Đề tài Tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng

Huy động từ vay các NHTM: các NHTM thực hiện việc đi vay nhằm điều hoà vốn trong toàn hệ thống, tăng dự trữ, đảm bảo tốt khả năng thanh khoản của NHTM. Việc huy động vốn thông qua hình thức này thường đơn giản và nhanh gọn, có thể vay trực tiếp, vay qua Ngân hàng đại lý và khoản vay thường không có bảo đảm (nếu có thường là chứng khoán của kho bạc). + Huy động từ vay Ngân hàng Trung ương: Thường là hình thức huy động cuối cùng trong hoạt động huy động vốn của NHTM, áp dụng cho việc vay để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc hay thiếu hụt thanh toán. Hình thức huy động này thường làm giảm uy tín của NHTM trên thị trường. + Huy động từ nợ khác: bao gồm huy động các khoản uỷ thác; tiền ký quỹ; các khoản nợ thuế chưa nộp, lương chưa trả . đây là hình thức huy động mang tính thụ động và thường có khối lượng nhỏ không đáng kể.

doc87 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1074 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g từ phía người dân nên đến nay khoản nợ của ông Lê Văn Xuân vẫn chưa có hướng xử lý, thu hồi. Trên đây là một số biện pháp chủ yếu mà Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng đã áp dụng trong việc xử lý nợ xấu. Mỗi biện pháp đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Vì thế, tùy từng khoản vay, từng khách hàng cụ thể cũng như tùy từng giai đoạn khác nhau mà có thể áp dụng một cách linh hoạt các biện pháp nêu trên nhằm mang lại hiệu quả thu hồi nợ xấu tốt nhất. 2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng 2.3.1. Kết quả đạt được Với thực trạng tình hình nợ xấu như phân tích ở trên và các biện pháp xử lý nợ xấu đã được triển khai, có thể thấy Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ trong quản lý nợ xấu, cụ thể: Thứ nhất: Ban lãnh đạo chi nhánh thường xuyên phân tích, đánh giá về nợ xấu, ảnh hưởng của nợ xấu tới kết quả hoạt động kinh doanh, xác định nhiệm vụ xử lý nợ xấu là một nhiệm vụ trọng tâm. Các chỉ tiêu về xử lý, thu hồi nợ xấu được giao cụ thể đến từng cán bộ, nhân viên và là căn cứ để đánh giá, xếp loại thi đua. Hàng tuần, các bộ phận kinh doanh đều có báo cáo Ban lãnh đạo chi nhánh tình hình nợ xấu, kết quả thu hồi nợ thông qua Phòng Quản lý tín dụng. Thứ hai: Chi nhánh đã hoàn thiện triển khai mô hình tổ chức theo mô hình chung của Ngân hàng Quân đội, phù hợp với các nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu đó là: Về cơ bản thực hiện phân tách chức năng bán hàng, chức năng thẩm định, quản lý rủi ro tín dụng và chức năng quản lý nợ trong hoạt động cấp tín dụng cho khách hàng. Theo đó, toàn bộ việc xây dựng giới hạn tín dụng trên cơ sở xác định rủi ro tổng thể do Khối quản trị rủi ro thực hiện độc lập, đảm bảo tính khách quan cũng như hạn chế sự phân tán thông tin khi cung cấp các sản phẩm tín dụng. Đối với việc đánh giá, thẩm định từng lần cho vay tùy mức độ sẽ do bộ phận quan hệ khách hàng trực tiếp thực hiện hoặc do bộ phận thẩm định thuộc Khối quản trị rủi ro thực hiện. Khoản vay sau khi được phê duyệt sẽ do bộ phận quản lý nợ (Hỗ trợ tín dụng) trực tiếp theo dõi và kiểm soát việc thực hiện các điều kiện tín dụng được phê duyệt. Việc triển khai mô hình trên đã giúp phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng bộ phận trong công tác quản lý, theo dõi và thu hồi nợ xấu phát sinh. Thứ ba: Với nỗ lực của toàn bộ chuyên viên cũng như Ban lãnh đạo, công tác xử lý nợ xấu đã đạt được một số kết quả: Bảng 2.7: - Kết quả xử lý nợ xấu Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 1 Nợ xấu theo dõi nội bảng Phát sinh tăng 53,988 68,309 73,927 Phát sinh giảm 48,307 77,202 84,921 2 Nợ xấu theo dõi ngoại bảng Phát sinh tăng 2,216 1,350 10,141 Phát sinh giảm 286 1,352 795 3 Tổng cộng tăng/giảm 7,611 (8,895) (1,648) (Nguồn: Phòng QLTD – Chi nhánh Hải Phòng) Như vậy, nhìn một cách tổng thể có thể thấy chi nhánh đã kiểm soát được lượng nợ xấu phát sinh, ngoài ra cũng đã thu hồi được một phần nợ xấu tồn đọng tuy nhiên con số này không nhiều. Thứ tư: Bên cạnh những biện pháp thu hồi nợ xấu thông thường như đôn đốc, cơ cấu nợ, xử lý tài sản bảo đảm, chi nhánh cũng đã chủ động vận dụng linh hoạt một số biện pháp xử lý nợ khác như chuyển giao cho AMC, phối hợp với cơ quan chức năng 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Mặc dù thời gian vừa qua MB – Chi nhánh Hải Phòng đã chú trọng công tác quản lý nợ xấu và thu được một số kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên quản lý nợ xấu tại chi nhánh vẫn chưa được thực hiện một cách toàn diện và còn một số hạn chế, cụ thể: Thứ nhất: Việc xác định nợ xấu chưa chuẩn xác Việc xác định và phân loại nợ xấu đã được triển khai dựa trên kết quả của Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, tuy nhiên chất lượng và độ tin cậy của hệ thống thông tin đầu vào ở một số trường hợp chưa cao dẫn đến kết quả chấm điểm chưa phản ánh đúng tình hình cũng như khả năng trả nợ của khách hàng. Thứ hai: Kết quả xử lý, thu hồi nợ xấu chưa cao Việc xử lý, thu hồi nợ đối với những khoản vay phát sinh trước năm 2006 không thu được nhiều kết quả, đặc biệt là những khoản vay có bảo lãnh của các đơn vị quốc phòng như Công ty Sông Hồng, Xí nghiệp 583đang được theo dõi tại ngoại bảng. Bên cạnh đó, nợ xấu phát sinh mới đang có xu hướng gia tăng. Một số khoản vay mặc dù có tài sản bảo đảm tuy nhiên vẫn chưa thể xử lý để thu hồi như Công ty TNHH Bình An, Công ty CP Tân Trường Thành Trên đây là một số điểm còn hạn chế trong quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng, để có thể tăng cường hơn nữa quản lý nợ xấu, góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội nói chung và Chi nhánh Hải Phòng nói riêng, tác giả đã tìm hiểu và nhận thấy có một số nguyên nhân dưới đây đã ảnh hưởng tới quản lý nợ xấu tại chi nhánh. 