Trong những năm qua tốc độ giải ngân FDI của Hà Nội nói chung và Việt Nam nói riêng tương đối chậm, tồn tại một số vấn đề được coi là những rào cản cho sự tăng trưởng của nền kinh tế cũng như cho hoạt động giải ngân FDI. Những rào cản này đòi hỏi chúng ta phải khắc phục và tiến tới làm giảm thiểu, xoá bỏ dần trong thời gian tới. Một số rào cản đó là:
Môi trường đầu tư kém minh bạch và thiếu nhất quán:
Những bất cập đang tồn tại với môi trường đầu tư Việt Nam hiện nay đó là tính minh bạch và công khai của nền kinh tế còn hạn chế. Đặc biệt, yêu cầu về minh bạch và công khai các thông tin tài chính vi mô của doanh nghiệp còn chưa phổ biến. Quy định bắt buộc kiểm toán độc lập đối với báo cáo tài chính mới chỉ hạn chế trong một số ít các doanh nghiệp. Thực tế, phần lớn các doanh nghiệp chưa tuân thủ chặt chẽ yêu cầu công khai và minh bạch tài chính. Điều này dẫn đến tính cạnh tranh trong nền kinh tế chưa được phát huy triệt để. Sự thiếu minh bạch và công khai trong nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hai hệ quả ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đầu tư đó là: tham nhũng và tăng chi phí kinh doanh. Chính vì vây, để cải thiện môi trường đầu tư cần phải tăng cường và tích cực thiết lập cơ chế đảm bảo công khai minh
90 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường khả năng giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng (thủ tục đầu tư kinh doanh, xây dựng cơ bản, đất đai, môi trường, quy định trong gia nhập WTO, cam kết song phương, đa phương…) nên cũng gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư và các cơ quan của thành phố trong việc thực thi pháp luật để triển khai các dự án.
Do xu thế phân cấp mạnh mẽ quản lý đầu tư xuống các địa phương trong khi năng lực chưa phù hợp và tinh thần chịu trách nhiệm chưa cao, dẫn đến hàng loạt các dự án đã được cấp phép khá dễ dàng mà không xem xét thấu đáo tác động toàn diện của dự án đó. Công tác giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước chưa đi vào nền nếp nên chưa kịp thời phát hiện và xử lý những sai phạm trong quản lý đầu tư và xây dựng. Bên cạnh đó, cần thay đổi tư duy, có quan điểm mới về thu hút và giám sát sử dụng vốn FDI, đề ra các chính sách phù hợp để loại bỏ các dự án không mong muốn và khuyến khích các dự án cần thiết; chú trọng đến chất lượng, mức độ thân thiện với môi trường, mức độ sử dụng tài nguyên và nguồn lực quý hiếm, đề cao trách nhiệm xã hội của nhà đầu tư…, từ đó đưa ra các tiêu chí phù hợp để thẩm định các dự án FDI.
2.4. Kết luận về thực trạng giải ngân vốn FDI
2.4.1. Những kết quả đã đạt được
Kết quả về giải ngân FDI
Nói chung giải ngân FDI tại Hà Nội trong những năm qua đã có những biến chuyển mạnh mẽ cả về mặt lượng lẫn mặt chất. Vốn giải ngân tuy có những biến đổi không ổn định qua các năm nhưng nhìn chung có xu hướng tăng mạnh trong 5 năm trở lại đây .Kết quả này góp phần to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Bảng 13: Vốn giải ngân FDI trên địa bàn Hà Nội từ năm 2001 đến năm 2008 và dự kiến cho các năm 2009, 2010.
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Vốn giải ngân
2001
1925.0
2002
2556.0
2003
2800.0
2004
3150.0
2005
4000.0
Tổng 5 năm
14431.0
2006
3500.0
2007
4000.0
Ước tính 2008
5797.0
DK 2009
5797.0
DK 2010
8000.0
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Vốn thực hiện (vốn giải ngân) năm 2008 đã tăng 44,2% so với cùng kỳ năm 2007 đạt mức giải ngân cao nhất trong vòng 20 năm qua. Tuy nhiên, với quy mô vốn đăng ký rất lớn của năm 2007 và đặc biệt năm 2008, đòi hỏi cần tập trung hơn nữa vào công tác hỗ trợ triển khai dự án nhằm tăng vốn giải ngân trong thời gian tới. Ngoài ra, cần phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư, đặc biệt chú trọng thúc đẩy triển khai các dự án quy mô vốn đầu tư lớn được cấp giấy chứng nhận đầu tư trong năm 2006 và 2007. Hỗ trợ, giám sát các dự án đã và đang cấp giấy chứng nhận đầu tư để triển khai đúng với tiến độ đề ra.
Những đóng góp trong phát triển kinh tế - xã hội Thủ Đô
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được giải ngân đã mang lại những tác động tích cực đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố Hà Nội trong những năm qua, đặc biệt là trong việc bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển, góp phần duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, đóng góp cho ngân sách địa phương và quốc gia tăng qua các năm. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, đội ngũ lao động được thu hút vào làm việc có thu nhập cao hơn so với các khu vực khác, hơn nữa lại từng bước nâng cao tay nghề, đội ngũ cán bộ quản lý được nâng cao kiến thức, kinh nghiệm quản lý.
Bảng 14 : FDI đóng góp vào FDI phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội (2000 – 2007)
Những đóng góp của FDI
1996 – 2000
2001 - 2005
2006 - 2007
1. Đóng góp vào GDP
23%
15%
16%
2. Trong tổng đầu tư xã hội
26%
15%
15%
3. Giá trị sản xuất công nghiệp
41%
34%
39%
4. Kim ngạch xuất khẩu
46%
21%
38%
5. Nộp ngân sách
15%
10%
10%
6. Giải quyết việc làm
15%
10%
20.7%
Nguồn : Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội
Hoạt động kinh tế đối ngoại ở Hà Nội trong thời gian qua đã không ngừng được phát triển và mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá cùng cả nước hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới, trong đó hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Nó đã giúp tạo ra năng lực sản xuất mới trong nhiều ngành và trong nhiều lĩnh vực kinh tế, tạo công ăn việc làm cho hàng chục ngàn người lao động, giúp tăng nguồn hàng xuất khẩu, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế.
Công nghiệp Hà nội phát triển với tốc độ nhanh, có hiệu quả lớn, trên cơ sở cải tiến cơ cấu sản xuất với phương châm ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp cần công nghệ và hàm lượng chất xám cao, kết hợp phát triển những ngành nghề truyền thống, từng bước sử dụng công nghệ tiến tiến và thu hút nhiều lao động, đáp ứng nhu cầu của thị trường, thay thế dần hàng nhập khẩu mà trong nước đã sản xuất được, bảo đảm môi trường sinh thái.
Đạt được kết quả trên đây là nhờ những nguyên nhân sau :
Tổ chức tham gia các hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư, vận động đầu tư
Tổ chức đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư.
