Đề tài Tăng cường sử dụng chính sách thay thế tín dụng bằng thuê mua đối với tài sản cố định của công ty

Tín dụng thuê mua là việc doanh nghiệp tạo vốn bằng cách thuê trang bị, vật tư công cụ và tài sản cố định khác sử dụng cho kinh doanh. Có thể nói đây là hình thức tạo vốn khá phổ biến cho hệ thống tài chính các nước kinh tế thị trường phát triển. Với hình thức nay, doanh nghiệp được sử dụng vốn như chính mình là người sở hữu với giá thuê định trước trong hợp đồng thuê mua, doanh nghiệp có quyền trả lại tài sản đã thuê hoặc mua với giá còn lại hoặc tiếp tục thuê với giá thoả thuận mới (có thể với giá thuê thấp hơn, thường là giá ưu đãi). Thực chất của tín dụng thuê mua là công ty cho thuê mua tài sản, thiết bị theo dự án đầu tư của doanh nghiệp đi thuê về chất lượng, chủng loại, giá cả bằng nguồn vốn của công ty mình và quyền sở hữu tài sản đó đứng tên doanh nghiệp cho thuê mua. Và doanh nghiệp đi thuê giả dần giá trị tài sản hoặc thiết bị thuê đó hàng năm theo hợp đồng ký kết, thường thời gian đi thuê phải lớn hơn hoặc bằng 90% thời gian hữu dụng của tài sản hay thiết bị đó. Trong nhiều trường hợp, một doanh nghiệp bán cho công ty thuê mua tài sản của mình, sau đó lại thuê lại của công ty trên ngay chính tài sản đó để sử dụng. Qua phân tích tình hình tài chính của công ty xây dựng số 34 ta nhận thấy, tình trạng hiện nay của công ty là đang gặp khó khăn nhiều về máy móc thiết bị thi công và phương tiện vận chuyển. Muốn đầu tư vào tài sản cố định thì công ty phải có một lượng vốn rất lớn, theo số liệu cung cấp của phòng kinh tế – kế hoạch – tiếp thị quy mô khách hàng của công ty có thể tăng mạnh từ giữa năm 2002 (khách hàng tiềm năng) nên nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định là rất cao, theo số liệu trong bản kế hoạch năm 2002 của phòng kinh tế – kế hoạch – tiếp thị ở công ty thì cần khoảng 5 –7 tỷ đầu tư vào tài sản cố định. (nhìn bảng 1)

doc69 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1246 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường sử dụng chính sách thay thế tín dụng bằng thuê mua đối với tài sản cố định của công ty, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o vòng quay vốn bằng tiền giảm 24,35 vòng (giảm 48,4%). Năm 2001 vốn bằng tiền giảm 103 785 352 đồng (giảm 6.11%), trong đó, tiền mặt tại quỹ tăng là do công ty dự tính trả nợ vay ngắn hạn ngân hàng do công tác kế toán dồn nhiều vào cuối năm nên công ty chưa kịp thanh toán các khoản nợ đến hạn với ngân hàng. Đó là một dấu hiệu tốt vì công ty đã linh hoạt, nhanh chóng hơn trong việc giải quyết nợ ngắn hạn bằng cách tận dụng tối đa tiền vốn quỹ. Do vậy, vòng quay tiền của công ty năm 2001 tăng so với năm 2000 là 8,41 vòng (tăng 32.45%). Vì vậy, vay ngân hàng của công ty đến cuối năm 2001 còn 26 289 451 683 đồng (58,32%) giảm được 1 864 492 630 đồng (giảm 6,62%). Theo ý kiến của các nhà quản lý và kế toán trưởng của công ty thì nhu cầu vốn bằng tiền thường dao động từ 950 000 000 đồng đến 1 200 000 000 đồng, như vậy, lượng vốn bằng tiền của công ty như hiện nay đã lãng phí ít nhất là 395 019 667 đồng nằm nhàn rỗi trong quỹ và trong tài khoản ngân hàng. Tiền mặt là một loại tiền linh động nhất dễ dàng dùng nó để thoả mãn mọi nhu cầu trong quá trình kinh doanh nhưng tiền mặt hầu như không đem lại một khoản thu nhập nào nên cũng dễ hiểu nếu công ty giảm thiểu khoản này đến mức có thể. Nhưng cũng không phải các khoản này càng nhỏ hoặc bằng không thì tốt mà nó phải đảm bảo ở một mức naò đó phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, tiền giảm có nghĩa là tính chủ động tài chính trong việc mở rộng quy mô, chớp lấy thời cơ kinh doanh thuận lợi, có thể bị giảm sút. Điều này đòi hỏi công ty phải điều chỉnh lượng tiền một cách hợp lý. Như vậy, qua tỷ lệ vòng quay tiền cho thấy công ty có nhiều cố gắng trong việc sử dụng tiền, đưa tiền vào quay vòng nhiều hơn, với số tiền ít hơn nhưng doanh thu vẫn tăng. - Vòng quay hàng tồn kho Hàng tồn kho của công ty xây dựng gồm: nguyên vật liệu – công cụ dụng cụ, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang thuộc hàng hoá tồn kho. Khoản mục hàng tồn kho chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng tài sản lưu động (1999 là 7.95%; 2000 là 8.15%; 2001 là 14.34%). Công ty phần lớn chỉ thi công những công trình nhận thầu hay theo đơn đặt hàng, vì thế công ty không có thành phẩm tồn kho mà chủ yếu chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và hàng hoá tồn kho. Khoản mục này chiếm 95.71% tổng lượng hàng tồn kho 1999 và 97.58% tổng lượng hàng tồn kho 2000 và 98.53% tổng lượng hàng tồn kho 2001. Hệ số vòng quay kho của công ty ngày càng giảm từ 18.06 vòng năm 1999 xuống còn 11.77 vòng năm 2000, 9.07 vòng năm 2001. Điều đó là do giá cả nguyên vật liệu trên thị trường biến động nên vào cuối năm 2001 công ty tăng mức dự trữ nguyên vật liệu để có thể tiết kiệm được vốn, cung cấp được kịp thời nguyên vật liệu cho các công trình xây dựng. - Kỳ thu tiền bình quân của công ty ngày càng có xu hướng giảm, vốn của công ty ít bị chiếm dụng và không gây ứ đọng trong khâu thanh toán, khả năng thu hồi vốn của công ty cũng tăng lên . Từ đó công ty có thêm nhiều cơ hội trong kinh doanh ứng với số vốn thu hồi đó. Năm 1999 và 2000 kỳ thu tiền bình quân vẫn giữ nguyên, sang năm 2001 giảm38.62% là do tốc độ khoản phải thu giảm 23.12% trong khi doanh thu thuần tăng 24.35% điều đó cho thấy công ty đã có những tiến bộ trong cộng tác quản lý các khoản phải thu và có quan hệ tốt với các bạn hàng. - Khoản phải thu là giá trị tài sản của doanh nghiệp bị các đơn vị khác chiếm dụng hợp pháp hoặc không hợp pháp. Khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động năm 1999 là 80.42%, giảm 52.23% năm 2000, giảm 23.1% năm 2001. Giảm khoản phải thu do chính sách thắt chặt tín dụng như phạt 5% đối với những khoản nợ tới hạn mà chưa kịp thanh toán trong vòng 15 ngày… từ đấy nhằm góp phần tăng doanh số của công ty. Năm 1999 tỷ trọng phải thu khách hàng chiếm 79.7% năm 1999, 86.9% năm 2000, 97.1% năm 2001 trong tổng số khoản phải th, từ đó, cho thấy vốn công ty đang bị chiếm dụng nhiều. Bên cạnh đó thì công ty lại chiếm dụng của người bán ngày càng tăng : tỷ trọng của nó chiếm 20,27% năm 1999, 3% năm 2000, 0,24% năm 2001 trên khoản phải thu Trong khi đó tốc độ giảm của phải trả người bán lớn hơn so với tốc độ tăng của phải thu khách hàng (năm 2000 so với năm 1999) và tốc độ giảm của khoản phải thu khách hàng năm 2001 nhỏ hơn tốc độ giảm của phải trả người bán. Như vậy, tình hình tài chính của công ty là tương đối khả quan. 2.4 Nhóm hệ số