảnh, máy ghi âm.
3.2.3- Các kiến nghị:
3.2.3.1- Kiến nghị với thanh tra NHNN Việt nam:
Thanh tra NHNN Việt nam tăng cường sự chỉ đạo và phối hợp hoạt động với thanh tra chi nhánh về các mặt:
* Về nghiệp vụ thanh tra: Thứ nhất, thanh tra ngân hàng Trung ương xây dựng quy trình thanh tra và phúc tra trong ngành ngân hàng.
Thứ hai, thanh tra ngân hàng Trung ương tiếp tục sửa đổi, cải tiến và xây dựng chương trình giám sát mới cho phù hợp với việc giám sát từ xa của chi nhánh tổ chức tín dụng tại địa phương.
* Về công tác đào tạo: Thanh tra NHNN Trung ương cần đào tạo và đào tạo lại về nghiệp vụ thanh tra và các mặt nghiệp vụ ngân hàng theo hướng thích ứng với điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực, phù hợp với thông lệ quốc tế. Kiến thức đào tạo phải cập nhật và phù hợp với định hướng phát triển hoạt động ngân hàng và cơ cấu lại các ngân hàng.
Thời gian đào tạo nên bố trí vào Quý I và Quý IV là những thời kì đã cơ bản triển khai và hoàn thành chương trình - kế hoạch thanh tra tại chỗ của năm, do đó dễ dàng cho việc bố trí cán bộ đi học tập, bồi dưỡng đầy đủ.
* Về công tác điều hành của thanh tra Trung ương:
- Thanh tra NHNN Trung ương sớm gửi chương trình công tác hàng năm cho thanh tra chi nhánh để trên cơ sở đó, kết hợp với điều kiện - tình hình cụ thể trên địa bàn, thanh tra NHNN tỉnh chủ động xây dựng chương trình công tác của mình, vừa đảm bảo tính tập trung thống nhất, vừa chủ động nhanh nhạy và phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng địa phương.
3.2.3.2- Các kiến nghị với Chính phủ, NHNN Việt nam và thanh tra nhà nước:
Để các giải pháp trên đây phát huy được hiệu quả trong thực tế, đề nghị Chính phủ, thanh tra nhà nước và ngân hàng nhà nước Việt nam cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số chính sách sau:
- Ban hành quy chế phân định phạm vi hoạt động cũng như sự phối hợp giữa các cơ quan thanh, kiểm tra của nhà nước trong quá trình thực thi công vụ. Quy chế này cần phân định rõ: Lĩnh vực hoạt động ngân hàng chỉ nên chịu sự thanh, kiểm tra của một tổ chức thanh tra duy nhất là thanh tra của NHNN. Theo đó tổ chức thanh tra của NHNN phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về công tác thanh tra trong lĩnh vực ngân hàng. Các cơ quan kiểm tra khác sẽ sử dụng kết quả của thanh tra NHNN khi cần thiết. Như vậy sẽ rõ về trách nhiệm, giảm phiền hà cho các NHTM cũng như các tổ chức tín dụng và tổ chức khác có hoạt động ngân hàng.
- Sửa đổi, bổ sung quy chế về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng, theo đó cần phân định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn của thanh tra NHNN, Giám đốc và thanh tra chi nhánh NHNN.
- Về chế độ chính sách đối với cán bộ thanh tra: Lao động trong lĩnh vực thanh tra là loại hình lao động đặc thù, không chỉ đơn thuần là "lao lực" mà còn phải "lao tâm" bởi lẽ họ là những con người bằng xương bằng thịt, có đầy đủ các mối quan hệ xã hội và gia đình. Nhưng hàng ngày họ phải đấu tranh với những cám dỗ vật chất, đấu tranh với mọi mối quan hệ ràng buộc, những tác động và áp lực từ nhiều phía để đạt được mục tiêu cao cả vì lợi ích của tập thể, của ngành, của mỗi cá nhân và của toàn xã hội. Để đấu tranh và đạt được mục tiêu đó, ngoài phẩm chất và nỗ lực của bản thân người làm công tác thanh tra cần phải có một chính sách đãi ngộ thoả đáng về vật chất và tinh thần để cán bộ thanh tra yên tâm công tác và toàn tâm, toàn lực phục vụ cho hoạt động thanh tra.