2.3.2.2. Nguyên nhân Nguyên nhân chủ quan Chính sách quản lý rủi ro chưa hoàn thiện Thông thường việc xây dựng chính sách quản lý rủi ro bao gồm xác định giới hạn tín dụng đối với từng vùng, phân chia thẩm quyền phê duyệt tín dụng, cơ chế hoạt động của Hội đồng tín dụng và mức dư nợ tối đa với từng chi nhánh. Ngân hàng Quân đội cũng đã từng bước xây dựng và đưa ra chính sách quản lý rủi ro theo những nội dung trên. Tuy nhiên, việc ban hành các giới hạn tín dụng mới chỉ dừng lại ở đối tượng là chi nhánh, chưa đưa ra được chính sách cụ thể đối với những ngành đặc thù là thế mạnh của địa phương nơi chi nhánh đang hoạt động như ngành đóng tàu, vận tải biển, sản xuất kinh doanh thépdẫn đến chi nhánh chưa kịp thời kiểm soát được chất lượng các khoản vay theo cơ cấu ngành, đã xảy ra tình trạng phát triển quá mức ở một số thời điểm nhất định, làm cho nợ xấu gia tăng. Việc phân chia thẩm quyền phê duyệt tín dụng được xây dựng cho từng giám đốc chi nhánh, ở một góc độ nhất định giúp kiểm soát chất lượng các khoản vay. Tuy nhiên, với mức phê duyệt thuộc thẩm quyền của giám đốc chi nhánh nhỏ (khách hàng doanh nghiệp mới là 3 tỷ đồng), cộng với thời gian phê duyệt tại cơ quan cấp trên dài (thường từ 2 tuần trở lên) dẫn đến ảnh hưởng tới việc lựa chọn khách hàng cũng như mức độ tài trợ vốn. Một số khách hàng thực sự có năng lực tài chính và tình hình hoạt động kinh doanh tốt bị loại bỏ do ngân hàng không đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của họ, thay vào đó chi nhánh phải mở rộng cho vay đối với đối tượng khách hàng quy mô nhỏ, nhu cầu vốn trong giới hạn phê duyệt tại chi nhánh. Từ đó, ảnh hưởng tới khả năng thanh toán nợ cũng như xử lý nợ xấu phát sinh do yếu tố năng lực tài chính của khách hàng không đủ mạnh. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cũng như công tác chấm điểm xếp hạng tín dụng còn hạn chế Đối với doanh nghiệp, việc chấm điểm xếp hạng tín dụng chỉ được thực hiện khi doanh nghiệp cung cấp báo cáo tài chính hai năm gần nhất, như vậy với những doanh nghiệp mới thành lập, có thời gian hoạt động dưới hai năm sẽ không đủ điều kiện để thực hiện xếp hạng theo Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ với loại hình là khách hàng doanh nghiệp, vì thế ngân hàng không thực hiện chấm điểm xếp hạng tín dụng mà thực hiện phân loại nợ chủ yếu theo thời gian quá hạn (quy định tại điều 6 QĐ 493) hoặc phải thực hiện xếp hạng theo bộ chỉ tiêu dành cho khách hàng có quy mô nhỏ (với đối tượng khách hàng này, việc đánh giá sẽ được loại bỏ một số chỉ tiêu so với khách hàng doanh nghiệp) từ đó sẽ ảnh hưởng tới việc xác định và phân loại nợ của những khách hàng này. Bên cạnh đó, với các chỉ tiêu phi tài chính, việc đánh giá chủ yếu dựa trên ý kiến chủ quan của người chấm điểm mà chưa có chế tài kiểm soát thường xuyên mức độ xác thực của thông tin được nhập vào Hệ thống xếp hạng tín dụng nên trong một số trường hợp kết quả xếp hạng tín dụng có thể bị làm sai lệch do vô tình hoặc cố ý. Trình độ và vai trò của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng chưa cao Hiện tại, mặc dù đã triển khai mô hình tổ chức của cơ quan quản lý rủi ro theo Khối, theo đó Khối quản trị rủi ro bao gồm các phòng ban chuyên trách tại Hội sở và các Phòng quản lý tín dụng tại chi nhánh. Tuy nhiên, trình độ của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng cũng như vai trò của Phòng quản lý tín dụng tại chi nhánh trong kiểm soát rủi ro và quản lý nợ xấu chưa cao. Phần lớn nhân sự tại cơ quan này đều có ít kinh nghiệm thực tế, không có hoặc có rất ít thời gian trải qua công tác tại bộ phận quan hệ khách hàng, điều này dẫn đến những hạn chế nhất định trong phân tích, thẩm định và giám sát cho vay. Mặc dù quản lý nợ xấu có được đề cập đến trong chức năng và nhiệm vụ của Phòng quản lý tín dụng tại chi nhánh, tuy nhiên thực tế vai trò của cơ quan này rất mờ nhạt. Việc quản lý nợ xấu chỉ dừng lại ở theo dõi, báo cáo mà chưa thực sự tham gia vào quá trình xử lý nợ. Một phần do lực lượng cán bộ mỏng, chưa có cán bộ chuyên trách, mặt khác do chưa xây dựng được cơ chế trao đổi thông tin hiệu quả, làm mất đi khả năng nắm bắt và kiểm soát thông tin của bộ phận quản lý tín dụng. Quản lý nợ xấu chưa khoa học, xử lý nợ xấu chưa thực sự khách quan Trong quản lý nợ xấu, đặc biệt là những khoản nợ xấu tồn đọng trong một khoảng thời gian dài chưa được thực hiện một cách khoa học, có hệ thống. Sự luân chuyển cán bộ nhân viên cũng như điều chuyển công tác đối với những nhân viên trực tiếp cho vay đã tạo ra một khoảng trống nhất định giữa những người tiếp nhận lại khoản vay và khách hàng, thêm vào đó trách nhiệm trong quản lý khoản nợ xấu của người tiếp nhận mặc dù được cụ thể hóa thành nghĩa vụ nhưng chưa gắn với quyền lợi và có sự động viên kịp thời. Ngoài những khoản nợ xấu được bàn giao lại do luân chuyển cán bộ, điều chuyển công tác thì phần lớn các khoản nợ xấu còn lại do nhân viên cho vay trực tiếp quản lý và xử lý thu hồi. Điều này giúp quá trình theo dõi và nắm bắt tình hình khách hàng thuận lợi, tuy nhiên trong một số trường hợp nhân viên ngân hàng còn có tâm lý cả nể, không áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp, đặc biệt với những khoản nợ xấu mới phát sinh dẫn đến tình trạng nợ xấu không được xử lý dứt điểm. Bên cạnh đó, một số khoản vay có liên quan đến bảo lãnh của cơ quan quốc phòng không thể xử lý quyết liệt do có nhiều mối quan hệ khác chi phối. Chưa tuân thủ Qui trình nghiệp vụ tín dụng Đối với các khoản vay hiện nay đã xử lý bằng quỹ DPRR và hạch toán ở ngoại bảng chủ yếu phát sinh từ những năm 1998, 1999 do chưa có qui trình nghiệp vụ tín dụng và việc tuân thủ qui định chung còn kém. Nhân viên cho vay cũng như cán bộ quản lý của chi nhánh còn thiếu kinh nghiệm, không nắm chắc nghiệp vụ. Trong quá trình thực hiện không tuân thủ đúng qui định như cho khách hàng mượn giấy tờ tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay để bán mà không thu được nợ (Chi nhánh công ty xuất - nhập khẩu Vật tư đường biển Hải Phòng). Bên cạnh đó, việc kiểm soát sau còn nhiều hạn chế, yếu kém và thực hiện mang tính hình thức (như Công ty Sông Hồng vay để trả nợ cho chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hải Phòng mà chi nhánh không biết). Chưa xây dựng được quy trình đối với tài sản bảo đảm, quy trình xử lý nợ xấu Trong quá trình xét duyệt cho vay, việc đánh giá giá trị tài sản cầm cố, thế chấp chưa sát thực, phụ thuộc hoàn toàn vào đánh giá chủ quan của nhân viên cho vay trong khi trình độ hạn chế, không có đủ kiến thức chuyên môn trên những lĩnh vực khác nhau nên không thể đánh giá được hiện trạng của tài sản. Đặc biệt, chưa có một chuẩn mực về định giá giá trị tài sản bảo đảm cụ thể đối với từng loại tài sản như bất động sản, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị, hàng hóadẫn đến tình trạng định giá không sát với giá trị thực do vô tình hoặc cố ý, ảnh hưởng tới kết quả xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ xấu, một số khoản vay mặc dù đã xử lý hết tài sản bảo đảm nhưng cũng không đủ để thu hồi nợ. Do chưa có quy trình xử lý nợ xấu thống nhất, thêm vào đó là đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ, thiếu kinh nghiệm đã dẫn đến có sự lúng túng trong quản lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu nói riêng, chưa có được sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận chức năng trong xử lý thu hồi nợ xấu tại chi nhánh cũng như với các cơ quan chuyên trách tại Hội sở (Bộ phận xử lý nợ - Phòng quản lý chất lượng tín dụng), chưa phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm cũng như tiến trình xử lý cụ thể đối với các khoản nợ xấu phát sinh, vì thế ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả xử lý nợ xấu tại chi nhánh. Mặc dù ngân hàng đã có một cơ quan chuyên trách về xử lý nợ xấu là AMC, tuy nhiên hoạt động và sự phối hợp của AMC với ngân hàng trong xử lý nợ xấu chưa cao, chưa được cụ thể hóa thành văn bản. AMC hoạt động theo mục đích tối đa hóa lợi nhuận, điều này đã ảnh hưởng tới tốc độ và phạm vi tiếp nhận các khoản nợ của AMC. Chi nhánh mới chỉ phối hợp với AMC trên phương diện là sử dụng dịch vụ thu hồi nợ có trả phí mà chưa thực hiện nghiệp vụ mua, bán nợ. Nguyên nhân khách quan Sự suy thoái của nền kinh tế Nền kinh tế thế giới, sau một thời gian dài tăng trưởng ở mức cao, đã phải đối mặt với suy giảm kinh tế trầm trọng mà bắt nguồn từ suy thoái kinh tế Mỹ, và Việt Nam cũng không nằm ngoài những ảnh hưởng tiêu cực của nó. Năm 2008 là một năm đầy biến động, nửa đầu năm chúng ta đã phải đối mặt với lạm phát tăng cao, sau đó mấy tháng lại là tình trạng giảm phát, hàng loạt các ngành, lĩnh vực kinh doanh gặp khó khăn. Hoạt động của khách hàng bị suy giảm, thu hẹp đồng nghĩa với tăng trưởng tín dụng nói chung cũng như quản lý nợ xấu nói riêng gặp khó khăn. Bên cạnh tình trạng nợ xấu mới phát sinh có xu hướng gia tăng (năm 2008 nợ xấu phát sinh tăng 8.22% so với năm 2007) là việc xử lý, thu hồi nợ đối với những khoản đã phát sinh trước đó không mang lại kết quả như mong đợi. Một số khách hàng, mặc dù có ý thức và trách nhiệm trong việc hoàn trả nợ ngân hàng, tuy nhiên do hoạt động kinh doanh bị ảnh hưởng, không thể thu hồi tiền từ phía đối tác nên đã dẫn đến không thanh toán được nợ cho ngân hàng đúng hạn. Ngoài ra, suy thoái kinh tế cũng làm gia tăng nguy cơ lừa đảo, tìm mọi cách để chiếm đoạt tài sản. Một số khách hàng đã cố tình che dấu tình trạng kinh doanh yếu kém, thua lỗ để được vay tiền ngân hàng bằng mọi giá. Kết hợp với sự thiếu kinh nghiệm trong thẩm định, đánh giá nền kinh tế vĩ mô của chuyên viên thẩm định, hậu quả là nợ xấu phát sinh và rất khó có thể xử lý trong thời gian ngắn. Nguyên nhân từ phía các cơ quan Nhà nước Chính sách tiền tệ của Chính phủ: Thời gian vừa qua, mặc dù chỉ áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt trong một thời gian ngắn nhưng đã tác động rất lớn đến hoạt động của các thành phần kinh tế, tác động trực tiếp và hầu như ngay lập tức đến chi phí sử dụng vốn vay của doanh nghiệp, cá nhân trong khi giá cho các sản phẩm đầu ra chưa thể điều chỉnh ngay. Điều này đã ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nợ ngân hàng của khách hàng, làm gia tăng nợ xấu. Môi trường pháp lý chưa đầy đủ Thủ tục pháp lý, công chứng, đấu giá phát mại tài sản thế chấp còn phức tạp, mất nhiều thời gian. Vấn đề về quyền sử dụng, sở hữu liên quan đến đất đai còn nhiều bất cập, chồng chéo và không đồng bộ. Hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan ban ngành như UBND các cấp, địa chính, cơ quan thi hành ánchưa cao, còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến xử lý nợ xấu tại chi nhánh, đặc biệt là khoản vay có tài sản bảo đảm là đất thuộc diện bị thu hồi của ông Lê Văn Xuân hiện chưa có hướng giải quyết thích đáng. Cơ chế cũng như quy định cho thị trường mua bán nợ phát triển còn thiếu. Nhà nước chưa có những quy định cụ thể xác định rõ địa vị pháp lý và các quyền đặc biệt của chủ nợ, các ưu đãi của Nhà nước đối với hoạt động mua bán nợ, ví dụ như truy cập hệ thống dữ liệu tài chính doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng...chưa đưa ra được những chế tài đặc biệt để làm công cụ xử lý nợ - những cơ chế này phải được các Bộ Tư pháp, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Tòa án... cùng bàn bạc thống nhất với nhau để trao cho các tổ chức mua bán nợ quyền lực mạnh hơn. Hệ thống thông tin chưa hoàn thiện và mức độ tin cậy chưa cao Thông tin luôn là yếu tố chi phối đến các quyết định cho vay của ngân hàng. Khi các quyết định cho vay được đưa ra trong trạng thái thông tin không đầy đủ hoặc thiếu chính xác sẽ tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu. Mặt khác, khi nợ xấu phát sinh nếu không có đầy đủ thông tin về khách hàng và các mối quan hệ liên quan thì sẽ cản trở rất lớn đến xử lý thu hồi nợ. Hiện nay, Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng, gây trở ngại cho việc đánh giá và ra quyết định. Mặc dù, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng nhà nước đang hoạt động nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin cho NHTM. Thông tin đưa ra về lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng tại tổ chức tín dụng đôi khi còn thiếu chính xác, không được cập nhật kịp thời và còn chung chung, chưa chỉ rõ tình hình quan hệ cụ thể của khách hàng với từng tổ chức tín dụng. Việc phối hợp, xử lý kiểm tra thông tin chưa được chú trọng, gây mất thời gian và làm giảm sự tin tưởng của các NHTM khi khai thác thông tin. Sự thiếu chính xác của các thông tin do CIC cung cấp đã ảnh hưởng tới quyết định cho vay, kéo theo đó là nợ xấu phát sinh và quá trình xử lý nợ xấu cũng gặp khó khăn khi mà khách hàng có quan hệ một lúc với nhiều tổ chức tín dụng. Ngoài ra, đối với thông tin của các đối tác nước ngoài thì thời gian thu thập và trả lời thông tin từ phía CIC khá lâu (thông thường mất ít nhất là một tuần), đôi khi làm ảnh hưởng tới quyết định cho vay của ngân hàng, và ở một số trường hợp ngân hàng đã phải ra quyết định trong tình trạng thiếu thông tin do áp lực về cơ hội kinh doanh. Nguyên nhân từ phía khách hàng Một trong những nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu và làm chậm quá trình xử lý thu hồi nợ xấu là do hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn, không có hiệu quả, thua lỗ thậm chí là ngừng hoạt động, một số khoản nợ xấu phát sinh do chủ doanh nghiệp bị đi tùkhiến khách hàng không còn khả năng trả nợ. Ngoài ra, một số khách hàng do hạn chế về trình độ, kỹ năng quản lý dẫn đến đầu tư mở rộng quá mức hoặc không quản lý được dòng tiền của doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng nợ đến hạn thanh toán nhưng nguồn thanh toán lại về chậm hơn dự kiến, do đó đã phát sinh nợ xấu. Một nguyên nhân nữa phải kể đến đó là tình trạng khách hàng vay vốn, sau đó cố tình cho vay lại (điều này thường xảy ra đối với cá nhân vay vốn kinh doanh) hoặc do thiếu hiểu biết nên đã tự ý chuyển