cơ cấu vốn, hệ số nợ, cơ cấu tài sản - Hệ số nợ được đo bằng tổng nợ chia cho tổng nguồn vốn, nó cho biết một đồng vốn đảm bảo thanh toán được cho mấy đồng nợ. Nhìn vào bảng 9, ta thấy hệ số nợ cả 3 năm đều lớn hơn 0.8 (năm 1999: 0,878, năm 2000: 0,929, năm 2001: 0,836%) chứng tỏ công ty đã rất cố gắng trong việc chiếm dụng vốn của nhà cung cấp và tình hình nợ của công ty là khá an toàn (vì một đồng vốn đảm bảo thanh toán được cho 0,8 đồng nợ). Điều đó còn được chứng minh qua hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu giảm dần qua các năm : 0,0095 năm 1999; 0,055 năm 2000; 0,0028 năm 2001. Nhưng về tỷ trọng cơ cấu nợ của công ty chưa thật hợp lý vì nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao hơn rất nhiều so với nợ dài hạn (năm 2001 nợ ngắn hạn chiếm 83,66% thì nợ dài hạn chiếm 13,31%). Hệ số cơ cấu tài sản cho biết 100 đ tài sản công ty năm 1999 có 0.056đ tài sản cố định và 0.94đ tài sản lưu động, năm 2000 có 0.061đ tài sản cố định và 0.937đ tài sản lưu động , năm 2001 có 0,096đ tài sản cố định và 0,9đtài sản lưu động. Như vậy năm 2000và 2001 sự chênh lệch theo xu hướng ngáy càng tăng đối với tài sản cố định và ngày càng giảm đối với tài sản lưu động. Điều này về trước mắt thì tốt nhưng về lâu dài thì không tốt. Do đó công ty phải chú ý phát huy và nâng cao được công suất của tài sản cố định để đáp ứng được nhu cầu xây dựng ngày càng tăng của thị trường thêm vào đó lại vừa tạo ra được một thế cân đối tài sản hợp lý. Hệ số cơ cấu nguồn vốn : thông thường các nhà tài chính cho rằng tỷ lệ này 50% là hợp lý. Nhưng với Công ty thì năm 2000 so với năm 1999 tỷ lệ này giảm 42,1% do tốc độ giảm của nguồn vốn chủ sở hữu là 0,7% nhỏ hơn tốc độ tăng của tổng nguồn vốn là 70,58%. Năm 2001 so với năm 2000 tỷ lệ này tăng 132,87% do tốc độ tăng của nguồn vốn chủ sở hữu là 120,98% lớn hơn tốc độ giảm của tổng nguồn vốn 4,62%. Như vậy, thể hiện mức độ tự chủ về tài chính của công ty là không hợp lý vì phần tài sản tài trợ bằng vốn đi vay lớn hơn là phần tài sản được tài trợ bằng vốn tự có của mình. Nhưng hầu hết đây đều là điều hết sức phổ biến ở mọi doanh nghiệp xây dựng đặc biệt đối với công ty thuộc doanh nghiệp nhà nước nếu chỉ dựa vào vốn chủ sở hữu của mình thì không đủ mà phải tích cực đi vay, hơn nữa nhiều doanh nghiệp thích dùng nợ để kinh doanh hơn vốn tự có vì nguồn vốn này sẽ thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn, tự giác hơn. Nhưng công ty nên cần có khoản vốn dự phòng để có thể chủ động hơn về tài chính trường hợp thời hạn thanh toán các khoản nợ quá gần nhau. 3. Phân tích điểm hoà vốn Do điều kiện không có của bài viết, hoạt động này sẽ không được đề cập đến phân tích điểm hoà vốn, song những khái niệm chủ yếu đã được đề cập đến ở phần thứ nhất. Nếu có điều kiện nghiên cứu kỹ phần này sẽ cho biết doanh thu và sản phẩm cần đạt được khi biết được điểm hoà vốn, cho ta thấy được kỹ lưỡng hơn về dòng tiền, khả năng thanh toán, chi trả của chúng tôi trong thời kỳ ngắn hơn (tháng, quý). Trong giới hạn bài viết chỉ xin nêu các vấn đề liên quan đến tài chính trong thời kỳ dài hơn, cụ thể là trong từng năm. III. Đánh giá hiệu quả phân tích tài chính của công ty xây dựng số 34 giai đoạn 1999 – 2001. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác phân tích tài chính, nhưng do những hạn chế nhất định nên hoạt động phân tích tài chính tại Công ty xây dựng 34 trong thời gian qua vẫn còn nhiều điểm cần khắc phục. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận những ưu điểm mà Công ty đã có được và luôn mong muốn hoàn thiện mình. 1. Những kết quả đạt được 1.1 Nhân sự phục vụ trong công tác phân tích tài chính Bộ máy kế toán của Công ty hoạt động dưới sự chỉ đạo của kế toán trương. Công ty đã có sự phân công tách biệt giữa các kế toán tổng hợp thực hiện công việc tông hợp càc số liệu từ kế toán phần hành và các nhân viên thực hiện công tác phân tích tài chính, có sự chỉ đạo trực tiếp của kết toán trưởng. Công tác phân tích thực hiện được thuận lợi là nhờ vào các cán bộ kế toán luôn thu thập và xử lý thông tin một cách kịp thời, chính xác. Các cán bộ phân tích thực hiện công tác phân tích được thuận lợi là nhờ có vai trò của các cán bộ kế toán trong phòng tài chính kế toán. Họ luôn thu nhận, xủ lý và tổng kết kịp thời, chính xác các thông tin kế toán. Họ còn trực tiếp giúp đỡ các cán bộ phân tích nếu trong quá trình phân tích có những khúc mắc liên quan đến chuyên môn hay phạm vi mình phụ trách. 1.2 Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính Như đã nói ở trên, các kế toán viên trong Công ty đã thực hiện tốt công việc của mình nên các thông tin kế toán được xử lý qua việc kiểm tra, đối chiếu tính hiện thực và tính pháp lý với các văn bản tài chính. Có thể khẳng định, hoạt động kiểm tra kế toán được coi như là hoạt động kiểm toán tuân thủ tong Công ty. Thong tin được tổng kết phục vụ cho yêu cầu quả lý là thông tin “sạch:. Các báo cáo tài chính do đó mà có tính đầy đủ và chính xác, được lập kịp thời, đúng tiến độ, vì thế không gây khó khăn cho việc phân tích. Không chỉ dừng lại ở các thông tin bên trong. Công ty còn thu thập rất nhiều thông tin bên ngoài. Những người tham gia công tác phân tích tài chính tại Công ty rất chú ý đến nền kinh tế thế giới và khu vực. Tình hình kinh tế trên thế giới và trong nước có rất nhiều biến động, do đó Công ty sẽ có được thuận lợi trong các quyết định tài chính của mình. Các cán bộ phân tích tài chính còn quan tâm đến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách nghiêm túc. Các thông tin nội bộ được thu thập một cách đầy đủ chính xác, kịp thời, đúng tiến độ, vì thế không gây khó khăn cho công tác phân tích. 1.3 Phương pháp phân tích tài chính Công ty có sử dụng kết hợp hai phương pháp phân tích tài chính là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ, trong đó phương pháp tỷ lệ là chủ yếu. Sự kết hợp này đã làm cho Công ty thấy được bản chất vấn đề theo cả định tính lẫn định lượng. Việc sử dụng phương pháp tỷ lệ được coi là phương pháp truyền thống giúp cho Công ty ít gặp khó khăn hơn trong phân tích, trong vấn đề kinh nghiệm, vì đã có nhiều doanh nghiệp áp dụng. 1.4 Nội dung phân tích tài chính Nội dung công tác phân tích tài chính tại Công ty có ưu điểm là cho thấy rõ được hoạt động sản xuất kinh doanh qua các năm. Thấy rõ tình tình tăng giảm các tài sản và nguồn vốn của Công ty. 2. Hạn chế và nguyên nhân 2.1 Nhân sự phục vụ công tác phân tích tài chính Nhân sự phục vụ cho công tác phân tích tài chính của Công ty còn có những hạn chế. Hạn chế cơ bản nhất trong hoạt động này là bộ phận thực hiện công tác phân tích tài chính chưa tách rời khỏi bộ phận thực hiện công việc kế toán. Trên thế giới, phần lớn các doanh nghiệp đề tách rời công tác kế toán và công tác phân tích tài chính, song cũng như phần lớn các doanh nghiệp trong nước, Công ty cũng chưa thực hiện được điều này. Vấn đề này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác phân tích tài chính do không có sự chuyên môn hoá, các cán bộ phân tích tài chính vẫn chưa thực sự được coi trọng, do các cán bộ phân tích tài chính vẫn chưa nhận thức đầy đủ được vấn đề này. 2.2 Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính Các báo cáo tài chính được Công ty lập ra đã giúp ích rất nhiều cho công tác phân tích nhưng việc chưa lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hàng năm ít nhiều làm cho người phân tích khó đánh giá được khả năng tạo ra luồng tiền trong tương lai, khả năng tài trợ, đầu tư trong ngắn hạn cụ thể như thế nào. Bên cạnh đó như đã trình bày ở phần lý thuyết thì thông tin về các tỷ lệ, chỉ tiêu trung bình ngành là rất quan trọng và cần thiết cho hoạt động phân tích. Tuy nhiên, các thông tin này chưa được sử dụng cho việc phân tích tài chính tại Công ty nên ảnh hưởng đến tính chính xác của kết quả phân tích. Nguyên nhân một phần là do hiện nay ở Việt Nam chưa có các Công ty chuyên tư vấn về tài chính, thống kê và tính toán hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành, phần nữa là do cán bộ phân tích chưa chú ý đến những thông tin này. 2.3 Phương pháp phân tích tài chính Việc phân tích được tiến hành không theo một trình tự quy trình cụ thể. Công tác phân tích còn mang tính chắp vá, đơn điệu. Mặc dù công ty sử dụng các phương pháp tỷ lệ và so sánh, song lại có tính chấp dập khuôn, không phù hợp với hoạt động và mục tiêu sản xuất của Công ty. Công ty không sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont, trong khi đó, phương pháp này ngày nay được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia là một bằng chứng cụ thể cho tính thiết thực của nó. Cho dù ở Việt Nam nó ít được áp dụng nhưng thực ra việc tổ chức và vận dụng phương pháp này không có gì phức tạp, mặt khác sẽ cho biết những kết quả, nhận xét ngắn gọn nhưng cần thiết về nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận, ảnh hưởng của hệ số nợ đến lợi nhuận của Công ty như thế nào… Bên cạnh đó, trong quy chế hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty còn thiếu những quy định về công tác phân tích tài chính 2.4 Nội dung phân tích tài chính Thực trạng công tác tài chính tại công ty xây dựng 34 là chưa thể hiện được đầy đủ các nội dung cần phân tích. Việc đánh giá, nhận xét còn mang tính khái quát, chưa thực sự chuẩn xác. Công ty chưa nói rõ được tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào. Do đó, Công ty chưa thể hiện được hết sự thay đổi của nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng như công ty mới chỉ đặt ra được các kế hoạch cần thực hiện trong thời gian tới mà chưa tìm ra được biện pháp nào để cho kế hoạch đó có tính khả thi và đạt hiệu quả tốt nhất. Quá trình phân tích tài chính của Công ty không cho thấy tăng giảm nguồn vốn, tình hình sử dụng vốn trong một quý hoặc một tháng, những chỉ tiêu ảnh hưởng tới sự tăng giảm nguồn vốn, không cho thấy những khoản đầu tư vốn và nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những đầu tư đó. Và từ đó, Công ty cũng sẽ không thấy được những giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Như công ty tuy đã cố gắng đầu tư cho tài sản cố định để phục vụ cho thi công các công trình một cách tốt nhất thì công ty lại phải sử dụng nguồn vốn đi vay dài hạn để đầu tư trong khi đó công ty có thể có nhiều phương án khác tốt hơn như thuê tài chính hoặc huy động từ các nguồn vốn mà công ty có khả năng chiếm dụng mà vẫn đảm bảo an toàn cho tình hình tài chính của mình. Bên cạnh đo, các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính cũng không được phân tích đầy đủ. Cũng vì thế mà các kết quả phân tích chưa thực sự đầy đủ, do đó các phương án hoạt động của Công ty được đưa ra cũng chưa thật sát với thực tế. Việc phân tích để có được sự đánh giá đúng đắn về tình hình và khả năng thanh toán của Công ty cần phải thông qua các chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán, do đó cần tính toán, đánh giá cụ thể và đầy đủ các tỷ lệ có liên quan. Các hệ số về cơ cấu tài chính trong bảng thuyết minh báo cáo tài chính của Công ty cũng chưa thật đầy đủ để có thể nhận xét cơ cấu tài chính của Công ty như thế nào là hợp lý, trong hiện tại và tương lai. Đối với Công ty thì những hệ số này còn gắn với kinh nghiệm thực tế nên nhiều khi chỉ cần tính một số hệ số thì Công ty cũng có thể có được những nhận xét đúng đắn. Tuy vậy, điều chỉnh cơ cấu tài chính là rất quan trọng bởi có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cơ cấu tài chính cũng như tính quyết định của nó đối với hoạt động kinh doanh của Công ty. Công ty cũng chưa phân tích nhiều về khả năng hoạt động và sinh lãi. Điều này cho biết việc sử dụng vốn lưu động, tài sản cố định hay tổng tài sản của Công ty hiệu quả như thế nào, khả năng tạo lợi nhuận cao hay thấp…. Công ty cũng không phân tích đến điểm hoà vốn, phân tích điểm hoà vốn sẽ cung cấp những thông tin về lượng sản phẩm cần tiêu thụ, doanh thu cần đạt được khi biết sản phẩm và doanh thu hoà vốn. Phân tích điểm hoà vốn còn chỉ ra ngưỡng doanh nghiệp không bị lỗ, xác định quy mô đầu tư, quy mô sản xuất nhằm đạt lợi nhuận mong muốn. Trên đây chưa phải là toàn bộ các ưu điểm, hạn chế, cũng như các nguyên nhân của công tác phân tích tài chính tại Công ty xây dựng 34. Cũng như đa phần các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, công tác phân tích tài chính đang gặp phải những khó khăn không nhỏ. Công việc nghiên cứu đêt chỉ ra các ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân để từ đó tìm ra được các giải pháp, nâng cao hiệu quả của công tác phân tích tài chính tại công ty xây dựng 34 sẽ được đề cập chi tiết hơn ở phần thứ ba. Phần thứ ba Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác phân tích tài chính ở doanh nghiệp xây dựng số 34 I. Sử dụng phương pháp Dupont làm cơ sở cải thiện công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp xây dựng số 34 Mục tiêu của các công ty hoạt động kinh doanh suy cho cùng là lợi nhuận. Tuy vậy, cần lưu ý rằng không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau vì : - Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. - Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện giao thông, vận chuyển