- Về cơ chế, chính sách của nhà nước, của ngành: Chính phủ, ngân hàng nhà nước Việt nam tiếp tục ban hành các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư hướng dẫn, thể lệ ... để hoàn chỉnh môi trường pháp lý cho hoạt động thanh tra. Các kiến nghị, vướng mắc trong việc thi hành luật và các văn bản dưới luật từ cơ sở, đề nghị Chính phủ và ngân hàng nhà nước Việt nam xem xét sửa đổi, bổ sung; kể cả việc sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của luật ngân hàng nhà nước Việt nam và luật các tổ chức tín dụng.
- Sớm ban hành luật thanh tra nhằm nâng cao vị thế cũng như hiệu lực của công tác thanh tra, sớm sửa đổi bổ sung Nghị định 202 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, nâng cao mức xử phạt để tăng cường hiệu lực công tác thanh tra ngân hàng.
- Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cần có văn bản quy định về tiêu chuẩn của cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các NHTM, cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các NHTM được hưởng lương trực tiếp từ Tổng giám đốc NHTM ( không phụ thuộc vào chi nhánh); quy định cụ thể số lượng cán bộ của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ của chi nhánh NHTM... Có như vậy mới nâng cao được vai trò, tác dụng của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các chi nhánh NHTM. Từ đó làm chỗ dựa đắc lực cho Thanh tra NHNN.
Kết luận
Để góp phần giữ cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại ổn định, đứng vững và ngày càng lớn mạnh trong cơ chế thị trường, góp phần vào việc tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Ngân hàng nhà nước phải thường xuyên tăng cường hoạt động quản lý, giám sát các Ngân hàng thương mại là một tất yếu khách quan.
Thanh tra Ngân hàng là một công cụ thiết yếu của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ nói trên. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động để nâng cao hiệu lực thanh tra của Ngân hàng Nhà nước.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tế, bám sát phạm vi nghiên cứu, luận văn đã hoàn thành được các nhiệm vụ:
1- Xuất phát từ lý luận chung về Ngân hàng Nhà nước, luận văn đã nghiên cứu chức năng và vai trò của Ngân hàng nhà nước, sự cần thiết của hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước nói riêng đối với các Ngân hàng thương mại, nghiên cứu nội dung và các phương thức thanh tra, căn cứ pháp lý để thực hiện thanh tra - giám sát. Đồng thời giới thiệu kinh nghiệm thanh tra một số nước trên thế giới và khu vực.
2- Nghiên cứu khái quát về hoạt động Ngân hàng và thanh tra Ngân hàng Nhà nước tỉnh, từ đó đi sâu phân tích thực trạng hoạt động của thanh tra Ngân hàng Nhà nước tỉnh từ sau khi có pháp lệnh thanh tra, đánh giá những thành công và các kết quả đạt được, chỉ ra các hạn chế trong công tác thanh tra của Ngân hàng Nhà nước tỉnh cũng như các nguyên nhân của những hạn chế đó.
3- Để đáp ứng yêu cầu phát huy hơn nữa vai trò của công cụ thanh tra ngân hàng trong việc nâng cao vai trò quản lý của Ngân hàng nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Luận văn đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Tập trung vào một số mặt:
- Sắp xếp lại bộ máy thanh tra chi nhánh để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cho giai đoạn mới theo hướng tăng đủ biên chế cán bộ cho thanh tra, thực hiện luân chuyển, điều động cán bộ trong ngành sang làm công tác thanh tra để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra.
- Đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ thanh tra cả về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng - kỹ thuật thanh tra. Đào tạo kết hợp với sàng lọc, với tự đào tạo để tạo ra một đội ngũ cán bộ thanh tra thực sự mạnh, đủ sức gánh vác trọng trách, nhiệm vụ đặt ra cho tổ chức thanh tra ngân hàng.
- Đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành của thanh tra Ngân hàng Nhà nước tỉnh cho hợp lý, khoa học: xây dựng quy chế làm việc, mối quan hệ công tác trong lãnh đạo thanh tra; bố trí các tổ công tác phù hợp; tổ chức tốt việc thực hiện các kiến nghị sau thanh tra; xây dựng tủ sách pháp luật của thanh tra Ngân hàng Nhà nước tỉnh...
- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hai phương thức thanh tra trong công nghệ thanh tra ngân hàng. Phối hợp nhuần nhuyễn giữa hai phương thức đó. Sử dụng có hiệu quả hơn công cụ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng.
- Tăng cường sự chỉ đạo và phối hợp giữa thanh tra Ngân hàng Trung ương với thanh tra Ngân hàng Nhà nước tỉnh; tăng cường sự chỉ đạo và phối hợp giữa thanh tra Ngân hàng Nhà nước tỉnh với kiểm tra - kiểm toán nội bộ các Ngân hàng thương mại trên địa bàn, với thanh tra nhà nước tỉnh và các cơ quan hữu quan.
