Đề tài Tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia nhỏ thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung ứng một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn (dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người. Trong ví dụ này, hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra vai trò cho các ngân hàng trong việc phục vụ những người tiết kiệm. Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhậnc các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cung thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.

doc83 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1024 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Chi nhánh còn tồn tại những hạn chế cần được hoàn thiện trong thời gian tới. Trước hết, Chi nhánh Hà Thành chịu sự cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng, tổ chức tài chính, tín dụng đóng trên cùng địa bàn. Đồng thời, Chi nhánh cũng bị tác động mạnh mẽ bởi các diễn biến kinh tế vĩ mô, vi mô trong và ngoài nước như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá, dự trữ bắt buộc Chi nhánh đã cố gắng rất nhiều trong công tác huy động tiền gửi song vẫn mang tính truyền thống, đơn điệu, chưa đáp ứng được hết nhu cầu tiền gửi của khách hàng. Hình thức huy động chủ yếu của Chi nhánh hiện nay là tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán và tiền gửi bằng kỳ phiếu. Trong đó đối với hình thức tiền gửi tiết kiệm vẫn chưa thật sự linh hoạt cho người gửi tiền.Về kỳ hạn huy động, tiền gửi trung và dài hạn có tỷ trọng nhỏ chiếm 23 % năm 2007, do đó không đáp ứng được nhu cầu cho vay dài hạn, không phù hợp với cơ cấu tín dụng. Nguồn tiền gửi huy động được dùng cho vay và đầu tư còn thấp chiếm 36.3 % dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa nguồn vốn huy động được và khả năng sử dụng vốn. Tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ lớn trong tổng nguồn tiền gửi huy động chiếm 44% năm 2007, do đó lượng vốn thanh toán điều chuyển đi ngày một gia tăng, điều này có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Tiền gửi ngắn hạn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn tiền gửi của Chi nhánh chiếm 77% năm 2007, điều này khiến chi phí huy động của Chi nhánh thấp nhưng nguy cơ rủi ro kỳ hạn là rất cao. Trong công tác thu hút khách hàng, lãi suất có vai trò vô cùng quan trọng, nhưng tại Chi nhánh Hà Thành chính sách lãi suất có phần thấp hơn so với các ngân hàng thương mại cổ phần. Về công nghệ, Chi nhánh đã được đổi mới và hoàn thiện nhưng vẫn còn bộc lộ những hạn chế, tình trạng thanh toán nội bộ chi nhánh tương đối nhanh nhưng khi thanh toán ra bên ngoài còn gặp ách tắc làm cho tốc độ luân chuyển chứng từ và luân chuyển vốn còn chậm. Vấn đề này đã làm giảm đáng kể nguồn vốn bằng tiền gửi vào Chi nhánh với mục đích thanh toán của khách hàng. Về nhân lực, đội ngũ nhân viên làm công tác huy động vốn nhất là tại các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm là những nhân viên trẻ, do đó còn thiếu kinh nghiệm trong việc tư vấn cho khách hàng cách gửi tiền đem lại lợi ích cao nhất cho khách hàng. 2.3.2.2 Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân trước tiên ảnh hưởng đến hoạt động huy động tiền gửi của Chi nhánh Hà Thành là số lượng các chi nhánh ngân hàng, các tổ chức tài chính tín dụng như Công ty bảo hiểm, ngân hàng cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tăng nhanh trên địa bàn hoạt động của Chi nhánh dẫn đến sự cạnh tranh vô cùng gay gắt giữa Chi nhánh với các ngân hàng khác và các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng. Năm 2007 là năm mạng lưới ngân hàng không ngừng được mở rộng với tốc độ rất nhanh. Quy mô vốn và năng lực tài chính được nâng cao rõ rệt. Công nghệ ngân hàng cùng trình độ quản trị điều hành, chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó, đây cũng là năm đầu tiên Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, do đó quan hệ liên doanh, liên kết, hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các tập đoàn tài chính lớn của thế giới, với các doanh nghiệp khác của Việt Nam theo hướng hình thành tập đoàn kinh doanh đa năng được mở rộng và ngày càng chặt chẽ hơn. Tính đến cuối năm 2007, tại Việt Nam đã có cả nước có 36 NHTM cổ phần, 35 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 4 công ty cho thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài và 2 công ty tài chính có 100% vốn nước ngoài Sự phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã thu hút một lượng lớn tiền gửi của các doanh nghiệp Việt Nam và của dân cư, đặc biệt là các doanh nghiệp có sự tham gia của đối tác nước ngoài, điều này khiến cho công tác thu hút tiền gửi trở nên vô cùng quyết liệt. Đặc biệt, trụ sở của Chi nhánh Hà Thành nằm trong khu vực có nhiều tổ chức tín dụng lớn như ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng ANZ, Ngân hàng Citibank, Ngân hàng VIP Bankvà rất nhiều chi nhánh ngân hàng cổ phần khác đã được thành lập. Đây là những ngân hàng nước ngoài lớn có uy tín và những ngân hàng thương mại cổ phần đã được khẳng định trên thị trường vì vậy Chi nhánh phải chịu sự cạnh tranh rất mạnh mẽ. Trong các yếu tố tác động của kinh tế vĩ mô, công tác huy động tiền gửi chịu sự ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố lạm phát. Tỷ lệ lạm phát cao khiến cho Chi nhánh phải tăng lãi suất huy động để làm cho lãi suất thực không âm, đồng thời kích thích người dân đến gửi tiền. Tỷ lệ này năm 2005 là 7.3%, năm 2006 là 7.6% và đến năm 2007 tỷ lệ này lên đến 12.63%. Khi lạm phát tăng cao, tiền mất giá, người dân không muốn giữ tiền mặt hoặc gửi tiền trong ngân hàng bởi lẽ mức lãi suất danh nghĩa của tiền gửi thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Họ chuyển sang nắm giữ vàng, bất động sản, ngoại tệ mạnh... Trong khi đó, ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10%, riêng ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là 8% trong năm 2007 với mục đích kiềm chế lạm phát, điều này đã khiến chi phí huy động của các ngân hàng tăng cao, khi phải huy động vốn với lãi suất cao và gửi tại NHNN với lãi suất thấp do đó việc thu hút tiền gửi của Chi nhánh cũng gặp phải nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ quan Trong những năm qua theo định hướng, kế hoạch chung của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, đồng thời căn cứ vào kế hoạch sử dụng vốn cụ thể của Chi nhánh, việc sử dụng nguồn vốn huy động chủ yếu được dùng để cho vay đầu tư ngắn hạn, do hoạt động tín dụng của Chi nhánh phần lớn là