Đề tài Tăng cường quản lý chất lượng môi trường trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay

Qua bài viết trên ta thấy được tình trạng ô nhiễm tại các doanh nghiệp ngày càng trầm trọng.Vấn đề áp dụng hệ thống QLMT đã trở thành vấn đề quan tâm của các nhà lãnh đạo cấp cao,và nhà quản lý.Ý nghĩa của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 trong việc ngăn ngừa ô nhiễm và tiếp cận thị trường trở nên lớn lao. Vì vậy,các cơ quan Nhà nước phải có chính sách hợp lý,khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp,để bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được áp dụng rộng rãi và nâng cao nhận thức boả vệ môi trường cho cộng đồng.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý chất lượng môi trường trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ở trong tình trạng các thiệt hại do ô nhiễm gây ra ở mức cao (khoảng 10% GDP) và đang có xu hướng gia tăng. Vấn đề đặt ra là cần phải có hệ thống quản lý môi trường hiệu quả từ các doanh nghiệp để kiểm tra,giám sát các hoạt động sẽ phát thải ra các chất gây ô nhiễm, gây hậu quả xảy ra cho môi trường xung quanh và sức khoẻ con người. Vì vậy, bên cạnh vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn hoá của quốc tế ISO 9000 đang là tiêu chuẩn cần thiết của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, dịch vụ tiêu chuẩn quản lý chất lượng môi trường cũng là một yêu cầu không kém phần quan trọng đối với các doanh nghiệp công nghiệp ISO 14000 là một bộ phận cấu thành của một hệ thống quản lý hoàn chỉnh, bao gồm việc chế định thực thi, thực hiện, đánh giá, thẩm tra và duy trì những biện pháp bảo vệ môi trường của những tổ chức chủ thể. Đồng thời nó thoả mãn các yêu cầu về khả năng cạnh tranh quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội quốc gia cũng như kỳ vọng của xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của các vấn đề trên, thông qua sự tìm hiểu,tham khảo, nghiên cứu nhiều tài liệu khác nhau như sách, báo, tạp chí và thông tin đại chúng, trong bài viết này tôi trình bầy vấn đề: “Tăng cường quản lý chất lượng môi trường trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay.” Đồng thời tôi xin đưa ra một số ý kiến góp phần thúc đẩy công tác quản lý môi trường tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay. Do lần đầu viết đề tài nên có nhiều sai sót, tôi mong sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô và các bạn. Tôi cũng chân thành cám ơn thầy giáo hướng dẫn tiến sĩ Trương Đoàn Thể đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành tốt bài viết này Hà nội, tháng 12 năm 2001 Phần I: cơ sở lý luận về tiêu chuẩn chất lượng và hệ thống quản lý môi trường I - Tiêu chuẩn chất lượng môi trường 1. Những khái niệm và định nghĩa cơ bản về môi trường Khoa học về môi trường là môn khoa học rất mới mẻ đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong khuôn khổ giới thiệu khái quát dưới đây là những khái niệm rất cơ bản liên quan đến vấn đề môi trường được sử dụng rất thông dụng. Tổ chức là từ được dùng trong tài liệu về môi trường để gọi các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy, đơn vị sản xuất, đơn vị kinh doanh. Môi trường là những thứ bao quanh nơi hoạt động của một tổ chức gồm không khí, nước, đất, nguồn tài nguyên thiên nhiên thực vật, hệ động vật và mối quan hệ qua lại của chúng ta. Cân bằng khối lượng là sự cân bằng trong quá trình hoạt động của một tổ chức. Khía cạnh môi trường là yếu tố của các hoạt động, các sản phẩm, các dịch vụ của tổ chức có thể tác động qua lại với môi trường. Tác động môi trường là sự thay đổi bất kỳ nào đó gây ra có hại hoặc có lợi toàn bộ hoặc từng phần cho môi trường do các hoạt động,do sản phẩm và do dịch vụ của một tổ chức gây ra. Bên hữu quan là cá nhân hoặc nhóm người hoặc đơn vị bị liên quan đến hoặc bị ảnh hưởng bởi kết quả hoạt động về môi trường của một tổ chức. Mục tiêu môi trường là mục đích tổng thể về môi trường xuất phát từ chính sách môi trường mà tổ chức tự đặt ra để đạt tới và được định hướng khi có thể. Chỉ tiêu môi trường là yêu cầu chi tiết việc thực hiện được định lượng khi có thể, xuất phát từ mục tiêu môi trường cần phải đề ra và đạt được, áp dụng cho các tổ chức hoặc bộ phận quần chúng. Chính sách môi trường là chính sách được công bố của một tổ chức về ý định và nguyên tắc liên quan đến kết quả hoạt động tổng thể về môi trường. Hệ thống quản lý môi trường (QLMT) là một phần của hệ thống quản lý chung của một tổ chức bao gồm cơ cấu tổ chức, các hoạt động lập kế hoạch, trách nhiệm, thủ tục, xem xét và duy trì chính sách môi trường. Kết quả hoạt động về môi trường là kết quả có thể đo được của hệ thống quản lý môi trường liên quan đến sự kiểm soát các khía cạnh môi trường của một tổ chức dựa trên chính sách, mục tiêu và chỉ tiêu môi trường của mình. 2. Đánh giá chung về tình hình môi trường thế giới hiện nay Để bảo toàn sự cân bằng hết sức mỏng manh của hệ sinh thái tự nhiên trái đất, người ta dần sẽ đưa ra các quyết định một cách sáng suốt dựa trên sự đánh giá về ô nhiễm môi trường để kịp thời phòng ngừa một cách hiệu quả nhất. Những vấn đề được liệt kê dưới đây sẽ được xem xét như là những vấn đề ô nhiễm môi trường chủ yếu từ mức độ toàn cầu đến khu vực. Một là, suy thoái tầng ôzôn. Tầng ôzôn bao quanh trái đất ở độ cao khoảng 15 - 20 km so với mực nước biển, bảo vệ cho trái đất thoát khỏi tia cực tím của mặt trời, Ôzôn được tạo ra và bị phá huỷ liên tục nhưng được giữ ở trạng thái cân bằng để duy trì sự sống trên trái đất. Do suy thoái tầng ôzôn, hệ sinh thái không còn được bảo vệ khỏi tia cực tím và ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ của con người gồm nguy cơ ung thư da và đục nhân mắt. Việc suy thoái tầng ôzôn là do việc sử dụng rộng rãi chất CFC (chlorofluorocarbons) như chất đẩy trong các bình phun... Hai là, nóng lên toàn cầu (hiệu ứng nhà kính): việc sử dụng rộng rãi trên trái đất các loại máy móc, thiết bị đã sản sinh ra nhiều loại khí như CO2, NO, Methane, CFC,... Các loại khí này cùng với hơI nước hình thành một lớp xung quanh tráI đất chỉ cho phép các tia của mặt trời đi qua nhưng ngăn lại những tia phản hồi từ bề mặt trái đất và đại dương gây nóng toàn cầu. Ba là, mất đa dạng sinh học. Các loại sinh vật đa dạng trên trái đất liên quan chặt chẽ tới sự ổn định của hệ sinh thái. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhiều loài sinh vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang có nguy cơ tuyệt chủng. Người ta tính rằng trong vòng 30 năm tới xu hướng không bảo vệ như hiện nay trái đất sẽ bị mất khoảng 17 triệu loài. Chúng ta đã biết rằng sự mất đi của bất cứ loài nào cũng sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới loài khác. Bốn là, ô nhiễm không khí. Tại tầng khí quyển thấp rất nhiều loại khí độc hại, bụi bặm đang gia tăng ở mức đáng kể từ hoạt động của các phương tiện giao thông, từ sự phát thải của ngành công nghiệp các nhà khoa học đã dự đoán rằng 20% dân số trên thế giới đang hít thở không khí bị nhiễm bẩn quá giới hạn an toàn quốc tế do tổ chức y tế thế giới (WHO) quy định. Năm là, ô nhiễm nước. Các chất thải từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, từ các bãi rác, từ những tai nạn không ngừng xâm nhập vào nguồn nước và gây ô nhiễm. Sáu là, mưa axit. Các chất khí ôxit lưu huỳnh và ôxit nitơ được thải ra từ các nhà máy diện, lò luyện kim hoặc từ các loại động cơ đốt trong lẫn với hơi nước gây mưa axit gây phá huỷ cơ sở hạ tầng. Bảy là, hoá chất độc hại. Công nghiệp sản xuất hàng hoá chất, sảm xuất nhựa hay chất cách điện sinh ra những chất cực kỳ độc hại với con người thông qua mọi cách: trực tiếp, gián tiếp, nước. Tám là, sự giảm tài nguyên thiên nhiên. Mọi nguồn tài nguyên đều có mức nhất định. Việc sử dụng chúng một cách khôn khéo là hết sức cần thiết. Chúng ta đang bị đe dọa bởi nguy cơ hàng năm lượng đất trồng trọt bị giảm đi do bị sa mạc hoá lượng nước sạch ngày một thiếu hụt. Chín là, nhiễm bẩn đất. Mức độ nhiễm bẩn đất ở mỗi quóc gia trên thế giới ở mức độ khác nhau do quá trình công nghiệp hoá ở mỗi nước kéo dài khác nhau. Con người phải kịp thời quan tâm tới việc sử dụng đất đai của mình và các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm. Ngày nay, khi nền công nghiệp phát triển rộng khắp thế giới, vấn đề ô nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng. Do đó việc bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách của mọi quốc gia, của tất cả mọi người trên trái đất. 3. Các tiêu chuẩn chất lượng môi trường Tiêu chuẩn chất lượng môi trường là phương tiện chính để trực tiếp điều chỉnh chất lượng môitrường ở hầu hết các nước trên thế giới. Chúng xác định các mục tiêu môi trường và đặt ra các giới hạn số lượng hay nồng độ cho phép của các chất được thải vào khí quyển, nước, đất, hay được phép tồn tại trong các sản phẩm tiêu dùng. 3.1. Các tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung quanh Tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung quanh chủ yếu được dùng để bảo vệ chất lượng nước và không khí. Tiêu chuẩn chất lượng nước xung quanh quy định những điều kiện tối thiểu mà một nguồn nước cần phải đáp ứng đối với một số thông số cụ thể, tại những địa điểm cụ thể. Chúng được đặt ra trên cơ sở những tiêu chuẩn khoa học đánh giá nguy cơ đối với sức khoẻ của con người và số lượng tổn thất có thể gây ra bởi một liều lượng tiếp xúc đối với chất ô nhiễm nhất định. Đồng thời, tiêu chuẩn chất lượng nước cung cấp cơ sở để đánh giá hiệu lực kiểm soát, thải bỏ nước thải. Tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh là những giới hạn được đặt ra đối với các chất ô nhiễm không khí trong không khí ngoài trời. Các tiêu chuẩn này cần phải được đáp ứng thông qua việc áp dụng công nghệ kiểm soát ô nhiễm nâng cao. Những tiêu chuẩn này cung cấp các mục tiêu cho công cụ quản lý mệnh lệnh và kiểm soát ô nhiễm cũng như các biện pháp kinh tế phục vụ kiểm soát ô nhiễm. 3.2. Các tiêu chuẩn nước thải và thải khí Các tiêu chuẩn nước thải và thải khí là các trị số trung bình hay tối đa của các nồng độ hay số lượng chất ô nhiễm do một nguồn riêng lẻ, tại thời điểm đổ thải, có thể được phép thải vào các vùng nước hay vào khí quyển. Các tiêu chuẩn xả thải là thành phần bổ sung của hệ thống pháp lý để kiểm soát ô nhiễm nước hoặc không khí. Các tiêu chuẩn xả thải nước cung cấp một phương tiện trực tiếp có thể quản lý để kiểm soát ô nhiễm với một mức dự đoán thích hợp về chất lượng nước mặt. Do vậy, xây dựng các tiêu chuẩn xả thải thích hợp có thể là phương cách tốt nhất để kiểm soát ô nhiễm nước. Tiêu chuẩn xả thải dựa vào công nghệ là loại tiêu chuẩn xả thải quy định những công nghệ riêng biệt mà các công ty có thể sử dụng để thực hiện đúng các luật và tiêu chuẩn môi trường. Chúng không cho các công ty có được sự linh động trong việc xác định phải sử dụng loại công nghệ kiểm soát nào để đáp ứng các yêu cầu đó. Ngược lại, các tiêu chuẩn xả thải trong vận hành quy định lượng chất ô nhiễm có thể được xả thải theo nồng độ xả thải cho phép hoặc lượng chất ô nhiễm cần phải được lấy đi trước khi xả thải, nhưng lại cho phép các công ty được lựa chọn cách tốt nhất để đáp ứng tiêu chuẩn. Các tiêu chuẩn vận hành là chúng cho phép những người gây ô nhiễm được sử dụng những kỹ thuật có chi phí tối thiểu để đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường. 3.3. Các tiêu chuẩn xả thải theo sản phẩm và quy trình Các tiêu chuẩn xả thải theo sản phẩm và quy trình đặt ra một mức tối đa (mức trần) pháp lý về số lượng chất ô nhiễm được phép thải vào nước mặt, nước ngầm và khí quyển. Tiêu chuẩn sản phẩm cấm cho thêm chì vào xăng để loại trừ việc ô tô, xe máy xả ra khí có chì. Tiêu chuẩn quy trình là sự ngăn ngừa việc xả thuỷ ngân từ sản xuất pin màng ngăn. Do đó, cấm sản phẩm hay quy trình có thể là công cụ, chính sách hữu hiệu khi có được những vật phẩm thay thế với chi phí bổ sung thấp. II. Hệ thống quản lý môi trường. 1. Hoạt động quản lý môi trường. 1.1. Khái niệm quản lý môi trường Quản lý môi trường(QLMT) là đưa ra các phương pháp đánh giá điều chỉnh nhằm thay đổi và cải tiến môi trường trong doanh nghiệp thông qua việc khống chế ô nhiễm, phòng tránh ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng, hạn chế rác thải trong quá trình sản xuất ra sản phẩm của doanh nghiệp. 1.2. Tình hình phát triển của vấn đề quản lý môi trường Với tư cách là một chuyên ngành vấn đề QLMT đã có lịch sử vào khoảng 20 năm. Trước khi các quy định về việc QLMT được xây dựng một cách rộng rãi, những vấn đề về môi trường thường được xử lý bởi các kỹ sư và kỹ thuật viên có trình độ và trách nhiệm khác nhau chứ không phải bởi các nhà quản lý chuyên trách Trước đây, những quy định chính thức về môi trường thường không có nhiều. Các quy định về việc cấp giấy phép và giám sát thực hiện cũng chỉ mức độ hạn chế. Các doanh nghiệp thường có xu hướng đáp ứng riêng từng quy định mà không tập trung thời gian và công sức để hệ thống hoá các giải pháp đáp ứng. Trước đây các nhà QLMT thường tìm cách xử lý những điều phiền phức đã xảy ra chứ không phải là những nhà kế hoạch làm việc một cách chủ động. Đồng thời, các bộ phận chức năng khác của doanh nghiệp cũng không hề tham gia hoặc có trách nhiệm về những vấn đề môi trường có liên quan tới họ. Tóm lại, tình hình QLMT trước kia và kể cả hiện nay, trong