Thuế TNDN là thuế trực thu nên đối tượng nộp thuế cũng là “người”chịu thuế. Tại điều 1, điều 2 Luật thuế TNDN được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 17/6/2003 quy định như sau:
- Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp: Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (dưới đây gọi chung là cơ sở kinh doanh) có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Đối tượng không thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp: Hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản không thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, trừ hộ gia đình và cá nhân nông dân sản xuất hàng hóa lớn có thu nhập cao theo quy định của Chính phủ.
77 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1040 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý kịp thời
Các phòng quản lý chưa thực sự nhận thấy các lợi ích mà chương trình quản lý thuế hiện đại mang lại nên sự hợp tác phối hợp với phòng Tin học còn hạn chế. Có nhiều nội dung chương trình quản lý thuế trên máy tính QLT chưa phù hợp
với thực tế dẫn đến tình trạng số liệu không chính xác.
+ Về công tác thanh tra, kiểm tra
- Số lượng người nộp thuế được thanh tra, kiểm tra chưa được nhiều
Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ người nộp thuế được thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế ở Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang còn thấp. Thực tế này đương nhiên sẽ dẫn đến tình trạng các vi phạm về thuế chưa được phát hiện kịp thời. Cho nên, có thể nói hầu như người nộp thuế nào bị kiểm tra là chắc chắn có vi phạm không ít thì nhiều ở một mức độ nào đó. Số liệu về số thuế truy thu phạt khá lớn phản ánh nỗ lực chống thất thu của ngành thuế Tuyên Quang nhưng cũng phản ánh phần nào hậu quả của tỷ lệ số người nộp thuế được thanh tra, kiểm tra còn thấp. Đó là tình trạng ý thức tự giác chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế còn rất hạn chế. Người nộp thuế chậm được thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế sẽ làm cho các vi phạm kéo dài và hậu quả lớn.
Việc kiểm tra tờ khai hàng tháng, kiểm tra quyết toán thuế của một số cán bộ thuế thực hiện chưa tốt nên không phát hiện được các sai phạm như số liệu trên tờ khai quyết toán thuế không chính xác, việc kiểm tra tính hợp pháp trong chi phí tính thu nhập chịu thuế chưa sâu;
- Cơ chế phối hợp giữa một số bộ phận chức năng chưa được cụ thể hóa
Việc phối hợp giữa các bộ phận quan trọng quản lý thuế tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang chưa được dựa trên một cơ chế rõ ràng, thống nhất bằng văn bản. Thực tế cho thấy hiệu quả phối hợp trong từng trường hợp cụ thể phụ thuộc vào sự chỉ đạo của lãnh đạo Cục và trình độ năng lực của cán bộ trực tiếp thi hành công vụ. Đôi lúc trong các tình huống giống nhau nhưng trình tự, thủ tục xử lý lại khác nhau. Trong những năm đầu thực hiện quản lý thuế TNDN, bản thân Cục Thuế cũng nhận thấy tình trạng "các phòng quản lý vẫn coi công tác thanh tra kiểm tra là của thanh tra, sự phối hợp của phòng thanh tra với các phòng quản lý chưa mạnh mẽ và thường xuyên, không xây dựng được kế hoạch kiểm tra, thanh tra một cách cụ thể cho từng phòng".
Ngoài ra, còn một số hạn chế trong quản lý người nộp thuế như: Công tác quản lý thu nợ đọng còn yếu; Công tác tuyên truyền hỗ trợ tại các Chi cục Thuế còn hạn chế, tính thuyết phục chưa cao nên vẫn còn có doanh nghiệp ngoài quốc doanh hỏi Cục Thuế về chính sách thuế. Vẫn còn tình trạng trả lời chính sách chưa chính xác.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Những vấn đề tồn tại của công tác quản lý thuế TNDN tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang nêu trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
* Nguyên nhân chủ quan
Đội ngũ cán bộ thuế chưa được đào tạo nhằm đáp ứng với yêu cầu của máy tính hóa quy trình quản lý thuế, công tác đào tạo,đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ còn nhiều hạn chế.
Cán bộ công chức ngành thuế quản lý thuế TNDN hiện này là kế thừa từ hệ thống cán bộ thu quốc doanh và quản lý tài chính xí nghiệp quốc doanh, vốn quen với cơ chế bao cấp. Việc tuyển mới cán bộ trong các năm qua từ rất nhiều loại hình trường lớp, phần lớn chưa được qua một lớp đào tạo chính quy về nghiệp vụ thuế. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ phần nhiều mới dừng ở mức phổ biến quán triệt chính sách mới mỗi khi có sự sửa đổi bổ sung chính sách thuế. Các nội dung cần thiết như nghiệp vụ quản lý, kỹ thuật xử lý thông tin trong quản lý... chưa được quan tâm đúng mức.
Quy trình quản lý thuế hiện hành gắn liền việc sử dụng máy tính với chương trình quản lý thuế cấp cục (QLT và TIN ). Nếu không được quan tâm đào tạo đúng mức sẽ không phục vụ tốt cho công tác quản lý. Thực tế số cán bộ thuế thường xuyên sử dụng hai chương trình này còn rất khiêm tốn. Một bộ phận không nhỏ cán bộ thuế tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang chưa biết cách sử dụng, khai thác số liệu từ QLT và TIN. Thực tế này phản ánh công tác đào tạo về sử dụng máy tính tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang còn nhiều hạn chế.
Năng lực chuyên môn của một số cán bộ thuế còn yếu nên không phát hiện được các sai phạm khi kiểm tra tờ khai thuế, báo cáo quyết toán thuế, quyết toán tài chính. Doanh nghiệp nộp chậm tờ khai, báo cáo quyết toán thuế nhưng không bị xử phạt theo quy định. Thực hiện không nghiêm quy trình thanh tra, kiểm tra, có trường hợp khi Cục Thuế phúc tra lại đã truy thu và xử phạt thêm giá trị lớn hơn kết quả kiểm tra trước; Năng lực cán bộ làm công tác tuyên truyền hỗ trợ tại địa bàn một số huyện, thị còn yếu, chưa chịu khó nghiên cứu chính sách.
Cán bộ, công chức Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang nhìn chung đã thực hiện tốt quy định tiêu chuẩn văn hóa công sở và đạo đức cán bộ thuế do Tổng cục Thuế ban hành, nhằm mục tiêu xây dựng văn hóa công sở ngành thuế hướng tới các chuẩn mực giá trị chân, thiện, mỹ làm cho cơ quan thuế thực sự phát triển vững mạnh, bền vững với đội ngũ cán bộ thuế trung thành, trí tuệ, sáng tạo, thực sự là công bộc của nhân dân, đáp ứng nhu cầu phục vụ người nộp thuế và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước giao. Song bên cạnh đó vẫn còn có những cán bộ lười học tập, lười suy nghĩ, thiếu trách nhiệm trong công việc ảnh hưởng đến niềm tin của người nộp thuế với cơ quan và đạo đức cán bộ thuế.
* Nguyên nhân khách quan
+ Về nội dung thuế TNDN
Hệ thống chính sách thuế nói chung đã qua hơn 10 năm bổ sung, sửa đổi đã quá chắp vá và có nhiều nội dung không còn phù hợp với nền kinh tế đang chuyển đổi từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.
Nhiều khái niệm, thuật ngữ trong luật thuế TNDN đến nay không có nội hàm rõ ràng và cũng không được hướng dẫn cụ thể, có nhiều cách hiểu khác nhau giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan pháp luật như chi phí hợp lý được công nhận hay xuất toán, truy thu thuế TNDN; chi phí được trừ hay không được trừ qua thực hiện đã phát sinh nhiều vướng mắc gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Tổng cục Thuế vừa hành thu vừa trực tiếp soạn thảo văn bản sửa đổi bổ sung các loại thuế để trình Nhà nước ban hành. Vì vậy, số lượng văn bản nhiều, phức tạp, không rõ ràng.
+ Người nộp thuế
Là một tỉnh miền núi, có nhiều dân tộc khác nhau, trình độ dân trí còn thấp nên việc chấp hành pháp luật về thuế của người nộp thuế ở tỉnh Tuyên Quang còn nhiều hạn chế, còn nhiều người nộp thuế bị xử lý vi phạm về thuế, còn phải giải thích, đôn đốc về việc chấp hành nghĩa vụ thuế nói chung và thuế TNDN nói riêng.
+ Môi trường quản lý thuế có tác động lớn đến quản lý thuế TNDN
- Các doanh nghiệp tại tỉnh Tuyên Quang phần lớn có quy mô vừa và nhỏ
80,1% doanh nghiệp có mức vốn dưới 50 tỷ đồng và 92% doanh nghiệp có lao động dưới 300 người trong đó DNNN Trung ương là 28,2%, địa phương 71,8%. Một số doanh nghiệp lớn tập trung ở khu vực DNNN Trung ương. Tuyên Quang cũng là địa bàn có các Chi nhánh, đơn vị phụ thuộc của các DNNN có trụ sở ở tỉnh khác, vì vậy có khó khăn trong việc đôn đốc, quản lý thu vì doanh nghiệp xa trụ sở chính.
Các đơn vị hạch toán phụ thuộc DNNN ở tỉnh khác đóng trên địa bàn Tuyên Quang thì không phải kê khai, quyết toán thuế TNDN nhưng Cục tỉnh Tuyên Quang vẫn phải kiểm tra, xác nhận doanh thu, chi phí (chưa đầy đủ các khoản mục chi phí) trong năm tài chính của các đơn vị này.
- Tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP bình quân hàng năm trên 11 %; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp. Năm 2005, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng: 30,7% tỷ trọng dịch vụ: 33,6% tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp:35,7%.
Trong những năm gần đây, kinh tế tỉnh Tuyên Quang tăng trưởng khá, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá. Bước đầu hình thành các khu công nghiệp, du lịch, các điểm dịch vụ. Hệ thống kết cấu hạ tầng về giao thông, trường học, lưới điện, bưu chính viễn thông...được đầu tư xây dựng và nâng cấp.
Tình hình tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang cũng ảnh hưởng đến nguồn thu thuế TNDN của Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang.
- Sức ép từ cơ chế "thu theo kế hoạch"
Từ khi thực hiện các luật thuế mới, Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang luôn hoàn thành kế hoạch thu hàng năm. Trong công tác hàng ngày, Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang luôn chú trọng vào mục tiêu là hoàn thành kế hoạch thu được giao, coi đó là nhiệm vụ chính trị số một. Ngành thuế nói chung, Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang nói riêng coi việc hoàn thành kế hoạch thu thuế được giao là tính hiệu quả của quản lý thuế. Tuy nhiên, quan niệm như trên là sự ngộ nhận. Bởi vì, hoàn thành kế hoạch thu không đồng nghĩa với sự chấp hành tốt pháp luật thuế của người nộp thuế.
Cơ chế thu thuế theo "kế hoạch" tạo một sức ép quá lớn đối với ngành thuế Tuyên Quang. Có lúc, có nơi các biện pháp tình thế được vận dụng để đạt bằng được kế hoạch giao "sức ép" về vấn đề hoàn thành kế hoạch thu quá lớn nên ngành thuế Tuyên Quang chưa thể tập trung toàn bộ nỗ lực cho các công tác khác như chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ, hoàn thiện trình tự thủ tục hành chính thuế...
Chương 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP
DOANH NGHIỆP TẠI CỤC THUẾ TỈNH TUYÊN QUANG
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG QUẢN LÝ THUẾ TNDN TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
3.1.1. Phương hướng, mục tiêu chung
Nhiệm vụ thu Ngân sách trên địa bàn giai đoạn sắp tới trên địa bàn là đảm bảo tăng trưởng hàng năm trên 17% . Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề đặt ra cho Ngành thuế Tuyên Quang. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này đòi hỏi ngành thuế Tuyên Quang phải chú trọng đến công tác củng cố và xây dựng ngành đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh, nội bộ đoàn kết, thống nhất, nỗ lực hơn, với quyết tâm cao hơn, phát huy những thành tích đạt được trong những năm qua, khắc phục những hạn chế, phấn đấu hoàn thành xuất sắc các mục tiêu đã đề ra. Đó là :
+ Phải đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng dự toán thu Ngân sách hàng năm, tìm mọi biện pháp để khai thác triệt để nguồn thu, chống thất thu nhằm thực hiện bằng được chỉ tiêu phấn đấu cao của cấp trên giao.Thực hiện có nề nếp việc giao và kiểm điểm thực hiện dự toán hàng tháng, hàng quý, năm của các đơn vị, tổ chức tốt công tác thi đua khen thưởng, phát huy sáng kiến, tìm mọi biện pháp để hoàn thành dự toán.
+ Phải thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và chính quyền các cấp từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn, của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế trong công tác chỉ đạo thu, coi đây là công việc có tính nguyên tắc phải thực hiện tốt.
+ Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt là các ngành làm công tác tuyên truyền, báo chí, Kế hoạch, Tài chính, Kho bạc, Tài nguyên môi trường, Công an ... và các huyện, thị xã.
+ Trình UBND tỉnh phê duyệt và quyết tâm thực hiện có hiệu quả chương
trình cải cách và hiện đại hoá ngành thuế đến năm 2010, đặc biệt chú trọng cải cách thủ tục hành chính thuế, coi đây là khâu đột phá để thực hiện tốt nhiệm vụ đã đề ra:
- Chú trọng công tác tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế bằng nhiều hình thức, phối hợp tốt với cơ quan tuyên truyền, báo chí để đối tượng nộp thuế hiểu và tự giác chấp hành các luật thuế, rà soát lại các quy định trái với các Luật thuế để đề nghị cấp có thẩm quyền bãi bỏ.
- Cục Thuế, các phòng, các Chi cục Thuế, các tổ, đội thuế phải thực hiện đúng và đầy đủ các nhiệm vụ được giao theo đúng chức năng, thẩm quyền, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và cá nhân. Các đơn vị đều phải xây dựng nội quy, quy chế làm việc, chương trình công tác hàng tháng, quý, năm.
- Tiếp tục phân cấp mạnh hơn cho xã, phường về công tác uỷ nhiệm thu sau khi sơ kết đánh giá, rút kinh nghiệm.
- Tiếp tục làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn; Tổ chức học tập và thực hiện quy chế điều động, luân chuyển cán bộ, luân phiên công việc, quy chế kiểm tra công chức. Thực hiện nghiêm 10 điều kỷ luật của ngành, quy định về những tiêu chuẩn cần “xây” và những điều cần “chống” đối với công chức viên chức ngành thuế.
+ Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra:
- Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch thanh tra, kiểm tra. Chú trọng cả về số lượng, nâng cao chất lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra, chọn đúng đối tượng thanh tra, kiểm tra theo phương pháp rủi ro.