tín dụng ngắn hạn, vì thế các kết quả đạt được trong chính sách huy động tiền gửi tập trung vào công tác huy động tiền gửi ngắn hạn. Chi nhánh Hà Thành trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là ngân hàng nhà nước hoạt động với mục đích chủ yếu là đầu tư phát triển, tuy nhiên trong những năm gần đây Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng mới được biết đến như một ngân hàng thương mại. Do đó, khi tiến hành huy động tiền gửi, lãi suất của Chi nhánh có thấp hơn so với các ngân hàng thương mại cổ phần, điều này ảnh hưởng nhiều đến việc thu hút khách hàng đến gửi tiền. Hơn nữa, lãi suất mà Chi nhánh áp dụng là lãi suất cố định chưa thả nổi, chưa có đảm bảo trượt giá, do đó thiếu sức hấp dẫn với người gửi tiền. Các hình thức gửi tiền tiết kiệm của Chi nhánh vẫn là các sản phẩm truyền thống như tiết kiệm tặng quà, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm tặng thẻ ưu đãi mà chưa có nhiều sản phẩm mang hàm lượng công nghệ cao như các ngân hàng cổ phần như tiết kiệm mua nhà, tiết kiệm tiêu dùngMặc dù Chi nhánh đã có các đợt phát hành giấy tờ có giá như Chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu nhưng lãi suất của các loại giấy tờ có giá này vẫn áp dụng lãi suất cố định. Chi nhánh thành lập được 5 năm, trong quá trình hoạt động Chi nhánh vẫn cần chứng tỏ uy tín của mình trong công tác chăm sóc khách hàng, chứng tỏ Chi nhánh là một trong những đơn vị đi đầu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Với định hướng là ngân hàng bán lẻ điển hình chuyên phục vụ các đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp, các khách hàng ngoài quốc doanh do đó với các đối tượng khách hàng không phải là doanh nghiệp, Chi nhánh có ít các hình thức hấp dẫn đối tượng gửi tiền này, hơn nữa trước khi thành lập các cán bộ của Chi nhánh đã quen phục vụ các tổng công ty, các doanh nghiệp nhà nước lớn. Chi nhánh mới thành lập được năm năm, do đó điều kiện làm việc của cán bộ nhân viên Chi nhánh vẫn chưa thật thuận lợi, hơn nữa đội ngũ cán bộ làm việc trẻ còn thiếu kinh nghiệm và các kỹ năng phục vụ chuyên nghiệp. Mạng lưới quỹ tiết kiệm và phòng giao dịch của Chi nhánh đã được mở rộng song vẫn chưa bao phủ khắp địa bàn. Chi nhánh đã có các biện pháp Marketting, tuyên truyền quảng cáo nhưng cách tiếp cận khách hàng vẫn chưa đạt hiệu quả cao, khách hàng chỉ biết đến một vài hình thức dịch vụ ngân hàng truyền thống khi họ có quan hệ giao dịch với ngân hàng. Về công nghệ, Chi nhánh đã tiến hành nhiều đổi mới , trang bị thêm nhiều máy móc hiện đại và nối mạng toàn cầu, hướng tới công nghệ ngân hàng hiện đại với khả năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng tiện ích nhất cho khách hàng. Chi nhánh đang tiến hành kế hoạch xây dựng chiến lược công nghệ thông tin đến năm 2010, dự án hiện đại hóa ngân hàng giai đoạn 2008 – 2012, xây dựng hệ thống thông tin quản lý MIS hiện đại. Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 3.1 Định hướng phát triển của Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Được định hướng là mô hình Ngân hàng chuyên bán lẻ điển hình đầu tiên của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trên địa bàn thủ đô, nhiệm vụ chủ yếu của Chi nhánh Hà Thành là cung cấp các dịch vụ tài chính cho đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp liên doanh, các hộ kinh doanh cá thể. Để thực hiện được định hướng trên, Chi nhánh đã xác định các yếu tố quyết định và dẫn đến sự thành công trong việc lựa chọn đúng chiến lược phù hợp, xác định đúng mục tiêu, xây dựng và thực hiện tốt các kế hoạch đặc biệt có sự kiểm tra, giám sát, điều chỉnh hợp lý, kịp thời như: + Thực hiện thành công quá trình cổ phần hóa BIDV, chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý của tập đoàn tài chính ngân hàng. + Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh như chứng khoán, nâng cao năng lực tài chính và năng lực cạnh tranh, áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong quản trị điều hành. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro thông qua chuẩn hóa các quy trình thủ tục quản lý và tác nghiệp. + Phát triển chính sách thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ vừa có năng lực chuyên môn vừa có đạo đức nghề nghiệp và đảm bảo các lợi ích của người lao động, xây dựng và phát triển văn hóa BIDV. + Hoàn thành chiến lược phát triển thương hiệu, triển khai quảng bá đồng bộ thương hiệu mới, chiến lược tiếp thị đưa hình ảnh đến với khách hàng trong và ngoài nước. + Phát triển mạng lưới hoạt động để nâng cao thị phần tại các khu vực sầm uất để thu hút khách hàng, phát huy lợi thế uy tín là ngân hàng hàng đầu Việt Nam để thực hiện mục tiêu tăng tốc, hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững. + Đẩy mạnh đầu tư các dự án có tính cạnh tranh sau khi Việt Nam gia nhập WTO như năng lượng, hạ tầng kỹ thuật, bất động sản, cảng biển. + Đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ. + Xây dựng chiến lược công nghệ thông tin đến năm 2010, dự án hiện đại hóa ngân hàng giai đoạn 2008 – 2012, xây dựng hệ thống thông tin quản lý MIS hiện đại. Những yếu tố trên là cơ sở để Chi nhánh Hà Thành tiếp tục triển khai là ngân hàng bán lẻ điển hình, là ngân hàng của thị trường chứng khoán tiến tới thỏa mãn nhu cầu khách hàng bằng các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao, nhiều tiện ích. * Định hướng cụ thể năm 2008 + Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản: 23%/năm + Tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân: 17%/năm + Tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân: 25%/năm + ROA (Thu nhập ròng trên tổng tài sản) : 1.08% + ROE (Thu nhập ròng trên vốn chủ sở hữu) : 14.6% + CAR (Hệ số an toàn vốn) : > 8% + Tỷ lệ nợ xấu: < 3% 3.2 Một số giải pháp tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Năm 2007, huy động tiền gửi các ngân hàng có tốc độ tăng trưởng cao, theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tổng nguồn tiền gửi huy động của các ngân hàng và tổ chức tín dụng trong cả nước tính đến hết 31/12/2007 ước tính tăng tới 36,5% đạt 1.031.446.194 triệu VND. Tính đến hết 31/12/2007, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng đến mức kỷ lục 12,63%. Đồng thời, trong quý 4/2007 đã bắt đầu có sự khan hiếm cung tiền, do đó, đến hết tháng 12/2007, lãi suất huy động được các ngân hàng điều chỉnh trên 10%. Do đó, căn cứ vào những nghiên cứu tìm hiểu công tác huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành và tình hình huy động tiền gửi của các ngân hàng thương mại Việt Nam, đồng