Kịp thời điều chỉnh, bổ sung và ban hành danh mục dự án gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với tình hình thực tế
2.4.2. Những hạn chế trong giải ngân và nguyên nhân
2.4.2.1. Những hạn chế
Ngoài những kết quả đạt được, một số hạn chế trong giải ngân FDI Hà Nội và Việt Nam có thể kể đến như sau:
Số vốn giải ngân là quá nhỏ, tốc độ giải ngân vẫn còn chậm và diễn biến theo xu hướng không ổn định. Các dự án giải ngân chủ yếu là các dự án quy mô nhỏ, với số vốn giải ngân trung bình là 4 triệu USD/ dự án. Các dự án quy mô lơn còn rất ít và không tận dụng được hết năng lực vốn có..
Bảng 15: Vốn giải ngân FDI ở một số địa phương
(tính đến hết ngày 22/09/2007)
Đơn vị : USD
Địa phương
Vốn đầu tư
Vốn thực hiện
Cả nước
72.859.018.728
30.960.427.253
TP. Hồ Chí Minh
15.601.546.370
6.598.373.503
Đồng Nai
10.040.979.826
4.224.935.132
Hà Nội
11.115.836.459
3.941.643.870
Bình Dương
7.138.877.382
2.095.455.157
Bà Rịa - Vũng Tàu
6.078.149.896
1.354.919.334
Hải phòng
2.496.880.521
1.277.583.463
Hải Dương
1.637.289.555
438.120.480
Đà Nẵng
1.345.395.789
185.866.590
Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Cơ cấu giải ngân còn phân bổ chưa đều vào các ngành, các lĩnh vực, các hình thức đầu tư. Vốn giải ngân chỉ tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nặng, các địa phương có cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển...nên đã tạo ra khoảng cách phát triển giữa các địa phương trong cả nước.
Ví dụ: Trong lúc các nơi như Bà Rịa Vũng Tàu, Đồng Nai, Hà Nội, Hưng Yên và Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu về giải ngân FDI trong cả nước thì đầu tư vào khu vực miền Trung, Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc lại rất khiêm tốn
2.4.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế
Trong những năm qua tốc độ giải ngân FDI của Hà Nội nói chung và Việt Nam nói riêng tương đối chậm, tồn tại một số vấn đề được coi là những rào cản cho sự tăng trưởng của nền kinh tế cũng như cho hoạt động giải ngân FDI. Những rào cản này đòi hỏi chúng ta phải khắc phục và tiến tới làm giảm thiểu, xoá bỏ dần trong thời gian tới. Một số rào cản đó là:
Môi trường đầu tư kém minh bạch và thiếu nhất quán:
Những bất cập đang tồn tại với môi trường đầu tư Việt Nam hiện nay đó là tính minh bạch và công khai của nền kinh tế còn hạn chế. Đặc biệt, yêu cầu về minh bạch và công khai các thông tin tài chính vi mô của doanh nghiệp còn chưa phổ biến. Quy định bắt buộc kiểm toán độc lập đối với báo cáo tài chính mới chỉ hạn chế trong một số ít các doanh nghiệp. Thực tế, phần lớn các doanh nghiệp chưa tuân thủ chặt chẽ yêu cầu công khai và minh bạch tài chính. Điều này dẫn đến tính cạnh tranh trong nền kinh tế chưa được phát huy triệt để. Sự thiếu minh bạch và công khai trong nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hai hệ quả ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đầu tư đó là: tham nhũng và tăng chi phí kinh doanh. Chính vì vây, để cải thiện môi trường đầu tư cần phải tăng cường và tích cực thiết lập cơ chế đảm bảo công khai minh bạch trong chính sách, trong chi tiêu công và thông tin tài chính doanh nghiệp.
Ngoài ra, sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đang là một trong những trở ngại cho giải ngân các dự án đầu tư cũng như rào cản cho tăng trưởng của Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp còn vừa thiếu, vừa yếu
Một vấn đề khác đang đặt ra trong việc đẩy nhanh tốc độ giải ngân FDI tại Hà Nội hiện nay đó là thiếu vắng các dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Đây chính là các hỗ trợ phi tài chính từ bên ngoài doanh nghiệp nhằm cải thiện hoạt động và khả năng tham gia thị trường. Mức độ phát triển của các dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp là thước đo khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ở các nước phát triển, các dịch vụ hỗ trợ phát triển chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tại Singapore, tỷ lệ dịch vụ hỗ trợ phát triển chiếm ít nhất khoảng 15% GDP. Tuy nhiên, tại Việt Nam các dịch vụ phát triển vẫn còn ở mức rất khiêm tốn (dưới 1% GDP và có tốc độ tăng trưởng chỉ 1-2% năm). Nhận thức về vai trò của dịch vụ đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh vẫn còn hạn chế cả ở góc độ quản lý doanh nghiệp và quản lý vĩ mô của Nhà nước. Mặc dù thị trường dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trong các lĩnh vực như đào tạo, kế toán, tư vấn thuế và tài chính và đặc biệt là dịch vụ tư vấn quản lý gần đây cũng bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, tính chuyên nghiệp chưa cao, chất lượng dịch vụ chưa đảm bảo. Thực tế cho thấy, nhà đầu tư vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn khi triển khai các dự án đầu tư tại Việt Nam do thiếu một hệ thống cung ứng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp có hiệu quả. Tính đến nay, Việt Nam đã thu hút được hơn 8000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký hơn 72,8 tỷ USD, trong đó đã thực hiện khoảng 31 tỷ USD, nghĩa là còn gần 41 tỷ USD cần được thực hiện tiếp. Trong đó, khu vực công nghiệp còn 23,5 tỷ USD, khu vực nông - lâm - thuỷ sản còn 2,2 tỷ USD, khu vực dịch vụ và một số lĩnh vực khác còn trên 15,3 tỷ USD chưa được thực hiện.
Bảng 16: Số vốn thực hiện chưa được giải ngân tính đến 2008 của Việt Nam
Khu vực
Công nghiệp
Nông nghiệp
Dịch vụ
Số vốn
23,5 tỷ USD
2,2 tỷ USD
15,3 tỷ USD
Nguốn : Bộ Kế hoạch và đầu tư
Như vậy, vốn thực hiện vẫn còn chiếm tỷ trọng thấp so với vốn đăng ký. Có nhiều lý do để giải thích tình trạng này, trong đó rào cản cho việc triển khai chậm chính là do hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển tại Việt Nam vừa thiếu, vừa yếu.