- Thực hiện nghiêm túc thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành, tiến hành phúc tra tại các Chi cục Thuế, xử lý nghiêm những cán bộ sai phạm.
+ Công tác tin học:
- Khai thác và ứng dụng có hiệu quả công tác tin học vào quản lý thu, nộp thuế. Thực hiện báo cáo số thu hàng ngày và cung cấp thông tin quản lý thuế trên mạng máy tính. Nâng cao hiệu quả khai thác dữ liệu phục vụ công tác quản lý và
lãnh đạo, chỉ đạo của ngành.
- Triển khai kịp thời các ứng dụng trong quản lý thuế theo chương trình của Tổng cục Thuế
+ Công tác trọng tâm khác:
- Thực hiện tốt công tác quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ, cải tiến thủ tục bán hoá đơn để tránh phiền hà cho đối tượng nộp thuế.
- Thực hiện kịp thời, đầy đủ, chính xác, đúng chế độ các loại báo cáo, thông tin theo quy định .
- Quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt công tác xây dựng cơ bản cả về tiến độ thi công, chất lượng công trình, thực hiện quyết toán và đưa công trình xây dựng vào sử dụng đúng thời gian.
- Đầu tư mua sắm trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác. Tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị hiện có.
- Chấn chỉnh công tác quản lý công sở trong toàn ngành đảm bảo an toàn, văn minh, lịch sự và sạch đẹp.
3.1.2. Quan điểm cơ bản về quản lý thuế TNDN trong giai đoạn tới tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang
Tăng cường công tác quản lý thuế TNDN trong giai đoạn tới tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang phải nhằm thực hiện định hướng chiến lược về quản lý thuế trong giai đoạn tới đã được Đảng và Nhà nước ta nêu trong Nghị quyết đại hội Đảng IX là "đổi mới phương thức thu thuế, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Đảm bảo thu đúng, thu đủ vào NSNN, chống thất thu, lạm thu Cơ quan thuế thực hiện chức năng kiểm tra, xử lý vi phạm... nuôi dưỡng nguồn thu và thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật. Hiện đại hóa công tác quản lý thuế của Nhà nước".
Xuất phát từ những khó khăn, vướng mắc cụ thể, trực tiếp và những nguyên nhân tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang, việc đề ra các giải pháp hoàn thiện phải xuất phát từ tình hình thực tế, và trên những yêu cầu có tính nguyên tắc sau đây:
- Nhận thức và vận dụng lý luận về chức năng phân theo quá trình trong các lĩnh vực quản lý thuế, đúng với các phương pháp, nguyên tắc quản lý và quản trị hiện
đại trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam.
- Tăng cường công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo thi hành đúng pháp luật của Nhà nước về thuế, trên cơ sở đảm bảo hoàn thành kế hoạch thu được gia. Phải đưa khẩu hiệu "sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật" thành cơ chế bắt buộc trong cán bộ, công chức thuế.
- Phải làm dần từng bước, nhưng phải kết hợp giữa tính kế thừa và tính đột biến trong việc sử dụng đội ngũ công chức thuế.
- Phải kết hợp giữa mục tiêu trước mắt (giải pháp tình thế) và mục tiêu lâu dài (giải pháp chiến lược).
- Xây dựng quan điểm "phục vụ" trong công tác quản lý thuế.
- Tăng cường công tác quản lý thuế phải quan tâm đến phản ứng của người nộp thuế trong từng giai đoạn thực hiện.
3.2.GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THUẾ TNDN TẠI CỤC THUẾ TỈNH TUYÊN QUANG
3.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy Cục thuế tỉnh Tuyên Quang
+ Các vấn đề có tính nguyên tắc trong hoàn thiện tổ chức bộ máy Cục thuế Tuyên Quang
Các lý luận hiện đại đã chỉ ra việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của mọi loại hình tổ chức phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Tính mục tiêu: Một cơ cấu tổ chức được coi là có kết quả nêu thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để thực hiện các mục tiêu của tổ chức.
- Tính tin cậy: Cơ cấu tổ chức phải đảm bảo tính chính xác, kịp thời, đầy đủ của tất cả các thông tin được sử dụng trong tổ chức, nhờ đó đảm bảo phối hợp tốt các hoạt động và nhiệm vụ của tất cả các bộ phận của tổ chức.
- Tính linh hoạt: Được coi là một hệ tĩnh, cơ cấu tổ chức phải có khả năng thích ứng linh hoạt với bất kỳ tình huống nào xảy ra trong tổ chức cũng như ngoài môi trường.
- Tính hiệu quả: Cơ cấu tổ chức phải đảm bảo thực hiện những mục tiêu của quản lý thuế với chi phí nhỏ nhất.
Nói cách khác, những tiêu chuẩn để đánh giá một cơ cấu hiệu quả của cơ quan
thuế cấp Cục thường là:
- Đạt được các mục tiêu đề ra.
- Sự đổi mới.
- Sự linh hoạt, phản ứng nhanh chóng lại sự thay đổi của môi trường quản lý.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên nâng cao kết quả công việc.
- Sự phối hợp tốt các hoạt động giữa các bộ phận.
Nhiều lúc những tiêu chuẩn đánh giá này có những mâu thuẫn nhau, chẳng hạn để đạt được mức độ hợp tác tốt đôi khi phải hy sinh sự năng động đổi mới.Vì vậy, tùy từng điều kiện yếu tố nào được coi là quan trọng hơn mà đánh giá tính hiệu quả của loại hình tổ chức đang có của cơ quan thuế.
Từ trước đến nay, công tác tổ chức bộ máy của ngành thuế nói chung, Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang nói riêng thường được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề chức năng, nhiệm vụ của ngành thuế (được luật pháp quy định), điều này là đúng nhưng chưa đủ. Một cơ cấu tổ chức hợp lý, khoa học, sẽ là nền tảng cho việc quản lý thuế có hiệu quả. Để tăng cường tính hiệu quả, cơ cấu tổ chức phải gắn liền với mục tiêu của tổ chức và điều kiện chung của đất nước.
+ Đề xuất mô hình tổ chức:
Mục tiêu lớn nhất quản lý thuế tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang phải là phục vụ cho người nộp thuế để họ có điều kiện tốt nhất hoàn thành nghĩa vụ trước pháp luật đồng thời phải đảm bảo hoàn thành kế hoạch thu cấp trên giao. Hiệu quả của quản lý thuế cần được đánh giá bằng hiệu quả phục vụ người nộp thuế để họ hoàn thành tốt nghĩa vụ thuế luật định.
Hiện nay, Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang thực hiện mô hình quản lý theo chức năng. Tuy mô hình quản lý này có nhiều ưu điểm hơn mô hình quản lý theo đối tượng nhưng cũng còn nhiều hạn chế vì vậy việc hoàn thiện mô hình phòng Tuyên truyền và Hỗ trợ người nộp thuế là cần thiết. Trước mắt, có thể áp dụng phân chia việc hỗ trợ theo khu vực kinh tế.
- Về nhân tố con người: Trên cơ sở phân loại cán bộ hàng năm, có kế hoạch sắp xếp cán bộ vào từng khâu công việc theo hướng đổi mới từng bước. Những cán bộ
thuế có trình độ khá, có thể sắp xếp vào các khâu quản lý thuế theo chức năng, để họ có điều kiện phấn đấu học thêm về nghiệp vụ chuyên môn và sử dụng máy tính. Những cán bộ khác chưa sắp xếp được vào các khâu quản lý thuế theo chức năng thì có thể phân công vào các bộ phận khác thích hợp hơn.