nhiều trường hợp, thường mang tính đối phó, vụn vặt, thường mang tính chữa cháy hơn là phòng ngay từ đầu. Do đó, vấn đề QLMT hiện nay được giải quyết một cách hệ thống hơn do một số nguyên nhân. Trước hết, vấn đề chi phí thực hiện bảo vệ môi trường là một yếu tố rất quan trọng. Người ta cho rằng, chi phí về vấn đề môi trường sẽ tỷ lệ thuận với thu nhập của công ty (2% lợi nhuận doanh nghiệp). Vì vậy, ngày càng có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến việc thực hiện nghiêm túc các quy định về môi trường nhằm hạn chế những phí tổn có thể phát sinh, thông thường doanh nghiệp trích 20% vốn đầu tư doanh nghiệp sẽ phải dành cho các dự án môi trường. Các tổ chức tài chính bây giờ cũng rất thận trọng, nhạy cảm đối với vấn đề môi trường và đã quan tâm xem xét những vấn đề đó trong việc cho vay. Ngày nay trên thế giới không chỉ có xu hướng quốc tế hoá kinh tế mà còn có xu hướng toàn cầu hoá vấn đề môi trường để vươn tới sự phát triển bền vững. Hiện nay, người ta đã nghiên cứu tạo lập một phương thức mới trong việc QLMT, làm cho nó chuyển từ chức năng phù hợp sang chức năng mới, hoà nhập với quá trình xây dựng chiến lược và hoạt động. Việc QLMT không thể chỉ phụ thuộc vào việc kiểm soát ở giai đoạn cuối như trước mà việc ngăn ngừa ô nhiễm và những vấn đề môi trường khác cần phải được xem xét trên mọi phương diện của các quá trình thiết kế, chế tạo và phân phối. 1.3. Tại sao doanh nghiệp phải quan tâm đến QLMT? QLMT là một phương thức hệ thống để chăm lo tới mọi khía cạnh có liên quan tới môi trường trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của một tổ chức. Nó phải được xem như là một bộ phận gắn liền trong hoạt động và chiến lược kinh doanh của tổ chức. Việc doanh nghiệp phải quan tâm đến quản lý môi trường là do: -Pháp luật và những sự ép buộc khác đối với doanh nghiệp. -áp lực về nhận thức, về danh tiếng, quan hệ cộng đồng. -Tính cạnh tranh và hoạt động tài chính. 2. Hệ thống quản lý môi trường 2.1. ISO và sự ra đời của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 Tổ chức tiêu chuẩn hoá (ISO) là một tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn hoá. Hiện nay, ISO có trên 120 thành viên là các cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc gia, Việt Nam tham gia là thành viên đầy đủ của ISO từ năm 1977 và đang có sự tham gia tích cực vào hoạt động của tổ chức này. Trong những năm 1980 ISO đã bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ tiêu chuẩn hoá một vấn đề quản lý quan trọng của doanh nghiệp là quản lý chất lượng. Ban kỹ thuật TC 176 về đảm bảo chất lượng và quản lý chất lượng được thành lập để xây dựng các tiêu chuẩn đầu tiên về quản lý chất lượng.Đến năm 1981 bộ tiêu chuẩn ISO 9000 đã được ban hành. Đây là một bộ tiêu chuẩn mang lại tiếng tăm và sự thành công nhất trong lịch sử của ISO, đa số các quốc gia trên thế giới đã chấp nhận các tiêu chuẩn ISO 9000 thành các tiêu chuẩn quốc gia để đưa vào áp dụng một cách rộng rãi. Trong cùng thời kỳ, khi mà ISO đang gặt hái được các kết quả khả quan trong việc đưa ra áp dụng các tiêu chuẩn ISO 9000 thì trên diễn đàn môi trường thế giới đang diễn ra nhiều sự kiện gây xôn xao nhiều giới chức của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế. Sự huỷ hoại tầng ôzôn, sự nóng lên toàn cầu, sự phá rừng nghiêm trọng và các vấn đề môi trường khác được xem như là các vấn đề mang tính toàn cầu. Đại diện của nhiều quốc gia có quan tâm đã gặp nhau tại Montreal - Canada vào năm 1987 để soạn thảo các thoả thuận nhằm ngăn cản sự sản xuẩt ra các hoá chất gây hại như CFC. Một yếu tố khác vào thời điểm này đã gây nhiều sự quan tâm quốc tế chưa có một chỉ số tổng hợp để đánh giá sự cố gắng nỗ lực của một doanh nghiệp trong việc đạt được thành quả bảo vệ môi trường một cách liên tục và đáng tin cậy. Chính loại chỉ số này đã hình thành nên tiêu chuẩn ISO 14001 về hệ thống quản lý môi trường. Tóm lại, sự thành công của ISO 9000 và sự nổi lên của các vấn đề môi trường toàn cầu đã đẫn đến việc ISO thực sự bắt đầu các công việc xem xét đến diễn đàn môi trường. Tuy nhiên chỉ đến năm 1991, ISO mới thực chất khởi sự công việc này. Vào giữa những năm 1991, trên cơ sở các yêu cầu của ban tổ chức UNCED, ISO đã kêu gọi các thành viên tình nguyện tham gia nhóm tư vấn chiến lược về môi trường (SAGE) SAGE đã quyết định vào giữa năm 1992 là thời điểm ISO bắt tay vào xây dựng các tiêu chuẩn về QLMT. Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc (6/1992) tại Rio và Hội nghị Bàn tròn Uruguay (GATT) là sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ nhất đến quyết định của ISO về vấn đề tiêu chuẩn hoá trong lĩnh vực quản lý môi trường. Căn cứ vào khuyến nghị của SAGE, năm 1993, ISO đã quyết định thành lập Ban kỹ thuật ISO/TC 207 về QLMT, với nhiệm vụ đặt ra là soạn thảo các tiêu chuẩn Quốc tế về QLMT bao gồm các tiêu chuẩn về hệ thống và công cụ QLMT, về các phương pháp xác định tác nhân gây ô nhiễm môi trường, giá trị giới hạn đối với chất thải, tác động của công nghệ, sản phẩm đối với môi trường. Các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực QLMT được tập hợp theo số đăng ký chung thành Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000. 2.2. Sự cần thiết phải áp dụng tiêu chuẩn ISO 14000 Hiện nay, hàng ngàn các tổ chức, cơ sở trên toàn thế giới đang đầu tư thời gian và tiền bạc vào việc áp dụng các tiêu chuẩn ISO 14000. Và hàng chục ngàn các tổ chức, cơ sở này sẽ tiến tới được đăng ký, chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn trong vài thập kỷ tới. Những người theo chủ nghĩa hoài nghi có thể sẽ hỏi: tại sao họ lại phải đầu tư thời gian và tiền bạc cho việc áp dụng một tiêu chuẩn tự nguyện áp dụng như vậy?Hoặc điều đó mang lại gì? Nhưng ở đây ta chỉ xét đến các nguyên nhân cơ bản từ đó khách quan dẫn đến việc các tổ chức cơ sở áp dụng ISO 14000. Một là, việc tăng cường sử dụng những tiêu chuẩn tự nguyện đã được tăng cường hơn trước. Thoả thuận chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) đã chính thức tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng những tiêu chuẩn quốc tế thông qua thoả thuận về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT). Hai là, tinh giản thủ tục, hạn chế trùng lặp. Việc áp dụng một tiêu chuẩn quốc tế quy nhất có thể làm giảm bớt những công việc kiểm định do khách hàng, các nhà chức trách tiến hành. Một khi tránh được những yêu cầu không nhất quán, các tập đoàn đa quốc gia có thể tiết kiệm được chi phí thanh tra, xác nhận và các yêu cầu không nhất quán khác. Ba là, yêu cầu thực tế. Việc thực hiện một EMS phù hợp với các tiêu chuẩn ISO 14000 và hoàn thành thủ tục đăng ký 3 bên rất có thể