Trong 15 năm qua, sự nghiệp đổi mới nói chung và chuyển đổi chức năng kinh tế của Nhà nước ta đã thu được những thành tựu đáng tự hào. Từ năm 1989 đến nay, Việt Nam đă chế ngự được tình trạng lạm phát phi mã đồng tiền tương đối ổn định. Công cuộc đổi mới góp phần cải thiện hình ảnh của Nhà nước Việt Nam trên trường quốc tế. Các chính sách của Việt Nam về kinh tế & xã hội đã tạo ra cơ sở để đầu tư nước ngoài thu hút vốn viện trợ và sự giúp đỡ của nhiều nước, các tổ chức quốc tế và cá nhân. Như vậy, do đi đúng hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện quyền tự do kinh doanh phù hợp với pháp luật, phát triển và đa dạng hoá quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy được các tiềm năng và động lực ở trong nước, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế –xã hội, bước đầu tranh thủ được đầu tư và thị trường quốc tế, đổi mới nhanh chóng đưa nền kinh tế chuyển dần sang thế ổn định và phát triển có hiệu quả phù hợp với xu hướng phát triển của thập kỷ 90 trên thế giới. Đất nước đã có sự thay đổi sâu sắc tạo thế và lực lớn mạnh cho sự phát triển trong thời gian tới mặc dù chúng ta vẫn phải đương đầu với những khó khăn, thách thức để lại do cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế của cá nước khu vực, hoặc lựa chọn chiến lược, sách lược cho sự phát triển cuẩ nền kinh tế chưa phù hợp.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới của nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế thị trường các hoạt động sản xuất kinh doanh, các hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và tuân theo các quy luật của thị trường. Song đối với các hoạt động tạo ra hàng hoá và dịch vụ công cộng là những loại hàng hoá mà chi phí bỏ ra đem lại lợi ích cho nhiều người, nhưng không được thanh toán và hoàn lại đầy đủ về mặt giá trị tiền tệ. Hoặc những hoạt động trong sản xuất và tiêu dùng gây ảnh hưởng tiêu cực tràn ra thị trường thì không được tính toán khi lựa chọn các quyết định sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân hay của các đơn vị kinh tế gây ra các khoản phí tổn lớn cho xã hội. Do vậy nhà nước với tư cách là chủ thể nền kinh tế quốc dân, với mục tiêu vĩ mô cần thiết phải nắm bắt và bảo đảm cho xã hội những loại hàng hoá dịch vụ và công cộng là những loại hàng hoá mà chi phí bỏ ra đem lại cho nhiều người, nhưng lại không được thanh toán và hoàn lại đầy đủ về mặt giá trị tiền tệ. Hoặc những hoạt động trong sản xuất và tiêu dùng gây ảnh hưởng tiêu cực tràn ra thị trường thì không được tính toán khi lựa chọn các quyết định sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân hay của các đơn vị kinh tế gây ra các khoản tổn phí lớn cho xã hội và không tối ưu hoá được lợi ích xét trên phạm vi toàn xã hội. Do vậy Nhà nước với tư cách là chủ thể nền kinh tế quốc dân, với mục tiêu kinh tế vĩ mô cần thiết phải nắm và bảo đảm cho xã hội những loại hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng như những hàng hoá mà nếu như nằm trong tay tư nhân sẽ làm thiệt hại đến lợi ích của toàn xã hội.
+ Thứ ba, cơ chế thị trường cần có môi trường lành mạnh và ổn định để hoạt động, song những nhược điểm và khuyết tật của cơ chế này lại đẻ ra những xu hướng phủ định chính những điều kiện hoạt động của bản thân nó như : do chạy thưo lợi nhuận sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng nguồn lực không hợp lý, vì lợi ích kinh tế cá nhân mà chà đạp lên lợi ích chung phá hoại môi sinh gây ô nhiếm môi trường, sự phân hoá giàu nghèo ngày một lớn, bất công trong xã hội ngày một tăng… gây rối loạn nhiều mặt trong đời sống cộng đồng xã hội. Trong những biểu hiện trên, biểu hiện có tác động sâu sắc và toàn diện đến môi trường chung là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội ngày một gay gắt. Cơ chế thị trường “ bàn tay vô hình” không thể khắc phục được mâu thuẫn này, mà đòi hỏi phải có bàn tay Nhà nước, chính phủ can thiệp với chức năng bảo đảm chính trị, kinh tế, xã hội.
+ Thứ tư, xu hướng hoà nhập nền kinh tế dân tộc của mỗi nước vào thị trường thế giới ngày một tăng. Những diễn biến kinh tế trong từng nước và giữa các nước gây ảnh hưởng rõ rệt đến lợi ích của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những ảnh hưởng bất lợi cũng như việc khai thác và sử dụng những tác đọng có lợi đòi hỏi phải có sự tác động của Nhà nước. Một tổ chức, một doanh nghiệp dù quy mô to lớn đến đâu cũng không thể thay thế được vai trò đó mà chỉ có Nhà nước mới có điều kiện thực hiện được vai trò này bởi vì trong quan hệ quốc tế, Nhà nước là chủ thể của nền kinh tế độc lập có chủ quyền, có lợi ích kinh tế tách biệt, và lại nắm trong tay những quyền lực kinh tế quốc phòng quan trọng của đất nước. Do vậy, không chỉ quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội trong nước mà còn quan hệ lợi ích giữa các nước cũng đặt ra những vấn đề đòi hỏi phải tăng cường vai trò của Nhà nước về kinh tế.