thời căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước và phương hướng nhiệm vụ của Ngân hàng trong thời gian tới, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế và nâng cao hoạt động huy động tiền gửi, góp phần tăng nguồn vốn, giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh cho ngân hàng. 3.2.1 Có định hướng, kế hoạch về phát triển nguồn tiền gửi phù hợp Trên cơ sở phân tích diễn biến thị trường, đồng thời căn cứ vào định hướng kế hoạch chung của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam các nhân viên phòng kế hoạch nguồn vốn của Chi nhánh Hà Thành đánh giá về tình hình kinh tế Việt Nam cũng như nhu cầu sử dụng của Chi nhánh, căn cứ vào đó đưa ra các đánh giá chi tiết cho việc huy động nguồn tiền gửi và dự báo xu hướng biến động nguồn tiền gửi dựa vào kết quả đánh giá về tăng trưởng, thu nhập, lạm phát.... Từ đó lập ra kế hoạch và đưa ra chỉ tiêu huy động nguồn tiền gửi ngắn hạn và dài hạn cho phù hợp với từng năm để đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của Chi nhánh. Trong công tác lập kế hoạch, Chi nhánh cần khai thác triệt để các nguồn tiền gửi sẵn có theo mọi hình thức, theo nhiều kênh khác nhau đây vừa là nhiệm vụ lâu dài, vừa là giải pháp tình thế, gắn chiến lược huy động với sử dụng một cách nhịp nhàng, đồng bộ, đồng thời nâng tỷ trọng tiền gửi của các doanh nghiệp và tăng khối lượng tiền gửi của dân cư để tạo ra nguồn tiền gửi ổn định không chỉ về khối lượng tiền gửi mà chất lượng của nguồn tiền cũng được đảm bảo. 3.2.2 Chính sách khách hàng Năm 2007 nền kinh tế nước ta chứng kiến sự mở rộng mạng lưới hoạt động của các ngân hàng diễn ra một cách mạnh mẽ. Do đó, khách hàng có thể dễ dàng chọn cho mình một chi nhánh giao dịch đem đến cho khách hàng nhiều lợi ích nhất. Bởi vậy, để thu hút khách hàng, Chi nhánh cần chủ động tìm tới khách hàng, phân loại khách hàng, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng cũng như thái độ phục vụ của nhân viên Ngân hàng làm cho khách hàng thấy được sự quan tâm và cảm thấy thoải mái nhất khi giao dịch với ngân hàng. Có như vậy, Chi nhánh mới có điều kiện nắm bắt, nghiên cứu sâu sắc nhu cầu của từng nhóm khách hàng từ đó đưa ra các sản phẩm dịch vụ phù hợp. Chi nhánh Hà Thành được thành lập với định hướng là ngân hàng bán lẻ, để đạt được mục tiêu phát triển khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài, dân doanh Chi nhánh cần đề ra những biện pháp giải pháp cụ thể, sát sao trong công tác tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn, cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng kịp thời, phục vụ tốt nhất với mọi đối tượng khách hàng từ đó Chi nhánh sẽ đảm bảo được nguồn tiền gửi từ khách hàng. Với đối tượng khách hàng này, việc gửi tiền tại ngân hàng là để đảm bảo sự an toàn, thuận tiện, nhanh chóng trong hoạt động thanh toán chi trả cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đây là điều doanh nghiệp quan tâm nhất hơn là lãi suất được hưởng từ việc gửi tiền, tuy nhiên với tiền gửi của đối tượng khách hàng này, Chi nhánh có thể áp dụng hình thức lãi suất không kỳ hạn có thưởng căn cứ vào khối lượng tiền gửi và thời gian doanh nghiệp giao dịch với ngân hàng. Với đối tượng khách hàng doanh nghiệp khác nhau, Chi nhánh cần có các chính sách ưu đãi riêng khi thu hút tiền gửi. Ngoài ra, để thu hút khách hàng mới và duy trì tốt quan hệ với khách hàng truyền thống, Chi nhánh cần có chính sách ưu đãi phù hợp theo từng thời kỳ với những khách hàng doanh nghiệp, đặc biệt quan tâm đến những doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có tình hình tài chính tốt. Đồng thời Chi nhánh cũng tăng cường công tác tiếp thị khách hàng trên cơ sở áp dụng linh hoạt chính sách khách hàng, củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống, mở rộng tìm kiếm các khách hàng mới. Bên cạnh việc thu hút tiền gửi từ các khách hàng doanh nghiệp, Chi nhánh cũng tăng cường mở rộng thu hút các khách hàng vừa và nhỏ, các khách hàng có thu nhập cao và đều đặn, quan tâm đến nhu cầu chi tiêu từng thời điểm của khách hàng, từ đó có biện pháp huy động phù hợp bởi đối tượng khách hàng này lãi suất là điều được quan tâm nhất. Giữa ngân hàng và khách hàng luôn có mối quan hệ khăng khít, Chi nhánh không chỉ thu hút khách hàng đến gửi tiền, để giữ chân khách hàng, khách hàng đến với Chi nhánh vừa là người gửi, vừa là người vay. Chi nhánh cần triển khai mở rộng các loại hình tiền gửi mới như mua ô tô mới, sửa chữa nhà, mua nhà, phát triển kinh tế tư nhân, du học Chi nhánh Hà Thành là ngân hàng duy nhất thay mặt hệ thống BIDV được chỉ định thanh toán chứng khoán cho thị trường phía Bắc và cung cấp các sản phẩm ngân hàng chuyên sâu cho thị trường. Chi nhánh đã mở các tài khoản tiền gửi phục vụ các nhà đầu tư trong và ngoài nước là các tổ chức và cá nhân tham gia vào hoạt động đầu tư chứng khoán. Thị trường chứng khoán nước ta trong 2 năm gần đây rất sôi động, khối lượng tiền gửi từ đối tượng khách hàng này chiếm tỷ lệ ngày càng lớn xuất phát từ nhu cầu giao dịch trên thị trường chứng khoán. Đây là một kênh huy động tiền gửi rất tiềm năng. Vì thế, với đối tượng khách hàng gửi tiền này, Chi nhánh cần có những ưu đãi về lãi suất lúc tiền gửi nhàn rỗi chưa tiến hành giao dịch để thu hút khách hàng khi lựa chọn Chi nhánh là ngân hàng thanh toán. Do vậy, Chi nhánh Hà Thành cần chú trọng hơn nữa công tác chăm sóc khách hàng, chất lượng phục vụ khách hàng tốt nhất đồng thời giảm thiểu các thủ tục và thời gian giao dịch cho khách hàng. Khách hàng đến với Chi nhánh được đón tiếp thân thiện, được cán bộ ngân hàng giới thiệu và tư vấn cụ thể, tỉ mỉ các sản phẩm dịch vụ dưới góc độ các lợi ích mà khách hàng quan tâm làm cho khách hàng được thỏa mãn nhất khi đến với Chi nhánh. 