Sự yếu kém của dịch vụ hỗ trợ phát triển tại VIệt Nam hiện nay có nhiều nguyên nhân, trong đó có hai nguyên nhân cơ bản là môi trường pháp lý của Việt Nam chưa thuận lợi cho phát triển loại hình dịch vụ này và tính minh bạch, công khai về thông tin trên thị trường còn hạn chế. Mặc dù đã có những tiến bộ nhất định việc cải thiện trong môi trường pháp lý kinh doanh tại Việt Nam, tuy nhiên vẫn còn khá nhiểu tồn tại cản trợ sự phát triển của các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp. Cụ thể, còn nhiều văn bản không còn phù hợp với Luật doanh nghiệp được ban hành như Nghị định 87/2002/NĐ-CP về cung ứng dịch vụ tư vấn: điều kiện tham gia thị trường còn quá cao đối với một số dịch vụ như đào tạo nghề, sở hữu trí tuệ, hướng dẫn về đăng ký kinh doanh, tư vấn pháp lý, quảng cáo, tư vấn thuế tài chính… còn thiếu rõ ràng.
Theo quy định hiện hành, Việt Nam vẫn chưa thừa nhận việc hành nghề tư vấn cá nhân. Quy đinh này làm không ít các chuyên gia tư vấn có kinh nghiệm và trình độ cao không được sử dụng và chia sẻ kinh nghiệm dưới dạng dịch vụ tư vấn cá nhân. Đối với dịch vụ sở hữu trí tuệ, một trong những loại hình đang và sẽ được quan tâm ngày càng tăng của giới đầu tư nước ngoài cũng có nhiều bất cập đáng lưu ý: thiếu chính sách và hệ thống bảo vệ quyền và quản lý sở hữu trí tuệ, chưa có chính sách toàn diện về nâng cao nhận thức của công chúng về quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ. Cục sở hữu trí tuệ hiện nay mới chỉ thuần tuý là cơ quan quản lý nhà nước, chư chưa phải là đơn vị cung cấp dịch vụ hành chính công. Vì thế, Cục sở hữu trí tuệ không đủ nguồn lực và tài chính để đáp ứng các yêu cầu về dịch vụ hỗ trợ trí tuệ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm sở hữu trí tuệ tại Việt Nam còn khá phổ biến.
Bên cạnh đó, môi trường pháp lý đối với dịch vụ đào tạo cũng chưa thuận lợi, nhất là đối với dịch vụ đào tạo có sự tham gia của đối tác nước ngoài. Các điều kiện và thủ tục lập doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ về đào tạo không cụ thể, rõ ràng. Các tiêu chí để thành lập trường dạy nghề được đánh giá là quá cao, thủ tục thành lập còn tốn thời gian và kinh phí của người kinh doanh (có cơ sở đào tạo sau 6 năm mới được cấp giấy phép).
Một dịch vụ rất quan trọng đối với các nhà đầu tư và các doanh nghiệp đó là dịch vụ kế toán - kiểm toán thì chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Rào cản ở đây là thiếu một chính sách rõ ràng từ các cơ quan quản lí. Để thành lập được doanh nghiệp kiểm toán, phải có ít nhất 5 kiểm toán viên, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải được thủ tướng Chính Phủ phê duyệt khi thành lập. Các dịch vụ kế toán và kiểm toán chưa phát triển cũng làm hạn chế tính công khai, minh bạch về tài chính và từ đó cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến tính cạnh trnah của thị trường.
Thực tế cho thấy ở Việt Nam hiện nay đang thiếu vắng một hệ thống thông tin, dữ liệu đầy đủ, cập nhật và tin cậy về kinh tế vĩ mô cũng như vi mô. Các thông tin và dự báo về thị trường nước ngoài cũng vừa thiếu, vừa chưa đảm bảo độ tin cậy. Sự yếu kém này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển có chất lượng của dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy không chỉ dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển doanh nghiệp yếu kém mà bản thân ngành dịch vụ nói chung của Việt Nam cũng chậm phát triển. Sự tham gia của khu vực đầu tư nước ngoài vào khu vực này cũng chưa tương xứng với tiềm năng của chúng. Đây cũng sẽ là một rào cản nữa đối với đầu tư và giải ngân vốn đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam trong những năm tới.
Năng lực và trách nhiệm của chính quyền một số địa phương còn hạn chế
Một rào cản khác đối với giải ngân FDI rất cần phải vượt qua trong thời gian tới để có thể thực hiện được mục tiêu giải ngân vốn đầu tư một cách hiệu quả đó là năng lực trách nhiệm và thiện chí của mỗi chính quyền địa phương trong vấn đề giải ngân vốn đầu tư. Đây là trở ngại có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động cũng như thực hiện vốn đầu tư ở các tỉnh và thành phố. Thực tế cho thấy, chính quyền địa phương chính là người trực tiếp tiếp xúc và giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến nhà đầu tư. Chính vì vậy hành vi của đội ngũ công chức của từng chính quyền địa phương sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định đầu tư cũng như thực hiện vốn đầu tư của các doanh nghiệp có vốn FDI, thậm chí cả doanh nghiệp trong nước. Bằng chứng là những địa phương nào có chính sách hợp lý, sự minh bạch năng động và có trách nhiệm thì địa phương đó có bước tiến rõ rệt trong thu hút vốn đầu tư và giải ngân vốn đầu tư.
Cụ thể, nếu so sánh một số tỉnh có điều kiện tương tự về địa lí, cơ sở hạ tầng (4 tỉnh phía Nam gồm Đồng Nai, Bình Dương, Long An. Bà Rịa Vũng Tàu và 7 tỉnh miền Bắc bao gồm Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc là các tỉnh đều nằm gần thành phố lớn, gần hải cảng, điều kiện tiếp cận thị trường) nhưng mức thu hút đầu tư và mức độ giải ngân là rất khác biệt. Trong khi bốn tỉnh phía Nam vốn FDI (thực hiện) tính trên đầu người là 570 USD thì 7 tỉnh phía Bắc chỉ giải ngân được 60 USD vốn đầu tư (thực hiện) tính trên đầu người. Một trong những nguyên nhân của sự khác biệt này chủ yếu là do vai trò của các địa phương.
Chính sách của từng địa phương ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lực cơ bản như đất đai, cơ sở hạ tầng như điện, nước, viễn thông, an ninh... và điều đó tác động đến quyết định lựa chọn và thực hiện các dự án đầu tư. Đối với hầu hết các nhà đầu tư, đất đai là một nguồn lực quan trọng. Nếu như khả năng tiếp cận đất đai dễ dàng thì quyết định đầu tư của họ cũng hiện thực hơn. Tuy nhiên, hiện nay một số tỉnh phía Bắc có xu hướng hạn chế chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiêp, khiến cho giá đất ở đó cao hơn hẳn một số tỉnh phía Nam và giảm tính hấp dẫn với khá nhiều nhà đầu tư.
Độ minh bạch và tính trách nhiệm của bộ máy địa phương cũng ảnh hưởng rất nhiều đến quyết định và hành vi đầu tư, tác động đến chi phí giao dịch và niềm tin của nhà đầu tư. Không minh bạch về quy trình và thủ tục cộng với sự thiếu trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức sẽ làm nảy sinh tiêu cực, tham nhũng.