+ Thứ năm, vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế không chỉ ở sự điều tiết, không chế, định hướng bằng pháp luật, các đòn bẩy kinh tế và các chính sách, các biện pháp kích thích mà còn bằng thực lực kinh tế của Nhà nước tức sức mạnh của hệ thống kinh tế Nhà nước và các công cụ kinh tế đặc bịêt khác. Kinh nghiệm của Nhà nước đã chỉ ra là, việc củng cố và tăng cường sức mạnh kinh tế của Nhà nước nói chung và của các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng công cụ quản lý vừa là lực lượng kinh tế trực tiếp để tham gia hình thành, mở rộng quan hệ thị trường.
II. Sự hình thành cơ chế quản lý mới ở Việt nam
³Khái niệm cơ chế quản lý : là công cụ, kế hoạch mang tính pháp lệnh bắt buộc mà mọi ngành, mọi cấp, mọi cơ quan, đơn vị, cá nhân phải tuân theo, thông qua hệ thống chi tiêu kế hoạch để quyết định tất cả các vấn đề kinh tế xã hội.
1.Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp có những đặc trưng sau:
Dựa trên cơ sở chế độ sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất, Nhà nước cải tạo các thành phần kinh tế, chỉ chấp nhận thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế khác bị hạn chế, đặc biệt kinh tế tư nhân bị loại bỏ.
Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh, hợp tác xã, tổ sản xuất… Nhà nước đặt ra kế hoạch sản xuất, giá cả, lỗ đã có Nhà nước chịu. Nhà nước bao cấp tăt cả mọi mặt cho nên các cơ sở trở nên thụ động “ chỉ đâu đánh đó” không có trách nhiệm với kết quả sẳn xuất.
Chức năng của đồng tiền bị hạn chế, giá trị của đất đai không được thừa nhận, sức lao động và tư liệu sản xuất không được coi là hàng hoá nên không được mua bán. Các công cụ như lãi suất, giá cả, thuế, tiền lương không được sử dụng để điều chỉnh cán cân vĩ mô.Với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp như vậy thì sẽ kèm theo bộ máy quản lý kinh tế cồng kềnh lại kém hiệu quả, năng lực của cán bộ quản lý yếu kém, phong cácg quan liêu cửa quyền.
*Ưu điểm của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung
Phù hợp với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Trong thời kỳ chiến tranh, cơ chế này đã động viên tích cực mọi người lên đường chiến đấu, bởi người thân của họ ở hậu phương vẫn đảm bảo được mức lương, họ yên tâm sản xuất chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
*Nhược điểm của cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung
Cơ chế này chỉ phù hợp với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Do vậy, khi chiến tranh kết thúc thì áp dụng nó không còn phù hợp nữa. Điều này chúng ta chưa nhận thức được ngay cho nên trong một thời gian dài, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta và gây ra nhiều tác hại xấu cho đời sống kinh tế xã hội.
Do có sự phân phối bình quân nên đã không khuyến khích được người sản xuất không phát huy được khả năng sáng tạo, sự năng động, hăng say nhiệt tình trong công tác. Vì đã có Nhà nước bao cấp cho nên chất lượng sản phẩm kém, làm ăn lãng phí, chi phí đầu tư cao nhưng hiệu quả kinh tế lại thấp.
Do sản xuất theo kế hoạch nên thiếu sự linh hoạt với thị trường dẫn tới tình trạng sản xuất không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng. Mặt hàng cần thiết thì không sản xuất lại sản xuất những mặt hàng không cần thiết gây tình trạng lãng phí. Công nghệ, kỹ thuật chậm cải tiến, chi phí cao mà chất lượng sản phẩm thấp, cung cách hạch toán mang tính hình thức, phô trương, xuất hiện tình trạng “ lãi giả lỗ thât”.
2. Cơ chế quản lý mới-cơ chế thị trường
* Khái niệm cơ chế thị trường : là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các qui luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường.
* Ưu điểm của nền kinh tế thị trường
Có khả năng tự động tập hợp được hành động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng tới lợi ích chung của toàn xã hội, do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tếm tăng năng suất lao động xã hội, tăng hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập và đời sống dân cư.
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế.
Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng khoa học công nghẹ mới vào sản xuất, phát triển nâng cao năng suất lao động và nâng cao số lượng hàng hoá.
Sự tác động của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội. Lịch sử phát triển của nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả cao. Song “ … cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo…” P. Asamuelson, mà nó có những khuyết tật đặc biệt về mặt xã hội.
* Nhược điểm:
Trước hết là sự phát triển không ổn định của nền kinh tế. Điều đó xuất phát từ tính tự phát của nền kinh tế thị trường. Những cân đối lớn trong nền kinh tế mới được xác lập thông qua hàng loạt những dao động. Do đó cứ sau một thời kỳ phồn thịnh lại đến thời kỳ trì trệ, suy thoái… khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát…là những hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Những hiện tượng kinh tế trên có ảnh hưởng tiêu cực đến các mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Thứ hai, đó là sự xuất hiện độc quyền trong độc quyền trong nền kinh tế. Độc quyền vi phạm các điều kiện hiệu quả Pareto. Điều đó làm tổn hại đến lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội.