- Tăng cường phối hợp giữa các bộ phận chức năng.
Nghiên cứu việc phối hợp hoạt động giữa các bộ phận, các cá nhân trong tổ chức là hết sức quan trọng để có thể lựa chọn một cơ cấu tổ chức phù hợp. Lựa chọn cách thức phối hợp hoạt động của các bộ phận sẽ quyết định kiểu của cơ cấu tổ chức trong đơn vị. Do vậy, cơ chế phối hợp giữa các bộ phận chức năng trong cơ quan thuế cần được cụ thể hóa thành các quy định.
Để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các bộ phận chức năng cần quan tâm hơn nữa đến khâu lập kế hoạch quản lý của tất cả các bộ phận.
3.2.2. Tăng cường thanh tra, kiểm tra nội bộ
Lý luận hiện đại về quản lý đã chỉ ra "kiểm tra là một chức năng quản lý cơ bản ở mọi cấp". Chức năng quản lý của công việc thanh tra kiểm tra nội bộ là đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện để đảm bảo rằng mục tiêu của quản lý thuế đang được hoàn thành.
Công tác thanh tra kiểm tra nội bộ tại cơ quan thuế cần chú trọng đến các nội dung cơ bản: Hệ thống kiểm tra và quá trình kiểm tra
+ Hệ thống kiểm tra nội bộ: Ngay từ khi bắt đầu triển khai mô hình quản lý "tách 3 bộ phận" giai đoạn quản lý thu thuế lợi tức, Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang đã quan tâm đến việc kiểm tra chéo lẫn nhau giữa các bộ phận chức năng trong quy trình quản lý. Tuy nhiên, từ ý đồ đến hiệu quả thực tế còn có khoảng cách quá xa.
Để nâng cao hiệu quả kiểm tra nội bộ, trong thời gian tới cần quan tâm hoàn thiện hệ thống kiểm tra nội bộ theo hai nội dung:
- Kiểm tra có tính chất trực tuyến (cấp trên kiểm tra cấp dưới).
- Kiểm tra giữa các bộ phận ngang cấp (kiểm tra chéo).
Đến nay, Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang mới tập trung nhiều hơn vào hệ thống kiểm tra "trực tuyến" hơn là kiểm tra chéo giữa các bộ phận. Việc hoàn thiện hệ thống kiểm tra nội bộ nên bắt đầu từ việc hoàn thiện cơ chế phối hợp hoạt động giữa các bộ phận chức năng. Cơ chế phối hợp đó phải bao hàm cả nội dung "kiểm tra chéo" lẫn nhau.
+ Quá trình kiểm tra nội bộ:
Về cơ bản quá trình kiểm tra gồm có các bước: (1) xây dựng các tiêu chuẩn (2) đo lường việc thực hiện nhiệm vụ theo các tiêu chuẩn (3) điều chỉnh sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn và các kế hoạch.
Việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang cần đảm bảo các yêu cầu dưới đây:
- Việc thanh tra, kiểm tra cần khách quan.
- Việc thanh tra, kiểm tra cần linh hoạt.
- Việc thanh tra, kiểm tra cần phải tiết kiệm.
- Việc thanh tra, kiểm tra cần phải dẫn đến tác động điều chỉnh.
Thực hiện tốt công tác kiểm tra nội bộ sẽ có căn cứ rõ hơn để đánh giá phân loại chất lượng cán bộ công chức. Qua đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sắp xếp phân công, bổ nhiệm theo đúng khả năng và trình độ đáp ứng với yêu cầu về quản lý thuế trong tình hình mới.
3.2.3. Tăng cường thanh tra, kiểm tra thuế đối với người nộp thuế
Kiểm tra, thanh tra việc kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế của cơ sở kinh doanh vừa là quyền hạn vừa là trách nhiệm của cơ quan thuế đối với người nộp thuế. Điều này đã được quy định tại Điều 15 của Luật thuế TNDN. Ngoài ra, thời hiệu hồi tố xử lý các vi phạm về thuế cũng được quy định là 5 năm. Như vậy, nếu cơ quan thuế thực hiện được tốt các quy định nêu trên sẽ đảm bảo được 2 yếu tố trong việc tuân thủ pháp luật về thuế:
- Nếu tỷ lệ người nộp thuế được kiểm tra quyết toán thuế trong một năm càng cao thì các gian lận về thuế sẽ được phát hiện càng kịp thời.
- Thời gian 5 năm là khá dài để cơ quan thuế có thể đảm bảo kiểm soát tình hình chấp hành luật thuế của người nộp thuế (không đối tượng nào không được thanh tra, kiểm tra quyết toán, không để sót các trường hợp có vi phạm).
Do người nộp thuế và người tiêu thụ trong một nền kinh tế thị trường đều coi thuế như là một phần trong tổng chi phí mà mình phải chịu khi tiến hành sản xuất hoặc tiêu thụ nên họ sẽ tìm mọi cách để giảm bớt yếu tố chi phí này. Một số nhà kinh doanh không coi trốn thuế là vấn đề nghiêm trọng khi cho rằng tiền thuế trốn được suy cho cùng là do họ "làm ra", tiền thuế trốn thực sự không phải là số kiếm thêm được... Một khi vẫn tồn tại những cơ hội có thể tránh được thuế hoặc có thể hối lộ cán bộ thuế mà không bị phát hiện thì những nỗ lực quản lý hệ thống thuế sẽ bị bỏ phí. Do đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế là một việc tất yếu nhằm chống các hành vi gian lận về thuế. Xét đến cùng mục đích thanh tra kiểm trong quản lý thuế phải nhằm phục vụ người nộp thuế nhằm làm cho họ kịp thời nhận ra và khắc phục các sai sót về thuế (cả do chủ quan lẫn khách quan). Và quan trọng nhất là sau đó người nộp thuế sẽ tự giác hơn trong chấp hành đúng pháp luật về thuế chứ không chỉ làm nhằm tăng thu trong thời điểm hiện tại.
Các biện pháp:
+ Tăng cường số lượng cán bộ cho công tác thanh tra, kiểm tra
Ngay tại báo cáo Tổng kết 2006 của Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang cũng đã chỉ ra biện pháp cho năm 2007 là "cần tập trung ít nhất 40% số cán bộ cho công tác thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế, kiểm tra hoàn thuế, xác minh đối chiếu hóa đơn và thực hiệc các công việc kiểm tra thường xuyên khác". Vấn đề đặt ra là phải bố trí sắp xếp hợp lý nhân lực trong từng giai đoạn.
+ Tăng cường khâu kiểm tra từ cơ sở.
Với kế hoạch đề ra, số lượng lớn người nộp thuế được thanh tra thường tập trung vào các đơn vị trọng điểm, các khu vực "nổi cộm". Chính vì vậy, các phòng quản lý phải sắp xếp, chủ động về thời gian, cần tăng cường kiểm tra người nộp
thuế. Đây chính là khâu kiểm tra từ cơ sở. Sự thuận lợi của kiểm tra từ cơ sở thể hiện ở chỗ do các phòng quản lý theo dõi thường xuyên tình hình kê khai nộp thuế của người nộp thuế nên dễ nắm bắt, nhận ra các dấu hiệu bất thường về thuế từ đó công tác kiểm tra được tập trung hơn.