Chính quyền địa phương cũng là người trực tiếp thực thi các chính sách về đầu tư do chính quyền Trung Ương ban hành. Sự năng động, linh hoạt của chính quyền địa phương cũng có thể hỗ trợ rất nhiều cho nhà đầu tư và giúp họ biến ý tưởng thành hành vi đầu tư. Tính năng động của Chính quyền địa phương ở các tỉnh phía Nam thể hiện thông qua việc diến giải và áp dụng chính sách của nhà nước theo hướng thuận lợi cho các nhà đầu tư. Còn đối với các tỉnh phía Bắc thì thường hướng thực hiện thận trọng, chờ đợi sự hướng dẫn từ Trung Ương, điều này đã làm cho một số cơ hội đầu tư bị bỏ lỡ.
Đất nước đang tiếp tục tiến trình đổi mới - hội nhập, để có thể vượt qua những rào cản trong tiến trình thực hiện, triển khai các dự án FDI, giải quyết tốt các vấn đề đang tồn tại ở từng địa phương và cả nước cần có sự nỗ lực không chỉ của Nhà nước mà của cả doanh nghiệp, các nhà đầu tư và của toàn xã hội. Cần thiết phải đặt quyết tâm cải thiện tính công khai, minh bạch, giảm cơ chế xin cho trong tất cả các hoạt động đầu tư, hoàn thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực đầu tư với sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế dưới sự giám sát của Nhà nước và của toàn xã hội.
Bên cạnh các nguyên nhân bao trùm trên, các yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình giải ngân là: Không thực hiện đúng chu trình dự án; Quá trình đấu thầu mua sắm kéo dài; Quá trình giải phóng mặt bằng chậm; Chính sách thuế đối với các dự án FDI cũng chưa nhất quán; quá trình làm thủ tục giải ngân chậm, cụ thể như sau:
Việc thẩm định, phê duyệt dự án còn bị kéo dài: Nhiều hiệp định đã ký nhưng mới chỉ có tên dự án mà chưa hoàn thành báo cáo nghiên cứu khả thi, chưa hoàn thành thủ tục để phê duyệt dự án đầu tư do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và bộ chủ quản. Qúa trình lập, duyệt dự án không kịp thời thường mất từ 1 đến 3 năm, có dự án sau khi ký hiệp định lại thay đổi quy trình công nghệ, hay thay đổi mục tiêu dự án . Có một số dự án trong quá trình lập nghiên cứu khả thi thấy rằng không hiệu quả lại chuyển sang dự án khác (như dự án điện thoại nông thôn, nước khoáng Kim Bôi, điện Yaly vay của Pháp, máy nghiền sàng đá vay của Thái Lan). Một số dự án do thời gian chuẩn bị khá lâu nên đến khi thẩm định phê duyệt thì nhiều hạng mục trong dự án đã lạc hậu so với tình hình mới.
Chính sách đền bù giải phóng mặt bằng: quá trình thương lượng, điều chỉnh chính sách đền bù và giải phúng mặt bằng để đi đến thống nhất kéo dài hơn một năm. Có những dự án đã thống nhất về chính sách nhưng việc triển khai đền bù của các chủ dự án tiến hành chậm. Giải phóng mặt bằng thường gắn với các chính sách xã hội như tái định cư, việc làm hoặc đền bù. Hơn nữa, vấn đề năng lực, trình độ của cán bộ quản lý thực hiện công tác này và vấn đề thông tin cũng gây tác động không nhỏ. Nhiều bất cập trong quá trình thực hiện không được thông tin đầy đủ và xử lý kịp thời dẫn đến làm chậm tiến độ triển khai dự án (chậm bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư )
Thủ tục giải ngân cho các dự án: Trước năm 1995 do mới tiếp cận công tác quản lý FDI với các thủ tục phức tạp của các nhà đầu tư, thủ tục đầu tư trong nước và trình độ, kinh nghiệm của cán bộ quản lý còn hạn chế nên khâu xét duyệt hồ sơ để rút vốn và luân chuyển chứng từ còn chậm. Đến nay Bộ Tài chính đã ban hành quy chế, theo đó thời gian xác nhận hồ sơ hợp lệ và làm thủ tục rút vốn tối đa từ 5 đến 8 ngày. Tuy nhiên, tiến độ rút vốn phần lớn phụ thuộc vào tiến độ thực hiện các dự án và tập hợp đầy đủ hồ sơ rút vốn hợp lệ của các chủ dự án phải phù hợp với thoả thuận cam kết được các nhà đầu tư quốc tế chấp nhận
Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác gây chậm trễ cho việc triển khai thực hiện dự án từ đó dẫn đến chậm giải ngân như thủ tục xin cấp giấy phép nhập khẩu thiết bị, thủ tục hải quan, xin cấp đất xây dựng văn phòng...
2.4.3. Tác động của tình trạng giải ngân đến hiệu quả sử dụng FDI
Để tăng cường thu hút FDI thì điều quan trọng là phải tăng cường khả năng giải ngân nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI đã thu hút được, làm cho vốn đã thực hiện phát huy cao nhất hiệu quả và mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư cũng như mang lại lợi ích cho quốc gia.Với một quốc gia đang phát triển nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên, thực tế hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của Việt Nam hiện nay chưa cao.
Chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI 10 - 1 6 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD 2006. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào. Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến chính là việc các nhà đầu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm để khôi phục đà đầu tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 8 tỷ USD.
Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5 - 7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Cuối cùng, Phần Lan đã rút dự án khỏi Việt Nam. Do đó, bài học Phần Lan cần phải tránh.
Nguồn vốn FDI lớn, nhưng nếu không được giải ngân thì giá trị cũng không bằng một dự án nhỏ của NGOs nhưng giúp được một xã cải thiện cuộc sống, hiệu quả ngay lập tức giúp cho hàng vạn người.
Thu hút được nhiều vốn nhưng chậm hoặc không giải ngân được thì không có ý nghĩa nhiều trong việc thúc đẩy kinh tế Thành phố phát triển, không tạo được nền tảng để tiếp tục thu hút đầu tư.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG GIẢI NGÂN FDI
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
3.1. Định hướng thu hút và giải ngân FDI trên địa bàn Hà Nội thời gian tới
3.1.1 Định hướng thu hút FDI
Tăng quy mô thu hút vốn FDI. Định hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Nội trong thời gian tới sẽ là 25 tỷ USD. Cơ cấu vốn đầu tư sẽ chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô.
Hướng thu hút vào các ngành chủ yếu cần ưu tiên. Đầu tư nước ngoài được xem như một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, do vậy hoạt động của nó cần được định hướng rõ ràng, cụ thể góp phần giải quyết tốt những khó khăn như: vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường, việc làm... phát huy tốt những tiềm năng của Hà Nội, phục vụ đắc lực cho chiến lược phát triển kinh tế hiện nay. Với mục đích này, các hoạt động ĐTTTNN cần hướng vào các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu đòi hỏi sử dụng kỹ thuật công nghệ cao, nhân công lành nghề, đầu tư theo chiều sâu, tận dụng các khả năng nâng cao năng suất của các cơ sở kinh tế hiện có, sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước.