3.2.3 Đa dạng hóa các hình thức huy động tiền gửi Đa dạng hóa các hình thức tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi tiết kiệm là một cách để người dân dự phòng, đồng thời với mục đích sinh lời. Để đa dạng hóa tiền gửi tiết kiệm, Chi nhánh cần đa dạng hóa tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Với tiền gửi không kỳ hạn: Chi nhánh mở các loại tài khoản với khách hàng thường xuyên giao dịch với ngân hàng. Tùy theo loại khách hàng mà mở cho họ một tài khoản phù hợp hoặc một khách hàng có thể mở hai, ba tài khoản để đảm bảo hoạt động thanh toán thuận lợi cho khách hàng. Ngân hàng luôn hướng dẫn và tạo điều kiện cho khách hàng chuyển số dư từ tài khoản này sang tài khoản khác. Hiện nay, ở nước ta đã tiến hành trả tiền lương cho nhân viên qua ngân hàng, vì vậy Chi nhánh rất quan tâm trong việc thu hút nguồn tiền này từ các doanh nghiệp. Chi nhánh là ngân hàng bán lẻ hướng tới các tổ chức kinh tế, đây là nguồn tiền giữ vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, Chi nhánh cần đáp ứng tốt nhu cầu thanh toán, chuyển tiền và các dịch vụ gia tăng kèm theo cho đối tượng khách hàng này. Với tiền gửi có kỳ hạn: Chi nhánh cần đưa ra nhiều kỳ hạn như theo ngày, theo tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng 1 năm, 2 năm thậm chí là 10 năm, 20 năm nếu như khách hàng có nhu cầu. Ứng với mỗi kỳ hạn huy động, Chi nhánh phải xác định mức lãi suất huy động tương ứng vừa hấp dẫn vừa đảm bảo nguyên tắc lãi suất trả cho tiền gửi có kỳ hạn dài cao hơn lãi suất trả cho kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên, mức lãi suất trả cho các kỳ hạn này không được vượt quá lợi nhuận bình quân chung của các ngành vì nếu lãi suất đầu vào cao hơn sẽ làm lãi suất đầu ra cao và do đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng đầu tư cũng như lợi nhuận của Chi nhánh. Cùng với việc đa dạng hóa các kỳ hạn gửi tiền, Chi nhánh cũng cần đa dạng hóa các hình thức hưởng lãi đối với các khoản tiền gửi nhằm giảm bớt thiệt thòi cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút toàn bộ hoặc một phần tiền gửi trước kỳ hạn. Chi nhánh có thể áp dụng hình thức trả lãi cho khách hàng theo lãi suất của kỳ hạn gần nhất với kỳ hạn rút tiền của khách hàng thay vì khách hàng chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn khi phải rút tiền trước kỳ hạn. Ngoài ra, Chi nhánh có thể áp dụng nhiều cách thức trả lãi như trả lãi trước, trả lãi cuối kỳ cao nhất so với trả lãi trước và trả lãi nhiều lần trong kỳ tùy theo yêu cầu hưởng lãi của khách hàng. Thông thường khách hàng gửi tiền có kỳ hạn dài có rất nhiều lý do do để lo lắng như vấn đề lạm phát, lãi suất, nhu cầu cần tiền đột xuất khi đó nếu rút tiền ra, khách hàng sẽ chịu nhiều thiệt thòi vì chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn, do đó khách hàng có nhu cầu chuyển nhượng tiền gửi dài hạn này sang cho khách hàng khác có nhu cầu. Do vậy, để thu hút các khoản tiền có kỳ hạn dài, Chi nhánh cần phát hành các chứng chỉ tiền gửi hoặc kỳ phiếu có khả năng chuyển nhượng ra thị trường để có thể đáp ứng được lợi ích của cả 2 bên, tạo sự thuận lợi và an tâm cho khách hàng khi gửi tiền dài hạn, đồng thời Chi nhánh sẽ tạo được nguồn tiền dài hạn, ổn định. Ngoài việc mở rộng các loại tiền gửi truyền thống hiện nay, Chi nhánh cần quan tâm đén các hình thức huy động tiết kiệm dài hạn có mục đích như tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm học đường, tiết kiệm bảo đảm bằng vàng Đối với hình thức tiết kiệm nhà ở, hình thức này tạo cho ngân hàng nguồn vốn có thời hạn dài đồng thời khách hàng gửi tiền có quyền vay tiền tối đa bằng số tiền đã gửi tiết kiệm với mục đích mua, cải tạo hoặc xây nhà. Hiện nay, nhu cầu chi tiêu cho nhà ở của dân cư là rất cao, đồng thời thu nhập của người dân ngày càng tăng lên, do đó đây là việc hoàn toàn có thể thực hiện được. Việc này sẽ khuyến khích người dân gửi tiền nhiều hơn, ngoài ra điều này cũng khuyến khích người dân tiết kiệm dành tiền cho những nhu cầu chi tiêu trong tương lai. Để huy động được nguồn tiền này, Chi nhánh cần phải tạo được sự hấp dẫn với khách hàng bằng việc trực tiếp đứng ra làm môi giới trung gian cho khách hàng gửi tiền với các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp những mặt hàng mà khách hàng có nhu cầu. Chi nhánh cũng phải thực hiện hộ khách hàng các thủ tục chuyển giao quyền sở hữu, đảm bảo về chất lượng và giá cả phù hợp với khách hàng. Nếu làm được như vậy, việc thu hút khách hàng có tiền nhàn rỗi đến với ngân hàng gửi tiền sẽ dễ dàng. Hình thưc tiết kiệm hưu trí, hình thức này dành cho những người không làm cho các cơ quan được hưởng lương về già sau này, do đó họ có nhu cầu gửi tiền cho tương lai sau này bằng cách hàng tháng gửi một số tiền nhất định theo từng thời hạn khác nhau. Hình thức tiết kiệm học đường, hình thức này đang được các công ty bảo hiệm khai thác, đây là hình thức tiết kiệm để chi trả tiền cho con học hành. Hiện nay, nước ta đang trên đà hội nhập với khu vực và thế giới, nhu cầu cho con đi du học đang rất phát triển, vì vậy hình thức gửi tiền này đang được các gia đình có điều kiện, thu nhập cao rất quan tâm, do đó đây là nguồn tiền mà ngân hàng cần chú ý đến. Hình thức tiết kiệm đảm bảo bằng vàng, đây là hình thức tiết kiệm không còn xa lạ với người dân, hình thức này đã được áp dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần. Hình thức này đảm bảo cho người gửi tiền khi lạm phát tăng cao dẫn đến sự bất ổn về tiền tệ. Đa dạng hóa hình thức tiền gửi cá nhân Hình thức này giúp Chi nhánh thu hút được tiền nhàn rỗi từ dân cư với lãi suất thấp. Đồng thời phát triển tài khoản cá nhân góp phần hiện đại hóa hoạt động thanh toán qua ngân hàng, tiết kiệm được chi phí phát hành tiền, hơn nữa còn giảm tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông, hạn chế được nguy cơ lạm phát. Với tốc độ phát triển của nền kinh tế, việc mở tài khoản cá nhân là điều cần thiết để ngân hàng thực hiện hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và triển khai các dịch vụ đến mọi tầng lớp dân cư. Trong điều kiện nước ta, phần lớn dân cư thu nhập còn thấp, hình thức tiền gửi cá nhân còn rất mới mẻ, trong khi đó với người gửi tiền mong muốn được hưởng lãi suất cao, còn tài khoản tiền gửi cá nhân áp dụng lãi suất không kỳ hạn. Để thu hút được nguồn tiền này từ dân chúng, Chi nhánh cần xem xét đến chính sách lãi suất áp dụng, đồng thời cho họ thấy các tiện ích sẽ được hưởng khi sử dụng như dịch vụ thanh toán. Ngân hàng có thể áp dụng việc theo dõi 2 tài khoản song song của khách hàng cá nhân, đó là tài khoản tiền gửi cá nhân va tiền gửi có kỳ hạn. Khi số dư trong tài khoản tiên gửi cá nhân cao, Chi nhánh sẽ chuyển một khoản tiền này sang tài khoản tiết kiệm kỳ hạn của cá nhân đó, ngược lại, khi khách hàng có nhu cầu thanh toán, Chi nhánh chuyển số tiền cần thiết sang tài khoản cá nhân cho khách hàng. Như vậy, ngân hàng sẽ giảm được chi phí trong việc rút tiền nhiều lần của khách hàng, đồng thời giúp việc thanh toán của khách hàng được thuận lợi hơn. Với việc trả tiền lương qua tài khoản hiện nay, số lượng tài khoản cá nhân đang ngày càng tăng lên, nhu cầu thanh toán qua ATM do đó ngày một nhiều hơn, vì vậy Chi nhánh cần đa dạng hình thức tiền gửi với loại tiền này. Chi nhánh nên cử người xuống doanh nghiệp để giới thiệu các sản phẩm tiền gửi cá nhân tới nhân viên