hàng, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ có khác nhau thường làm cho số lợi nhuận giữa các doanh nghiệp cũng không giống nhau. - Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được sẽ khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý lại tốt hơn. Cho nên để đánh giá, so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp có quy mô khác nhau hay của bản thân Công ty qua các thời kỳ khác nhau với những thay đổi về quy mô tài sản, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải dùng chỉ tiêu tương đối là tỷ suất doanh lợi vốn (hay tỷ số lợi nhuận trên vốn). Đây là chỉ tiêu quan trọng thiết lập mối quan hệ giữa cái thu về được từ một khối lượng tài sản nào đó. Dupont – tên một nhà quản trị tài chính người Pháp tham gia kinh doanh ở Mỹ đã làm cho ý nghĩa của chỉ tiêu doanh lợi vốn chưa dừng lại ở đó. Ông đã trình bày chỉ số doanh lợi vốn một cách rõ ràng hơn trong mối quan hệ với chỉ tiêu doanh lợi doanh thu và vòng quay vốn : Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần -------------------- = ------------------------ x ------------------ Tổng vốn Doanh thu thuần Tổng vốn Nhờ có chỉ số Dupont này, các nhà quản trị tài chính có một bức tranh tổng hợp để đưa ra các quyết định tài chính hữu hiệu. * Phân tích chỉ số doanh lợi vốn Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần --------------------- = --------------------- x ------------------ Tổng vốn Doanh thu thuần Tổng vốn Tỷ số doanh lợi vốn phụ thuộc vào hai yếu tố sau : - Thu nhập của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu là bao nhiêu – tức phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. - Một đồng vốn tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu (vòng quay của tổng vốn) – tức phụ thuộc vào năng lực hoạt động. Sự phân tích này cho phép xác định chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp. Biểu 5: Các nhân tố tác động đến chỉ tiêu doanh lợi vốn : Chỉ tiêu Đơn vị Kỳ trước Kỳ này Vòng quay vốn Lần L0 L1 Doanh lợi doanh thu % P0(DT) P1(DT) Doanh lợi tổng vốn % P0(V) P1(V) ảnh hưởng của doanh lợi doanh thu đến doanh lợi vốn : d1 = (L1-L0)*P0 ảnh hưởng của doanh lợi tổng vốn đến doanh lợi vốn : d2= (P1-P0)*L1 tổng hợp ảnh hưởng của hai nhân tố trên : d = d1 + d2 * Phân tích chỉ số doanh lợi vốn chủ sở hữu Lợi nhuận thuần Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần Tổng vốn -------------------- = ------------------ x ------------------- x --------------- Vốn chủ sở hữu Doanh thu thuần Tổng vốn Vốn chủ sở hữu Trong đó: Tổng vốn ------------- Tổng vốn Tổng vốn Tổng vốn 1 ------------------ = ------------------ ---- = ----------------------- = ------------- Vốn chủ sở hữu Tổng vốn - vốn vay Tổng vốn - vốn vay 1-Hệ số nợ --------------------- Tổng vốn Vậy ta có: Lợi nhuận thuần Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần 1 ------------------- = --------------------- x --------------------- x ------------- Vốn chủ sở hữu Doanh thu thuần Tổng vốn 1- hệ số nợ Sự phân tích các thành phần của doanh lợi vốn chủ sở hữu cho thấy khi hệ số nợ chung tăng lên thì doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng cao hơn vì khi đó tỷ số 1/ 1- (hệ số nợ ) sẽ tăng. Do đó, khi tỷ lệ nợ cao sẽ dẫn tới một hệ quả với lợi nhuận là : Nếu doanh nghiệp có lợi nhuận thì lợi nhuận sẽ rất cao và ngược lại, nếu lợi nhuận thua lỗ thì sẽ thua lỗ rất nặng. Sử dụng phương pháp Dupont cho thấy mối quan hệ và hiệu quả của sự kết hợp giữa hai phương pháp so sánh và tỷ lệ cho phép người phân tích nhìn nhận các chỉ số tài chính một cách có hệ thống hơn. Biểu 6: Các nhân tố tác động đến chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu Đơn vị Kỳ trước Kỳ này Vòng quay vốn Lần L0 L1 Doanh lợi doanh thu % P0(DT) P1(DT) Hệ số nợ Lần H0 H1 Doanh lợi vốn chủ sở hữu % P0(Vc) P1(Vc) ảnh hưởng của vòng quay vốn đến doanh lợi vốn chủ sở hữu: d1 = (L1-L0)*P0*H0 ảnh hưởng của doanh lợi doanh thu đến doanh lợi vốn chủ sở hữu: d2 = (P1-P0)*L1*H0 ảnh hưởng của hệ số nợ đến doanh lợi vốn chủ sở hữu: d3 = (H1-H0)*L1*P1 Tổng hợp ảnh hưởng của ba nhân tố trên : d= d1 + d2 +d3 * Tháp chỉ số Dupont Sử dụng tháp chỉ số Dupont để có thể bằng trực giác tính toán ngay được mức độ ảnh hưởng của các quyết định tới chỉ số lợi nhuận tổng vốn. Bằng sơ đồ sau ta có thể hình dung các ảnh hưởng đến ROI. Chẳng hạn muốn nâng cao chỉ số doanh lợi vốn của doanh nghiệp bằng việc tăng doanh thu thì phải đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng của vốn. Do đó doanh nghiệp phải giảm tối đa các khoản chi phí đến mức có thể và giảm nhanh hơn tương ứng với số vốn cần thiết. Muốn vậy, Công ty phải thực hiện tiết kiệm nguyên vật liệu để chi phí biến đổi giảm và giảm tài sản dự trữ. Theo tháp chỉ số này chi phí biến đổi giảm sẽ làm giảm chi phí, lợi nhuận tăng và tăng chỉ số doanh lợi doanh thu. Khi hàng tồn kho giảm thì tổng vốn cũng giảm xuống và kéo theo vòng quay tăng lên. Như vậy, kết quả là doanh lợi vốn sẽ tăng lên. Bằng tháp chỉ số này Công ty sẽ biết chính xác sự thay đổi của các chỉ số doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu là do các yếu tố nào, yếu tố nào có ảnh hưởng tốt, yếu tố nào có ảnh hưởng xấu để từ đó có các giải pháp nhằm cải thiện chỉ số này. Ngoài ra sử dụng phương pháp này có thể cho ta tính toán ngay được các ảnh hưởng của các quyết định tới chỉ số doanh lợi vốn để từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn nhất. Qua phân tích thực trạng Công ty xây dựng 34 ta thấy hàng tồn và các khoản phải thu, tài sản lưu độngđ khác cong chiếm tỷ trọng lớn trong tổn tài sản, chi phí cô định (chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp))cong tăng cao. Như vậy theo tháp dupont thì néu Công ty giảm được chi phí cố định sẽ làm giảm tổng chi phí dẫn đến tăng lợi nhuận và cải thiện chỉ số doanh lợi doanh thu. Đông thời nếu công ty giảm được số hàng tồn kho. khoản phải thu và tài sản lưu động khác thì tổng tài sản giảm và làm tăng vòng quay tổng vốn. Các thay đổi này có thể định lượng bằng cách sử dụng các phân tích cùng tháp chỉ số Dupont cả Công ty: - Ta thấy tổng chi phí cố định chiếm 2,88% so với doanh thu thuần trong đó quản lý chiếm 2,3%. Giả sử ta hạ thấp tỷ trọng này xuống còn 2% tương đương với số tuyệt đối là 165 413 977đồng. Từ đó làm cho lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh tăng một số tuyệt đối là 165 413 977 đồng và lợi nhuận sau thuế tăng lên 95 112 038 đồng và đạt 297 744 161 đồng. Dẫn tới chỉ số doanh lợi doanh thu đạt 0,0054 (so với trước là 0,0037). Hàng tồn kho của Công ty qua các năm cũng chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Điều này làm cho vòng quay hàng tồn kho của Công ty giảm. Thật vậy, giả sử ta giảm hàng hoá tồn kho xuống còn 5% năm 2001tức là giảm một lượng là 761 707 552 đồng thì vòng quay hàng tồn kho sẽ là 23,5 (so với thực tế năm 2001 là 9,07). Từ đó, nó làm cho tổng tài sản (vốn) giảm đi còn 44 313 763 245 đồng. Như vậy, số vòng quay tổng vốn tăng và đạt là 1,23 (so với thực tế năm 2001 là 1,21). Sơ đồ 2: Tháp chỉ số Dupont Suất doanh lợi vốn (ROI) (0,0066/0,0044) Doanh lợi doanh thu (0,0054/0,0037) Số vòng quay của vốn (1,23/1,21) Tổng số vốn Doanh thu thuần Doanh thu thuần Lợi nhuận sau thuế Vốn cố định Vốn lưu động Chi phí Doanh thu TS dự trữ SP dở dang Vốn bằng tiền Khoản phải thu Thuế lợi tức Lãi vay CP cố định CP biến đổi iI. hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích tài chính Công ty đã bước đầu thực hiện công tác phân tích tài chính thông qua thuyết minh tài chính, so sánh số liệu qua một số năm rút ra nhận xét tổng quát. Tuy nhiên, quá trình phân tích của Công ty vẫn còn ở dạng đơn giản, mới tính toán một vài chỉ tiêu mà chưa lập thành hệ thống, chưa có công tác phân tích thực sự. Vì thế Công ty chưa đề ra được các biện pháp hữu hiệu cho kỳ kinh doanh tới. Để phân tích có hiệu quả Công ty nên tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Chuẩn bị cho công tác phân tích - Phải xác định mục tiêu, kế hoạch phân tích. - Lựa chọn những nhân viên có đủ trình độ nghiệp vụ để tiến hành phân tích. - Có kế hoạch phối hợp với các bộ phận trong phân tích. - Sưu tầm đủ tài liệu cho phân tích: từ thông tin bên ngoài (thông tin kinh tế chung, thông tin theo ngành, thông tin về thuế, tỷ giá hối đoái...) đến thông tin kế toán, thống kê... mà chủ yếu là thông tin kế toán. Bước 2: Tiến hành phân tích (xử lý thông tin). - Tính toán các chỉ tiêu theo quy định của Nhà nước và những chỉ tiêu cần thiết cho doanh nghiệp. Tuỳ từng góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau để có phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra: xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự toán và quyết định. - Lập bảng biểu để so sánh, phân tích các chỉ tiêu đã tính toán. Bước 3: Kết quả phân tích Dựa vào kết quả đã tính toán đưa ra các dự đoán nhu cầu và các quyết định tài chính. Việc phân tích tài chính được trải qua 3 bước như trên. Công tác này nên được thực hiện ở phòng kế toán - tài chính phối hợp với các phòng chức năng. Đó là: - Phân tích các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính chủ yếu. - Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp. - Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh. Một yếu tố quyết định tính thành bại của một doanh nghiệp trên thị trường là doanh ngiệp có chiến lược kinh doanh như thế nào. Việc có chiến lược đúng sẽ đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài cho doanh nghiệp và chỉ có vậy mới đảm bảo cho doanh nghiệp trong một môi trường không ổn định. Trong môi trường đó, ai có tầm nhìn tốt hơn sẽ là người quản lý thành công. Chiến lược doanh nghiệp được thể hiện bàng các kế hoạch kỳ hạn khác nhau và các mảng hoạt động khác nhau. Có thể nói kế hoạch hoá tài chính là trọng tâm của kế hoạch hoá hoạt động doanh nghiệp nói chung, trên cơ sở các kế hoạch tài chính, các kế hoạch khác sẽ được đặt ra để đảm bảo doanh nghiệp các mục tiêu mong muốn. Thông qua kết quả của phân tích tài chính, Công ty tiến hành kế hoạch hoá tài chính. Đây chính là việc sử dụng phân tích tài chính vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty thông qua kế hoạch hoá tài chính. Vì vậy, Công ty cần phát triển công tác kế hoạch hoá tài chính. Các nhà lập kế hoạch tài chính cần xem xét tập trung tất cả các hoạt động của doanh nghiệp chứ không đi sâu vào chi tiết. Một số lượng lớn các luận chứng kinh tế đầu tư nhỏ đươc tập trung và được xem xét như là một dự án độc lập. Một kế hoạch tài chính là một báo cáo về những việc sẽ được hoàn thành trong tương lai nên nó phải phản ánh được các yếu tố có tính tương lai. Kế hoạch tài chính năm mới chỉ cung cấp những dự tính của việc huy động, khai thác, phân phối và sử dụng nguồn tài chính cho cả thời kỳ một năm, bổ sung cho kế hoạch tài chính dài hạn. Công ty cần tiến hành các công việc kế hoạch ngắn hạn một cách tin cậy để có thể phân biệt quỹ tiền vay của ngân hàng có thể đáp ứng những nhu cầu hợp lý và ngắn hạn của Công ty với các quỹ khác trong điều kiện kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng không phải là nguồn vô tận để cho vay... Nói cách khác, các phương pháp và công cụ kế hoạch hoá tài chính cần được sử dụng một cách thích hợp, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. iII. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ phục vụ cho hoạt động phân tích tài chính Trong mọi hoạt động nhân tố con người là không thể thiếu được. Và ngày nay cho dù máy móc có hiện đại đến đâu đi nữa thì thiếu sự điều khiển của con người chúng trở thành vô nghĩa. Trong quản trị tài chính nói chung và phân tích tài chính nói riêng vai trò của con người lại càng cần thiết hơn bởi đây là một lĩnh vực vô cùng phức tạp, việc xem xét và phân tích chúng nhiều khi thoát ra khỏi các đánh giá đơn thuần về mặt kỹ thuật phân tích mà đạt đến trình độ nghệ thuật. Do đó, mặc dù hoạt động này được hỗ trợ bởi những máy tính hiện đại cùng với những phần mềm chuyên dụng song chúng chỉ là các công cụ phân tích giúp ta nắm được vấn đề và đề ra các quyết định chứ chúng không thể thay thế ta tìm ra các giải pháp xử lý. Như vậy, ngoài các yếu tố thông tin, phương pháp phân tích thì các năng lực và trình độ của người phân tích sẽ là yếu tố quan trọng tiếp theo góp phần quan trọng trong việc đưa ra các nhận định chính xác về tình hình tài chính của Công ty. Để quá trình phân tích được hiệu quả ta cần một kiến thức chuyên môn tốt của ba loại nhân viên sau: + Các nhân viên phân tích tài chính + Các nhân viên kế toán + Các nhân viên kiểm toán Và các chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ của Công ty theo đó sẽ được tập trung vào các nhân viên này. + Đối với các nhân viên phân tích tài chính: Hiện nay ở Công ty chưa có các nhân viên chuyên về phân tích tài chính. Việc phân tích tài chính là rất sơ bộ, mới chỉ dùng lại ở việc tính toán và so sánh một số chỉ tiêu của kỳ này so với kỳ trước chứ chưa hình thành được một sự phân tích tổng hợp các vấn đề chính của Công ty .