Ưu tiên thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các địa bàn trọng điểm, mang lại hiệu quả nhanh. Khuyến khích các dự án đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng dưới các hình thức BOT, BTO, BT... các dự án này tuy lợi nhuận ít, thu hồi vốn lâu nhưng lại rất quan trọng đối với môi trường đầu tư.
Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào sản xuất hàng công nghiệp, phù hợp với định hướng chung là xây dựng Hà nội trở thành một trung tâm công nghiệp lớn của cả nước.
Tăng cường gọi vốn đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản, thực phẩm với các sản phẩm như: thịt đông lạnh, sữa, rau, đậu.... xây dựng ngoại thành Hà nội trở thành một vành đai cung cấp thực phẩm
Lựa chọn đối tác thu hút có hiệu quả. Tiếp tục mở rộng hợp tác đầu tư với các nước theo phương thức đa phương hoá, đa dạng hoá. Đồng thời, tiếp tục coi trọng nguồn vốn đầu tư từ các quốc gia và vùng lãnh thổ Châu Á đang chiếm vị trí quan trọng trong đầu tư tại Hà Nội như: Nhật Bản, các nước NICS. Tiếp tục thu hút có chọn lọc nhất là về mặt công nghệ từ các nước ASEAN, Nga Trung Quốc… đồng thời tận dụng khả năng mở rộng hợp tác với các cường quốc kinh tế thế giới, kể cả Mỹ và các nước Tây Âu, coi đó là đối tác quan trọng để tranh thủ vốn, công nghệ và nhằm góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chú trọng thu hút FDI từ các tập đoàn đa quốc gia (TNCs): FDI trên thế giới chủ yếu là vốn của TNCs; hoạt động của các công ty này có tác động quan trọng đối với những nước tiếp nhận vốn FDI. Do đó việc thu hút các TNCs được khuyến khích cả hai hướng: Thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu; tạo điều kiện để một số TNCs xây dựng các Trung tâm nghiên cứu, phát triển, vườn ươm công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực.
Bảng 17: Định hướng các ngành mục tiêu ứng với mỗi quốc gia
Ngành/ mục tiêu
Các quốc gia vùng lãnh thổ/ mục tiêu
Công nghệ thông tin
Hoa kỳ, Nhật Bản (phần cứng), EU, Singgapore, Ấn Độ
Điện tử
Nhật Bản, Hoa Kỳ, Các nước EU, Hàn Quốc
Hóa chất
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc
Dầu khí
Hoa Kỳ, Eu, Maylaysia,Nga
Chế biến thực phẩm
Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU
May mặc, dệt
Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore
Da, giầy, giầy dép
Đài Laon, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore
Xây dựng hạ tầng KCN, CX
Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc
Nguồn: Chiến lược xúc tiến đầu tư – Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư năm 2006-2010
3.1.2. Định hướng giải ngân
Khắc phục những bất cập về giải ngân FDI trong thời gian qua, định hướng giải ngân FDI vào Hà Nội trong thời gian tới tập trung vào các nội dung sau:
Nâng cao tỷ lệ giải ngân vốn FDI. Không đề ra mục tiêu quá cao về số lượng thu hút nguồn vốn FDI đăng ký mới, mà tập trung thúc đẩy số vốn đã cam kết hiện còn 90 tỷ USD chưa được giải ngân.
Mục tiêu hàng đầu là bảo đảm vốn FDI giải ngân trong năm 2009 bằng năm 2008 hoặc thấp hơn khoảng 2 tỷ USD. Đây là một kịch bản phù hợp với khả năng hấp thụ của nền kinh tế nước ta.
Đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn FDI. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội đề xuất các Bộ, Ngành trung ương rà soát lại các quy định về đầu tư kinh doanh còn chồng chéo, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ giải ngân và hoàn thành các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Đổi mới các thủ tục hành chính có liên quan đến giải ngân. Cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa; rà soát các dự án để có ngay hình thức xử lý phù hợp, tránh tình trạng đất để quá 1 năm không đưa vào sử dụng theo quy định của Luật Đất đai; Hỗ trợ dự án nhanh chóng triển khai sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư...
Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. Về cải thiện cơ sở hạ tầng, sẽ tiến hành tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
3.2. Một số giải pháp thúc đẩy tiến trình giải ngân vốn FDI
Muốn tận dụng tốt nguồn vốn FDI, biến những cam kết của các nhà đầu tư thành hiện thực, chúng ta phải giải quyết triệt để những yếu tố gây cản trở quá trình giải ngân nguồn vốn này.
Với bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện FDI trong những năm qua, chắc chắn chung ta sẽ cải thiện được tỷ lệ giải ngân. Nếu tỷ lệ giải ngân đạt 45% thì chúng ta sẽ có 7,5 tỷ USD vốn FDI đến 2010, trung bình mỗi năm có 1,5 tỷ USD.
Xét từ nhiều phương diện và trên cơ sở xem xét thực trạng giải ngân FDI ở Việt Nam nói chung và Hà Nội trong thời gian qua, có thể nhận xét rằng triển vọng giải ngân FDI trong thời gian tới sẽ có bước cải thiện vì nó xuất phát từ lợi ích của bản thân quốc gia và chúng ta đang có những biện pháp từng bước tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến vấn đề này.
Xung quanh vấn đề về tốc độ giải ngân đối với các dự án sử dụng vốn FDI có nhiều ý kiến khá trái ngược nhau. Tuy nhiên xét từ khía cạnh người sử dụng vốn FDI, cụ thể là trong các chương trình, dự án ở Hà Nội thì phải thừa nhận rằng tốc độ giải ngân nguồn vốn FDI trong những năm qua của Thành phố là rất chậm. Sự chậm trễ này không chỉ do phía Việt Nam gây ra mà còn ở cả phía các nhà tài trợ. Từ năm 1993 đến nay, Hà Nội đã tiếp nhận nguồn vốn FDI của hơn 40 nhà đầu tư khác nhau, trong khi môi trường pháp lý của nước ta chưa đồng bộ, năng lực cán bộ còn hạn chế mà phải tiếp nhận 40 quy định khác nhau về quy trình thủ tục giải ngân của các nhà đầu tư thì việc chậm trễ tốc độ giải ngân tại một số dự án là không thể tránh khỏi.
Giải ngân những năm tới sẽ rất khó khăn, bởi các tập đoàn, các công ty lớn sẽ rất khó vay ngân hàng. Họ cũng có những điều chỉnh hướng vào thị trường trong nước họ nên họ sẽ xem xét lại việc đầu tư ra nước ngoài, do đó chắc chắn rằng những cam kết của các nhà đầu tư sẽ có những cam kết không thực hiện được hoặc sẽ chậm tiến độ. Tuy nhiên, qua khảo sát điều tra và báo cáo từ các địa phương cho thấy quyết tâm của các địa phương trong quá trình làm việc với nhà đầu tư nước ngoài để làm thế nào đẩy nhanh tiến độ và giữ được các cam kết là rất lớn. Tuy kết quả giải ngân khó đạt được như năm 2008 - năm cao nhất kể từ khi Việt Nam tiến hành thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng với sự nỗ lực của các cơ quan Trung ương và địa phương sẽ cố gắng đưa ra những giải pháp để không có kết quả giải ngân quá thấp. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức rất nhiều đoàn đi làm việc với các địa phương để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các dự án. Với những dự án đã đàm phán hoặc đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua rồi thì đẩy nhanh tiến độ cấp phép để có nguồn vốn đưa vào thực hiện. Đây cũng là giải pháp và là định hướng để làm thế nào đạt kết quả giải ngân không quá thấp.