doanh nghiệp, đồng thời có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp khi họ thực hiện việc trả lương cho nhân viên tại Chi nhánh. Và Chi nhánh không chỉ cung cấp dịch vụ thanh toán như hiện nay, mà nên ứng dụng thêm việc gửi tiền qua ATM, như vậy tạo điều kiện thuận lợi với những người không có thời gian đến ngân hàng gửi tiền. Hiện nay, số lượng sinh viên trên địa bản thủ đô là khá lớn, việc khai thác tiền gửi cá nhân với đối tượng khách hàng này là rất tiềm năng, do đó Chi nhánh cần có sự liên kết với các trường đại học, cao đẳng trong việc mở tài khoản cá nhân. Đa dạng hóa tiền gửi doanh nghiệp Đây là loại tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế gửi vào với mục đích thanh toán, chi trả hoặc phát hành séc. Hiện nay, số lượng doanh nghiệp tư nhân hoạt động trên địa bàn là rất lớn, số lượng doanh nghiệp giao dịch qua ngân hàng vẫn còn chưa nhiều, với định hướng là ngân hàng bán lẻ phục vụ các đối tượng khách hàng là doanh nghiệp, khách hàng ngoài quốc doanh vì vậy đây là cơ hội để Chi nhánh thu hút các doanh nghiệp này gửi tiền, tiến hành thanh toán qua ngân hàng. Do đó, Chi nhánh cần đặt việc huy động nguồn tiền lên hàng đầu, phấn đấu trở thành trung tâm thanh toán của mọi đối tượng, bởi loại tiền này có chi phí huy động thấp, không cần bảo hiểm do thời hạn ngắn, ít bị ảnh hưởng về giá trị tiền gửi và khối lượng tiền gửi lớn. Nhược điểm của loại tiền này là thường xuyên biến động và không ổn định do phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu thường xuyên của khách hàng, nhưng bù lại Chi nhánh có thể duy trì được số lượng lớn khách hàng đến gửi tiền và khối lượng lớn tiền gửi, thanh toán qua hoạt động giao dịch của doanh nghiệp và góp phần trực tiếp nâng cao uy tín của ngân hàng. Chi nhánh cần nâng cao hiệu quả của các công cụ thanh toán nhanh chóng và an toàn, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng hiện nay. Ngoài ra, Chi nhánh cần tích cực vận động doanh nghiệp chuyển tiền qua hình thức thanh toán bằng séc hay qua thẻ thanh toán ATM. Điều này vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi cầm séc nộp vào Ngân hàng có thể nhận ngay tiền mặt hoặc chuyển vào tài khoản, tạo điều kiện cho Chi nhánh thu hút thêm vốn từ tiền gửi. Để thu hút các doanh nghiệp đến mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, Chi nhánh cần cử cán bộ xuống tận doanh nghiệp giới thiệu cho doanh nghiệp các loại tài khoản và những tiện ích của chúng. Đồng thời Chi nhánh có những ưu đã khuyến khích doanh nghiệp mở tài khoản và thanh toán qua Chi nhánh. Không những vậy, Chi nhánh cần bám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, theo dõi các dòng tiền luân chuyển của doanh nghiệp khi thanh toán, mua vật tư hay bán hàng hóa, đặc biệt với các doanh nghiệp có doanh thu lớn, đây là nguồn tiền gửi rất quan trọng, vì vậy Chi nhánh cần tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa Chi nhánh với doanh nghiệp. Đa dạng hóa các loại giấy tờ có giá Một hình thức huy động tiền gửi nữa của Chi nhánh cần được quan tâm là phát hành các loại giấy tờ có giá như Trái phiếu, Kỳ phiếu, Chứng chỉ tiền gửi, mặc dù đây là hình thức huy động không thường xuyên. Chi nhánh nên thực hiện nghiệp vụ chiết khấu các loại giấy tờ có giá nhằm tạo tính lỏng cho công cụ nợ này hoặc phát hành qua thị trường mở để dễ dàng chuyển nhượng lại cho các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức tài chính ngân hàng nào có nhu cầu. Chi nhánh cũng cần có các trái phiếu khác nhau như vô danh, ghi danh, ghi sổ với các hình thức trả lãi và thời hạn khác nhau để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Để nâng cao hiệu quả huy động tiền gửi có thời hạn trong thời gian dài cho đầu tư, thì vấn đề cần quan tâm trong huy động là ngân hàng phải lấy tư cách của Nhà nước hoặc địa phương để huy động tiền gửi đầu tư cho các công trình kinh tế trọng điểm. Chi nhánh nên phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi có mục đích với các hình thức đa dạng hơn như trả lãi trước, trả lãi sau, lãi suất và kỳ hạn cũng được điều chỉnh linh hoạt hơn tùy thuộc vào môi trường cạnh tranh cũng như quan hệ cung cầu trên thị trường. Ngân hàng sẽ thu hút được lượng tiền gửi không nhỏ, chi phí huy động thấp khi sử dụng hình thức huy động này. 3.2.4 Sử dụng chính sách lãi suất huy động linh hoạt, hợp lý Lãi suất là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc thu hút tiền gửi vào ngân hàng. Ngoại trừ tiền gửi không kỳ hạn ít nhạy cảm với sự biến đổi của lãi suất, còn lại các nguồn tiền gửi có kỳ hạn có phản ứng rất nhanh với lãi suất, đặc biệt với các nguồn tiền gửi nhàn rỗi từ dân cư. Bởi khách hàng khi có tiền nhàn rỗi muốn gửi tiết kiệm, mục tiêu hàng đầu của người gửi tiền vẫn là lãi suất sau đó mới đến vấn đề an toàn tiền gửi và các dịch vụ tiện ích được hưởng từ phía ngân hàng. Trong hoàn cảnh nền kinh tế có lạm phát cao, lãi suất có ảnh hưởng vô cùng lớn đến quyết định của người gửi tiền, bên cạnh vấn đề an toàn tiền gửi và các dịch vụ tiện ích được hưởng là một trong các yếu tố vô cùng quan trọng nhất là trong điều kiện bùng nổ thông tin như hiện nay. Thấy rõ được điều này, Chi nhánh rất chú trọng đến việc thay đổi lãi suất trong từng thời kỳ cho phù hợp với lãi suất thị trường nhằm thu hút tiền gửi của mọi thành phần kinh tế, tuy nhiên Chi nhánh là một đơn vị của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trực thuộc ngân hàng nhà nước, cho nên so với lãi suất của các ngân hàng thương mại cổ phần, căn cứ mục đích sử dụng vốn của Chi nhánh đặt ra nên lãi suất của Chi nhánh có thấp hơn. Do đó, Chi nhánh cần xác định biện pháp tăng lãi suất phù hợp để hấp dẫn người gửi tiền và thu hút được khối lượng lớn tiền gửi. Tuy nhiên, đây là biện pháp có giới hạn, bởi tăng lãi suất huy động tức là tăng chi phí đầu vào, do vậy ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn cũng như kết quả kinh doanh. Để nâng cao hiệu quả huy động, Chi nhánh cần tăng lượng tiền gửi huy động và giảm chi phí huy động, Chi nhánh cần đưa ra mức lãi suất hợp lý để kích thích khách hàng đồng thời đảm bảo được quy mô và cơ cấu hợp lý nguồn tiền gửi với chi phí huy động thấp, đáp ứng được nhu cầu sử dụng an toàn và sinh lời nhưng vẫn đảm bảo được tính cạnh tranh so với các ngân hàng khác. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đưa ra lãi suất cơ bản và biên độ lãi suất quy định trên cơ sở của nền kinh tế thị trường, từ đó các ngân hàng thương mại dựa vào lãi suất cơ bản và biên độ lãi suất quy định để tính toán lãi suất đầu và đưa ra mức lãi suất đầu vào phù hợp với mức độ cần thiết của nguồn vốn, từng thời điểm, từng khu vực và từng kỳ hạn huy động, sao cho kỳ hạn dài có lãi suất cao hơn kỳ hạn ngắn, đồng thời vẫn đảm bảo chi phí huy động và lãi suất đầu ra hợp lý. Với cơ chế lãi suất theo tín hiệu thị trường hiện nay, càng đòi hỏi sự năng động và linh hoạt của Chi nhánh trong quá trình tìm kiếm nguồn tiền gửi. 3.2.5 Phát triển mạng lưới và nâng cao uy tín Với xu thế cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường hiện nay, mạng lưới Chi nhánh đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thu hút nguồn tiền gửi. Trước hết, đó là do thói quen giao dịch trực tiếp của người dân, thứ hai đó là việc trình độ công nghệ ngân hàng chưa chưa phép giao dịch qua internet hay các phương tiện điện tử. Để phát triển mạng lưới, Chi nhánh cần có kế hoạch lộ trình cụ thể và triển khai nghiêm túc lộ trình đã định, đồng thời cần có một bộ phận chuyên trách phát triển mạng lưới. Chi nhánh cần chú ý tới môi trường hoạt động tại nơi đặt địa điểm giao dịch như số lượng doanh nghiệp đóng trên địa bàn, mật độ dân cư, mạng lưới giao thông, quy hoạch phát triển của địa bàn trong thời gian tới, chú ý tới các khu vực hiện tại chưa phát triển lắm nhưng có tốc độ tăng trưởng nhanh trong tương lai đây sẽ là khu vực rất tiềm năng, đối với các địa bàn đã có nhiều ngân hàng và các tổ chức tài chính hoạt động, không nên mở phòng giao dịch tại đây. Hiện nay, việc giao dịch qua thẻ ATM đang phát triển mạnh, Chi nhánh cần trang bị thêm các máy rút tiền để phục vụ khách hàng, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ trong công tác thanh toán qua ATM và các sản phẩm dịch vụ qua thẻ thanh toán. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một trong những ngân hàng đã khẳng định được uy tín, tên tuổi nhiều năm qua. Vì vậy, là một đơn vị tiên phong trong hệ thống BIDV, sau 5 năm chính thức đi vào hoạt động, Chi nhánh đã khẳng định được vị thế và uy tín của mình so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc cũng như với các Chi nhánh khác trong cùng hệ thống. Để tiếp tục khẳng định và giữ vững uy tín, vị thế, Chi nhánh cần không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và phong cách phục vụ của mình. 3.2.6 Đẩy mạnh chiến lược Marketting Với ngân hàng, để mở rộng hoạt động của mình thì việc marketting, quảng cáo là điều vô cùng cần thiết. Vì lợi ích của khách hàng và của chính ngân hàng, Chi nhánh cần có phòng Marketting riêng để chuyên thu thập thông tin, nắm bắt nhu cầu khách hàng, phân loại thị trường, phân loại khách hàng để có cách xử lý phù hợp. Thêm vào đó, nhiều người dân đến ngân hàng chỉ để gửi tiền lấy lãi, do đó các sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn rất trìu tượng, do đó Chi nhánh cần có hình thức tuyên truyền, giới thiệu, quảng cáo để khách hàng biết được hoạt động của Chi nhánh, các tiện ích khi giao dịch và các ưu đãi dành cho khách hàng. Với quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng cả về số lượng lẫn phạm vi, các sản phẩm dịch vụ ngày càng đa dạng và phong phú hơn, việc tiếp thị các sản phẩm dịch vụ ngân hàng là vô cùng cần thiết, do đó nếu không có Marketing thì ngân hàng sẽ bị trì trệ rất nhiều và dần dần mất tính cạnh tranh trên thị trường. Một trong những chương trình điển hình nhất của hoạt động Marketting nói chung và Marketting ngân hàng nói riêng là thuyết trình, quảng cáo trên truyền hình Đối với phương pháp thuyết trình, Ngân hàng có thể áp dụng ở các doanh nghiệp bầng việc thành lập các đội giới thiệu sản phẩm của ngân hàng, đội này sẽ chủ động liên hệ, xin phép doanh nghiệp được thuyết trình về tiện ích của sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng đưa ra. Với cách tiếp cận trực tiếp khách hàng, ngân hàng sẽ thu thập được thông tin về nhu cầu khách hàng thông qua việc lấy ý kiến trực tiếp từ khách hàng. Với hoạt động quảng cáo trên truyền hình cần tổ chức một đội ngũ chuyên viên quảng cáo chuyên nghiệp. Trong công tác huy động tiền gửi, việc quảng cáo, tuyên truyền nên tập trung vào một số vấn đề như lãi suất tiền gửi, hình thức huy động, lợi ích khi gửi tiền, khai trương quỹ tiết kiệm mới đặc biệt khi có hình thức huy động mới. Thực tế cho thấy, ngân hàng phát hành các giấy tờ có giá ngắn hạn với lãi suất hấp dẫn nhưng người dân vẫn chưa được biết. Một cách thức quảng cáo đơn giản là dán các tờ áp phích tại quầy giao dịch của ngân hàng. Song hành với hình thức quảng cáo là khuyến mại, giúp đẩy mạnh thêm hoạt động quảng cáo thu hút tiền gửi vào ngân hàng. Các hình thức quảng cáo đa dạng sẽ tạo ra sự thích thú đối với khách hàng như trả lời câu hỏi có thưởng, hình thức xổ số theo tài khoản, lãi suất ưu đãi với khách hàng thường xuyên giao dịch. Các hình thức quảng cáo hiệu quả sẽ nâng cao hình ảnh và uy tín của ngân hàng và làm cho khách hàng và người dân biết đến ngân hàng nhiều hơn. 3.2.7 Phát huy tối đa yếu tố con người Yếu tố con người đóng vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động xã hội, trong kinh doanh và đặc biệt trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, yếu tố con người là vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công của một ngân hàng. Phát huy tối đa yếu tố con người là một giải pháp trước mắt mà còn về lâu dài phát triển vững chắc hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Hà Thành. Các nhân viên ngân hàng là những người trực tiếp làm việc với khách hàng, vì vậy văn minh ngân hàng, những cảm nhận đầu tiên về ngân hàng sẽ được thể hiện qua phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ ngân viên ngân hàng. Do vậy, để đạt kết quả tốt trong kinh doanh, nhân viên của Chi nhánh không chỉ có chuyên môn cao mà còn phải có lòng yêu nghề và đạo đức nghề nghiệp. Chi nhánh Hà Thành đã củng cố và hoàn thiện bộ máy tổ chức đặc biệt đổi mới cơ chế quản lý, điều hành, tăng cường giám sát, kiểm tra nội bộ, quản lý tài chính và tăng cường kỷ luật lao động. Để phát huy năng lực cán bộ, Chi nhánh cần tạo môi trường làm việc thuận lợi đồng thời tiến hành nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ. Chi nhánh cần phải thường xuyên tiến hành tổ chức các lớp đào tạo nâng cao trình độ kết hợp với các chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần cho những nhân viên trực tiếp tham gia hay tự học để nâng cao nghiệp vụ. Chi nhánh cần tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên đi nghiên cứu tìm hiểu, tham quan học tập ở các nước có ngành ngân hàng phát triển. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng cần có hình thức thưởng phạt nghiêm minh. Từ đó Chi nhánh tạo dựng được một đội ngũ đội ngũ nhân viên theo đúng tiêu chuẩn, có trình độ chuyên môn giỏi, hiểu biết pháp luật, tác phong làm việc chuyên nghiệp điều này sẽ đem lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động huy động tiền gửi của Chi nhánh. 3.2.8 Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, khi hành lang pháp lý được thông thoáng, các rào cản về việc phân biệt đối xử giữa các ngân hàng với nhau cũng không còn nữa, khi mà dịch vụ của các ngân hàng gần như tương đương nhau thì ngân hàng nào có công nghệ tiên tiến hơn, ngân hàng đó sẽ có được ưu thế trong các cuộc chạy đua giành lấy niềm tin khách hàng. Công nghệ chính là yếu tố hàng đầu để các ngân hàng duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. Hầu hết các ngân hàng đã ứng dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh từ các sản dịch vụ truyền thống cho đến việc triển khai các sản phẩm dịch vụ hiện đại, công nghệ đã trở thành yếu tố quyết định sự hiệu quả trong hiệu quả kinh doanh ngân hàng. Do đó, Chi nhánh cần phải có một chiến lược công nghệ hiệu quả, hiện đại hóa hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin bao gồm hệ thống hạ tầng mạng và viễn thông, hệ thống trung tâm dữ liệu, hệ thống bảo mật, hệ thống Call center, hệ thống giám sát và quản trị đồng thời ứng dụng các dịch vụ công nghệ hiện đại như Core banking là một hệ thống các phân hệ nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng như tiền gửi, tiền vay, khách hàng, thông qua đó, ngân hàng phát triển thêm nhiều dịch vụ, sản phẩm và quản lý nội bộ chặt chẽ, hiệu quả hơn, Internet banking và phone banking, trade finance, hệ thống thanh toán như giải pháp chuyển mạch, ATM, POS, Card & smart card, hệ thống chuyển mạch tài chính và sự liên kết các ngân hàng thành viên. Đối với việc ứng dụng công nghệ vào huy động tiền gửi, mỗi khách hàng sẽ được cấp mã số riêng theo dõi từng tài khoản chi tiết mở tại ngân hàng, các thông tin về khách hàng sẽ được ngân hàng bảo mật. Việc ứng dụng công nghệ vào trong dịch vụ gửi tiền sẽ giúp khách hàng có thể dễ dàng gửi tiền vào Chi nhánh hoặc rút tiền ra dù ở thời điểm nào và bất cứ đâu, tất cả các hoạt động này sẽ được trung tâm quản trị dữ liệu xử lý mà không phải trực tiếp giao dịch với Chi nhánh. Với xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay, công nghệ ngân hàng đang được ứng dụng đã làm tăng vòng quay của vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông do đó khối lượng tiền gửi tại ngân hàng ngày càng tăng lên. Ngoài ra, để đảm bảo phục vụ tốt hoạt động thanh toán cho thị trường chứng khoán, công nghệ đóng vai trò quyết định, vì yêu cầu của thị trường chứng khoán ngày nay đòi hỏi phải trang bị hệ thống công nghệ hiện đại. Chính vì vậy, Chi nhánh cần nhanh chóng triển khai các chiến lược xây dựng công nghệ đã được xây dựng như chiến lược công nghệ thông tin đến năm 2010, dự án hiện đại hóa ngân hàng giai đoạn 2008 – 2012, xây dựng hệ thống thông tin quản lý MIS hiện đại đưa vào phục vụ hoạt động sớm. 3.3 Một số kiến nghị nhằm tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 3.3.1 Kiến nghị đối vớí Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần căn cứ vào tình hính và yêu cầu của thị trường, cũng như điều kiện cụ thể của Chi nhánh để xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý đồng thời đề ra các biện pháp hữu hiệu, chặt chẽ bám sát tình hình của Chi nhánh. Chiến lược huy động vốn trong đó có huy động tiền gửi là một trong các chiến lược liên quan chặt chẽ tới chiến lược phát triển chung của ngân hàng, chịu sự quy định của ngân hàng. Do đó, hoạt động huy động của Chi nhánh có hiệu quả mới đảm bảo sự thành công chiến lược phát triển chung của Ngân hàng. Chi nhánh cần có sự phối hợp đồng bộ với Trung tâm công nghệ thông tin Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để giải quyết những bất cập và triển khai các ứng dụng phần mềm mới để phát huy hiệu quả tối đa trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Chi nhánh. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động huy động tiền gửi, cần phát huy vai trò của kiểm toán nội bộ, tăng tính độc lập cho bộ phận này để hoạt động của bộ phận kiểm toán là cánh tay đắc lực của Giám đốc. Không chỉ vậy, Ngân hàng cần có những biện pháp đẩy mạnh và phát triển mạng lưới các chi nhánh của mình nhằm tạo ra cơ cấu hợp lý trên toàn bộ hệ thống đặc biệt là các khu công nghiệp, khu chế xuất và các vùng nông thôn. Đối với các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa thì công tác quản lý có phần vất vả và phức tạp nhưng không có nghĩa là không thực hiện được. Cùng với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, ngân hàng cần củng cố, nâng cao chất lượng và đổi mới hoạt động của các quỹ tiết kiệm, các phòng giao dịch hiện có, đảm bảo đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng khi đến với ngân hàng, qua đó tạo niềm tin trong khách hàng và thu hút ngày càng nhiều nguồn tiền gửi nhàn rỗi của khách hàng đến với ngân hàng. 3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy trong công tác huy động tiền gửi cũng như hoạt động kinh doanh của BIDV có sự hướng dẫn và chỉ đạo của NHNN, tạo điều kiện cho ngân hàng huy động vốn trong đó bao gồm cả huy động tiền gửi và sử dụng khối lượng tiền huy động được có hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước là nơi hoạch định các chính sách tiền tệ quốc gia với mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Do đó, để khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng, NHNN cần xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ổn định và hợp lý theo tín hiệu của nền kinh tế thị trường. Sự can thiệp của NHNN chỉ được thông qua các hình thức gián tiếp như dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở đồng thời có cơ chế về lãi suất, tỷ giá, quản lý ngoại hối, các quy định về cho vay, thế chấp, bảo lãnh thích hợp. Về lãi suất, NHNN cần ban hành một hệ thống lãi suất cơ bản hợp lý, có tính ổn định lâu dài và phù hợp với từng thời kỳ nhất định nhưng vẫn đảm bảo mức lãi suất thực dương có lợi cho người gửi tiền, người vay tiền và ngân hàng. Từ 01/3/2007, NHNN bắt đầu thực hiện bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng (TCTD), thống nhất thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong việc huy động tiền gửi của các TCTD theo Quyết định số 07/2007/QĐ-NHNN. Ngày 16/5/2008, NHNN công bố bỏ quy định khống chế mức trần lãi suất huy động 12%/năm, thay vào đó là cơ chế điều hành lãi suất mới, quy định lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố là 12%/năm tại thời điểm đó, đến ngày 11/6/2008, mức lãi suất cơ bản được nâng lên là 14%/năm. Việc NHNN chuyển từ cơ chế lãi suất trần và lãi suất sàn sang điều hành theo lãi suất cơ bản là một bước tiến lớn. Tuy nhiên về lâu dài NHNN cũng cần có những biện pháp hạ thấp lãi suất trong nền kinh tế để từng bước hòa nhập với mặt bằng lãi suất chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Bởi với một mức lãi suất quá cao sẽ gây cản trở cho các doanh nghiệp khi tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, điều này làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước cũng như hiệu quả kinh doanh và hoạt động huy động tiền gửi của các ngân hàng thương mại trong nước. Về tỷ giá, để hạn chế sự biến động về tỷ giá, tạo sự an tâm cho khách hàng gửi tiền cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động tiền gửi của các ngân hàng thương mại, NHNN cần tiếp tục hoàn thiện và tập trung các vấn đề như hoàn thiện thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ, hình thành các quỹ ngoại tệ tập trung do NHNN trực tiếp đứng ra điều hành và quản lý nhằm dự trữ một lượng ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi cần thiết, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về ngoại hối, xác định tỷ giá sát với thực tế quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Bên cạnh đó, NHNN cần phát huy vai trò quản lý đối với các ngân hàng thương mại, cần tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra để nâng cao hiệu quả cho vay và sử dụng nguồn tiền huy động được để làm cho hoạt động của ngân hàng trở nên lành mạnh và hiệu quả, đồng thời NHNN cần yêu cầu ngân hàng thương mại công khai những đánh giá về hoạt động của ngân hàng để có định hướng cho người gửi tiền. 3.3.3 Kiến nghị đối với Chính phủ Tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng như các ngân hàng khác chỉ thực hiện được tốt nếu có các điều kiện kinh tê, xã hội và pháp lý cần thiết tạo nên một hệ thống các giải pháp hỗ trợ công tác huy động tiền gửi của ngân hàng. Đó chính là vai trò của Nhà nước, Chính phủ trong việc ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường pháp lý và môi trường xã hội trong nền kinh tế thị trường. Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm rất nhiều yếu tố như tổng sản phẩm quốc dân, lạm phát, tốc độ tăng trưởng, thất nghiệp, ngân sách nhà nước, cán cân thanh toán bao trùm lên hoạt động kinh doanh của các chủ thể đặc biệt có tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như hoạt động huy động tiền gửi. Trong thời gian qua, Chính phủ đã rất thành công trong việc điều hành các chính sách vĩ mô, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Vì vậy, để tiếp tục tạo môi trường vĩ mô ổn định, Chính phủ cần đưa ra các chính sách phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, đồng thời tạo môi trường pháp lý lành mạnh tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Môi trường pháp lý của nước ta đã có nhiều điều chỉnh sửa đổi khi chúng ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, tuy nhiên vẫn còn chưa hoàn toàn thống nhất và đồng bộ. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức đăng ký với Văn phòng Chính phủ để đưa vào chương trình xây dựng mới pháp luật với thời gian trình Quốc hội dự kiến Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng sẽ trình vào kỳ họp đầu năm 2008, Luật Bảo hiểm tiền gửi trình vào năm 2009 và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng vào năm 2010. Các văn bản pháp luật này cần nhanh chóng xúc tiến triển khai để tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho hoạt động ngân hàng theo hướng minh bạch, hiện đại và phù hợp với thông lệ quốc tế. Hơn nữa, việc ban hành hệ thống pháp lý đồng bộ rõ ràng còn tạo niềm tin với công chúng, có tác động trực tiếp đến việc tiết kiệm của người dân, khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng hạn chế giữ tiền mặt, từ đó thay đổi thói quen giữ tiền tiết kiệm ở nhà. Việc ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường pháp luật là cơ sở để Nhà nước thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội trong việc giải quyết công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Khi thu nhập của dân chúng được cải thiện, thói quen giữ tiền thay đổi sẽ tạo điều kiện cho việc thu hút tiền gửi từ dân chúng vào ngân hàng trở nên dễ dàng hơn. KẾT LUẬN Huy động tiền gửi không phải là hoạt động mới ở các ngân hàng, nhưng đây là hoạt động quan trọng nhất, chủ yếu nhất trong hoạt động huy động vốn của các ngân hàng. Chính vì vậy, tăng cường huy động tiền gửi sẽ quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các ngân hàng hiện nay đã và đang tìm ra nhiều biện pháp để tăng cường huy động tiền gửi sao cho khối lượng tiền huy động được lớn, chất lượng cao và chi phí thấp. Sau thời gian thực tập tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em đã nhận thấy tầm quan trọng của công tác huy động tiền gửi tại ngân hàng. Trong thời gian này em cũng đã học hỏi và trang bị cho mình thêm nhiều kiến thức từ môi trường thực tế mà em được tiếp xúc. Qua đó, em đã hoàn thành đề tài “Tăng cường huy động tiền gửi tại Chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”. Tuy nhiên, do thực tế kinh doanh phong phú, đa dạng và hạn chế về thời gian hơn nữa khả năng có hạn, nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót về mặt nội dung cũng như về hình thức, em rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô và các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Minh Huệ, các anh chị tại phòng Kế hoạch nguồn vốn, Chi nhánh Hà Thành đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập và thực hiện đề tài thực tập tốt nghiệp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Thị Thu Hà (2007), “Giáo trình Ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. 2. Frederic S.Mishkin (2005), “Giáo trình tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân. 3. Lưu Thị Hương, Vũ Duy Hào (2007), “Giáo trình tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân. 4. Luật các tổ chức tín dụng (1997). 5. Báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của Chi nhánh Hà Thành. 6. Báo cáo thường niên năm 2007 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 7. Tạp chí Đầu tư – Phát triển, tháng 8, năm 2008. 8. Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN. 9. Một số tài liệu tham khảo khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7905.doc
Tài liệu liên quan