Để có được độ ngũ nhân viên này Công ty có thể bằng cách cử các cán bộ đi học hoặc bằng việc thực hiện tuyển dụng bởi thứ nhất nước ta mới chuyển sáng cơ chế thị trường, các vấn đề tài chính mới xuất hiện chưa phức tạp và việc đào tạo trong nước hoàn toàn có thể đáp ứng được. Thứ nữa là bằng việc tuyển dụng Công ty có thể tiết kiệm được chi phí đào tạo mà lại có ngay được các nhân viên sử dụng. Sau đó hàng năm Công ty có thể cử các nhân viên này tiếp tục đi đào tạo thêm để nâng cao trình độ chuyên môn. Như thế Công ty vừa có cán bộ để sử dụng, vừa có thể từng bước nâng cáo tay nghề cho đội ngũ cán bộ này để phù hợp với sự phát triển của Công ty nói riêng và sự phát triển của nền tài chính quốc gia nói chung. + Đối với các nhân viên kế toán: Đây là cầu nối giữa các thông tin kế toán tài chính phát sinh trình Công ty với việc phân tích tài chính: các nhân viên kế toán tiếp nhận các thông tin về sự biến đổi của nguồn vốn và tài sản của Công ty, phản ánh chúng vào trong vác tài khoản và gửi cho phòng phân tích tài chính. Do đó việc thành thạo các nghiệp cụ kế toán mình đảm nhận, việc tính toán nhanh và chính xác các tài khoản mình phụ trách sẽ giúp bộ phận phân tích có các số liệu chuẩn để phân tích. Đây không phải là vấn đề được đặt ra đối với Công ty bởi Công ty hiện đang có một đội ngũ nhân viên kế toán mạnh, có trình độ chuyên môn cao hiểu biết về công việc mình làm, giúp họ tiếp cận và ứng dụng được các phương pháp và kỹ thuật xử lý hiện tại để họ có thể hoàn thành công việc của mình một cách tốt hơn. + Đối với các nhân viên kiểm toán nội bộ: Cũng như các nhân viên kế toán trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên này càng cao thì các thông tin kế toán càng được bảo đảm độ chính xác, bảo đảm cho việc phân tích ngày càng có thể đưa ra các phán xét đúng đắn hơn. Các nhân viên này cũng phải được đào tạo thường xuyên hàng năm để nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Bằng việc chú trọng đến chất lượng của ba loại nhân viên cần thiết trong quá trình phân tích tài chính, Công ty sẽ có một đội ngũ nhân viên phục vụ cho hoạt động này một cách đồng bộ với chất lượng cao, đảm bảo cho quá trình phân tích được thông suốt. Việc Công ty quan tâm tới đào tạo con người, tới hệ thống thông tin tài chính cũng như các phương pháp phân tích chắc chắn sẽ làm thay đổi về chất hoạt động phân tích tài chính ở Công ty, từ đó góp phần quan trọng trong sự nghiệp vươn lên phát triển không ngừng của Công ty. IV. Tổ chức hệ thống thông tin tài chính phục vụ cho hoạt động phân tích tài chính Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một công ty, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của công ty đó. Thông qua phân tích tài chính ta có thể biết được điểm mạnh và điểm yếu của công ty và từ đó các nhà quản lý tài chính có thể biết được điểm mạnh và điểm yếu của công ty và từ đó các nhà quản lý tài chính có thể đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của công ty trong tương lai bằng cách lập dự báo và lập ngân sách. Những thông tin này có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nhà đầu tư, cơ quan thuế quan và dân chúng. Do đó quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong đơn vị quản lý kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, các tổ chức xã hội …Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là vô cùng cần thiết Với những ý nghĩa như vậy các kết quả phân tích sẽ ảnh hưởng lớn tới các quyết định tài chính, với uy tín của công ty cũng như sự tồn tại và phát triển của công ty. Do đó tính chính xác, kịp thời của phân tích tài chính càng đượ chú trọng hơn bao giờ hết. Để đảm bảo được điều này thì đầu tiên các thông tin sử dụng trong phân tích của công ty phải đảm bảo đưọc tính chính xác, kịp thời hay nói cách khác công ty cần phải có một hệ thống thông tin tốt phục vụ cho phân tích. Để có các thông tin cần thiết cho hoạt động phân tích theo em hệ thống thông tin phục vụ cho phân tích nên được thể hiện như sơ đồ sau : Sơ đồ 3: Tổ chức hệ thống thông tin cho phân tích tài chính Giám đốc Phòng phân tích tài chính Phòng vật tư kĩ thuật Phòng tài chính kế toán Phòng lao động tiền lương Phòng kinh tế, kế hoạch, tiếp thị Các đội xây dựng Thứ nhất: Công ty nên thành lập thêm phòng phân tích tài chính trong cơ cấu bộ máy tổ chức của mình. Phòng này trực thuộc giám đốc, trưởng phòng chịu trách nhiệm trước giám đốc về việc phân tích đánh giá tình hình tài chính của công ty đồng thời có trách nhiệm tư vấn cho giám đốc các vấn đề liên quan đến tình hình tài chính của công ty. Phòng phân tích tài chính hoàn toàn độc lập với các phòng ban khác. Các thông tin đến phòng là các thông tin mọt chiều, là các thông tin cần thiết cho việc phân tích. Sau khi phân tích của phòng đều phải thực hiện gián tiếp thông qua giám đốc. Thứ hai: các thông tin cần thiết cho việc phân tích được chia thành hai loại chính là các thông tin bên trong và các thông tin bên ngoài. - Các thông tin bên trong : là các thông tin phản ánh sự biến động trong ngày của các tài sản và nguồn vốn của công ty. Đó là các thông tin về tình hình mua nguyên vật liệu, tình hình bán hàng, việc thanh toán các khoản nợ đến hạn…để có thể làm được điều này các thông tin về hoạt động mua bán mà cụ thể là các hoá đơn mua bán của các xí nghiệp hoặc các đội phải được tập hợp lên phòng tài chính kế toán trong ngày và từ đây các thông này được chuyển đến phòng phân tích tài chính bằng hệ thống máy tính nối mạng. Ngoài ra các thông tin khác phản ánh sự biến động về các tài khoản trong bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả kinh doanh cũng phải được báo cáo lên phòng phân tích trong ngày. Việc tập hợp đầy đủ các thông tin này sẽ cho phép phòng phân tích tài chính nắm được ngay toàn bộ các hoạt động của công ty trong ngày, phát hiện và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh. - Các thông tin bên ngoài : phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho việc ra quyết định về mặt tài chính và giúp dự kiến kết quả tương lai của công ty.. nên các thông tin sử dụng không thể chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu nội bộ công ty mà cần phải mở rộng ra bên ngoài. Các thông tin bên ngoài cần thiết cho hoạt động phân tích ở đây là : + Các thông tin kinh tế chung : đó là các thông tin phản ánh tình hình chung về kinh tế, chẳng hạn như nền kinh tế đang suy thoái hay tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp là bao nhiêu, triển vọng trong tương lai như thế nào. Các yếu tố này đặc biệt là các yếu tố mang tính chu kỳ sẽ tác động mạnh mẽ tới kết quả kinh doanh của công ty. + Các thông tin theo ngành : đó là các thông tin chung về ngành xây dựng mà công ty đang tham gia như tốc độ phát