Để thúc đẩy giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI trong những năm tới cần phải tiến hành những giải pháp mang tính toàn diện sau:
3.2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý
Sự thiếu đồng bộ, thiếu chặt chẽ trong nội dung của một số văn bản pháp lý liên quan đến quản lý và sử dụng nguồn vốn FDI là nguyên nhân chính gây trở ngại trong quá trình thực hiện các dự án và hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này.
Thủ tục hành chính đã đơn giản hơn nhưng mới chỉ đơn giản ở khâu đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư. Hiện để dự án đi vào hoạt động thì khâu thủ tục hành chính vẫn chiếm rất nhiều thời gian, thậm chí từ 1 – 3 năm, bởi thời gian tiếp cận đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng kéo dài, xin cấp các loại giấy phép xây dựng, phòng chống cháy nổ ... vẫn khá dài dòng và phức tạp.
Chính phủ phải tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp. Trước mắt, sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Các Bộ, ngành chủ động sửa đổi, bổ sung các nội dung thuộc thẩm quyền.
Cùng với đó là theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong thời gian gần đây có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Đồng thời tiếp tục ban hành các chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hóa, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Song song đó, Trung ương và các địa phương cần thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu; dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất KCN.
3.2.2. Rút ngắn thời gian phê duyệt và thẩm định dự án
Hiện nay, quy định về trình tự và thủ tục xét duyệt dự án của phía Việt Nam và phía nước ngoài còn rườm rà, phải qua nhiều bước, nhiều cấp xét duyệt nên giai đoạn chuẩn bị dự án thường kéo dài. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho tiến độ giải ngân nguồn vốn FDI trong thời gian qua chậm. Hơn nữa, thủ tục hành chính của các cơ quan Nhà nước còn chậm đổi mới, thiếu triệt để nên còn tình trạng chậm trễ ở mỗi khâu, đặc biệt là các khâu: thẩm định và phê duyệt nghiên cứu khả thi, phê duyệt để triển khai các hạng mục sử dụng vốn dư sau đấu thầu. Do vậy, đòi hỏi phải đổi mới công tác thẩm định và phê duyệt dự án sao cho rút ngắn được thời gian mà vẫn đảm bảo được chất lượng của việc thẩm định, góp phần thúc đẩy giải ngân. Cần tinh giảm thủ tục hành chính, có sự phân cấp thẩm định rõ ràng để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận này. Có những quy định cụ thể về thời gian thẩm định, phê duyệt đối với từng loại dự án. Đồng thời, trong quá trình thẩm định nếu phát hiện những nội dung còn thiếu hay chưa phù hợp thì cơ quan thẩm định phải có trách nhiệm thông báo ngay cho người lập dự án để họ có biện pháp điều chỉnh kịp thời.
3.2.3. Cải thiện chính sách, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng
Vấn đề đền bù và tái định cư là bộ phận quan trọng trong kế hoạch thực hiện dự án. Vấn đề này không chỉ liên quan đến lợi ích thiết thực, cuộc sống hiện tại cũng như lâu dài của người dân mà còn liên quan đến pháp luật, chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước cũng như chính sách của các nhà đầu tư.
Công tác giải phóng mặt bằng ở Hà Nội có đặc thù riêng của Thủ đô. Chính vì vậy, việc nhìn rõ những vướng mắc làm cản trở tiến độ GPMB ở Hà Nội và đưa ra những kiến nghị hợp lý, sẽ góp phần tạo thông thoáng, thúc đẩy việc giải ngân vốn FDI.
Tính từ năm 2001 đến nay, trung bình mỗi năm, Hà Nội có khoảng hơn 300 "đơn đặt hàng" GPMB từ các dự án, với tổng nhu cầu diện tích đất cần thu hồi khoảng 1.500- 2.000 ha/năm. Giai đoạn 2001-2006, thành phố chỉ bàn giao mặt bằng được cho 1.048/1.830 dự án, với số diện tích đất giải tỏa là 5.699/14.526 ha.Ðiều đó có nghĩa, trong giai đoạn này, mỗi năm thành phố chỉ đáp ứng được 57% nhu cầu về số dự án và 39% nhu cầu về diện tích đất cần GPMB.
Từ năm 2007, xu hướng nguồn đầu tư FDI và các dự án trong nước gia tăng về số lượng và giá trị, vì vậy nhu cầu mặt bằng cho các dự án triển khai đầu tư ngày càng cấp bách. Nhưng tiến độ GPMB lại rất chậm. Năm 2007, thành phố có 354 dự án "xếp hàng" chờ thu hồi 1.527 ha đất, nhưng chỉ hoàn thành công tác bồi thường đối với 103 dự án, bàn giao mặt bằng từng phần cho 63 dự án với diện tích đất là 402 ha, bằng 26% nhu cầu.
Kết quả GPMB năm tháng đầu năm 2008 cũng chỉ dừng lại ở con số 77,42 ha đất bàn giao so với 1.699 ha đất nhu cầu, tức là chỉ đạt xấp xỉ 5%. Sử dụng những con số phần trăm này vẽ thành đồ thị, sẽ thấy rõ sự trượt dốc đáng lo ngại. Tình hình này đã tác động không ít đến tâm lý của nhà đầu tư.
Trên thực tế, hậu quả từ GPMB chậm trễ đã làm cho nhiều dự án buộc phải kéo dài từ năm này qua năm khác.
Qua so sánh giữa tiến độ thực tế của công tác GPMB với nhu cầu sử dụng đất của các dự án, có thể nhận thấy việc đáp ứng ở mức độ cao nhất (39%) như trong giai đoạn 2001 - 2006 vẫn là thấp, trong khi nếu tháo gỡ được những vướng mắc chủ quan và khách quan, thì tiến độ GPMB hoàn toàn có thể đáp ứng nhiều hơn, nhanh hơn các nhu cầu đầu tư. Khi đó, thành phố sẽ đạt được tốc độ giải ngân vốn FDI cao hơn, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn và có chất lượng hơn so với hiện tại.
Về giải phóng mặt bằng, chính quyền địa phương cần tăng cường sự chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn. Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án.