giao nghĩa vụ nợ cho người khác. Về mặt pháp lý, khách hàng vẫn là người chịu trách nhiệm thanh toán các nghĩa vụ nợ tại ngân hàng, tuy nhiên họ lại giao lại toàn bộ nghĩa vụ nợ này cho người khác mà không hề có sự giám sát hay ràng buộc nào. Chỉ đến khi ngân hàng thông báo về tình hình khoản vay quá hạn, phát sinh nợ xấu thì khách hàng mới biết. Điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong việc xử lý thu hồi nợ do người chịu trách nhiệm pháp lý lại không có khả năng trả nợ. Mặt khác, xét về tình thì khách hàng cũng là người bị hại do đó việc xử lý nợ thường phải kéo dài và khó khăn do ngân hàng khó có thể tiếp cận xử lý trực tiếp đối với người vay lại, trừ trường hợp có đơn kiện và có sự can thiệp của cơ quan tòa án. Bên cạnh đó, ý thức của khách hàng trong việc trả nợ vay cũng rất quan trọng và ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thu hồi và xử lý nợ xấu. Một số khách hàng trước hết thường kém ý thức, kém hiểu biết về pháp luật nên dẫn đến tình trạng trây ỳ, làm cho việc xử lý nợ của chi nhánh gặp nhiều khó khăn hơn, dẫn đến nợ xấu gia tăng, đặc biệt là nợ đã xử lý bằng quỹ DPRR được hạch toán ngoại bảng. Như trường hợp của Cty TNHH Quang Trung, trây ỳ không thanh toán nợ kéo dài cho đến khi chi nhánh buộc phải đưa ra toà án Kinh tế Hải Phòng để khởi kiện. Tại tòa án, giám đốc Công ty cãi cùn không được, mới buộc thanh toán nợ cho chi nhánh ngay tại Toà án Kinh tế thành phố Hải Phòng (trước sự chứng kiến của Thẩm phán toà án và thư ký toà án). CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI – CHI NHÁNH HẢI PHÒNG 3.1. Định hướng hoạt động cho vay của Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng trong thời gian tới 3.1.1. Định hướng chung Cùng với sự mở cửa của nền kinh tế, Ngân hàng TMCP Quân đội đã từng bước hiện đại hoá hoạt động ngân hàng, đổi mới, cải tổ mô hình, bộ máy tổ chức, thay đổi về cơ chế quản lý điều hành, chế độ đãi ngộ, đặc biệt về mặt công nghệ, trong đó lấy công nghệ thông tin làm nền tảng đột phá ... cho đến nay đã tương đối ổn định, đảm bảo có thể hội nhập vào hệ thống tài chính quốc tế. Với giá trị cốt lõi: Tin cậy; Hợp tác; Chăm sóc khách hàng; Sáng tạo; Chuyên nghiệp; Hiệu quả, tầm nhìn của Ngân hàng Quân đội đến năm 2010 sẽ trở thành Ngân hàng bán lẻ đa năng hàng đầu ở Việt Nam trong các mảng thị trường đã lựa chọn như thương mại, xuất nhập khẩu, xây dựng tại các đô thị trọng yếu, tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giữ vững và khai thác hiệu quả khách hàng truyền thống. Hoạt động tín dụng được xác định vẫn là lĩnh vực quan trọng trong nhiều năm tới, hướng tới thực hiện cho vay có chất lượng, đảm bảo an toàn và bền vững. Thực hiện định hướng chung của Ngân hàng TMCP Quân đội về hoạt động tín dụng trong những năm tiếp theo đến 2012, trên cơ sở nghiên cứu thực tế thị trường địa bàn Hải Phòng, MB Hải Phòng đề ra những định hướng cho hoạt động cho vay của chi nhánh, cụ thể: - Mở rộng thị trường hoạt động cho vay tới mọi lĩnh vực thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó chú trọng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng. - Tập trung phục vụ tốt các khách hàng truyền thống, khai thác tối đa nhu cầu dịch vụ của nhóm khách hàng này. - Tiếp tục chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cho vay theo hướng: Nâng cao tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo, lựa chọn khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, có uy tín. - Triển khai có hiệu quả một số sản phẩm cho vay hiện chi nhánh chưa thực hiện như chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, bao thanh toán, cho vay theo hạn mức thấu chi. - Hoàn thành triển khai chương trình Quản lý quan hệ khách hàng (CRM), đảm bảo mỗi khách hàng đều có một CVQHKH quản lý. - Tiếp tục tham gia đồng tài trợ và uỷ thác cho vay đối với các dự án lớn. - Công tác quản lý tín dụng sẽ được thực hiện chi tiết đến từng ngành nghề kinh doanh, từng vùng, từng loại hình sản phẩm. - Tiếp tục nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ quá trình giải ngân và thu nợ. Tập trung xử lý các khoản nợ xấu, đặc biệt là các khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ DPRR hiện đang theo dõi tại ngoại bảng. 3.1.2. Một số chỉ tiêu cụ thể Với định hướng hoạt động cho vay nêu trên, chi nhánh đã đề ra một số chỉ tiêu cụ thể đối với hoạt động cho vay như sau: - Tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân : tối thiểu 20%/năm - Tỷ trọng cho vay ngắn hạn/tổng dư nợ : > 60% - Dư nợ có TSBĐ : > 90% - Khống chế tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ : < 6% - Số lượng khách hàng vay vốn tăng tối thiểu : 15% 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu 3.2.1. Xây dựng và triển khai chính sách quản lý rủi ro đồng bộ Chính sách quản lý rủi ro không chỉ là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng mà còn có tác động toàn diện và sâu sắc đến quản lý nợ xấu. Để tăng cường quản lý nợ xấu tại chi nhánh, khi xây dựng chính sách quản lý rủi ro cần tập trung vào vấn đề giới hạn tín dụng và phân cấp thẩm quyền phê duyệt, cụ thể: Bên cạnh việc ban hành giới hạn tín dụng theo từng chi nhánh, cần ban hành giới hạn tín dụng theo ngành đặc biệt là những địa bàn có các ngành kinh tế đặc thù như địa bàn kinh doanh của MB – Chi nhánh Hải Phòng. Với giới hạn tín dụng theo ngành như đóng tàu, vận tải biển, sản xuất kinh doanh thépsẽ giúp chi nhánh xác định được ngành mũi nhọn để tài trợ và mức độ sẽ tài trợ. Trên cơ sở đó, chi nhánh cũng sẽ có căn cứ để điều chỉnh cơ cấu dư nợ cho phù hợp, kịp thời thu hồi những khoản nợ thuộc ngành kinh tế cần hạn chế đầu tư, góp phần kiểm soát nợ xấu phát sinh. Ngoài ra, khi thực hiện phân cấp phê duyệt khoản vay theo thẩm quyền, cần rút ngắn thời gian xét duyệt tại cơ quan cấp trên, tránh tình trạng loại bỏ khách hàng tốt do MB không đáp ứng được yêu cầu về thời gian. Với việc thực hiện chính sách quản lý rủi ro đồng bộ từ chi nhánh đến cơ quan cấp trên sẽ tạo điều kiện để có thể nâng cao chất lượng các khoản vay, lựa chọn khách hàng có quy mô và năng lực tài chính tốt, giúp tăng khả năng ứng phó với những biến động bất lợi của nền kinh tế. Từ đó, tạo điều kiện tốt cho công tác xử lý nợ xấu phát sinh (do nguyên nhân khách quan). 