trở thành nhu cầu thực tế trong kinh doanh xu hướng chung hiện nay là các công ty muốn giao dịch với những công ty có ý thức về vấn đề môi trường. Bốn là, chấp thuận của chính phủ chủ trương của chính phủ là một nhân tố quan trọng khác đối với ISO 14000. Chính phủ của các nước phát triển với những quy định chặt chẽ về môi trường đã quan tâm tới ISO 14000 như một phương thức mới thay cho những quy định chỉ huy và kiểm soát phức tạp và đòi hỏi nhiều kinh phí. Các nước đang phát triển thì chú ý tới ISO 14000 và coi nó như một giải pháp để xây dựng các quy chế chưa có hoặc chưa đầy đủ về mặt QLMT. Nói chung, việc đăng ký ISO 14000 có thể đã hỗ trợ các chính phủ để tăng cường hiệu quả của hệ thống pháp quy. Năm là, đáp ứng nhu cầu của cổ đông. Các doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu của đông đảo các cổ đông bao gồm các nhà đầu tư, công chúng và các nhóm chuyên trách về môi trường. Việc đăng ký ISO 14000 có thể đáp ứng được nhu cầu của công chúng về trách nhiệm của doanh nghiệp, đồng thời tạo niềm tin, uy tín trên thương trường đối với các nhà đầu tư. Sáu là, giảm thiểu chi phí bảo hiểm và tăng cường khả năng tích luỹ việc thực hiện một EMS hữu hiệu có thể tạo điều kiện tiết kiệm kinh phí trong tương lai thông qua việc giảm bớt chi phí bảo hiểm. Một số nhà đầu tư có thiết chế lớn như các quỹ trợ cấp đã bắt đầu thực hiện chủ trương quyết định đầu tư trên cơ sở thành tích bảo vệ môi trường của một tổ chức. Điều đó khiến cho việc QLMT được gắn kiền với mức độ tích luỹ của một công ty. Bảy là, lợi ích nội bộ ISO 14000 có thể cung cấp một cơ chế để kiểm soát các phương pháp quản lý hiện có, hợp nhất những hệ thống riêng rẽ hoặc xây dựng những hệ thống mới. Nó cũng giúp cho các công ty theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện của mình. Nó cũng hỗ trợ việc đào tạo các nhân viên về trách nhiệm của họ đối với việc bảo vệ và cải thiện môi trường. Một EMS hữu hiệu có thể hợp nhất những hệ thống quản lý hữu hiệu để tiết kiệm kinh phí và giảm bớt tình trạng chồng chéo công việc. Tám là, đề phòng ô nhiễm. Mấu chốt của việc đề phòng ô nhiễm là ở chỗ tiến hành thành công việc kết hợp các vấn đề môi trường, chiến dịch kinh doanh và hoạt động tác nghiệp. Đồng thời nó có tác dụng làm giảm kinh phí thông qua việc tiết kiệm nguyên vật liệu và năng lượng. Chín là, thành tích tốt đẹp trong việc bảo vệ môi trường. Sức ép của các cổ đông, sự cạnh tranh thị trường, sự khuyến khích và thừa nhận của các cơ quan Nhà nước đang tạo nên những điều kiện ưu tiên cho nhiều công ty có thể đạt được những thành tích tốt đẹp trong việc bảo vệ môi trường. Tóm lại, các tiêu chuẩn ISO 14000 sẽ là một nhân tố quan trọng trong việc phát triển và thương mại. Bởi vì, bản thân các tiêu chuẩn quốc tế được ban hành để hỗ trợ cho thương mại và gỡ bỏ hàng rào thương mại; cải thiện kết quả hoạt động môi trường trong phạm vi toàn cầu; xây dựng trên cơ sở thoả thuận có tính toàn cầu rằng có nhu cầu với việc quản lý môi trường. 2.3. Các nguyên tắc của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 Bộ tiêu chuẩn hoá ISO 14000 được xây dựng với những nguyên tắc cơ bản sau: - Thúc đẩy việc QLMT thông qua việc xúc tiến các kỹ thuật quản lý hiệu quả, hiệu suất và thống nhất. - Xây dựng một tiêu chuẩn về QLMT dựa trên cơ sở khoa học và thực tế, phản ánh các thực hành tốt nhất hiện nay về QLMT. - Xây dựng một tiêu chuẩn linh hoạt,không theo lề thói cũ và có hiệu quả về mặt chi phí, làm tăng giá trị của tổ chức có sử dụng tiêu chuẩn này. - Không khuyến khích sử dụng bộ tiêu chuẩn về QLMT như một rào cản thương mại. -Hài hoà tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống QLMT với các tiêu chuẩn quốc gia và khu vực (địa phương). -Tránh lập các mức cho các kết quả hoạt động môi trường đặc thù các mục tiêu, các chỉ tiêu, chính sách môi trường hoặc là mức cải thiện môi trường. -Tạo ra một tiêu chuẩn về QLMT có thể sử dụng cho nội bộ công ty và cho các cơ quan chứng nhận bên thứ ba ở bên ngoài công ty (cơ quan chứng nhận, đăng ký) -Tránh có bất kỳ tiêu chuẩn về QLMT nào đưa ra các yêu cầu công ty phải tiết lộ các mục đích, chính sách hoặc là chỉ tiêu môi trường của mình cho công chúng. -Xây dựng các tiêu chuẩn môi trường thông qua dự thoả thuận của các bên có quan tâm để các tổ chức chịu sự tác động đến quyền lợi của tất cả các bên chấp nhận một cách tự nguyện. -Hài hoà và giảm thiểu các tiêu chuẩn QLMT để tránh trùng lặp và các chi phí không cần thiết. 2.4. Một số nét cơ bản về Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000 Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000 đem đến cách tiếp cận hệ thống cho việc QLMT nhằm thiết lập hệ thống QLMT và cung cấp các công cụ hỗ trợ có liên quan như kiểm tra đánh giá môi trường, nhãn môi trường, phân tích chu trình sống của sản phẩm các khía cạnh môi trường trong tiêu chuẩn về sản phẩm. Bộ ISO 14000 đề cập đến 6 lĩnh vực sau: Hệ thống quản lý môi trường (Environmental Management Sysems). Kiểm tra đánh giá môi trường (Environmental Auditing - EA) Đánh giá kết quả hoạt động môi trường (Environmental Perfoemance Evahiation - EPE). Đánh giá chu trình sống của sản phẩm (Life Cycle Assessment - LCA) Các khía cạnh môi trường trong các tiêu chuẩn về sản phẩm (Environmental Aspects in Product Standards - EAPS) 2.5. Lợi ích của việc áp dụng hệ thống QLMT theo ISO 14000 Một doanh nghiệp cần thực hiện một hệ thống QLMT có hiệu quả để giúp bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường khỏi các tác động tiềm tàng của những hoạt động, sản phẩm và dịch vụ của mình giúp cho việc duy trì và cải thiện chất lượng môi trường. Những lợi ích tiềm tàng gắn liền với một hệ thống QLMT có hiệu quả bao gồm: -Đảm bảo cho khách hàng những cam kết về QLMT -Duy trì được những quan hệ tốt với quần chúng, cộng đồng. -Thoả mãn chuẩn cứ của người đầu tư và cải tiến sự tiếp cận với vốn -Có được hợp đồng bảo hiểm với chi phí hợp lý. -Tăng cường uy tín và thị phần. -Đáp ứng được chuẩn cứ chứng nhận của người cung cấp. -Cải tiến việc kiểm soát chi phí. -Giảm được các rắc rối về pháp lý. -Chứng tỏ được sự quan tâm hợp lý. -Bảo toàn được nguyên vật liệu và năng lượng đầu vào. -Làm dễ dàng cho việc có được giấy phép và sự uỷ quyền. -Tăng cường sự phát triển và chia sẻ các giải pháp về môi trường. -Cải thiện các mối quan hệ giữa công nghiệp - Chính phủ. 2.6 Khó khăn khi áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000 Bên cạnh những lợi ích mà ISO 14000 đem lại, khi áp dụng hệ thống QLMT, các doanh nghiệp gặp một số khó khăn như sau: -Việc thực hiện một hệ thống QLMT toàn diện đòi hỏi một kinh phí đáng kể -Lãnh đạo của một số doanh nghiệp chưa hiểu được vai trò áp dụng hệ thống ISO 14000 -Sử dụng không đúng đắn các tiêu chuẩn có thể gây trở ngại cho hoạt động kinh doanh toàn cầu thông qua những hàng rào thương mại kỹ thuật. 