Thứ ba, các ngoại ứng tồn tại khi việc sản xuất và tiêu dùng một mặt hàng trực tiếp ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng không can dự tới việc mua hoặc bán mặt hàng đó, khi những ảnh hưởng tràn ra ngoài đó không được phản ánh đầy đủ trong giá cả thị trường. Ngoại ứng dung tích cực hay tiêu cực, khi không được phản ánh trong giá cả thị trường sẽ làm cho mức sản lượng không phải là tối ưu và do đó làm thiệt hại tới lợi ích của xã hội.
Thứ tư, hàng hoá công cộng. Đây là những loại hàng hoá mà sự tiêu dụng của một người không ảnh hưởng đến sự tiêu dùng của người khác như: đường cao tốc, quốc phòng an ninh… hàng hoá công cộng hết sức cần thiết nhưng các hộ cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp không bỏ tiền ra để sản xuất.
Thứ năm, phân phối thu nhập. Do sự tác động của các quy luật thị trường, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, sự phân hoá giàu nghèo là hiện tượng không tránh khỏi. Những điều đó có thể dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí xung đột trong xã hội. Điều này sẽ trở thành phần nhân tố cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thứ sáu, vấn đề thông tin trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần nhiều thông tin khác nhau. Trong khi đó, khả năng của từng doanh nghiệp trong việc thu thập thông tin rất hạn chế. Mỗi doanh nghiệp không thể tự giải quyết được nhu cầu về thông tin của chính mình.Những hạn chế khuyết tật nói trên đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để đảm bảo sự ổn định, cân bằng và hiệu quả.
3. Sự vận dụng của cơ chế thị trường vào Việt Nam
Suốt một khoảng thời gian dài trong hoạt động lý luận kinh tế, công tác kế hoạch hoá được tiến hành theo phương thức hành chính, tập trung bao cấp, trên thực tế đã kéo dài từ 1955-1985. Năm 1986, Đại Hội VI khẳng định con đường đổi mới, nhấn mạnh đối tượng quản lý và kế hoạch hoá của chúng ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và cơ chế kế hoạch hoá phải được xác lập theo phương thức hạch toán kinh tế, kinh doanh XHCN. Từ đây hoạt động đổi mới kế hoạch hoá thực sự được định hướng ở tầm quan điểm chiến lược chứ không chỉ dừng lại ở những sửa đổi tầm tác nghiệp, tác chiến…
Công cụ kế hoạch hoá-thuật ngữ ta thường dùng-nên được hiểu đầy đủ là kế hoạch hoá với tư cách là thuật ngữ diễn đạt qua những hoạt động có ý thức của một tổ chức hoặc cá nhân thuộc cộng đồng nhằm thực hiện các mục tiêu theo chương trình đã được xác định trước. Nói cách khác, kế hoạch hoá là quá trình hoạt động mang tính tổng hợp, tính liên ngành từ khâu phân tích, xác định mục tiêu, lựa chọn biện pháp cho đến khâu tổ chức thực hiện và kiểm tra.
Đổi mới kế hoạch hoá, một cách tổng quát, là bước chuyển từ kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung sang kế hoạch hoá trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do đó, đổi mới kế hoạch hoá, cũng như toàn bộ hoạt động đổi mới quản lý kinh tế của Nhà nước ta, chỉ bao hàm khả năng thành công khi được đặt trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thiếu thị trường tức la thiếu môi trường cho cơ chế quản lý và kế hoạch hoá mới tồn tại, là mảnh đất tốt cho cơ chế quản lý và kế hoạch hoá cũ duy trì. Đó là bài học thực tế. Vì vậy, một trọng tâm trong đổi mới kế hoạch hoá hiện nay và trong nhiều năm tới là tìm mọi giải pháp thúc đẩy sự ra đời và phát triển các loại thị trường: thị trường hàng hoá dịch vụ; thị trường tiền tệ ( theo nghĩa rộng ) và thị trường sức lao động một cách chủ động, có tổ chức, có bước đi thích hợp.
Mặt khác, với tư cách là cương lĩnh hoạt động thứ hai, hoạt động kế hoạch hoá sẽ ngày càng quan trọng hơn trong quá trình đổi mới, nhưng sự thành bại về bản không xuất phát từ bản thân nó mà tuỳ thuộc vào chính sách kinh tế mà nó cụ thể hoá. Luận cứ cho nhận xét này xuất phát ngay chính trong thực tiễn công tác kế hoạch hoá : từ Đại Hội VI về trước- chính sách kinh tế có những thiếu sót và sai lầm- một số chỉ tiêu của kế hoạch hoá 5 năm đạt thấp hoặc không hoàn thành; sau Đại Hội VI và nhất là sau Đại hội VII với chính sách kinh tế đúng đắn-các kế hoạch đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tất nhiên, để cụ thể hoá các chính sách kinh tế một cách khoa học, tính khả cao thì, bản thân hoạt động kế hoạch hoá phải có phương pháp thích hợp. Điều này cho thấy, việc đổi mới phương thức, phương pháp kế hoạch hoá là hết sức cần thiết và cấp bách. Đồng thời, từ chính hoạt động thực tiễn quản lý, điều hành của mình, hoạt động kế hoạch hoá sẽ góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện và phát triển chính sách kinh tế.