3.2.2. Hoàn thiện và đảm bảo chất lượng công tác chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ Như đã trình bày, kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân loại nợ và xác định nợ xấu. Để đảm bảo quản lý nợ xấu có hiệu quả, ngân hàng phải thực hiện ngay từ đầu việc xác định nợ xấu một cách chuẩn xác. Một trong những vấn đề cần giải quyết đối với hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng hiện tại là việc chấm điểm xếp hạng tín dụng đối với các khách hàng là doanh nghiệp mới. Trong trường hợp doanh nghiệp chưa thể đáp ứng yêu cầu về báo cáo tài chính, để đảm bảo tất cả các khách hàng đều được phân loại dựa trên kết quả xếp hạng tín dụng bao gồm cả các chỉ tiêu định tính và định lượng, ngân hàng có thể thiết lập một bộ chỉ tiêu dành riêng cho đối tượng khách hàng này. Thay vì đánh giá tài chính dựa trên báo cáo của doanh nghiệp, ngân hàng có thể đưa vào hệ thống một số chỉ tiêu tài chính bình quân của ngành tương ứng với quy mô của doanh nghiệp làm cơ sở đánh giá, kết hợp với bộ chỉ tiêu định tính sẽ cho ra kết quả xếp hạng tín dụng có mức độ tin cậy cao hơn. Một vấn đề nữa cần giải quyết trong điều kiện hiện nay là mức độ chuẩn xác của các thông tin đầu vào. Định kỳ hàng quý, ngân hàng cần cung cấp cho CVQHKH các báo cáo phân tích tổng thể những ngành chiếm tỷ trọng tài trợ lớn, giúp cho việc nhận định những tác động từ phía nền kinh tế vĩ mô được chuẩn xác hơn. Bên cạnh đó, cần có quy định cụ thể về chế tài xử phạt đối với những trường hợp cố tình đưa thông tin sai lệch vào hệ thống. Tăng cường giám sát chất lượng chấm điểm xếp hạng tín dụng của CVQHKH bằng việc thực hiện chấm điểm xếp hạng tín dụng đồng thời và/hoặc đột xuất kiểm tra trực tiếp mức độ xác thực của thông tin thông qua tiếp xúc, trao đổi với khách hàng do một cơ quan độc lập thực hiện. 3.2.3. Nâng cao trình độ và vai trò của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng Để phát huy hơn nữa vai trò của Phòng quản lý tín dụng trong quản lý rủi ro tín dụng, ngân hàng cần tiêu chuẩn hóa đội ngũ quản lý rủi ro tín dụng. Theo đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, có kiến thức và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng. Ngân hàng có thể xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn đối với cán bộ quản lý rủi ro tín dụng như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế, có thời gian trải qua công tác tại bộ phận QHKH. Bên cạnh lựa chọn nhân sự tốt cho bộ phận quản lý rủi ro tín dụng, việc đào tạo nâng cao trình độ cũng cần được tiến hành thường xuyên và đồng bộ. Công tác đào tạo, nâng cao trình độ có thể được tiến hành theo một số hình thức như: Tổ chức các khóa đào tạo chuyên môn, các buổi hội thảo nhằm trao đổi thông tin, kinh nghiệm, quan điểm rủi ro, cách thức tiếp cận và xử lý thông tin hiệu quả. Luân chuyển vị trí công tác: phải được thực hiện thường xuyên và trên phạm vi toàn hệ thống NHQĐ, không chỉ dừng lại ở địa bàn Hà Nội như hiện nay. Theo đó, thực hiện điều chuyển cán bộ quản lý rủi ro tín dụng sang làm việc tại các bộ phận QHKH trong một khoảng thời gian nhất định và ngược lại. Điều này sẽ giúp cho cán bộ quản lý rủi ro tín dụng tích lũy được kinh nghiệm thực tế, ngoài ra việc trao đổi thông tin giữa bộ phận quản lý rủi ro và bộ phận QHKH cũng sẽ được nhìn nhận trên tinh thần hợp tác, chia sẻ. Có chính sách cụ thể khuyến khích cũng như quy định đối với những cán bộ tham gia các chương trình học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn nằm ngoài chương trình đào tạo của ngân hàng. Định kỳ thực hiện kiểm tra, đánh giá trình độ chuyên môn, kiến thức của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng, trên cơ sở đó lựa chọn, thay thế nhân sự cho phù hợp. Bổ sung nhân sự có trình độ chuyên môn về xử lý, thu hồi nợ xấu cho Phòng quản lý tín dụng nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nợ xấu. Trên cơ sở bộ phận xử lý nợ xấu, phòng QLTD sẽ chủ động hơn trong việc lên kế hoạch, trực tiếp triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu kịp thời, phù hợp. Ngoài ra, với sự tham gia đồng thời xử lý nợ xấu của Phòng QLTD sẽ nâng cao hơn trách nhiệm cũng như hiệu quả thu hồi nợ của bộ phận QHKH. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế trao đổi thông tin hiệu quả, đảm bảo sự liên lạc thường xuyên, liên tục và cập nhật kịp thời các thông tin trọng yếu giữa các bộ phận chức năng trong hoạt động cấp tín dụng, kiểm soát tín dụng, giúp cho bộ phận quản lý rủi ro tín dụng có thể phân tích, đánh giá những rủi ro tiềm ẩn. 3.2.4. Xây dựng hệ thống thông tin nợ xấu Ngày nay, với sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin, việc lưu trữ, cập nhật thông tin về khách hàng, khoản vay có thể được thực hiện trên phạm vi toàn hệ thống NHQĐ. Với tính ưu việt đó, Khối QTRR cần xây dựng hệ thống dữ liệu về các khoản nợ xấu đã phát sinh cũng như đang tồn tại trên toàn hệ thống NHQĐ. Dữ liệu được lưu trữ bên cạnh những thông tin chi tiết về khách hàng, khoản vay còn cần được bổ sung các thông tin khác có liên quan về quá trình xử lý nợ xấu đã thực hiện, nhận định đánh giá của CVQHKH trong quá trình xử lý nợ tại từng thời điểm, những vấn đề lưu ý khác liên quan đến tính đặc thù và mối quan hệ với các bên liên quanĐối tượng sử dụng, khai thác các thông tin này sẽ được phân cấp theo từng User truy nhập, đảm bảo tính bảo mật, theo đúng phạm vi, quyền hạn và trách nhiệm. Với việc thiết lập hệ thống dữ liệu về nợ xấu sẽ giúp cho công tác tiếp nhận lại các khoản nợ xấu cũng như công tác kiểm tra, giám sát quá trình xử lý nợ xấu được thuận tiện, cán bộ quản lý các cấp có thể theo dõi thường xuyên và đưa ra những điều chỉnh kịp thời, đảm bảo công tác xử lý nợ xấu thực hiện có hiệu quả và khách quan. Ngoài ra, với việc thực hiện đồng thời của bộ phận xử lý nợ thuộc Phòng QLTD như đã nêu trên sẽ giúp tăng cường tính khách quan trong xử lý nợ xấu. 3.2.5. Tăng cường kiểm tra, giám sát đảm bảo tính tuân thủ Thực hiện triển khai mô hình theo nguyên tắc Basel, theo đó việc kiểm tra giám sát khoản vay do bộ phận quản lý nợ - Hỗ trợ tín dụng thực hiện, tách biệt hoàn toàn chức năng bán hàng của CVQHKH với chức năng kiểm soát. Ngoài ra, cần tăng cường năng lực hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Sử dụng phối hợp giữa phương pháp kiểm tra trực tiếp và giám sát gián tiếp thông qua đánh giá các chỉ tiêu hoạt động. Định kỳ và/hoặc đột xuất cần thực hiện kiểm tra toàn bộ hoạt động cho vay, ngoài ra có thể thực hiện kiểm tra theo từng chương trình, sản phẩm cụ thể như kiểm tra các khoản cho vay hỗ trợ lãi suất, các khoản cho vay cầm cố hàng tồn kho, các khoản nợ xấu...Cần phối hợp chặt chẽ với kiểm toán trong công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện những sai phạm và hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra. Công tác kiểm tra có thể do Khối kiểm soát nội bộ hoặc cũng có thể do Phòng QLTD tại chi nhánh thực hiện. Kịp