triển chung của ngành, các chỉ số trung bình của ngành…Các thông tin giúp cho công ty đánh giá được tiềm năng phát triển của ngành cũng như đánh giá được năng lực hoạt động của mình so với mức trung bình của ngành. + Các thông tin khác như thông tin về thuế, tỷ giá hối đoái …cũng là thông tin có ích cho việ phân tích tài chính của công ty. + Các thông tin này nên được phòng kế hoạch thị trường cùng phòng kế toán tài chính tổng hợp và chuyển về phòng phân tích tài chính theo định kỳ hàng tháng. Đồng thời với cá hoạt động trên công ty cần thực hiện việc kiểm tra và kiểm toán nội bộ thường xuyên va nghiêm túc. Công tác này sẽ giúp công ty phát hiện được những sai phạm hoặc nhầm lẫn trong công tác kế toán ngay từ khi công trình được đưa vào thi công, nhờ đó sẽ hạn chế ở mức cao nhất những sai lệch số liệu trong quá trình thi công tiếp theo. Kiểm toán nội bộ càng chặt chẽ thì chắc chắn việc phân tích tài chính của công ty càng chính xác. Việc thành lập thêm phòng phân tích tài chính độc lập với các phòng ban khác và trực thuộc giám đốc trong bộ máy cơ cấu tổ chức của công ty chắc chắn sẽ làm cho công ty cân nhắc kỹ lưỡng hơn các quyết định của mình khi phải xem xét thêm dưới góc độ hiệu quả về mặt tài chính góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh; tiếp theo làm cho phòng này tương đối độc lập và do đó các đánh giá về mặt tài chính sẽ được khách quan hơn. Ngoài ra việc nắm bắt được các thông tin về hoạt động của công ty trong ngày, nắm bắt các thông tin về môi trường hoạt động của công ty theo tháng cũng như việc tăng cường sủ dụng các biện pháp kiểm tra kiểm toán nội bộ trong công ty còn đảm bảo cho công ty có được những thông tin chính sác kịp thời, góp phần quan trọng trong việc đưa ra các đánh giá chính xác làm cơ sở cho việc đưa ta các quyết định quản trị đúng đắn. V. Tăng cường sử dụng chính sách thay thế tín dụng bằng thuê mua đối với tài sản cố định của công ty. Tín dụng thuê mua là việc doanh nghiệp tạo vốn bằng cách thuê trang bị, vật tư công cụ và tài sản cố định khác sử dụng cho kinh doanh. Có thể nói đây là hình thức tạo vốn khá phổ biến cho hệ thống tài chính các nước kinh tế thị trường phát triển. Với hình thức nay, doanh nghiệp được sử dụng vốn như chính mình là người sở hữu với giá thuê định trước trong hợp đồng thuê mua, doanh nghiệp có quyền trả lại tài sản đã thuê hoặc mua với giá còn lại hoặc tiếp tục thuê với giá thoả thuận mới (có thể với giá thuê thấp hơn, thường là giá ưu đãi). Thực chất của tín dụng thuê mua là công ty cho thuê mua tài sản, thiết bị theo dự án đầu tư của doanh nghiệp đi thuê về chất lượng, chủng loại, giá cả …bằng nguồn vốn của công ty mình và quyền sở hữu tài sản đó đứng tên doanh nghiệp cho thuê mua. Và doanh nghiệp đi thuê giả dần giá trị tài sản hoặc thiết bị thuê đó hàng năm theo hợp đồng ký kết, thường thời gian đi thuê phải lớn hơn hoặc bằng 90% thời gian hữu dụng của tài sản hay thiết bị đó. Trong nhiều trường hợp, một doanh nghiệp bán cho công ty thuê mua tài sản của mình, sau đó lại thuê lại của công ty trên ngay chính tài sản đó để sử dụng. Qua phân tích tình hình tài chính của công ty xây dựng số 34 ta nhận thấy, tình trạng hiện nay của công ty là đang gặp khó khăn nhiều về máy móc thiết bị thi công và phương tiện vận chuyển. Muốn đầu tư vào tài sản cố định thì công ty phải có một lượng vốn rất lớn, theo số liệu cung cấp của phòng kinh tế – kế hoạch – tiếp thị quy mô khách hàng của công ty có thể tăng mạnh từ giữa năm 2002 (khách hàng tiềm năng) nên nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định là rất cao, theo số liệu trong bản kế hoạch năm 2002 của phòng kinh tế – kế hoạch – tiếp thị ở công ty thì cần khoảng 5 –7 tỷ đầu tư vào tài sản cố định. (nhìn bảng 1) Nguyên nhân là do: +Về phương tiện vận chuyển Do vật tư - vật liệu tập trung tại một kho của công ty, đối với công trình thi công trong phạm vi 30 km nhu cầu vận chuyển vật tư tới chân công trình lớn thường phải thuê ngoài mà hiện nay công ty chỉ có 2 xe không đủ khả năng đáp ứng cho tất cả các công trình. + Phương tiện vận chuyển xi măng chủ yếu của công ty chính bằng xe của Nhà máy xi măng Nghi Sơn (với hợp đồng trên 30 tấn hãng mới trở), do công ty chưa có xe vận chuyển loại nhỏ nên ảnh hưởng đến các hợp đồng lấy xi măng từng lần nhỏ hơn 30 tấn đặc biệt là đối với các công trình thi công trong nội thành (nằm ở những trục phố cấm phương tiện vận chuyển trên 20 tấn qua lại). Bên cạnh đó, công ty còn cung cấp xi măng dời theo nghiên cứu phòng thị trường thì nhu cầu sử dụng bê tông tươi lớn nếu công ty đâù tư máy trộn bê tông cỡ lớn thì sẽ bán được xi măng rời nhiều hơn, hiệu quả kinh tế đem lại cao hơn lợi nhuận sau thuế hiện nay công ty đang có được trên một năm. + Cuối năm 2001 đầu năm 2002 công ty nhận được một vài hợp đồng nâng cấp làm mới trong khi đó đầu tư năm 2002 là một máy ủi, một máy xúc hiện đang thi công công trưòng Lào Cai (công trình đến tháng 3 năm 2003 mới hoàn thành). Từ đó, công ty phải đầu tư mới hai máy xúc, hai máy lu, 2 máy ủi. Trong khi đó, như đã phân tích ở trên thì muốn đầu tư vào tài sản cố định thì phải giảm các khoản phải thu, giảm khoản tạm ứng, có nhu cầu vốn bằng tiền lớn, đi vay dài hạn, vay ngắn hạn. Mà khoản phải thu của công ty ngày càng có xu hướng giảm chủ yếu là do vay ngắn hạn giảm (trong những năm qua công ty có nhu cầu mở rộng quy mô nên công ty đã vay nhiều nhưng chưa trả hết nợ cũ vì vậy công ty đã chiếm dụng vốn của người bán). Nếu rút từ khoản phải thu nội bộ thì ảnh hưởng tới nhu cầu sử dụng vốn của các đội xây dựng. Còn nếu rút từ khoản phải thu khách hàng thì ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của công ty vì doanh thu của công ty trong XDCB chiếm 11 tỷ hầu hết chưa được quyết toán phải chờ thanh toán khi công trình hoàn thành, doanh thu kinh doanh xi măng chiếm 6 tỷ như hiện nay khách hàng thường nợ lâu trên một tháng công ty mới thu để cạnh tranh đơn vị khác, nếu giảm thời gian nhận nợ tức là giảm doanh thu (thực tế công ty là đại lý của nhà máy nghi sơn nên phải bán đúng với giá cạnh tranh đã vốn có), tăng thời gian nợ làm tổng phải thu tăng cũng không thể rút vốn ra được. Vốn bằng tiền của công ty chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn nên nhu cầu vốn bằng tiền gần như không có. Nếu rút tạm ứng thì ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động vốn dưới các đội. Các nguồn đầu tư của công ty đều khó khai thác trong khi đó đầu tư tài sản cố định theo nhu cầu của công ty lại cần số lượng lớn (mặc dù năm 2001 tài sản cố định tăng thêm 2.7 tỷ). Theo tổng kết cuối