2.7 Mối quan hệ giữa bộ tiêu chuẩn ISO 14000 và ISO 9000 Như ở mục 2.1 ta đã biết lịch sử hình thành của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 là do tác động của sự thành công bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và các hoạt động bảo vệ môi trường. Ngày nay, hai bộ tiêu chuẩn này tồn tại song song và hỗ trợ lẫn nhau đối với công tác quản lý một doanh nghiệp. Cả hai bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000 đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá như là một công cụ quản lý có hiệu quả trong việc kiểm tra và đánh giá mức độ hiệu quả của các chính sách của tổ chức khi quản lý chất lượng môi trường. Vì vậy,một doanh nghiệp áp dụng thành công hai bộ tiêu chuẩn này sẽ đem lại những lợi ích kinh tế lớn. Các tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000 đều có cùng phương pháp cấu trúc. Tuy nhiên người ta thường phê phán ISO 9000 ở chỗ chủ yếu hướng tới việc thiết lập và vận hành một hệ thống quản lý được văn bản hoá tốt,chưa hướng tới hệ thống đảm bảo cho việc sản xuất ta sản phẩm có chất lượng cao. Còn đối với ISO 14000 sự phê phán là: bộ tiêu chuẩn này chưa hướng trọng tâm vào việc đảm bảo mức chất lượng môi trường. Phần ii: thực trạng tiêu chuẩn về chất lượng và hệ thống quản lý môi trường tại các doanh nghiệp công nghiệp việt nam hiện nay I- Thực trạng môi trường các doanh nghiệp công nghiệp Các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam (DNCNVN) hiện nay không chỉ chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn rất quan tâm đến vấn đề môi trường.Vấn đề môi trường là mối nguy hại lớn nhất của Việt Nam hiện nay.ở nước ta hiện có 3311 cơ sở sản xuất kinh doanh đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.Ngành sản xuất thực phẩm có tới 1217 đơn vị chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ sở sản xuất với 36,7 %.Tiếp theo là các ngành hóa chất,vật liệu xây dựng như xi măng,sắt thép thể hiện qua bảng sau: STT Ngành Tỷ lệ (%) 1 2 3 4 5 6 7 8 Công nghệ thực phẩm Công nghiệp hóa chất Vật liệu xây dựng Thủ công nghiệp Công nghiệp nhẹ Công nghiệp nặng Dịch vụ Công nghiệp điện,điện tử 36,76 13,81 13,05 12,26 10,84 9,03 3,71 0,54 Cộng 100 Theo báo cáo hiện trạng môi trường năm 2000 có gần 90% cơ sở sản xuất chưa có thiết bị xử lý nước thải,trong khi chỉ có 5 trong tổng số khu công nghiệp cả nước có hệ thống xử lý tập trung. Chẳng hạn, xí nghiệp dệt 8-3(Hà Nội) một ngày có 4500 mét khối nước thải, thì lượng ô nhiễm tính theo kg/ngày riêng BOD là 365,COD là 868. Và Dệt Kim Đông Xuân có 2700 mét khối nước thải thì tải lượng ô nhiễm tính theo kg/ngày riêng BOD là 172, COD là 1620. Hầu hết các nhà máy chỉ tiến hành xử lý sơ bộ rồi thải thẳng ra sông.Theo số liệu thống kê, tất cả các con sông ở phía Bắc không có con sông nào chất lượng nước mặt đạt tiêu chuẩn loại A(nước dùng cho sinh hoạt). Ô nhiễm hữu cơ ở các sông phía Nam ở mức nặng hoặc axit hoá, kim loại hoá. Bên cạnh đó tổng chất thải rắn công nghiệp trên toàn quốc hàng năm khoảng 7.750.226 tấn. Cho đến thời điểm hiện nay Việt Nam chưa quản lý chặt chẽ chất thải rắn công nghiệp nguy hại, phần lớn được thu gom và chôn lẫn với rác thải sinh hoạt. Theo số liệu điều tra tại Hà Nội, tỷ lệ chất thải nguy hại trên tổng chất thải ngành điện, điện tử là 89,5%, hoá chất 64%, cơ khí luyện kim là 52,4%... Một vấn đề đang ở mức báo động là tình trạng ô nhiễm không khí tại các khu công nghiệp. Môi trường không khí ô nhiễm chủ yếu do các ngành công nghiệp hoá chất, luyện kim, vật liệu xây dựng…Chẳng hạn,tại các khu công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh sản xuất vật liệu xây dựng hàng năm thải vào môi trường không khí 624 tấn SO2, 12.973 tấn bụi, 153 tấn CO, 1636 tấn NO2 và 40 tấn hydrocabon. Mặt khác,bức tranh toàn cảnh về hạ tầng bảo vệ môi trường ở Việt Nam còn thiếu và ở mức thô sơ, ở đây chỉ đề cập đến hệ thống quan trắc và phân tích môi trường; hệ thống cấp nước sạch, tiêu thoát và xử lý nước thải, hệ thống thu gom, vận chuyển xử lý và thải bỏ chất thải rắn. Chẳng hạn cả nước có 3 cơ sở sản xuất phân bón từ rác, 6 lò đốt rác. Nói chung môi trường các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay đang ở mức ô nhiễm trầm trọng. Sau đây là một số nguyên nhân chủ yếu: - áp lực khai thác tài nguyên thiên nhiên. -Các thành phần môi trường như đất, nước, không khí bị ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường xảy ra thường xuyên, chát lượng môi trường giảm. -Các doanh nghiệp được thành lập trên một cơ sở hạ tầng thấp. -Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị, chuyên môn thấp. -Nguồn đầu tư thiếu về công nghệ xử lý ô nhiễm, chất thải. -Luật bảo vệ môi trường và hệ thống các văn bản dưới luật đang được hoàn thiện, công bằng. -Ngành công nghiệp môi trường chưa phát triển. -Hệ thống cơ quan quản lý môi trường từ trung ương đến địa phương rất mỏng. -Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn chưa đầy đủ. II- Thực trạng quản lý môi trường tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay. Hoạt động QLMT trong các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự được các nhà lãnh đạo quan tâm. Phần lớn các doanh nghiệp còn chưa có phòng chuyên trách về môi trường. Do đó cán bộ chuyên môn về môi trường đào tạo ít và chưa chuyên sâu. Trong đó đặc biệt các doanh nghiệp may, cao su, thực phẩm… đa phần chua có công tác quản lý môi trường mặc dù các ngành này có tỷ lệ chất thải, khí thải,nước thải khá lớn. Do chưa có sự quan tâm của các nhà lãnh đạo nên cán bộ công nhân viên chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động quản lý môi trường. Vì vậy vấn đề môi trường là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý, lãnh đạo ở Việt Nam vì môi trường nước ta đang suy thoái trầm trọng như đã nói ở trên. Vậy làm thế nào để ngăn chặn tình trạng ô nhiễm do các doanh nghiệp gây ra mà vẫn đảm bảo được sụ phát triển bền vững? Phải chăng áp dụng ISO 14000 vè quản lý môi trường là thách thức và cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam. III- Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay 1- Sự cần thiết áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000 ở Việt Nam. Các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam cần quan tâm về bảo vệ môi trường trong một nền kinh tế mở cửa để Việt Nam hội nhập thương mại quốc tế bởi vì: Môi trường liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu.Việt Nam là một nước hướng về