thời công khai kết quả kiểm tra trên toàn hệ thống NHQĐ, đảm bảo tính công khai, minh bạch, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ giữa các chi nhánh, điểm giao dịch của MB. Bên cạnh đó, tăng cường thực hiện kiểm tra chéo giữa các chi nhánh, phòng ban trên cùng địa bàn. Thiết lập đầu mối tiếp nhận và xử lý kịp thời những sai phạm được phát hiện. Có những hình thức thưởng, phạt công khai, khuyến khích việc kiểm tra, giám sát chéo. 3.2.6. Xây dựng quy trình thẩm định tài sản bảo đảm Cần xây dựng quy trình thẩm định tài sản bảo đảm trên cơ sở quy định cụ thể, chi tiết danh mục tài sản bảo đảm được chấp nhận, phân theo loại tài sản bảo đảm như bất động sản, phương tiện giao thông, máy móc thiết bị, hàng hóa, quyền tài sản... Ngoài ra, cần quy định cụ thể các tiêu chí nhằm xác định giá trị tài sản bảo đảm một cách khách quan, đồng nhất và đáp ứng yêu cầu thận trọng trên quan điểm tối thiểu hóa rủi ro. Có thể xem xét quy định cụ thể bộ phận chuyên trách trong việc định giá tài sản bảo đảm, đảm bảo nguyên tắc độc lập, khách quan. Trong trường hợp tài sản bảo đảm có tính kỹ thuật đặc thù, phức tạp cần quy định cụ thể đối với việc thuê cơ quan định giá hoặc chuyển giao cho AMC thực hiện định giá. Quy trình thẩm định tài sản bảo đảm cũng cần quy định chi tiết các thủ tục, giấy tờ nhằm đảm bảo tính pháp lý đối với tài sản khi thế chấp, cầm cố tại MB. Tránh trường hợp khi xử lý tài sản gặp rất nhiều khó khăn do tính pháp lý chưa đảm bảo. 3.2.7. Xây dựng quy trình xử lý nợ xấu khoa học, thống nhất Việc xây dựng quy trình xử lý nợ xấu thống nhất sẽ là công cụ hữu hiệu trong quản lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu nói riêng, giúp cho các bộ phận khi phát sinh nợ xấu chủ động xử lý và áp dụng các biện pháp phù hợp, theo quy định của pháp luật. Đồng thời phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận trong xử lý nợ xấu sẽ tạo ra sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả, đảm bảo tính khách quan từ đó nâng cao hiệu quả thu hồi nợ xấu. Xử lý nợ xấu cũng cần được phân cấp trên cơ sở giá trị khoản vay, thời gian phát sinh nợ xấu để đạt hiệu quả tối ưu. Quy trình xử lý nợ xấu được cụ thể bằng sơ đồ dưới đây : Sơ đồ 3.1 : - Quy trình xử lý nợ xấu XHTD, phân loại nợ Chuyển BP xử lý nợ xấu Nợ xấu Chuyên viên xử lý nợ xấu thực hiện rà soát khoản vay Trưởng phòng QLTD Phối hợp với chi nhánh Chuyển giao cho AMC Ghi chép vào Hệ thống thông tin nợ xấu Gửi báo cáo cho BP xử lý nợ xấu - P.QLCLTD – Khối QTRR Kế hoạch hành động tiếp theo Trên cơ sở kết quả chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ, ngân hàng xác định được các khoản nợ xấu, ngay lập tức các khoản nợ này sẽ được chuyển sang Bộ phận xử lý nợ xấu thuộc phòng QLTD tại chi nhánh, CVQHKH và nhân viên thuộc bộ phận hỗ trợ tín dụng có trách nhiệm cung cấp thông tin, chứng cứ về tình trạng nợ của khách hàng và nguyên nhân phát sinh nợ xấu. Ngay sau khi tiếp nhận khoản nợ xấu phát sinh từ phía bộ phận bán hàng, Trưởng phòng QLTD trên cơ sở hồ sơ, phân tích thông tin, chuyển giao cho chuyên viên xử lý nợ xấu, đồng thời gửi báo cáo chi tiết về khoản nợ xấu cho BP xử lý nợ xấu thuộc khối QTRR. Sau khi nhận được hồ sơ về khoản nợ xấu, chuyên viên xử lý nợ xấu tiến hành rà soát khoản vay. Thu thập thông tin cập nhật để đánh giá lại tình hình khách hàng như tài liệu liên quan đến khoản vay, tài sản bảo đảm, thiện chí của khách hàng, tình hình tài chính...Ngoài ra, rà soát và hoàn thiện các thủ tục pháp lý liên quan đến tài sản bảo đảm, đánh giá lại giá trị tài sản bảo đảm. Trong trường hợp giá trị tài sản bị giảm sút cần ngay lập tức yêu cầu bổ sung tài sản hoặc đề xuất các biện pháp bảo đảm tiền vay thay thế. Về phía BP xử lý nợ xấu – Khối QTRR, sau khi nhận được báo cáo về khoản nợ xấu phát sinh, có trách nhiệm trao đổi, phối hợp và đưa ra kết hoạch hành động tiếp theo. Đối với những khoản nợ xấu không nằm trong phân cấp xử lý của cơ quan Hội sở, Phòng QLTD chủ động đưa ra hướng xử lý tiếp theo trên cơ sở kết quả rà soát khoản vay của chuyên viên xử lý nợ xấu. Phòng QLTD có thể tham khảo ý kiến của BP xử lý nợ xấu – Khối QTRR nếu thấy cần thiết. Đối với những khoản vay thuộc thẩm quyền xử lý của BP xử lý nợ xấu – Khối QTRR, BP xử lý nợ xấu sẽ trực tiếp đề ra kế hoạch hành động, có thể yêu cầu sự phối hợp, hỗ trợ của Phòng QLTD chi nhánh. Kế hoạch hành động tiếp theo có thể thực hiện theo hai hướng sau : Chiến lược giữ lại : được áp dụng khi đánh giá khách hàng có đủ điều kiện để thu hồi đầy đủ khoản nợ, ngân hàng cần duy trì mối quan hệ với khách hàng. Chiến lược rút lui : được áp dụng với những khoản vay được đánh giá là không có khả năng thu hồi hoặc có thể thu hồi nhưng thời gian xử lý phải kéo dài. BP xử lý nợ xấu – Khối QTRR xem xét, đánh giá và tiến hành các thủ tục cần thiết để chuyển giao cho AMC dưới hình thức mua bán nợ hoặc hợp đồng xử lý nợ có thu phí. Đồng thời với việc thực thi kế hoạch hành động tiếp theo, chuyên viên xử lý nợ xấu tại chi nhánh có trách nhiệm ghi chép, cập nhật dữ liệu vào hệ thống thông tin nợ xấu, đảm bảo đầy đủ, trung thực, khách quan. 3.2.8. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) Xây dựng cơ chế khuyến khích trong việc xử lý và thu hồi nợ xấu đối với cán bộ nhân viên của AMC như có chế độ khen thưởng, tiền lương, ưu tiên trong công tác đào tạo, tạo cơ hội rèn luyện chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tham gia các khóa đào tạo trong và ngoài nước. Quy định cụ thể trách nhiệm, mục tiêu trong công tác xử lý nợ xấu do MB chuyển giao. Thay vì mục tiêu lợi nhuận, đối với công tác xử lý, thu hồi nợ xấu cần đặt giá trị thu hồi các khoản nợ xấu làm tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động xử lý nợ xấu của AMC. Để tăng cường hơn nữa hoạt động mua bán nợ của AMC, Ngân hàng TMCP Quân đội – cơ quan chủ quản cần tạo điều kiện bổ sung vốn điều lệ cho công ty (vốn điều lệ hiện nay là 179 tỷ đồng), khuyến khích phát triển nghiệp vụ mua bán nợ không chỉ trong MB mà còn thực hiện đối với các khoản nợ của các tổ chức khác. 3.3. Một số kiến nghị NHTM hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật do Nhà nước ban hành và chịu sự giám sát, kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng nhà nước, do vậy hoạt động cho vay cũng không nằm ngoài các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian qua cơ chế, chính sách của nhà nước còn chưa đầy đủ, đồng bộ, chưa tạo được môi trường pháp lý chặt chẽ nên hoạt động cho vay của ngân hàng còn gặp những rủi ro. Để hạn chế rủi ro và tăng cường hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng, sự