+ Hoàn thiện quy trình quyết toán thuế.
Quyết toán thuế là một công việc có tính chất thường xuyên nhưng đến nay Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang nói riêng, cơ quan thuế của Việt Nam nói chung chưa có một quy trình riêng cho vấn đề này. Trong tương lai gần, ngành thuế nói chung Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang nói riêng cần xây dựng một quy trình quyết toán thuế với việc cụ thể một loạt các vấn đề mà thực tiễn đang đòi hỏi như: cơ chế phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau giữa các bộ phận trong cơ quan thuế, cơ chế động viên khen thưởng với các cán bộ tham gia công tác quyết toán thuế...
+ Phối hợp giữa quản lý thuế TNDN và quản lý các sắc thuế có liên quan (thuế GTGT, thuế thu nhập cá nhân, thuế xuất nhập khẩu).
Phát hiện các gian lận về thuế nói chung, thuế TNDN nói riêng là một công việc phức tạp. Tác giả cho rằng cần phải chia vấn đề "phức tạp" đó thành 2 vấn đề "ít phức tạp" hơn. Cụ thể là gồm:
- Xác định các "dấu hiệu vi phạm".
- Mở rộng điều tra theo hướng mà các "dấu hiệu vi phạm" đã chỉ ra.
Một biện pháp có tác dụng chung cho cả hai vấn đề nêu trên là sử dụng khả năng đối chiếu nhanh, thuận tiện của thuế GTGT.
Hệ thống khấu trừ của thuế GTGT dựa trên cơ sở hóa đơn GTGT phản ánh số thuế đã được thanh toán trên doanh thu tại mỗi khâu của quá trình sản xuất lưu thông từ nguyên liệu đến sản phẩm cuối cùng.
Thời gian qua, các phát hiện gian lận về thuế GTGT đã giúp cơ quan thuế phát hiện nhiều gian lận về thuế TNDN.
Các biện pháp:
* Kiểm tra về doanh thu:
Căn cứ vào báo cáo tài chính, quyết toán thuế TNDN, tờ khai thuế giá trị gia tăng (GTGT) hàng tháng để tiến hành đối chiếu kiểm tra doanh thu trên sổ kế toán:
- Đối chiếu doanh thu trên sổ kế toán (Sổ cái, sổ chi tiết TK 511, 515) xem có khớp với các báo cáo.
- Kiểm tra tính hợp pháp của các khoản giảm trừ doanh thu đã hạch toán trên các tài khoản (TK)521, 531, 532 đối chiếu với hồ sơ, biên bản để xác định nguyên nhân và tính hợp pháp của các khoản giảm trừ.
- Kiểm tra các luồng tiền thanh toán trên TK 111,112,131, để làm rõ các khoản tiền có liên quan đến doanh thu, đối chiếu với hồ sơ khai thuế kiểm tra tính chính xác của hồ sơ khai thuế.
- Kiểm tra các báo cáo nhập, xuất, tồn kho hàng, hoá vật tư để xác định xem doanh nghiệp có trốn doanh thu.
- Kiểm tra các báo cáo nhập xuất tồn kho vật tư, hàng hoá đối chiếu với các tài khoản liên quan để phát hiện doanh nghiệp nhập kho vật tư, hàng hoá đúng giá trên hoá đơn nhưng ghi sổ với số lượng ít hơn như vậy khi đưa vào sản xuất hoặc giá vốn hàng hóa bán ra cao hơn thực tế nhập kho. Phần chênh lệch dôi ra về lượng sẽ là phần doanh nghiệp trốn doanh thu, trốn thuế giá trị gia tăng (GTGT) và trốn thuế TNDN.
* Kiểm tra về chi phí:
Trước hết phải tìm hiểu mô hình công tác quản lý, phương pháp tổ chức hạch toán kế toán của doanh nghiệp thông qua phỏng vấn, tìm hiểu qui mô, qui trình công nghệ sản xuất kinh doanh. Từ đó xác định để sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần có những khoản chi phí, nguyên vật liệu gì, tỷ trọng của từng loại nguyên vật liệu, chi phí trên tổng giá trị của sản phẩm hàng hoá.
- Kiểm tra báo cáo nhập, xuất, tồn kho vật tư hàng hoá đối chiếu với các tài khoản (TK) liên quan (TK 621, 623, 154, 155,156,157,632...) và định mức kinh tế kỹ thuật, từ đó xác định các loại vật tư hàng hoá thực chất có phục vụ cho sản xuất kinh doanh hay không, có phù hợp với qui mô, qui trình sản xuất kinh doanh thực
tế hay không.
- Kiểm tra chi phí tiền lương, tiền công và các khoản chế độ trích theo lương: Kiểm tra đơn giá tiền lương hạch toán trong chi phí sản xuất kinh doanh (SXKD) đã phù hợp với qui mô, qui trình SXKD của doanh nghiệp, đối chiếu với phương án trả lương và tiền lương thực tế đã thanh toán cho người lao động có đúng không để từ đó phát hiện việc trích lương vào giá thành sản phẩm và chi phí cao nhưng thực tế thanh toán lương lại thấp để trốn thu nhập chịu thuế.
- Ngoài ra khi kiểm tra các khoản chi phí khác cần lưu ý đến các khoản trích trước trong năm, các khoản chi phí chờ phân bổ, các khoản trích và hoàn nhập dự phòng có đảm báo đúng niên độ kế toán, đúng chế độ chính sách không.
- Kiểm tra phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang, phương pháp xác định
giá vốn hàng tồn kho cuối kỳ của người nộp thuế. Trên cơ sở đó tính toán chính xác giá vốn hàng bán khi xác định thu nhập chịu thuế trong năm của doanh nghiệp.
- Đối với các doanh nghiệp đang trong thời gian miễn, giảm thuế phải kiểm tra xem có đủ điều kiện để miễn, giảm không, mặt hàng nào được miễn, giảm và được miễn, giảm những loại thuế gì, thuế suất, thời gian miễn giảm là bao lâu, phương pháp phân bổ chi phí cho hoạt động chịu thuế, hoạt động không chịu thuế, hoạt động được miễn, giảm thuế đã chính xác chưa.
Để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thì cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện chế độ đối chiếu hóa đơn GTGT thành một công tác có tính chất bắt buộc và thường xuyên. Với khối lượng chứng từ khổng lồ của nền kinh tế thì chỉ có máy tính hóa việc phát hành hóa đơn mới giúp cho việc đối chiếu hóa đơn trở thành một công cụ hữu hiệu chống gian lận về thuế được.
+ Phối hợp giữa ngành thuế và các cơ quan liên quan.
Ngành thuế và các ngành có liên quan cần tăng cường sự phối hợp quản lý các giao dịch, các hoạt động của người nộp thuế hơn nữa. Cụ thể là vấn đề đối chiếu hóa đơn chứng từ không nên chỉ giới hạn trong ngành thuế mà cần mở rộng sang cả đối chiếu với ngành khác (thông qua phiếu xác minh hóa đơn) thì sẽ dễ dàng
phát hiện ra các gian lận về thuế.
Ngoài ra, một số cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành cũng có rất nhiều thông tin về hoạt động của người nộp thuế cũng là nguồn cung cấp cho cơ quan thuế nhằm phát hiện các gian lận về thuế. Tuy nhiên, hiện nay việc xác minh kiểu này cũng chưa phát triển và cũng chưa có cơ chế cụ thể trong việc phối hợp.
+ Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm và khen thưởng các đối tượng nộp thuế tốt.
Cần duy trì thường xuyên và đa dạng hóa các hình thức tôn vinh người nộp thuế chấp hành tốt pháp luật thuế.
3.2.4.Vận dụng marketing hiện đại trong công tác hỗ trợ người nộp thuế và tuyên truyền pháp luật về thuế TNDN
Quản lý thuế là một dạng quản lý đặc biệt có liên quan mật thiết đến khả năng, sự tự giác chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế. Hỗ trợ người nộp thuế là
tất yếu và là nội dung quan trọng trong tổ chức công tác quản lý thuế nói chung, quản lý thuế TNDN nói riêng bởi các lý do sau:
- Đặc điểm của pháp luật Việt Nam (chưa hoàn thiện) đòi hỏi tất yếu phải có có sự hỗ trợ từ phía cơ quan thuế đối với người nộp thuế . Do đó, vận dụng marketing hiện đại trong công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế và tuyên truyền pháp luật về thuế TNDN là điều tất yếu.
+ Vận dụng marketing hiện đại trong công tác hỗ trợ người nộp thuế.
Để đảm bảo duy trì và phát triển nguồn thu thuế TNDN thì cơ quan thuế cần quan tâm cung cấp "các dịch vụ công" cho người nộp thuế trong quá trình quản lý thuế của mình.
Tư duy marketing bắt đầu từ những nhu cầu và mong muốn thực tế của con người. Vận dụng các khái niệm cơ bản về marketing sẽ giúp cơ quan thuế xác định những vấn đề có tính nguyên tắc trong quá trình phục vụ đối tượng nộp thuế là:
- Coi người nộp thuế là khách hàng để phục vụ.
- Nghiên cứu làm rõ nhu cầu, mong muốn và yêu cầu của người nộp thuế.
- Nghiên cứu các hình thức đáp ứng như cầu của khách hàng dưới dạng như là
một "sản phẩm" trong cơ chế thị trường.
Cho đến nay, quy trình quản lý thuế về cơ bản vẫn dựa trên quan niệm cũ coi người nộp thuế là đối tượng bị quản lý. Do đó, quan hệ giữa cơ quan thuế và người nộp thuế cũng vì thế không thể coi là "thân thiện" vì lợi ích của hai phía là trái ngược nhau. Quan niệm "người nộp thuế là khách hàng thân thiết của cơ quan thuế" sẽ là sự đổi mới phù hợp với môi trường quản lý thuế đã có nhiều thay đổi. Thỏa mãn nhu cầu của nhau chính là yêu cầu cốt yếu để tạo nên mối quan hệ gắn bó, thân thiện giữa cơ quan thuế và người nộp thuế.
+ Những đòi hỏi của người nộp thuế đối với cơ quan thuế:
Người nộp thuế thuế cần sự hỗ trợ của cơ quan thuế trong việc nhận thức các nghĩa vụ mà họ phải thực hiện trong quá trình chấp hành pháp luật thuế. Người nộp thuế khác nhau cần sự hỗ trợ khác nhau từ cơ quan thuế. Sự đối xử công bằng của cơ quan thuế, không phân biệt thành phần kinh tế cũng sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh cho người nộp thuế trong nền kinh tế quốc dân. Trong công tác quản lý thuế, cơ quan thuế phải tôn vinh người nộp thuế chấp hành tốt luật thuế trên phương châm: "tiền thuế là của nhân dân, do nhân dân làm ra và vì nhân dân".
+ Những đòi hỏi của cơ quan thuế đối với người nộp thuế:
Đòi hỏi lớn nhất chính là sự tự giác chấp hành pháp luật về thuế của người nộp thuế. Cơ quan thuế các cấp phải đảm bảo yêu cầu "thu đúng, thu đủ, thu kịp thời" trước Nhà nước. Do đó, cơ quan thuế tất yếu đòi hỏi người nộp thuế phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc "thu đúng, thu đủ" trên cơ sở thực thi các quyền hạn mà pháp luật quy định dành cho cơ quan thuế. Bên cạnh đó, sự tự giác của người nộp thuế trong việc nộp kịp thời các khoản phải nộp trên cơ sở "tự tính, tự khai" là những điều kiện thuận lợi để cơ quan thuế hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Các biện pháp xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa cơ quan thuế và người nộp thuế:
+ Tăng cường đối thoại với người nộp thuế bằng nhiều hình thức phong phú,
thiết thực.
Vận dụng marketing trong công tác hỗ trợ người nộp thuế không nên quan niệm rằng chỉ là việc của phòng Tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế và cá nhân nộp thuế. Công tác hỗ trợ người nộp thuế phải được hiểu theo nghĩa rộng, đó là sự hỗ trợ trong tư vấn, hỗ trợ trong mọi giao dịch, tiếp xúc người nộp thuế với cơ quan thuế. Với quan niệm như vậy, phải xác định rằng mọi bộ phận trong cơ quan thuế đều có trách nhiệm hỗ trợ, phục vụ người nộp thuế. Nói cách khác là mọi bộ phận trong cơ quan đều phải tham gia "marketing thuế".
Vận dụng marketing trong hỗ trợ người nộp thuế cần phải coi hỗ trợ người nộp thuế là cung cấp cho người nộp thuế một "sản phẩm dịch vụ". Đặc điểm cơ bản của sản phẩm dịch vụ là tính vô hình, tính không tách rời được và tính không ổn định. Ví dụ: "tư vấn thuế" là một sản phẩm vô hình, chất lượng tư vấn của các cán bộ thuế khác nhau là khác nhau (tức là không ổn định), "người cung ứng" và "khách hàng" tác động qua lại với nhau trong quá trình cung cấp dịch vụ tư vấn thuế công...
Các vấn đề cần quan tâm là:
- "Hữu hình hóa" sự hỗ trợ người nộp thuế: Nhiệm vụ của cơ quan thuế là "vận dụng những bằng chứng" để "làm cho cái vô hình trở thành hữu hình". Để có thể tin tưởng vào sự hỗ trợ của cơ quan thuế, người mua - người nộp thuế sẽ tìm kiếm các dấu hiệu hay bằng chứng về chất lượng dịch vụ "hỗ trợ" của cơ quan thuế. "Người mua" sẽ suy diễn về chất lượng dịch vụ từ địa điểm, con người, trang thiết bị, tài liệu thông tin... Do đó, cơ quan thuế cần quan tâm đến các vấn đề nàỵ
- Đảm bảo tính "ổn định" của chất lượng dịch vụ hỗ trợngười nộp thuế bằng cách luân chuyển cán bộ có kinh nghiệm, có trình độ cao tham gia công tác tư vấn thuế...
- Về tính "không tách rời được": kỹ năng làm việc với người nộp thuế như là các "khách hàng" của mọi nhân viên thuế nói chung, cán bộ tư vấn thuế nói riêng cần được đào tạo, rèn luyện một cách "bài bản" nhằm tăng tính chuyên nghiệp, sự tin tưởng từ người nộp thuế và hiệu quả của tư vấn thuế cao nhất.
Có thể chỉ ra một số biện pháp thực hiện như sau:
- Nghiên cứu khảo sát nhu cầu hỗ trợ, tư vấn thuế trên cơ sở phân loại đối tượng nộp thuế.
- Đa dạng hóa các hình thức tư vấn thuế.
- Từng bước hình thành phong cách ứng xử văn hóa "phục vụ người nộp thuế" tại công sở cơ quan thuế.