xuất khẩu nên phải áp dụng ISO 14000 là một tất yếu, đây là yếu tố quan trọng để duy trì sức cạnh tranh mang tính toàn cầu. Nước ta cũng nhập khẩu chủ yếu các nguyên liệu và công nghệ mà trong nước không sản xuất được. Tuy nhiên công nghệ nhập khẩu đôi khi kém hiện đại, lạc hậu do có những tiêu cực đã gây tác động xấu đến môi trường trong quá trình vận hành. Môi trường liên quan đến công nghệ. Các quy định về quy trình công nghệ sản xuất liên quan đến việc chứng nhận một sản phẩm có thân thiện với môi trường không đã trở thành một điều kiện tham gia vào thị trường. Nếu doanh nghiệp nước ta không cải tiến công nghệ, vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm thì sẽ gặp rào cản khi tham gia thị trường quốc tế. Môi trường và thương mại liên quan đến chất lượng sản phẩm. Chiến lược sản phẩm không chỉ giới hạn ở quản lý chất lượng thông thường mà còn bao hàm cả chất lượng môi trường. Các sản phẩm thân thiện với môi trường có thể tạo cơ hội cho công ty hạ giá thành sản phẩm thông qua việc giảm thiểu chất thải và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên. Môi trường và thương mại liên quan đến thị trường. Việc quan tâm đến môi trường và sự phát triển bền vững cũng là một chiến lược quan trọng hỗ trợ cho sự thành công trong kinh doanh của các công ty. Mặc dù xu thế thế giới hiện nay là hội nhập nhưng một số thị trường như EU, Nhật… thường tạo ra những hàng rào phi thuế quan mới thông qua những quy định về môi trường đối với hàng hoá nhằm hạn chế nhập khẩu. Hệ thống QLMT trong các doanh nghiệp theo tiêu chuẩn ISO 14001 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế. Nhiều hợp đồng thương mại, giao dịch thương mại đã đưa vấn đề chứng nhận ISO 14001 thành điều kiện ràng buộc hai bên. Đậc biệt, trong quá trình hội nhập khi các hàng rào thuế quan bị xoá bỏ thì “hàng rào môi trường ISO 14001” hình thành và cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Tóm lại, việc áp dụng hệ thống QLMT và ISO 14000 là rất hữu ích, nó cải thiện kết quả hoạt động môi trường của các doanh nghiệp, làm thuận lợi hoá hoạt động thương mại. 2- Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý môi trường ở Việt Nam hiện nay Những năm gần đây, phong trào xây dựng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 ngày càng phát triển mạnh mẽ trong các doanh nghiệp. Tính đến nay, cả nước đã có gần 500 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000. Thế nhưng, hệ thống QLMT xem ra vẫn còn mới mẻ, ít được các doanh nghiệp quan tâm đầu tư xây dựng. Theo thống kê hiện nay, đã có gần 20 doanh nghiệp ở Việt Nam đạt chứng chỉ ISO 14000. Đây là con số thật khiêm tốn so với gần 500 chứng chỉ ISO 9000. Theo kết quả điều tra mới nhất của vụ chính sách kinh tế Đa Biên(Bộ thương mại), không ít các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa hiểu biết đầy đủ về các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn môi trường quốc tế. Đối với họ, các tiêu chuẩn về vệ sinh kiểm dịch, tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn kỹ thuật, mẫu mã sản phẩm và bao gói sản phẩm, đều thuộc khái niệm “chất lượng sản phẩm”. Nhiều khi các hoạt động cải tiến chất lượng sản phẩm chỉ mới tập chung vào việc nâng cao giá trị sử dụng, mẫu mã, chưa tập chung đúng mức vào các khiúa cạnh kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch(SPS) và môi trường. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chỉ nhìn nhận cách tốt nhất để nâng cao chất lượng sản phẩm là áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000, chưa thấy được vai trò to lớn của bộ tiêu chuẩn ISO 14000, mặc dù điều này được quan tâm hơn ở các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu. Các doanh nghiệp hầu như không có thông tin về các hiệp định môi trường đa phương hoặc các quy đinh của WTO liên quan đến môi trường. Vấn đề môi trường mới chỉ được các doang nghiệp đề cập đến dưới góc độ bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất ví dụ như vấn đề xử lý chất thải… Tại thị trường nội địa, người tiêu dùng phần lớn chưa có nhận thức về hệ thống QLMT, nên hiện tại chưa có áp lực từ phía họ đối với nhà sản xuất, nhu cầu chứng nhận hệ thống quản lý môi trường là rất thấp. Tuy nhiên, qua một thời gian tiếp cận với các thông tin về hệ thống QLMT theo ISO 14000 thông qua các lớp tập huấn đào tạo cũng như tiếp xúc với các hoạt động thực tế, một bộ phận của công nghiệp đã nhận thức được ý nghĩa quan trọng của việc áp dụng hệ thông QLMT, không chỉ đối với việc thực hiện các nghĩa vụ về môi trường theo pháp luật mà còn vì sự phát triển của công ty. Bộ phận này là các doanh nghiệp có tiềm năng về kinh tế như các doanh nghiệp nước ngoài …và có giao lưu quốc tế, thực sự quan tâm và có trình độ kỹ thuật cao. 3- Một số doanh nghiệp Việt Nam áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14000. Theo thống kê mới nhất, hiện nay nước ta có gần 20 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 14000,trong đó phần lớn đều là các công ty liên doanh hoặc 100% vốn của nước ngoài như:khu công nghiệp Nội Bài, công ty TOYOTA Việt Nam, công ty Tae Kwang VINA, công ty FuJitsu, khách sạn Hà Nội Daewoo, công ty Sony Việt Nam, công ty Sanyo Việt Nam, công ty Lever-Haso … Sau đây là tình hình áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 trong ba công ty: *Công ty SANYO Việt Nam: Ngày 23/4/2000 công ty SANYO Việt Nam tổ chức lễ đón mừng hai chứng chỉ phù hợp là hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và hệ thông QLMT ISO 14000. Với ISO 14001, công ty đã xây dựng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO 14001: 1998. Chỉ sau sáu tháng, công ty đã được trung tâm chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn (Quacert). Hiện nay, sản phẩm tủ lạnh của công ty không còn sử dụng chất CFC có khả năng phá hỏng tầng ozon, các loại hoá chất được kiểm soát và lưu giữ an toàn. SANYO Việt Nam là đơn vị đầu tiên được cấp một lúc hai giấy chứng nhận đạt ISO 9000 và ISO 14000, là đơn vị thứ ba ở Đồng Nai và thứ 7 trong nước được cấp ISO 14001. Đây là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của Nhật Bản, có vốn pháp định 44 triệu USD và sản phẩm chính là tủ lạnh, máy giặt… * Công ty NISSIN Việt Nam: Công ty sản xuất phanh NISSIN Việt Nam là công ty 100% vốn của nước ngoài đầu tư thành lập theo giấy phép đầu tư số 1710/GP ngày 19/10/1996. Từ nhận thức cho rằng vấn đề bảo đảm chất lượng và bảo vệ môi trường cũng chính là động lực để công ty nâng cao khả năng cạnh tranh, ban lãnh đạo công ty đã quyết tâm xây dựng áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000. Trước khi đi vào áp dụng tất cả các thành viên trong công