Chúng ta phát triển kinh tế hàng hoá là sự xoá bỏ tình trạng khép kín, trì trệ lạc hậu của nền tự nhiên, là con đường giải phóng các tiềm năng khai thác các nguồn lực thực hiện sự tích tụ và tập trung sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất xã hội.Nhận thức được những ưu điểm của cơ chế thị trường mang lại. Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế thị trường do nhân dân lao động làm chủ, mọi năng lực sản xuất được giải phóng, mọi tiềm năng của cá nhân, tập thể và cộng đồng dân tộc được khai thác vì mục tiêu dân giàu nược mạnh,tiến lên hiện đại đi liền với tự do dân chủ tiến bộ và công bằng xã hội. Nội dung của cơ chế thị trường ở nước ta là:
Chúng ta đã phát triển nền kinh tế thị trường trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường được chủ động kết hợp vời nhau ngay từ thông qua luật pháp, chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên tất cả tầm quản lý vĩ mô và vi mô. Nếu ở tầm vi mô các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu xác định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh thì ở tầm vĩ mô, Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế xã hội là mục tiêu quản lý nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội(nghĩa là đơn vị cá nhân trong xã hội được tự do sản xuất và kinh doanh, được hưởng thành quả lao động của mình và được hưởng thừa kế theo pháp luật). Trong nền kinh tế thị trường đương nhiên có sự phân hoá giàu nghèo, điều quan trọng ở đây là cần có những chính sách kinh tế xã hội để mọi người đem hết sức ra sản xuất kinh doanh làm giàu cho mình và nhờ đó xã hội cũng trở nên giàu có. Đồng thời cũng cần có những biện pháp điều tiết mức thu nhập của các tầng lớp dân cư nhằm thực hiện một xã hội văn minh.
Cùng với sự tăng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái được chủ động và phát triển qua các dự án đầu tư, môi sinh và qua việc chấp hành đúng đắn luật pháp chính sách môi trường của Nhà nước trong từng thời kỳ. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải là một nền kinh tế phát triển cao.
Cùng với viêc nâng cao và giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa “ kinh tế quốc doanh phải nắm được những bộ phận then chốt có vị trí chi phối nền kinh tế, có tác dụng điều tiết thị trường và giá cả ở một mức giá nhất định.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị trường vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là một nội dung quan trọng không thể thiếu được đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta. Trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường Nhà nước phải đóng vài trò “ bà đỡ” tạo cho kinh tế thị trường phát triển đúng hướng.Vai trò đó phải được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ công bằng xã hội trong phân phối và mở rộng phúc lợi xã hội cho toàn dân bằng xã hội trong phân phối và mở rộng phúc lới xã hội cho toàn dân bằng hệ thống hàng hoá công cộng. Cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là một môi trường thuận lợi để nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội. Để hạn chế và khắc phục được những hậu quả tiêu cực ấy, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của CNXH, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế- xã hội bằng kế hoạch, chính sách, thông tin tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác.
Nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta là nền kinh tế dân tộc hoà nhập với nền kinh tế quốc tế, với xu hướng phát triển nền kinh tế mở. Nội dung trên có ý nghĩa rất lớn một mặt nó phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta về vị trí địa lý, về lao động và về tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác nó làm nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập vào thị trường thế giới, từ đó có điều kiện thu hút các yếu tố khoa học kỹ thuật hiện đại thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh chóng hơn.
III. Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước việt nam trong cơ chế mới
1. Nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
Để thực hiện những chức năng quản lý kinh tế, những nội dung chủ yếu quản lý kinh tế của Nhà nước ta gồm:
- Quyết định chiến lược phát triển kinh tế – xã hội: Toàn bộ sự phát triển kinh tế của đất nước nhanh hay chậm, đúng hướng hay chệch hướng, hiệu quả kinh tế cao hay thấp… phụ thuộc trước hết vào đường lối chủ trương phát triển kinh tế ở tầm chiến lược quốc gia. Đặc biệt, khi sử dụng cơ chế thị trường, vấn đề lựa chọn quyết sách lại càng khó khăn, phức tạp hơn nhiều. ở đây, đòi hỏi phải phân tích tình hình thị trường, xác định mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Mấu chốt của sự thành công hay thất bại là việc xác định được một chiến lược phát triển có căn cứ khoa học.
- Kế hoạch: Là sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược. Kế hoạch nói ở đây là kế hoạch để đảm bảo thực hiện mục tiêu của quyết định chiến lược; định ra một cách khoa học mục tiêu dài hạn và ngắn hạn, những biện pháp và phương thức thực hiện các mục tiêu đó. Muốn vậy phải có dự báo khoa học. Dự báo là tiền đề không thể thiếu của quyết định chiến lược cũng như của kế hoạch.
- Tổ chức: Tổ chức là một nội dung quản lý quan trọng nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch đã định. Tổ chức khoa học là tổ chức một cách hữu cơ các yếu tố hoạt động sản xuất kinh doanh, các bộ phận, các khâu, các mặt của nền sản xuất xã hội nhằm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành hài hoà và có trật tự. Do đó cần bố trí cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức.Dựa theo yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí cán bộ trên cơ sở tiến hành sát hạch nghiêm ngặt.
- Xác định cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế: Đây là vấn đề khó khăn, phức tạp, đặc biệt đối với các nước mới bước vào kinh tế thị trường. Từ tổng kết kinh nghiệm thực tế của đất nước cùng với việc tham khảo kinh nghiệm các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, Nhà nước ta phải xác định cho được một cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế phù hợp. Việc lựa chọn một cơ cấu tổ chức quản lý thích hợp đòi hỏi phải có sự nghiên cứu công phu không thể nôn nóng và sao chép một cách giáo điều.