- Ngoài ra, luận văn còn đưa ra các kiến nghị với Chính phủ, với Thanh tra nhà nước và Ngân hàng Nhà nước Việt nam các vấn đề có liên quan đến chính sách, chế độ đối với cán bộ, thanh tra viên để tạo môi trường và khuyến khích cán bộ, thanh tra viên tập trung sức lực, trí lực hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Xuất phát từ điều kiện, lĩnh vực công tác, tác giả đã chọn đề tài "Tăng cường hoạt động thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ An". Tuy thời gian ngắn, trình độ và điều kiện nghiên cứu của tác giả còn nhiều hạn chế. Nhưng được sự giúp đỡ của tập thể các thầy, cô giáo khoa Ngân hàng - Tài chính, sự cộng tác trao đổi của các đồng nghiệp trong ngành. Đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn TS. Cao Thị ý Nhi - Giảng viên khoa Ngân hàng - Tài chính nên luận văn đã thu được những kết quả nhất định, nhưng chắc chắn không thể tránh được những thiếu sót. Tác giả rất mong được sự rộng lượng và tham gia đóng góp của các nhà khoa học, các nhà quản lý để bản luận văn được hoàn thiện và có tính khả thi.
danh mục tài liệu tham khảo
1- Ban cán sự Đảng NHNN: Chương trình hành động của Ngành Ngân hàng thực hiện nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX.
2- Báo cáo tổng kết hoạt động Ngân hàng tỉnh Nghệ An từ năm 2000 - 2008.
3- Báo cáo tổng kết công tác Thanh tra NHNN tỉnh Nghệ An từ 2000 - 2008.
4- Báo cáo tổng kết thanh tra NHNN Việt nam từ năm 2000 -2008.
5- “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2000-2010” - Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt nam - NXB Chính trị quốc gia, 2001.
6- Báo cáo tổng kết công tác giám sát từ xa đối với các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng cổ phần năm 2001 - NHNN Việt nam.
7- Cao Sĩ Kiêm: Đổi mới chính sách tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta - NXB chính trị quốc gia, 1995.
8- Công nghệ ngân hàng dành cho các nước đang phát triển - Thanh tra ngân hàng - Viện khoa học ngân hàng, Hà nội năm 2004.
9- Dương Đình Thuần: Giải pháp tăng cường hiệu lực thanh tra của NHNN đối với các NHTM quốc doanh - Luận án thạc sỹ khoa học kinh tế.
10- Frideric S.Mishkin: Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - NXB khoa học kỹ thuật Hà nội, 1999.
11- Hệ thống hoá văn bản pháp luật về công tác thanh tra tập 1,2 - Thanh tra NHNN Việt nam, 2008.
12- Kỹ thuật thanh tra Ngân hàng dành cho các nước đang phát triển - Thanh tra ngân hàng và viện khoa học ngân hàng, 1994.
13- Luật các tổ chức tín dụng - NXB chính trị quốc gia, 1998.
14- Luật NHNN Việt nam - NXB chính trị quốc gia, 1998.
15- Nghị định 96/2008/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của NHNNVN.
16- Nghị định 202/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
17- Nguyễn Đình Tự: Những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thanh tra của NHNN trong cơ chế thị trường ở Việt nam - Luận án PTS khoa học kinh tế.
18- Nguyễn Đình Tự: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra của NHNN - Tạp chí ngân hàng số 10, T5/2005.
19- Những vấn đề cơ bản về thanh tra, kiểm soát và kiểm toán ngân hàng trong cơ chế thị trường ở Việt nam - Thanh tra NHNN Việt nam, 2004.
20- Phạm Văn Trịnh: Vai trò thanh tra của NHTW đối với các NHTM - Luận án thạc sỹ khoa học kinh tế.
21- Quyết định 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 09-11-1999 của Thống đốc NHNN ban hành quy chế giám sát từ xa đối với các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt nam.
22- Quyết định 1440/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt nam ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
23- Quyết định 270/2000/QĐ-NHNN9 ngày 21-08-2000 của Thống đốc NHNN Việt nam về quy chế tổ chức và hoạt động của thanh tra NHNN.
24- Trịnh Bá Tửu: Vị thế pháp lý mới của thanh tra ngân hàng góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng Việt nam - Tạp chí ngân hàng số chuyên đề, T6/2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2246.doc