phối hợp từ phía các cơ quan nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng và có ảnh hưởng chi phối. 3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ ngành liên quan Kiểm soát hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng Quy định về việc thanh toán tiền qua ngân hàng liên quan đến hoàn thuế GTGT theo Thông tư số 129/2008/TT-BTC mặc dù có hiệu lực từ ngày 01/01/2009, tuy nhiên việc kiểm soát hoạt động thanh toán của doanh nghiệp qua ngân hàng chưa thật sự phát huy hiệu quả. Chính phủ cần ban hành quy định mang tính bắt buộc đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của doanh nghiệp, qua đó ngân hàng có thể quản lý được nguồn thu, tạo điều kiện để công tác xử lý, thu hồi nợ đạt kết quả, tiết kiệm thời gian. Hoàn thiện công tác đăng ký giao dịch bảo đảm Chỉ đạo các Bộ ngành chuẩn hoá các văn bản pháp quy liên quan đến việc thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm như: phân công rõ ràng, chi tiết từng loại tài sản, trách nhiệm của các cơ quan tham gia thực hiện tiếp nhận đăng ký giao dịch bảo đảm cho các NHTM, tránh tình trạng có những tài sản không thể phân định đăng ký thuộc về trách nhiệm của cơ quan nào, phải thực hiện đăng ký nhiều lần tại các cơ quan khác nhau khi tài sản là bất động sản hình thành trong tương lai. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra đối với các cơ quan này trong quá trình triển khai thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm, nhằm phòng tránh việc gây khó dễ cho người vay cũng như NHTM khi thực hiện công việc này. Khắc phục ngay tình trạng thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm chậm chễ, chưa có được hệ thống thông tin phản hồi kịp thời đối với các NHTM về tình trạng tài sản được đăng ký giao dịch bảo đảm (có nhiều tài sản sau khi thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm mất một vài tháng mới có thông tin phản hồi lại cho NHTM là tài sản chưa được đăng ký, yêu cầu bổ sung thủ tục, sửa đơn đăng ký,...) và tình trạng thiếu trách nhiệm của các Cán bộ, nhân viên của những cơ quan này khi được các NHTM hỏi thông tin về tình trạng tài sản được đăng ký. Hiện đại hoá công nghệ đăng ký giao dịch bảo đảm (có thể đăng ký qua internet) giúp cho việc tiếp nhận và đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, đảm bảo tiêu chí nhanh chóng, chính xác, thuận tiện hơn cho khách hàng cũng như NHTM. Thêm vào đó, đảm bảo cho NHTM kiểm soát, xử lý nhanh chóng được kết quả đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của NHTM đối với bên thứ ba thông qua thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm. Thực hiện công khai hóa thông tin về tài sản bảo đảm được đăng ký tại các Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm cho đối tượng khai thác là các NHTM để ngân hàng có thể chủ động hơn trong việc nắm bắt, tiếp nhận tài sản thế chấp, hạn chế kịp thời nếu có dấu hiệu lừa đảo. Hoàn thiện các văn bản luật Kiến nghị với Quốc hội để hoàn thiện hệ thống luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản, tránh sự chồng chéo như kê biên tài sản đang thế chấp, Tuyên huỷ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà/sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền cấp nhưng lại không đúng trình tự pháp luật hay có giấy chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp (như qui định) để thế chấp, nhưng vẫn bị kết luận là không có quyền sở hữu hợp pháp do có nguồn gốc hình thành trái pháp luật làm ví dụ). Phát triển thị trường mua bán nợ Chú trọng phát triển thị trường mua bán nợ, không chỉ dừng lại ở các tổ chức trong nước mà cần có chính sách khuyến khích sự tham gia của các đối tác nước ngoài – những đối tác giàu kinh nghiệm. Ban hành quy định cụ thể xác định rõ địa vị pháp lý và các quyền đặc biệt của chủ nợ, các ưu đãi đối với hoạt động mua bán nợ, ví dụ như truy cập hệ thống dữ liệu tài chính doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng... có chế tài đặc biệt để làm công cụ xử lý nợ - những cơ chế này phải được các Bộ Tư pháp, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Tòa án... cùng bàn bạc thống nhất với nhau để trao cho các tổ chức mua bán nợ quyền lực mạnh hơn. Ngoài ra, Chính phủ tiến hành chỉ đạo cơ quan chủ quản của DNNN, đặc biệt là doanh nghiệp quốc phòng chủ động, tích cực hơn nữa trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với những khoản nợ xấu còn tồn đọng tại ngân hàng. Bên cạnh đó, cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm giám sát, phối hợp của cơ quan chủ quản đối với các khoản vay tín chấp của cán bộ, viên chức nhà nước, không để xảy ra tình trạng một cán bộ, viên chức có thể vay vốn cùng lúc tại nhiều tổ chức tín dụng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thu hồi nợ, đặc biệt khi khách hàng không còn khả năng thanh toán trong khi nguồn thu nhập duy nhất là từ tiền lương không đủ thanh toán phần nợ xấu đã phát sinh. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Nâng cao chất lượng công tác dự báo, nhận định thị trường để đưa ra chính sách điều hành phù hợp, tránh trường hợp chính sách được ban hành và sửa đổi quá nhanh, chủ yếu tập trung giải quyết vấn đề đã xảy ra, gây khó khăn và để lại những hậu quả nhất định cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. NHNN cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về khái niệm, phân loại nợ xấu của NHTM theo hướng phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thống nhất lại tên gọi đối với các khoản vay cùng tính chất (không có khả năng được thanh toán đúng hạn, đầy đủ), tránh trường hợp tồn tại hai khái niệm chồng chéo như hiện nay (theo điều 6 QĐ 493 thì nợ quá hạn bao gồm nợ xấu, theo điều 7 QĐ 493 thì nợ xấu có thể không phải nợ quá hạn). Tăng cường vai trò quản lý nhà nước của NHNN cấp tỉnh, kịp thời hỗ trợ NHTM trong việc phối hợp với các cơ quan, chính quyền địa phương trong việc ra các văn bản tháo gỡ về mặt pháp lý đối với xử lý nợ xấu. Đổi mới quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Ngân hàng, lấy việc thanh tra, kiểm tra với mục đích phòng ngừa hơn là thực hiện bắt lỗi các NHTM. Nâng cao năng lực của cán bộ thanh tra, tạo điều kiện phát hiện sớm những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của NHTM cũng như phát huy vai trò tư vấn pháp lý trong các cuộc kiểm tra. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Nội dung các bản trả lời về tình hình quan hệ của khách hàng với các tổ chức tín dụng cần được nêu cụ thể, đảm bảo tính cập nhật và chính xác. Quy định cụ thể trách nhiệm và thời gian xử lý các vướng mắc từ phía NHTM đối với các thông tin CIC đưa ra. Bên cạnh đó, CIC cũng cần có những chế tài để kiểm soát và xử phạt đối với những thông tin do các TCTD cung cấp thiếu tính chính xác. Hoàn thiện xây dựng hệ thống đánh giá xếp hạng tín dụng doanh nghiệp theo Quyết định 1253/QĐ-NHNN ngày 21/06/2006. Tạo dựng cơ sở dữ liệu phong phú, đáng tin cậy về mọi đối tượng khách hàng, rút ngắn thời gian tra cứu và nhận thông tin trả lời. 3.3.3. Kiến nghị đối với Khách hàng Nâng cao năng lực, kinh nghiệm quản trị điều hành của người đứng đầu tổ chức, doanh nghiệp, các cá nhân. Quản lý tốt hoạt động kinh doanh, tránh tình trạng đầu tư quá mức, mở rộng kinh doanh bằng mọi giá trong khi các nguồn lực về con người, vốn, công nghệ...và thị trường chưa đầy đủ, dẫn đến hoạt động kinh doanh gặp khó khăn, thua lỗ, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán các khoản nợ tại Ngân hàng. Cần nắm vững những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với các đối tác cũng như quan hệ vay vốn tại NHTM. Nâng cao hơn nữa ý thức tuân thủ quy định của pháp luật. Tránh tình trạng vi phạm cam kết do nguyên nhân không biết hoặc hiểu sai quy định, dẫn đến cố tình gây cản trở NHTM trong việc thực hiện các quyền đối với tài sản, nghĩa vụ nợ của khách hàng và/hoặc người bảo lãnh. Chú trọng nâng cao chất lượng các báo cáo tài chính cung cấp cho NHTM thông qua việc sử dụng báo cáo tài chính đã được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán độc lập. Thường xuyên đánh giá, phân tích tình hình tài chính, luồng tiền luân chuyển để có thể chủ động trong kinh doanh, khắc phục kịp thời khi tình hình tài chính có dấu hiệu suy giảm, mất cân đối. Không ngừng nâng cao năng lực tài chính, có chính sách phân phối lợi nhuận cho phù hợp, đặc biệt chú trọng đến việc trích lập các quỹ dự phòng nhằm nâng cao khả năng chống đỡ đối với những biến động theo chiều hướng bất lợi của thị trường. Chủ động phối hợp với ngân hàng trong việc cung cấp thông tin, báo cáo kịp thời những thông tin ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của khách hàng, không được che dấu, làm sai lệch thông tin nhằm đạt những mục đích nhất định. Doanh nghiệp khi gặp khó khăn cần chủ động hơn nữa trong việc lựa chọn các giải pháp sáp nhập, hợp nhất hoặc có những phương án tăng vốn kịp thời, đảm bảo duy trì hoạt động kinh doanh, tránh tình trạng kinh doanh thua lỗ kéo dài và không thể cứu vãn. Trong trường hợp không thể cứu vãn, doanh nghiệp cũng cần chủ động tuyên bố phá sản theo luật phá sản, đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan. PHẦN KẾT LUẬN Quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào hệ thống tài chính quốc tế đặt các NHTM Việt Nam trước nguy cơ rủi ro ngày một cao hơn và chịu tác động nặng nề hơn, vì thế nguy cơ nợ xấu cũng có chiều hướng tăng cao. Mặc dù, nợ xấu là một tất yếu của hoạt động NHTM trong nền kinh tế thị trường, là một vấn đề lớn trong tiến trình lành mạnh hóa tài chính của các NHTM, tuy nhiên việc quản lý nợ xấu luôn phải được nhìn nhận như một tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay, là một trong những nhân tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của NHTM. Trên cơ sở kiến thức của bản thân tích luỹ được trong suốt khoá học, kinh nghiệm công tác tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải phòng và sự tận tình hướng dẫn của các thầy, cô trong khoa Ngân hàng - Tài chính của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, bài nghiên cứu đã hoàn thành các mục tiêu nghiên cứu đề ra: Nghiên cứu, hệ thống hóa lý luận cơ bản về quản lý nợ xấu, các tiêu chí xác định nợ xấu, biện pháp xử lý nợ xấu và hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nợ xấu. Từ việc đánh giá thực tế hoạt động, với thực trạng quản lý nợ xấu của Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng một số năm qua, tác giả đi sâu phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, chỉ ra hạn chế trong quản lý nợ xấu và những nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan ảnh hưởng đến quản lý nợ xấu. Trên cơ sở những định hướng, mục tiêu của Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng, tác giả đề xuất một số giải pháp mang tính thực tiễn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như thực trạng quản lý nợ xấu của chi nhánh. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị có tính khả thi đối với Chính phủ, các cơ quan chức năng và các khách hàng có nhu cầu vay vốn nhằm tạo hành lang pháp lý cũng như những điều kiện cần thiết khác giúp tăng cường quản lý nợ xấu. Do đặc điểm phức tạp và thường xuyên biến đổi của rủi ro trong hoạt động ngân hàng mà nợ xấu là một trong những vấn đề có ảnh hưởng nghiêm trọng, quản lý nợ xấu sẽ được các nhà khoa học, người làm chuyên môn tiếp tục nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện phù hợp với từng thời kỳ. Đây là một đề tài lớn, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học và những người quan tâm để có thể hoàn thiện hơn bài nghiên cứu. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Luật Dân sự (2005), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. PGS.TS. Lưu Thị Hương, PGS.TS. Vũ Duy Hào (2007), Tài chính doanh nghiệp, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. TS. Trần Đăng Khâm (2007), Thị trường chứng khoán phân tích cơ bản,, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi (2004), Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXB Tài chính, Hà Nội. Peter S.Rose (2004), Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXB Tài chính, Hà Nội. Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng, Sao kê tín dụng năm 2006, 2007, 2008. Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng, Bảng cân đối kế toán năm 2006, 2007, 2008. Phòng Quản lý tín dụng - Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng, Báo cáo tình hình nợ xấu năm 2006, 2007, 2008. Ngân hàng TMCP Quân đội, Báo cáo thường niên năm 2006, 2007, 2008. Trung tâm đào tạo nghiệp vụ ngân hàng – BTC (2008), Các phương pháp quản lý và thu hồi nợ có vấn đề, Dự án quỹ phát riển doanh nghiệp vừa và nhỏ - SMEDF, Hà Nội. Nguyễn Đào Tố (2008), “Xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng từ những ứng dụng nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu”, Tạp chí Ngân hàng, (5), tr.17-22. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro hoạt động tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng, (QĐ 493/2005/QĐ-NHNN). Quốc hội nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật các Tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2557.doc
Tài liệu liên quan