- Chuẩn hóa các thủ tục hành chính tại mỗi bộ phận giao dịch với người nộp thuế (cấp mã số, bán hóa đơn, nhận tờ khai, xử lý khiếu nạị..) và có nhiều bảng chỉ dẫn công khai, rõ ràng.
+ Tuyên truyền pháp luật về thuế.
Công tác tuyên truyền về pháp luật nhất là pháp luật về thuế cần phải hết sức coi trọng không kém phần xây dựng, ban hành luật. Vì vậy cần quan tâm hơn đến các vấn đề sau nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền pháp luật về thuế. Bản thân cơ quan thuế, các công chức thuế phải nghiêm túc, làm tốt quy trình của ngành. Từ đó, các xử lý về thuế trong mọi trường hợp phải nhất quán không phân biệt đối tượng. Khi đó, người nộp thuế sẽ tin tưởng hơn vào sự nghiêm minh của pháp luật thuế. Ví dụ như: khâu đôn đốc, cưỡng chế thu nộp ngân sách phải đảm bảo thu kịp thời mọi khoản nghĩa vụ thuế không phân biệt lớn hay nhỏ. Nếu để tình trạng DNNN thì có thể được nợ đọng thuế (bất kể lý do khách quan hay chủ quan) thì sẽ rất khó yêu cầu cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải nghiêm túc nộp đúng thời hạn mà không có sự so sánh.
3.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác của cán bộ ngành thuế
Ở mức tối thiểu, cơ quan thuế các cấp đều yêu cầu nhân viên của mình phải hoàn thành nhiệm vụ, đạt những tiêu chuẩn, định mức đặt ra, chấp hành đúng những chính sách, quy định của cơ quan. Tuy nhiên, thực tế thì cơ quan thuế phải yêu cầu đội ngũ nhân viên của mình nhiều hơn mức tối thiểu, cơ quan thuế yêu cầu nhân viên không chỉ biết "làm đúng, chấp hành đúng", mà còn phải làm việc một cách sáng tạo, biết tìm ra và "làm những cái đúng" mà không cần ai phải thúc giục, kiểm tra.
Các biện pháp:
- Các chỉ tiêu đánh giá cán bộ công chức thuế cần được chi tiết hóa cho từng bộ phận để tăng cường trách nhiệm của từng cán bộ thuế.
- Xây dựng cơ chế phát huy sáng kiến, sự sáng tạo của công chức thuế trong
việc vận dụng các thành tựu kỹ thuật và quản lý hiện đại.
3.3 - NHỮNG KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ :
3.3.1.1.Hoàn thiện Luật thuế TNDN và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Chính sách thuế gắn liền với chính sách phát triển của mọi quốc gia. Đối với những quốc gia đang thực hiện nền kinh tế chuyển đổi, hội nhập quốc tế thì chính sách thuế năng động, phù hợp càng trở nên cực kỳ quan trọng. Quản lý thuế nhằm
mục tiêu thực hiện tốt các "chính sách thuế năng động" đã được ban hành. Do vậy, công tác quản lý thuế trước hết phải luôn vận động, thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của chính sách thuế hiện hành.
Mặc dù đề tài nghiên cứu về quản lý thuế TNDN nhưng những bất cập trong chính sách thuế và các văn bản pháp quy có liên quan ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý thuế. Để đảm bảo tính khả thi của các giải pháp về quản lý thuế thì tất yếu phải khắc phục các bất cập của chính sách thuế TNDN và các văn bản pháp luật có liên quan. Tất cả các tồn tại của luật thuế TNDN và các văn bản dưới luật cần được sớm nghiên cứu làm rõ và hoàn thiện.
Về phân công cơ quan hoạch định chính sách thuế
Ngày 03/6/2008 Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3 thông qua Luật thuế Thu nhập Doanh nghiệp số 14, trong đó có một số nội dung mới sửa đổi, bổ sung về đối tượng nộp thuế, thu nhập được miễn thuế, thuế suất, ưu đãi thuế ... nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về hội nhập trong những năm tới, phù hợp với thông lệ quốc tế. Nội dung của Luật đang được Cục Thuế các tỉnh, thành phố tổ chức nghiên cứu các nội dung sửa đổi và căn cứ tình hình thực tế địa phương có đề xuất để sửa đổi phù hợp với quy định của pháp luật và thuận tiện trong quá trình quản lý, trên cơ sở đó chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện từ 01/01/2009.
Không nên để cho Tổng cục Thuế vừa hành thu vừa trực tiếp soạn thảo văn bản sửa đổi bổ sung các loại thuế để trình Nhà nước ban hành. Cần có một bộ phận độc lập, chuyên trách làm công tác hệ thống hóa lại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế nói chung, thuế TNDN nói riêng theo hướng: giảm bớt số lượng văn bản; hệ thống lại các quy định của từng sắc thuế một cách rõ ràng, đơn giản hóa và làm thành các ấn phẩm phù hợp để quảng bá chính sách thuế trong dân chúng.
3.3.1.2. Luật quản lý thuế
Luật Quản lý thuế được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10, khóa XI và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Mục đích chung nhất của việc xây dựng luật về quản lý thuế là nhằm giúp người nộp thuế có điều kiện thuận lợi nhất để họ tự giác chấp hành luật thuế.
Nội dung của Luật quản lý thuế đã đề cập đến các vấn đề cơ bản sau:
Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế.
Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế.
Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt.
Quản lý thông tin về người nộp thuế.
Kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
Xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
Nhưng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Quản lý thuế ban hành chưa kịp thời, đồng bộ, các quy trình Quản lý thuế ban hành chậm ... dẫn đến việc giải
quyết một số công việc tại cơ sở còn vướng mắc.
3.3.1.3. Hoàn thiện chính sách lương, thưởng đối với công chức thuế
Trong những năm gần đây, ngành thuế đã được Chính phủ cho phép thí điểm khoán chi hành chính. Đây thực sự một điều kiện thuận lợi để ngành thuế có điều kiện chủ động kiện toàn các mặt quản lý thuế, tiết kiệm chi phí từ đó nâng cao hơn nữa đời sống của cán bộ công chức trong ngành.
3.3.1.4. Xây dựng Luật cán bộ, công chức
Đội ngũ công chức nói chung, công chức thuế nói riêng tuân thủ theo quy định tại Pháp lệnh cán bộ công chức ban hành từ năm 1998. Một trong những nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và công dân được quyền làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm ; cán bộ, công chức thuế chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định. Theo đó, cán bộ, công chức thuế được trao quyền để thực thi công vụ. Đồng thời, cán bộ, công chức thuế có bổn phận phục vụ xã hội và công dân mà trực tiếp là các người nộp thuế; chịu những ràng buộc nhất định do liên quan đến chức trách đang đảm nhiệm.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp dành cho cán bộ thuế chưa được xây dựng một cách chi tiết. Những căn cứ pháp lý quan trọng nhất trong quản lý, đánh giá cán bộ công chức thuế là "10 Điều kỷ luật của cán bộ thuế" được ban hành năm; Những tiêu chuẩn cần “ Xây” và những điều cần “Chống” là để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành thuế ban hành năm 2005 và gần đây nhất là Quy định tiêu chuẩn văn hóa công sở và đạo đức cán bộ thuế (ngày 25/10/2007 của Tổng cục Thuế) nhưng những quy định đó đều rất khái quát.