- Chỉ huy: Nền kinh tế là một tổ chức bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, do vậy phải có sự chỉ huy thống nhất mới đảm bảo nền kinh tế quốc dân hoạt động bình thường và thực hiện được mục tiêu đã định. Để có thể chỉ huy nền kinh tế, cơ quan quản lý phải thông thạo tình hình sản xuất kinh doanh, phải thu thập thông tin rộng rãi về các mặt, xây dựng hệ thống chỉ huy thống nhất có uy quyền, có sức mạnh, điều hoà và phối hợp có hiệu quả các mặt hoạt động kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Điều hoà phối hợp: Trong quá trình thực hiện kế hoạch phải thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, so sánh giữa mục tiêu kế hoạch, tiêu chuẩn với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Phát hiện những chênh lệch, phân tích nguyên nhân và nêu giải pháp cụ thể nhằm loại bỏ và ngăn ngừa những hoạt động quản lý kém hiệu quả. Thực hiện kế hoạch không thể không dùng nhiều biện pháp và hình thức khác nhau nhằm điều tiết các mặt hoạt động của nền sản xuất xã hội, đảm bảo cân đối tổng thể để thực hiện có hiệu quả mục tiêu của xí nghiệp.
- Khuyến khích và trừng phạt: Kích thích mọi tổ chức kinh tế, mọi người lao động cố gắng hoàn thành kế hoạch và nhiệm vụ bằng lợi ích vật chất và động viên tinh thần. Vận dụng linh hoạt các hình thức thưởng và phạt; thực hiện lao động nhiều được hưởng nhiều, lao động ít được hưởng ít; làm lợi và lợi càng nhiều cho nền kinh tế quốc dan thì khuyết khích, ngược lại thì ngăn chặn và trừng phạt.
2. Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của nền kinh tế Nhà nước
² Các mục tiêu
Mục tiêu chúng ta tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá, đưa hoạt động kế hoạch vào chiều sâu. Trong hoạt động của công tác kế hoạch hoá, bên cạnh việc tiếp tục nâng cao chất lượng của công tác dự báo kinh tế xã hội, và xây dựng các chương trình, mục tiêu như: chống buôn lậu, cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, chương trình về huy động vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng ngân sách Nhà nước, xây dựng các chương trình về chống thấp thoát, củng cố kỹ thuật, tài chính và các chương trình xã hội khác…
Chương trình mục tiêu vốn là một công cụ giúp các cơ quan quản lý giải quyết các mục tiêu cụ thể với thời gian xác định chảng hạn:
Chương trình cụ thể thiết lập mối quan hệ cân đối giữa thu chi ngân sách Nhà nước, chương trình khắc phục tình trạng nhấp siêu lớn, kiềm chế lạm phát, chống nguy cơ thiểu phát làm đóng băng nền kinh tế, tình trạng tiền ứ đọng tại các ngân hàng mà người sản xuất khi thiếu vốn… đang đòi hỏi chính phủ phải có sự tập trung chỉ đạo chặt chẽ bằng những biện pháp tích cực chủ động hữu hiệu.
Sử dụng rộng rãi nhưng có định hướng rõ ràng hệ thống các đòn bẩy kinh tế. Đã là kinh tế thị trường thì đều có một điểm chung là: mục đích của các doanh là lợi nhuận. Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, hiệu quả quản lý vĩ mô của nhà nước giữ vai trò quyết định, định hướng chính trị cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Để khẳng định vai trò và tính hiệu quả đó đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng rộng rãi và có hiệu quả các đòn bẩy kinh tế về tài chính, tiền tệ, giá cả phải kích thích sự phát triển và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế để đạt được hai mục tiêu cơ bản: tăng trưởng kinh tế và định hướng XHCN là mục tiêu hàng đầu.
* Tập trung nguồn lực để củng cố và phát triển khu vực kinh tế Nhà nước.
Phải có một hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước mạnh. Mục tiêu dân giàu nước mạnh và định hướng XHCN phải được dựa trên nền tảng sở hữu vững chắc của Nhà nước thông qua khu vực kinh tế của Nhà nước để thực hiện tốt chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Nhìn từ góc độ quản lý, khi xử lý các vấn đề cụ thể hoạt động điều tiết của Nhà nước, trước mắt cần tập chung vào các việc lớn sau đây: Từng bước hình thành các tập đoàn kinh tế lớn có sức mạnh thật sự , đủ sức làm nòng cốt và là chỗ dựa cho các ngành, các lĩnh vực kinh tế ở trong nước, nhưng đồng thời phải đủ sức cạnh tranh để làm ăn có hiệu quả trong hoạt động kinh tế đối với các đối tác nước ngoài. Song song với việc làm trên, cần có giải pháp hữu hiệu để chống độc quyền của chính hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
* Tiếp tục đổi mới công tác lập pháp của Nhà nước trong hoạt động kinh tế
Một mặt tiếp tục ban hành các đạo luật mới về hàng hoá như thị thành bộ luật kinh tế hoàn chỉnh và đồng bộ, thực sự có hiệu lực thiết lập một sửa đổi bổ sung các đạo luật đã ban hành khắc phục tình trạnh triệt tiêu hiệu lực lẫn nhau khi đưa vào cuộc sống. ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn việc thực hiện các đạo luật. Phải hoàn thiện các nguồn thông tin ngược chiều để kiểm soát việc thực hiện pháp luật trong hoạt động kinh tế.