ty đã được học tập, giáo dục để nhận thức rõ về ISO 9000 và ISO 14000 với sự tư vấn hỗ trợ của Trung tâm năng suất Việt Nam (VPC). Mới đây, Tổ chức chứng nhận BVQA của Anh đã tiến hành đánh giá và cấp chứng chỉ công nhận hệ thống quản lý chất lượng và hệ thống QLMT của công ty phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9002 và ISO 14001. Quá trình áp dụng ISO 9000 và ISO 14000 có nhiều thuận lợi đặc biệt là sự cam kết của lãnh đạo công ty: công ty sẵn sàng cung cấp các nguồn lực cần thiết để đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn, đồng thời công ty cũng nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các thành viên. Bên cạnh thuận lợi công ty cũng gặp không ít khó khăn khi xây dựng hệ thống quản lý môi trường như: trước đó chưa có người chuyên trách, có hiểu biết về môi trường, nhận thức môi trường trong nhân viên chưa sâu rộng. Tuy nhiên,áp dụng ISO 14001 công ty đã thu được một số lợi ích thiết thực: đã nâng cao nhận thức của mọi người trong công ty về bảo vệ môi trường qua các hoạt động sản xuất thường ngày. Với hệ thống QLMT, công ty đã tiết kiệm được 20% lượng nước sử dụng so với trước; giảm ô nhiễm môi trường thông qua việc quản lý tốt các chất thải do quá trình sản xuất tạo ra và các giải pháp xử lý rác thải thích hợp,tăng hệ số tái chế và tái sử dụng chất thải,thiết lập được hệ thống các quy trình và hướng dẫn để phòng ngừa,giảm tối thiểu các rủi ro cho công ty.Lợi ích thiết thực nhất đối với công ty là nâng cao được uy tín với khách hàng và các đối tác. *Công ty Vật tư bảo vệ thực vật I Là một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,được giao nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh sản phẩm đặc thù:các loại thuốc bảo vệ thực vật.Sau nhiều nỗ lực,ngày 9/5/2001 công ty đã được hai tổ chức QUACERT và PSB (Sing-ga-po) cấp chứng chỉ chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng và môi trường phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9001và ISO 14001. Khó khăn ban đầu khi công ty triển khai hệ thống QLMT mới là nhận thức và tâm lý của cán bộ,công nhân và ngay cả cán bộ lãnh đạo chủ chốt vẫn còn hoang mang chưa thấy rõ tầm quan trọng của hệ thống QLMT; thiếu người đủ trình độ,năng lực làm việc.Bên cạnh những khó khăn công ty cũng có những thuận lợi căn bản như: quyết tâm cao của Ban giám đốc,sự tư vấn nhiệt tình và có hiệu quả của cán bộ trung tâm kỹ thuật 2,cùng với sự cố gắng của Nhóm chất lượng. Sau khi áp dụng hệ thống QLMT,tại văn phòng công ty cũng như các chi nhánh,nhà xưởng, môi trường làm việc nhất là nơi trực tiếp sản xuất,sang chai đóng gói thuốc bảo vệ thực vật,kho chứa thuốc....được giữ gìn xanh,sạch,đẹp; có hệ thống xử lý chất thải rắn,nước thải và không khí theo quy định.Hiệu quả cụ thể nhất mà các năm trước chưa giải quyết được là lượng hàng phải tái chế,xử lý đã được kiểm soát chặt chẽ giảm 30 %- 40 % so với năm trước,vì thế giảm đáng kể thiệt hại về kinh tế. 4- Vai trò và thực trạng của cơ quan Nhà nước trong hoạt động xây dựng,áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000 Nhận thức được vai trò quan trọng của môi trường trong phát triển bền vững kinh tế –xã hội,từ những năm 80,Việt Nam đang nhiều chủ trương tăng cường các hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường.Năm 1991,Chính Phủ thông qua kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững.Năm 1993, Luật bảo vệ môi trường và quốc hội được Quốc hội thông qua,điều chỉnh các hoạt động ảnh hưởng môi trường.Chính sách của Nhà nước ta về môi trường được xây dựng theo ba cách tiếp cận gồm các chính sách bắt buộc,các chinh sách khuyến khích,các chính sách hỗ trợ. Các cơ quan Nhà nước như Chính Phủ,Bộ khoa học công nghệ và môi trường.....có vai trò quan trọng trong việc QLMT đối với các doanh nghiệp Việt Nam.Các cơ quan Nhà nước đã giáo dục, tuyên truyền về hệ thống QLMT,đồng thời hướng dẫn xây dựng và áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000 cho các doanh nghiệp công nghiệp; tạo điều kiện thuận lợi,khuyến khích,hỗ trợ cho các doanh nghiệp về mặt tài chính,thủ tục, khi triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường.Mặt khác tranh thủ các dự án thuộc các quỹ môi trường,quỹ hỗ trợ của các nước như dự án SEMA (1997-2001) –cơ quan phát triển quốc tế Thuỵ Điển (Sida) nhằm tăng cường năng lực cơ quan QLMT của Chính Phủ Việt Nam.Do các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của ISO14000 nên Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng đang triển khai chương trình thí điểm áp dụng ở một số doanh nghiệp và bước đầu đã thu được kết quả rất khả quan. Tuy nhiên, sự tham gia một cách không tương xứng của Việt Nam trong việc xây dựng tiêu chuẩn,thiếu sự công nhận quốc tế đối với các cơ quan chứng nhận trong nước có thể tạo ra rào cản thương mại.Hoạt động của các cơ quan chứng nhận còn nhiều khó khăn như thủ tục còn rườm rà,chi phí đăng ký lớn....điều này gây trở ngại cho các doanh nghiệp. Phần iii: một số ý kiến tăng cường hoạt động xây dựng và áp dụng iso 14000 i- phương hướng Qua phần thực trạng ở trên ta thấy các DNCNVN xây dựng và áp dụng ISO 14000 là cần thiết,đặc biệt khi Việt Nam tham gia AFTA,APEC...vì đó là điều kiện giúp các doanh nghiệp có thể xuất khẩu sản phẩm ra các thị trường:châu âu, châu á....Sau đây là một số phương hướng xây dựng và áp dụng ISO 14000 trong các DNCNVN hiện nay: -Tư vấn, tuyên truyền nâng cao nhận thức cả về chiều rộng lẫn chiều sâu kiến thức về hệ thống QLMT nhằm mở ra các hướng áp dụng khác nhau. -Triển khai xây dựng và áp dụng có trọng điểm hệ thống QLMT cho các doanh nghiệp có quan tâm. -Tăng số doanh nghiệp công nghiệp áp dụng ISO 14000 (đến năm 2005 là 50 doanh nghiệp). -Các cơ quan Nhà nước giúp đỡ và tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam áp dụng hiệu quả hệ thống QLMT. -Tăng cường sự hợp tác quốc tế về hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng. -Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn Việt Nam dựa trên các bộ tiêu chuẩn quốc tế và các nước khác. II- Một số ý kiến và biện pháp thúc đẩy xây dựng và áp dụng ISO 14000 trong các dncnvn hiện nay Để khắc phục những khó khăn, thực hiện các phương hướng đề ra để xây dựng và áp dụng ISO 14000, tôi xin trình bầy một số ý kiến và biện pháp sau: 1- ý kiến Việc đưa bộ tiêu chuẩn ISO 14000 vào áp dụng tại Việt Nam không thể thực thi nếu thiếu sự quan tâm và chỉ đạo của lãnh đạo Bộ khoa học công nghệ và môi trường.Vì vậy,việc xem xét đến vấn đề áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000 cần phải tính đến khi xác định chiến lược phát triển bền vững,bảo vệ môi trường.Một khi đã trở thành định hướng chiến lược,các biện pháp đi theo cần triển khai ngay. Thành lập ban chỉ đạo của Bộ khoa học công nghệ và môi trường để tổ chức các tiêu chuẩn ISO 14000 vào áp dụng tại Việt Nam càng sớm càng tốt.Ban chỉ đạo này có trách nhiệm giúp Bộ hoạch định các chương trình,chiến lược dài hạn,ngắn hạn trên cơ sở phối hợp Bộ,ngành có liên quan,kiến nghị các chính sách cần thiết của Chính Phủ đối với việc hỗ trợ áp dụng ISO 14000. Tăng cường tham gia vào hoạt động của Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc tế ISO / TC 207 trên cơ sở củng cố hoàn thiện lại ban kỹ thuật về QLMT quốc gia và giao lưu,liên kết, hội nhập với các nước khác. Trước mắt,triển khai sớm các chương trình thí điểm áp dụng Hệ thống QLMT theo ISO 14001 với sự hỗ trợ của Nhà nước.