năm của ban lãnh đạo nhận định để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị thì ít nhất đầu tư thêm vào tài sản cố định từ 5 – 7 tỷ để đáp ứng khả năng thi công các công trình với quy mô vừa và lớn mà công ty đã ký kết năm 2002. Vậy một câu hỏi được đặt ra là công ty phải lấy nguồn từ đâu để đầu tư vào tài sản cố định? Công ty lại chưa đưa ra được giải pháp nào là hợp lý nên em xin đề xuất giải pháp thuê mua tài chính đối với tài sản cố định của công ty. Hiệu quả của việc thuê tài chính máy móc thiết bị thi công với thuê ở bên ngoài và vay của các tổ chức tín dụng để mua: + Phương án thuê tài chính : hoàn toàn chủ động về phương tiện máy móc để thi công, sau một thời gian bên thuê được sở hữu toàn bộ số máy móc , số vốn đầu tư ban đầu thấp, quá trình khấu hao hợp lý, không làm ảnh hưởng đến vốn lưu động, doanh nghiệp có thể thanh toán gốc hoặc lãi vay theo tháng-quý không căng thẳng về vốn bằng tiền. Nhưng trong thời gian thuê tài sản thuộc quyền sở hữu của công ty cho thuê tài chính vì vậy doanh nghiệp không thể bán lại tài sản trong thời gian này. Tuy nhiên, mục đích của công ty là để sử dụng chứ không phải mua để bán lại. + Thuê máy móc ở bên ngoài : không chủ động, không theo ý muốn. Chi phí thuê máy cao. Không thuận lợi trong việc thi công các công trình của công ty. Chi phí vận chuyển cao, tốn thời gian, không an toàn trong quá trình vận chuyển. + Vay vốn ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng để đầu tư: có nhiều điều chưa thuận lợi như việc trả lãi thàng, phân định kỳ hạn nhiều khi bất cập cho thanh toán. Nhìn vào bảng 1 một số thiết bị máy móc công ty đầu tư năm 2002 ta thấy như vậy tổng giá trị đầu tư ban đầu là 5 246 triệu đồng. Nếu công ty thuê tài chính số máy móc thiết bị trên hay thuê ngoài cũng như vay ngân hàng đều phải chịu một chi phí cố định là khoảng 274,786 triệu đồng. Trong đó: - Chi phí tiêu hao dầu máy theo tiêu chuẩn kỹ thuật.là 2,504 triệu đồng/1máy(xe) - Dầu phanh 0,6triệu đồng/1máy(xe) - Lương lái xe là 1,8triệu đồng/1máy hoặc 9,6 triệu đồng/1xe - BHXH 0,8*15%*12tháng= 1,44 triệu đồng/1máy(xe) - Chi phí lưu thông 0,3 triệu đồng/1máy(xe) - Bảo hiểm dân sự tối thiểu 0,38 triệu đồng/1máy(xe) + Nếu sử dụng phương án thuê mua tài chính thì: - Chi phí sửa chứa định kỳ là 24 triệu đồng - Chi phí săm lốp cho xe là 17 triệu đồng - Tiền trả thuê xe mỗi năm là 380 triệu đồng, máy là 600 triệu - Chi phí cho số dẩu tiêu hao (xe) tối đa một năm khoảng 480 triệu đồng - Chi phí tiêu hao dẩu diezel một năm khoảng 360 triệu đồng Như vậy, tổng chi phí cho dàn máy móc trên là 1979,994 triệu đồng + Nếu thuê ngoài thì số tiền thuê trung bình một máy móc là 15 triệu đồng một tháng, một năm sẽ chi hết 180 triệu đồng /1 máy móc thiết bị, vậy thì chi phí chi cho toàn bộ máy móc thiết bị trên là khoảng 2520 +274,786 =2 794,786 triệu đồng + Do công ty vừa vay dài hạn 6 000 triệu đồng để đầu tư vào tài sản cố định năm 2001 vừa qua nên khả năng vay thêm ngân hàng là rất khó. Thêm vào đó hệ số nợ của công ty đang ở mức độ an toàn 1đ vốn đảm bảo thanh toán 0,8 đồng ngắn hạn, nếu vay ngắn hạn ngân hàng sẽ làm cho hệ số này > 1 từ đó làm mất uy tín của doanh nghiệp khó có khả năng trả nợ khả năng thanh toán khó khăn không đảm bảo tính an toàn cho khoản nợ các bên thứ 3 cân nhắc rất nhiều khi ra quyết định cung cấp tín dụng cho công ty . Như vậy, so với phương án trên sau một thời gian thuê máy móc thiết bị sẽ thuộc quyền sở hữu của công ty 34 (nếu công ty muốn mua lại với giá trị còn lại của dàn máy móc và xe vận chuyển trên) và công ty đã tiết kiệm được một khoản chi phí là 814,792 triệu đồng.từ việc thuê xe mà vẫn giữ được thái độ tin tưởng của các nhà cung cấp khác. Hiệu quả của phương án thuê tài chính mang lại cho công ty là : Tổng doanh thu dự kiến năm 2002 khoảng 64 032 triệu đồng. Trong đó: - Chi phí cho máy thi công là khoảng 40% tổng doanh thu 25 612,8 triệu đồng - Khấu hao thiết bị (do xe, máy móc thiết bị phục vụ công việc kinh doanh chung của công ty nên chi phí trong quá trình sử dụng được tính vào chi phí quản lý chung) là 869,22 triệu đồng. - Chi phí gián tiếp (10%) là 6 403,2 triệu đồng. - Chi phí di chuyển máy móc, lán trại thi công (6%) 3 841,92 triệu đồng - Chi phí khác (2%) 1 280,640 triệu đồng Tổng chi phí là 38 007,78 triệu đồng Lợi nhuận sau khi đã trừ đi các khoản chi phí như chi phí cho xe chạy, thuế thu nhập, các khoản theo chế độ lợi nhuận còn lại khoảng 16 696,46 triệu đồng . Mỗi năm doanh nghiệp phải trả cho công ty tài chính khoảng 980 triệu đồng tiền gốc +phí thuê. Nguồn trả nợ này doanh nghiệp lấy từ : +Khấu hao tài sản cố định là 887,33 triệu đồng +Lợi nhuận sau thuế là 1 000,46 triệu đồng +Các nguồn khác 50 triệu đồng Trong đó phí thuê doanh nghiệp lấy từ nguồn lợi nhuận 15 696 triệu đồng do việc đầu tư xe mang lại. vi. Một số kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên - Cơ quan quản lý cấp trên cần nhanh chóng sửa đổi các quy định và quy chế về quản lý tài chính cho phù hợp hơn với xu thế phát triển của thị trường, cân nhắc tới các yếu tố cạnh tranh, những tác động của các nhân tố bên ngoài như thực trành nền kinh tế, sự biến động về cung cầu, giá cả… và năng lực hoạt động của Công ty, đồng thời phải xác định rõ vai trò chủ chốt của Công ty trong lĩnh vực xây dựng. - Trong thời gian tới, Tổng công ty xây dựng Hà Nội nên xây dựng một hệ thống chỉ tiêu tài chính áp dụng trong toàn Tổng Công ty, làm thước đo chuẩn để đo lường và so sánh hiệu quả tài chính của các đơn vị trong Tổng Công ty với nhau. Nó cũng làm cơ sở tham chiếu và đánh giá thực trạng tài chính của các Công ty đơn vị, xem đơn vị nào mạnh, đơn vị nào chưa mạnh để từ đó có biện pháp phát huy những điểm mạnh hạn chế những điểm yếu. - Hỗ trợ kinh phí cho Công ty triển khai kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực phục vụ lĩnh vực tài chính. Xác định tầm quan trong của hoạt động phân tích tài chính đối với từng doanh nghiệp thành viên, cũng như các đơn vị sản xuất kinh doanh khác trong ngành. - từng bước ứng dụng mạng lưới tin học vào hoạt động phân tích tài chính trong toàn ngành. thực hiện công tác kế toán, kiểm toán một cách đồng bộ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác trong ngành dễ dàng liên hệ và hỗ trợ nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động tài chính theo quy định pháp luật. Từ đó, Công ty có thể tạo được vị thế vững chắc của mình trên thị trường, mở rộng hợp tác đầu tư liên doanh liên kết với thị trường trong và ngoài nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0051.doc
Tài liệu liên quan