* Đào tạo và đãi ngộ đội ngũ cán bộ quản lý phù hợp với cơ chế quản lý mới
Tích cực đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý về các kiến thức khoa học của hoạt động quản trị kinh doanh, quản lý Nhà nước, bồi dưỡng và nâng cao trình độ nhận thức về lý luận Mác – Lênin, đường lối, quan điểm của Đảng. Chuẩn bị một đội ngũ cán bộ quản lý thất sự đáp ứng yêu cầu điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN vừa trung thành với lý tưởng XHCN, vừa giỏi hoạt động kinh tế. Bên cạnh đó cần có chế độ làm việc và cống hiến trong các cơ quan quản lý Nhà nước.
2. Chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước
- Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước phát triển theo định hướng XHCN: Là nền kinh tế trong đó cả kế hoạch lẫn thị trường đều có vai trò thúc đẩy nền sản xuất phát triển, chúng đan xen vào nhau, bổ sung cho nhay và chế ước lẫn nhau; trong đó, thị trường là căn cứ, là đối tượng và là công cụ của kế hoạch hoá. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án để tổ chức sản xuất và kinh doanh, nhưng lại phải tuân theo phương hướng mục tiêu của kế hoạch.
Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi vừa phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời phải xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Không có chế độ tự chủ của các đơn vị này thì cũng không còn cơ chế thị trường. Thực hiện đúng chức năng quản lý của Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước, Nhà nước không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hoạch toán của doanh nghiệp.
Phát huy tác động tích cực và to lớn đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế khác và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản ấy, những chức năng cơ bản về quản lý nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN của Nhà nước ta là:
Thứ nhất, định hướng sự phát triển toàn bộ nền kinh tế nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Thứ hai, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt sự phát triển toàn bọ nền kinh tế theo định hướng XHCN.
Thứ ba, thiết lập khuôn khổ pháp luật, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt.
Thứ tư, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Thứ năm, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân theo định hướng lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, làm cho mọi người dần dần đều có đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thứ sáu, quản lý, bảo vệ tài sản công: kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
* Các nhà khoa học đã cố gắng đúc kết và xác định rõ chức năng hoạt động chủ yếu trong nền kinh tế thị trường. Trong số những kết quả được nêu ra, sáu chức năng thiết yếu do Robert Wade tổng hợp đó là:
Nhà nước duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô;
Nhà nước cung cấp cơ sở hàn tầng vật chất đặc biệt là những cơ sở có chi phí cố địn cao so với chi phí lưu động như bến cảng, đường sắt, kênh mương, thuỷ lợi…
Nhà nước cung cấp các “ hàng hoá công cộng” bao gồm quốc phòng, an ninh, giáo dục, nghiên cứu cơ bản, thông tin thị trường, hệ thống pháp luật và bảo vệ mồi trường.
Nhà nước góp phần phát triển các thể chế để cải thiện các thị trường lao động, tài chính, công nghệ…
Nhà nước tạo ra hoặc loại bỏ những méo mó, lệch lạc về giá cả thị trường có những sự phát triển thái qúa dẫn đến những “ thất bại thị trường” làm tổn hại đến nền kinh tế.
Nhà nước phân phối lại thu nhập, đảm bảo đủ những nhu cầu cơ bản cho người nghèo nhất
Ngoài những chức năng trên Robert còn nêu lên chức năng mà các quốc gia Châu á thường thực hiện là:
Duy trì ổn định các thông số kinh tế.
Khuyết khích xuất khẩu.
Khuyến khích việc tiếp thu công nghệ từ các công ty lớn.
Kiểm soát hệ thống tài chính.
Tái phân phối đất nông nghiệp trong thời kỳ sau chiến tranh.
Hỗ trợ sự phát triển của một số các ngành mũi nhọn.
Hầu hết các nước phát triển kinh tế thị trường ngày nay đều thừa nhận vai trò cơ bản và những chức năng thiết yếu của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên việc vận dụng cụ thể tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh riêng của nó. Cái khó nhất mà các nước thường gặp là làm thế nào đánh giá đúng và hình dung được thực trạng của mong muốn, nhất là những chính sách biện pháp liên quan đến việc tự do hoá tài chính và tư nhân hoá là những vấn đề nhạy cảm, không gắn với những yếu tố kinh tế, mà còn mang tính xã hội và chịu nhiều tác động từ bên ngoài vượt ra khỏi sự kiểm soát của Chính phủ.
3. Các công cụ Nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế
- Kế hoạch và thị trường
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN đòi hỏi phải sử dụng hai công cụ quản lý này cơ bản là kế hoạch và thị trường. Việc sử dụng hai công cụ quản lý này là không thể tách rời nhau mà là sự vận dụng quy luật giá trị và vận dụng quy luật giá trị nhằm quản lý nền kinh tế phát triển theo kế hoạch.
Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không có nghĩa là từ bỏ kế hoạch hoá mà là chuyển từ kế hoạch hoá thuần tuý pháp lệnh sang kế hoạch hoá định hướng là chủ yếu, sử dụng các đòn bẩy kinh tế và lực lượng vật chất trong tay Nhà nước để đảm bảo các tỷ lệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân. Từ chỗ đối lập kế hoạch với thị trường, ngày nay chúng ta đã nhận thức rõ, cả kế hoạch lẫn thị trường là căn cứ, là đối tượng và công cụ của kế hoạch hoá. Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, kế hoạch hoá phải bao quát được tất các thành phần kinh tế , tất cả các quan hệ thị trường, không chỉ các quan hệ thị trường trong nước mà cả các quan hệ với thị trường ngoài nước.