Đồng thời, cơ quan Nhà nước cần có kế hoạch tăng cường cơ sở hạ tầng cho việc áp dụng như cơ quan chứng nhận,đào tạo chuyên gia tư vấn các đánh giá viên môi trường,chứng nhận được thừa nhận quốc tế... 2- Biện pháp 2.1 Về phía Nhà nước *Chính sách môi trường quốc gia: -Nghiên cứu,xây dựng và ban hành luật về các tiêu chuẩn môi trường xung quanh với các thông số chất lượng nước và không khí nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm chất lượng đồng bộ điều chỉnh các hoạt động có ảnh hưởng đến môi trường và mục tiêu phát triển bền vững. -Cấm một số hoạt động gây ô nhiễm (cấm cho trì vào xăng, cấm đổ chất thải ngoài trời....). -Đòi hỏi thực hành và các thủ tục bảo vệ môi trường (đòi hỏi phải xử lý nước thải công nghiệp trước khi đổ vào nhà máy xử lý....). -Thiết lập các khoản phạt những hành vi, vi phạm luật bảo vệ môi trường (đình chỉ giấy phép......). * Quy hoạch phát triển khu công nghiệp: -Nhà nước loại bỏ các ngành công nghiệp gây ô nhiễm. -Quy hoạch khu công nghiệp hợp lý,xa khu dân cư,tránh ô nhiễm môi trường sống và phát sinh nhiều bệnh dịch. *Nhà nước xây dựng các chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp trong vấn đề QLMT. - Lập “ Quỹ hỗ trợ bảo vệ môi trường” tăng cường vốn đầu tư, cho vay lãi xuất thấp, giảm thuế, phí đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định Nhà nước về môi trường. -Hạn chế rằng buộc các hàng rào mậu dịch,tạo lợi thế cạnh tranh và khuyến các doanh nghiệp áp dụng ISO 14000. -Cơ quan QLMT các cấp thường xuyên phối hợp với tổ chức xã hội chính trị –kinh tế,các phương tiện thông tin đại chúng,tổ chức các chiến dịch tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức và hình thành ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng. -Tạo mối quan hệ rộng rãi với các nước trên thế giới,từ đó thu thập đầy đủ thông tin về QLMT để định hướng đúng đắn. 2.2 Về phía các doanh nghiệp công nghiệp *Phải thu hút được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhà quản lý cấp cao nhất -Sự ủng hộ và quyết tâm của các nhà quản lý cấp cao không những giúp cho doanh nghiệp phát huy được nội lực mà còn động viên toàn bộ tích cực. -Các nhà lãnh đạo phải nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường. -Đưa nhiệm vụ bảo vệ môi trường là một bộ phận của chiến lược kinh doanh,chỉ đạo hoạt động bảo vệ môi trường,tích cực ủng hộ về lực,nguồn vốn..... *Tăng cường tuyên truyền,nâng cao nhận thức của toàn thể công nhân viên trong tổ chức -Thường xuyên tổ chức các khoá tập huấn,đào tạo nâng cao trình độ,kiến thức QLMT....cho đội ngũ cán bộ QLMT ở doanh nghiệp. -Tuyên truyền,phổ biến rộng rãi ISO 14000 trong các doanh nghiệp, các tổ chức,các buổi thảo luận tiếp thu ý kiến cá nhân về hoạt động áp dụng Hệ thống QLMT. *Thay đổi cải tiến công nghệ -Đầu tư công nghệ,thiết bị xử lý chất thải,đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. -Đổi mới công nghệ và thiết bị theo hướng sản xuất sạch hơn,sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên,tạo sinh thái công nghiệp,sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường. *Bố trí địa điểm doanh nghiệp không gây ô nhiễm môi trường -Di chuyển một phần hay toàn bộ cơ sở gây ô nhiễm ra khỏi địa bàn đang hoạt động. -Đình chỉ một phần hay toàn bộ, tạm thời hoặc vĩnh viễn,hay chuyển đổi ngành sản xuất cơ sở gây ô nhiễm. -Bố trí các bộ phận ảnh hưởng đến môi trường xa khu dân cư,xa khu chế biến thực phẩm. -Xác định vị trí doanh nghiệp gần khu công nghiệp. *Phải chú ý đến tính đồng bộ và nhất thể hóa của hệ thống quản lý -Việc thiết lập hệ thống QLMT nên được thực hiện một cách đồng bộ cùng với việc thiết lập hệ thống quản lý chất lượng và các giải pháp về an toàn vệ sinh. -Khi xác định mô hình của hệ thống QLMT ISO 14000 cần xây dựng phải chú ý đến tính giao kết với hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 cũng như các phân hệ quản lý khác. *Không ngừng thúc đẩy cải tiến -Qúa trình xây dựng và thực thi ISO 14000 là một quá trình phát triển gắn liền với sự cải tiến liên tục,gắn nó với ý tưởng cải tiến nhằm không ngừng hoàn thiện. 3- Điều kiện áp dụng thành công bộ tiêu chuẩn ISO 14000 -Điều kiện tiên quyết và quan trọng là sự cam kết của lãnh đạo, nhà quản lý cấp cao về hoạt động bảo vệ môi trường. -Xây dựng một hệ thống quản lý hợp nhất:tất cả các bộ phận, phòng ban, thành viên phải thống nhất quan điểm,đoàn kết,quyết tâm xây dựng và áp dụng ISO 14000. -Nhận thức của lãnh đạo cán bộ, công nhân viên về bảo vệ môi trường,hệ thống QLMT.Doanh nghiệp đòi hỏi các cá nhân trong doanh nghiệp cần phải nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của bộ tiêu chuẩn ISO 14000. -Nguồn lực doanh nghiệp về tài chính,cơ sở phải đảm bảo khi triển khai áp dụng ISO 14000. Kết luận Qua bài viết trên ta thấy được tình trạng ô nhiễm tại các doanh nghiệp ngày càng trầm trọng.Vấn đề áp dụng hệ thống QLMT đã trở thành vấn đề quan tâm của các nhà lãnh đạo cấp cao,và nhà quản lý.ý nghĩa của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 trong việc ngăn ngừa ô nhiễm và tiếp cận thị trường trở nên lớn lao. Vì vậy,các cơ quan Nhà nước phải có chính sách hợp lý,khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp,để bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được áp dụng rộng rãi và nâng cao nhận thức boả vệ môi trường cho cộng đồng. Tài liệu tham khảo 1.ISO 14000 Những điều nhà quản lý cần biết –TCM TIBOR &IRA FELDMAN (NXB Khoa học kỹ thuật –Hà Nội 1997). 2.ISO 14000 và việc thực hiện đối với các nhà xuất khẩu vào thị trường phát triển (Cục môi trường tổ chức và xuất bản). 3.Kỷ yếu diễn đàn các nhà quản lý về trách nhiệm ngăn ngừa ô nhiễm. 4.Diễn đàn năng suất chất lượng. 5.Tạp chí: -Tiêu chuẩn đo lường chất lượng -Bảo vệ môi trường -Con đường xanh -Đăng kiểm -Phát triển kinh tế Và các tài liệu khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35204.doc
Tài liệu liên quan