Dưới đây là một số nội dung chủ yếu cần sớm được sửa đổi, bổ sung:
(1) Cần làm rõ hơn những điều kiện để được đền bù thiệt hại về đất, nhất là các trường hợp đất sử dụng ổn định trước ngày 8/1/1998. Cần có quy định rõ thời điểm sử dụng đất để đảm bảo không vi phạm quy hoạch của cấp có thẩm quyền phê duyệt và đã công bố hoặc không vi phạm hành lang bảo vệ công trình. Không lấn chiếm đất trái pháp luật. Đồng thời có quy định rõ ràng về thời điểm xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn cho người sử dụng đất có giấy tờ mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Những quy định này sẽ theo hướng thừa nhận thực tế sử dụng đất qua các giai đoạn khác nhau: cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo nông nghiệp...
(2) Có quy định cụ thể về mức đất ở được đền bù thiệt hại. Đây là vấn đề hệ trọng và có nhiều ý kiến khác nhau, còn nhiều khiếu kiện từ nhân dân, còn nhiều ý kiến từ chính quyền các cấp.
(3) Đối với việc tính giá đất đền bù, nên thực hiện việc tính giá đất đền bù phù hợp với khả năng sinh lợi hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương. Giá tính đất đền bù do UBND tỉnh quyết định để đảm bảo vai trò đại diện quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Tuy nhiên, cần cho phép UBND tỉnh dựa trên quy định của Chính phủ về giá đất khi quy định đó đã phù hợp với khả năng sinh lợi hoặc giá chuyển nhượng thực tế của đất đai để làm giá đất tính đền bù thiệt hại ở địa phương để giảm công việc cho địa phương.
(4) Đối với việc đền bù thiệt hại về tài sản, cần có quy định thống nhất với Nghị định 22/1998/NĐ-CP. Đó là đền bù 100% giá xây dựng đối với nhà cấp bốn vì loại nhà này chủ yếu là của các đối tượng nghèo nên cần được ưu tiên để họ có thể tái tạo lại ngôi nhà mới với tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương. Đồng thời, phải có quy định rõ về việc đền bù theo mức thiệt hại thực tế cho nhà từ cấp ba trở lên để đảm bảo cho mức đền bù phù hợp với những thiệt hại mà người có đất bị thu hồi.
(5) Cần đưa một số nội dung cơ bản của chính sách tái định cư vào Nghị định bao gồm các quy định đã có của Nghị định 22/1998/NĐ-CP và bổ sung thêm những quy định về: Quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải di chuyển đến nơi ở mới; Điều kiện bắt buộc về cơ sơ hạ tầng, nhất là trường học và cơ sở khám chữa bệnh tại khu tái định cư và các công trình phúc lợi khác phục vụ đời sống nhân dân; Công khai phương án bố trí đất ở, nhà ở tại nơi tái định cư nhằm phát huy tinh thần dân chủ tại cơ sở và tránh sự áp đặt từ phía Nhà nước; Đề ra nguyên tắc bố trí nhà ở tại nơi tái định cư đối với nhà nhiều tầng, nhiều căn hộ để làm căn cứ thực hiện.
(6) Cần bổ sung một số nội dung cụ thể về hội đồng đền bù và hội đồng thẩm định nhằm xử lý những vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, cụ thể như sau:
- Nâng cao vai trò của chủ dự án trong việc lập, trình duyệt và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng. Đối với dự án phải thành lập hội đồng đền bù thiệt hại, giải phóng mặt bằng cấp tỉnh thì lãnh đạo sở chủ quản của dự án phải là phó chủ tịch thường trực để trực tiếp chỉ đạo chủ dự án trong việc lập và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng.
- Bổ sung những quy định cụ thể về nguyên tắc làm việc của hội đồng cũng như trách nhiệm của một số thành viên trong hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng như chủ tịch hội đồng, chủ dự án, đại diện của những người bị thu hồi đất.
- Có quy định cụ thể về nội dung thẩm định cũng như trách nhiệm của hội đồng thẩm định cấp tỉnh trong việc đảm bảo thời gian thẩm định nhằm đẩy nhanh tiến độ trình duyệt và thực hiện phương án đền bù cũng như trách nhiệm cụ thể của từng thành viên hội đồng.
3.2.4. Nhóm giải pháp về phân cấp trong việc cấp phép, quản lý và xúc tiến đầu tư
Về phân cấp quản lý, qua thực tế thực hiện việc phân cấp trong hơn 2 năm vừa qua đã bộc lộ một số vấn đề bất cập, không phù hợp, ảnh hưởng đến quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung. Cần nghiên cứu để xem xét lại chủ trương phân cấp toàn diện như quy định hiện nay, có các biện pháp để tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài.
Giải pháp về xúc tiến đầu tư: cần nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản...
Nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án (project profile) đối với danh mục đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2010 để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án này. Tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư với các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam.
Để tạo công cụ mạnh và hiệu quả cho một chiến lược xúc tiến đầu tư toàn diện, thành phố Hà Nội cần kiện toàn và phát triển trung tâm xúc tiến đầu tư chuyên trách thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Ngân sách thành phố cần tài trợ đủ kinh phí cần thiết, cán bộ cần đủ năng lực, các cơ chế hoạt động cần minh bạch và mềm dẻo để tạo thuận lợi thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm nâng cao hình ảnh của thành phố. Cơ quan xúc tiến đầu tư của thành phố cần phối hợp chặt chẽ với các trung tâm xúc tiến đầu tư chuyên trách của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các địa phương khác trong chiến lược và chính sách, kế hoạch dự án triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư của mình. Đặc biệt cần khai thác khả năng của Việt kiều vào hoạt động xúc tiến đầu tư...
Ngoài ra, thành phố Hà nội cần thường xuyên phối hợp với các cơ quan quản lý về FDI và các địa phương khác trong cả nước, các bộ ngành hữu quan định kỳ gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp để hướng dẫn về luật pháp chính sách, giải quyết kịp thời các kiến nghị của doanh nghiệp, tháo gỡ các ách tắc, điều chỉnh bổ sung các chính sách biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong thời gian tới, Chính phủ cần giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các tỉnh, địa phương trong quản lý FDI. Đặc biệt cần mạnh dạn cho phép Hà Nội quyết định các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn lên quy mô tới 100 triệu USD. Điều này là cần thiết để đảm bảo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô theo hướng phát triển dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao cũng như để nhanh chóng hiện đại hóa cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của Thủ Đô.
Cần nghiên cứu thành lập một kênh đặc biệt (có thể gọi là hội đồng đầu tư nước ngoài), liên cấp, liên ngành (bao gồm cả đại diện của Chính phủ, các Bộ, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và các sở liên ngành liên quan của thành phố) để trực tiếp xem xét, thẩm định và quyết định cấp phép đầu tư cho các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với nguyên tắc: thủ tục đơn giản nhất, thời gian ngắn nhất (thậm chí chỉ sau một lần họp), một cửa...
3.2.4. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Thu hút FDI tăng vọt trong vài năm gần đây và kỷ lục là 21,3 tỷ USD năm 2007 lập tức bị phá vỡ với 47,15 tỷ USD vốn đăng ký chỉ trong 8 tháng đầu năm 2008. Tuy nhiên, vốn giải ngân vẫn đang bị vốn đăng ký bỏ lại một quãng xa mà theo các chuyên gia, một trong những nguyên nhân là thiếu nhân lực.