Kế hoạch Nhà nước bao gồm kế hoạch dài hạn và ngắn hạn. Thông qua kế hoạch dài hạn, Nhà nước cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, từ đó vạch ra các chương trình kinh tế có mục tiêu để định hướng đầu tư, điều tiết các hoạt động kinh tế và đề ra các chính sách kinh tế thích hợp ( thuế, tín dụng, xuất – nhập khẩu, chuyển giao công nghệ… )
- Xây dựng kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác hoạt động có hiệu quả
Đây là những thành phần kinh tế có vai trò quyết định nhất đối với việc quản lý nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Các thành phần kinh tế này có vai trò mở đường và hỗ trợ cho các thành phần khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế. Nhờ chúng mà Nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thực hiện những mục tiêu kinh tế – xã hội do kế hoạch vạch ra.
* Hệ thống pháp luật
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ( theo nghị quyết Đại hội IX là 6 thành phần ), theo đó chế độ sở hữu tư nhân được xác lập và tất yếu pháp luật phải đảm bảo quyền sở hữu bảo đảm quyền sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước giữ vai trò là chủ thể quản lý vĩ mô, còn quản lý của các chủ thể kinh tế là quản lý vi mô. Nhà nước không thể làm thay các chủ thể kinh tế ở phạm vi vi mô. Như vậy, với chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, Nhà nước vừa điều tiết nền kinh tế vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
Nhà nước phải sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động của các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, phát huy mặt tích cực và ngăn chặn mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, điều tiết các hoạt động kinh tế đối ngoại sao cho nền kinh tế không bị lệ thuộc vào nước ngoài.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đối với nước ta là một quá trình lâu dài. Vì thị trường luôn luôn biến động nên hệ thống pháp luật cũng phải được bổ sung hoàn chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế. Hệ thống pháp luật bao trùm mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội, nhưng có thể khái quát lại trong năm lĩnh vực:
+ Xác định các chủ thể pháp lý, tạo cho họ các quyền ( năng lực pháp lý ) và hành động ( khả năng kinh doanh mang tính thống nhất)
+ Quy đinh các quyền về kinh tế ( quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền chuyển nhượng, quyền thừa kế vv…)
+ Về hợp đồng kinh tế, các nguyên tắc cơ bản của Luật Hợp đồng dựa trên cơ sở thoả thuận, trên cơ sở tự nguyện của các bên, Luật Hợp đồng quy định quyền hoạt động của các chủ thể pháp lý, tức là các hành vi pháp lý.
+ Về sự đảm bảo của Nhà nước đối với các điều kiện chung của nền kinh tế có các Luật Bảo hộ lao động. Luật Môi trường, Luật về cácten vv… các quy định về mặt xã hội có Luật Bảo Hiểm xã hội vv..
+ Luật kinh tế đối ngoại
* Các công cụ tài chính
Có thể nói công cụ tài chính là phương tiện, là công cụ trọng yếu, là sức mạnh vất chất để Nhà nước can thiệp có hiệu lực vào nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường.Đây chính là quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa hạ tầng cơ sở với thượng tầng kiến trúc, là sức mạnh riêng có của công cụ tài chính trong quản lý của Nhà nước. Với các biện pháp mới công cụ tài chính.
Các
biện pháp
Đẩy mạnh
công tác
kiểm toán
Đổi mới
bảo hiểm
xã hội
Đổi mới
hệ thống thúê
Tăng cường hợp đồng
của kho bạc
Đổi mới ngân sách
Nhà nước
Sơ đồ: Các biện pháp đổi mới công cụ tài chính
Hệ thống thuế
Chính sách thuế đúng đắn không chỉ có mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, xuất khẩu, điều tiết tiêu dùng, khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực trong nền kinh tế, thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước ngoài, khuyến khích việc đầu tư có hiệu quả kinh tế – xã hội cao. ở các nước XHCN, từ nền kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, thuế cũng có những thay đổi cần thiết.Việc thu thuế hoàn toàn căn cứ vào mức thu nhập. Cụ thể là:
Về thuế trực thu, hầu như không áp dụng đối với người có thu nhập thấp
Về thuế gián thu có sự phân biệt rất rõ giữa các loại hàng hoá: hàng hoá nào phục vụ đông đảo quần chúng, thì định thuế suất thấp hoặc thậm chí không thu thuế; hàng hoá nào chỉ phục vụ những người có thu nhập cao ( giàu có) thì thuế suất cao, thậm chí rất cao
ở nước ta việc sử dụng công cụ thuế để kích thích phát triển sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân còn nhiều hạn chế, do đó hiệu quả hoạt động của nền kinh tế quốc dân chưa cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Sở dĩ như vậy là vì ta chưa nhận thức được đầy đủ về bản chất kinh tế của thuế cũng như về quyền hạn của Nhà nước và nghĩa vụ của công dân trong vấn đề thuế, nên việc thu thuế và nộp còn nhiều sơ hở, thiếu sót.Trước hết, phải khẳng đình rằng thuế, về bản chất kinh tế, là một công cụ tài chính hết sức quan trọng, không chỉ tạo nguồn thu cho Nhà nước, mà còn có tác dụng thu thuế luôn luôn tồn tại mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và người nộp thuế .Vì vậy, nếu Nhà nước không có biện pháp hữu hiệu, về phần mình, Nhà nước cũng phải tính toán nên thu thuế gì và ở mức nào để có thể kích thích sản xuất và tăng thu nhập, từ đó tạo ra được nguồn thu nhiều hơn.