Do vậy, trong thời gian tới các cơ quan chức năng của Nhà nước cần sớm nghiên cứu hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế công chức, tiến đến xây dựng Luật cán bộ, công chức làm cơ sở pháp lý và khoa học cho việc xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ công chức thuế nói riêng.
3.3.2. Kiến nghị với Tổng cục Thuế
Đổi mới công tác đào tạo cán bộ công chức thuế
Quản lý là hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo sự hoàn thành công việc qua những nỗ lực của người khác. Cho nên, mục tiêu của quản lý thuế phải được thực hiện một cách chủ động (qua sự tự giác thực hiện của người nộp thuế) chứ không phải một cách bị động (cán bộ thuế "đi thu" thuế). Với cách đặt vấn đề như vậy, công tác đào tạo (và đào tạo lại) cho cán bộ công chức thuế phải được đổi mới.
Việc "tập huấn nghiệp vụ" do Tổng cục Thuế tổ chức cho Cục Thuế các tỉnh hiện nay về thực chất mới dừng ở mức là "phổ biến" chính sách thuế là cần thiết nhưng chưa đủ. Vì vậy, muốn quản lý thuế tốt, cán bộ công chức thuế phải thực sự được đào tạo (và đào tạo lại) "nghề quản lý" theo chức năng. Công tác đào tạo cho cán bộ công chức thuế không chỉ thuần tuý nhằm trang bị "hiểu biết", mà phải đào tạo cả các "kỹ năng" quản lý cần thiết. Công tác đào tạo phải nhằm thực hiện mục đích của công tác quản lý thuế theo nghĩa rộng chứ không chỉ là "thu hoàn thành kế hoạch".
3.3.3. Kiến nghị với Cấp ủy, chính quyền địa phương
Tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức Đảng các cấp tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang
Quản lý thuế là một công tác kinh tế chính trị tổng hợp. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, ngành thuế không thể quản lý thuế tốt nếu không sử dụng được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống quản lý nhà nước của trung ương và địa phương. Để đảm bảo sự thành công của quản lý thuế tất yếu phải có những điều kiện nhất định. Trước hết đó là sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và các cấp lãnh đạo.
Tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức Đảng các cấp tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang sẽ đảm bảo cho cán bộ công chức ngành thuế Tuyên Quang không những phát huy hết khả năng chuyên môn, tuân thủ quy trình nghiệp vụ mà còn đảm bảo
mỗi cán bộ công chức phải tuân thủ nghiêm ngặt đạo đức nghề nghiệp trong điều kiện môi trường quản lý có quá nhiều yếu tố phức tạp, luôn thay đổi.
Tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức Đảng các cấp tại Cục Thuế tỉnh Tuyên
Quang nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ công chức thuế “Trung thành, trí tuệ,chuyên nghiệp, sáng tạo, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
3.3.4. Kiến nghị với Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang
Hiện đại hóa công tác quản lý thuế và giải pháp cho hệ thống xử lý thông tin
Dự án hiện đại hóa ngành tài chính giai đoạn 2005-2010 đã chỉ ra biện pháp thực hiện là tiến hành đồng thời 3 quá trình: hoàn thiện hệ thống nghiệp vụ, kiện toàn tổ chức bộ máy và hiện đại hóa hệ thống thông tin. Do đó, hiện đại hóa công tác quản lý thuế cần hướng tới mục tiêu quản lý trực tiếp bằng máy tính trên cơ sở cải cách quy trình, nghiệp vụ quản lý thuế một cách sâu rộng, tiến tới thực hiện kê khai thuế điện tử.
Biện pháp thực hiện:
- Các thủ tục hành chính thuế cần cải cách theo hướng đơn giản dần nhằm giảm khối lượng công việc sự vụ cho cơ quan thuế và người nộp thuế. Trên cơ sở đó, sẽ giảm tính phức tạp của việc xử lý thông tin quản lý thuế. Nghiệp vụ thuế phức tạp và hay thay đổi sẽ kéo theo các chương trình quản lý thuế trên máy tính cũng phải thường xuyên sửa đổi, gây khó khăn cho hệ thống quản lý thu của ngành thuế.
- Tăng cường các phần mềm ứng dụng.
Việc triển khai các phần mềm quản lý tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang phụ thuộc nhiều vào điều hành chung của Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính (Cục Ứng dụng công nghệ thông tin). Để chủ động hơn trong thời gian trước mắt, mỗi Cục Thuế nói chung, Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang nói riêng hoàn toàn có khả năng tận dụng đội ngũ cán bộ tin học sẵn có để xây dựng các phần mềm ứng dụng quy mô vừa, sử dụng trong phạm vi các mạng cục bộ với mục tiêu khai thác tối đa các trang thiết bị hiện có. Tuy nhiên, một ứng dụng tin học chỉ được đưa ra thôi chưa đủ. Vấn đề quan trọng là phải gắn chặt nhu cầu của các bộ phận chức năng với quá trình xây dựng các phần mềm ứng dụng trong quá trình vận hành.
KẾT LUẬN
Với những nội dung phân tích ở từng chương, chuyên đề tài đã cố gắng thực hiện các mục tiêu, yêu cầu đề ra của đề tài với những vấn đề chủ yếu như sau:
Nghiên cứu về quản lý thuế chỉ gồm khâu thực hiện chính sách thuế. Chính sách thuế được đề cập chỉ là những nội dung có liên quan, mang ý nghĩa bổ trợ cho vấn đề chính cần phân tích.
Nhận thức và vận dụng lý luận về các chức năng trong các lĩnh vực quản lý thuế, đúng với các nguyên tắc quản lý hiện đại trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một vấn đề mà các chủ thể quản lý thuế tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang cần quan tâm. Các hạn chế chủ yếu của công tác quản lý thuế TNDN tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang là: cơ cấu tổ chức, quản lý thuế mới nhằm tăng thu thuần túy chứ chưa hướng tới sự tự giác cao của người nộp thuế, chưa hướng tới "tương lai".
Hoàn thành nhiệm vụ thu cấp trên giao cho được coi là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất đối với Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang trong công tác quản lý thuế nói chung, quản lý thuế TNDN nói riêng.
Công tác thanh tra kiểm tra người nộp thuế hiện tại mới chỉ nhằm tăng thu thuần túy. Tình trạng hầu như cứ kiểm tra, thanh tra bất cứ doanh nghiệp nào cũng phát hiện ra sai phạm về thuế ở một mức độ nào đó phản ánh hiệu quả công tác quản lý thuế là chưa cao. Như thế, công tác quản lý thuế chưa nhằm tới mục đích nâng cao tính tự giác chấp hành luật thuế của các người nộp thuế .
Mục tiêu công tác quản lý thuế TNDN tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang cần được xác định đầy đủ hơn, "rộng" hơn: ngoài việc hoàn thành kế hoạch thu được giao thì việc nuôi dưỡng phát triển nguồn thu, tăng cường sự tự giác, minh bạch trong chấp hành luật thuế, thực hiện các mục tiêu vốn có của từng sắc thuế.
Mô hình quản lý thuế theo đối tượng nộp thuế đã bộc lộ nhiều bất cập không phù hợp với tình hình mới của công tác quản lý thuế nói chung, thuế TNDN nói riêng. Mô hình tổ chức theo hướng quản lý theo chức năng , thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao tính tự giác chứ không chỉ nhằm tăng thu thuần túy, là các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý thuế TNDN tại Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang.
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tc-54.doc