Dù còn nhiều nguyên nhân khác khiến lượng vốn FDI giải ngân không đạt như mong muốn, song theo giới chuyên gia kinh tế, nếu không có những chuẩn bị về nguồn nhân lực và có chính sách kinh tế hợp lý thì sức hấp dẫn của Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài sẽ bị ảnh hưởng và khoảng cách giữa tỷ lệ vốn đăng ký với vốn giải ngân sẽ khó được thu hẹp.
Thông thường, lao động làm việc trong khu vực FDI có yêu cầu về trình độ cao hơn nhiều trong khu vực doanh nghiệp nhà nước và ngoài quốc doanh. Điều này khiến các lao động dịch chuyển từ khu vực nhà nước và ngoài quốc doanh khó có thể thỏa mãn nhu cầu trình độ của các doanh nghiệp FDI. Ở một góc nhìn khác, nguồn lao động kém chất lượng còn được biểu hiện rõ ở tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực có dòng vốn FDI lớn. Theo logic thông thường, vùng nào có nhiều doanh nghiệp FDI thì vùng đó sẽ có nhu cầu lao động lớn, và đáng lẽ ra tỷ lệ thất nghiệp phải thấp. Song ngược lại, theo điều tra tỷ lệ thất nghiệp do VVCI tiến hành đối với lực lượng lao động trong độ tuổi, những vùng thu hút nhiều đầu tư nước ngoài lại là những vùng có tỷ lệ thất nghiệp tăng cao hơn so với tỷ lệ trung bình của cả nước.
Giải pháp về nguồn nhân lực thực hiện theo hướng đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm bảo đảm điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động.
Trong những năm tới đây, việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ dự án là một trong những việc cần làm ngay. Chúng ta có thể mời các chuyên gia trong và ngoài nước tới đào tạo, tập huấn công việc của dự án cho cán bộ dưới hình thức đào tạo ngắn hạn, tập trung hoặc đào tạo ngay tại cơ sở làm việc đối với một số nghiệp vụ đặc thù của dự án. Về lâu dài, cần chuẩn hoá trình độ cán bộ thực hiện dự án phải có trình độ đại học trở lên và thông thạo ngoại ngữ để có thể hoàn thành nhanh chóng, chính xác các công việc của dự án.
KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới. Vì bản thân đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo nó vốn đầu tư, kỹ thuật công nghệ tiên tiến cùng với kinh nghiệm quản lý kinh tế giỏi có hiệu quả, do vậy ngày nay các quốc gia trên thế giới đều xem đầu tư trực tiếp nước ngoài như một động lực thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển kinh tế và là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế nói chung.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thủ đô Hà nội thời gian qua đã diễn ra rất sôi động, tham gia vào hầu hết các ngành kinh tế mà Hà nội có thế mạnh như: công nghiệp điện tử, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp chế biến... các hoạt động này đã góp phần đổi mới nền kinh tế Hà Nội, dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao năng lực vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, trang bị công nghệ mới hiện đại, nâng cao trình độ quản lý kinh tế, phát triển các ngành nghề mới.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài sau hơn 20 năm thực hiện đã đóng góp to lớn vào quá trình phát triển nền kinh tế, đặc biệt là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế Hà Nội. Những đóng góp này đã đưa các hoạt động ĐTTTNN trở thành một bộ phận của nền kinh tế, đóng vai trò như một nhân tố giúp tăng tốc phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng.
Trong những năm tới, để nâng cao hiệu quả sử dụng và thu hút và giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phục vụ tốt chiến lược phát triển kinh tế Hà Nội, chúng ta cần nghiêm túc thực hiện những biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư đã nêu ở trên. Thực hiện tốt các biện pháp này Hà Nội sẽ trở thành một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, với nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế thủ đô. Phấn đấu xây dựng và phát triển thủ đô Hà Nội xứng đáng là “trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thụât, đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước” như trong chiến lược phát triển kinh tế Hà Nội đã vạch ra. Từ đó, đóng góp vào công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và phồn vinh.
Cuộc "cạnh tranh" về thu hút đầu tư FDI đang bắt đầu chuyển dần sang giai đoạn mới, đó là cạnh tranh trong thúc đẩy giải ngân dự án. Rõ ràng, khi khả năng hấp thụ dự án của địa phương tăng lên, sức hấp dẫn trong thu hút đầu tư sẽ bền vững hơn rất nhiều.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Đầu tư, NXB Giáo dục, năm 1998 của PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai.
Tạp chí Kinh tế phát triển (3/2008)
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (4/2007)
Tạp chí Kinh tế và Dự báo (3/2005)
Các văn bản pháp luật:
Nghị định 87/1998/NĐ-CP ban hành ngày 24/4/1998
Nghị định 87/1999/NĐ-CP ban hành ngày 1/9/1999
Thông tư số 15/1997/TT-BKH ban hành ngày 24/10/1997
20 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, 2008
Tạp chí con số và sự kiện 1+2/2001
Thời báo kinh tế Việt Nam tháng 6/2008
PHỤ LỤC
Danh sách các quốc gia đầu tư vào Hà Nội
(đến hết năm 2007)
TT
Quốc gia
Số dự án
Vốn đầu tư
1
Singapore
46
2.815.156.280
2
Japan
122
1.768.305.141
3
Korea
67
838.135.252
4
Lucxembourg
6
792.351.016
5
Hongkong
44
382.904.668
6
Thailand
12
352.397.520
7
France
28
247.359.262
8
Maylaysia
20
229.022.000
9
Hoa Kỳ
21
176.530.804
10
Australia
16
109.569.900
11
Taiwan
24
126.370.000
12
Denmark
11
83.454.687
13
Inđônêxia
2
77.542.000
14
British Virgin Islands
16
80.994.875
15
United KingDom
9
29.876.551
16
China
48
76.351.149
17
Philippine
3
39.352.000
18
Germany
13
36.376.052
19
Holland
8
23.743.500
20
Sweden
6
4.555.840
21
Finland
1
40.000.000
22
Poland
2
15.800.000
23
Belarus
1
12.000.000
24
Russia
5
11.342.393
25
Cuba
1
6.600.000
26
Switzeland
8
5.065.000
27
India
1
5.000.000
28
Israel
2
3.181.136
29
Italy
3
2.728.000
30
Saint Vincent
1
3.090.000
31
Panama
1
1.750.000
32
Czech Repulic
1
1.728.683
33
Canada
4
41.400.000
34
Ukraine
2
1.354.667
35
Belgium
1
1.200.000
36
Syria
2
500.000
37
Cambodia
1
400.000
38
Hungary
1
200.000
39
Argentina
1
650.000
40
Norway
1
90.000
41
Muli – Nation
209
1.213.995.641
Total
770
9.658.424.007
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1892.doc