Hệ thống ngân sách nhà nước
Trong kinh tế thị trường, vai trò của NSNN là bảo đảm nguồn tài chính thực hiện chức năng Nhà nước công quyền, duy trì sự tồn tại của thể chế chính trị; là công cụ thực đẩy tăng trưởng, ổn định và điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước; bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vế mội trường sinh thái. Trong đó, Ngân sách tiêu dùng: công cụ bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước công quyền và bảo vệ tổ quốc còn Ngân sách phát triển: công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vi mô của Nhà nước. Bởi vì, trái với quan điểm “ ngân sách tiêu dùng” hoặc “ ngân sách cai trị” có quy mô vừa phải, đủ đảm bảo chi thường xuyên, chi quốc phòng, an ninh là quan điểm ủng hộ Nhà nước sử dụng NSNN can thiệp vào kinh tế. Nhà nước cần phải tác động vào quá trình phát triển kinh tế, dù đó là kinh tế thị trường. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh đảm bảo triển khai các biện pháp can thiệp kinh tế. Quy mô thu chi, chi NSNN phải đủ lớn bảo đảm cho Nhà nước chủ động thực hiện các chính sách tài khoá nới lỏng ( hoặc thắt chặt ), thực hiện kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong thực tế, vai trò công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định, điều tiết kinh tế vĩ mô của một NSNN phát triển đã được nhận thức, vận dụng rất khác nhau tuỳ thuộc quan niệm của mỗi Nhà nước, tuỳ theo bối cảnh kinh tế ở mỗi thời kỳ và đã trải qua nhiều thăng trầm quan trọng. Đi liền với biện pháp kinh tế, kỹ thuật của NSNN, tính thống nhất và tập trung của ngân sách, tính kiểm kê và kiểm soát của ngân sách, tính quyền lực của ngân sách Nhà nước phải được luật hoá, và thực hiện cưỡng bức chấp hành các luật về ngân sách vv…
Hệ thống chính sách tiền tệ tín dụng
Chính sách tiền tệ – tín dụng xét về mụ tiêu cơ bản, nó cũng giống như chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia nói chung nhằm :1) Giảm tốc độ lạm phát, ổn định mức sống mua đồng tiền. 2) Tăng nhanh tổng sản phẩm quốc dân thực tế. 3) Cân bằng ngân sách. 4) Tăng việc làm và tăng thu nhập. 5) Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Nhưng tác động có hiệu quả nhất của chính sách tiền tệ – tín dụng đối với những mục tiêu này là tác động gián tiếp. Do đó, để góp phần tích cực vào việc thực hiện những mục tiêu đó, chính sách tiền tệ – tín dụng phải nhằm vào những biến số trung gian có thể kiểm soát và dự đoán được. Đồng thời phải biết sử dụng một cách có hiệu quả nhất các công cụ: 1) Lãi suất thị trường và mức cung tiền tệ. 2) Mức dự trữ tiền tệ của ngân hàng. 3) Các công cụ lưu thông tín dụng và cơ chế của nó. Để đưa chính sách tiền tệ – tín dụng vào đời sống kinh tế mỗi Nhà nước hiện đại đều phải có một hệ thống ngân hàng hiện đại, bao gồm ngân hàng TW, với chức năng chủ yếu là kiểm soát việc cung ứng tiền tệ – tín dụng của nền kinh tế, cùng với hệ thống ngân hàng thương mại và các thể chế tài chính khác như công ty tài chính, quỹ tiết kiệm vv…hoạt động kinh doanh trên thị trường kinh doanh trên thị trường tiền tệ – tín dụng.Việc sử dụng các công cụ trực tiếp và các chính sách điều chỉnh như hiện nay chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các mục vĩ mô thông qua kênh dẫn truyền trực tiếp chủ yếu về mặt khối lượng như sau:
Kênh dẫn truyền trực tiếp:
MS ↑ chi tiêu ↑ GDP danh nghĩa ↑ GDP thực tế ↑
lạm phát ↑
Chính sách tín dụng
Chính sách quản lý ngoại hối Nhập khẩu ↑ Tài khoản vãng lai bội chi
Xuất khẩu ↑
Vnd giảm giá
4. Thực trạng quản lý Nhà nước về kinh tế hiện nay
Từ khi đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi căn bản. Nhưng nền kinh tế thị trường ở nước ta mới chỉ sơ khai, chưa đầy đủ. Điều đó được thể hiện rõ ở các điểm sau đây:
- Sản xuất hàng hoá trong các lĩnh vực, tiểu thủ công nghiệp còn ở trình độ thấp, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm làm ra chưa cao. Vì thế thị trường tiêu thụ hết sức hạn chế. Nếu có thị trường thì sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường vẫn còn kém.
- Tuy sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp là ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm nhiều lao động xã hội trong cơ cấu kinh tế nhưng quá trình thương phẩm hoá sản phẩm nông – lâm – ngư nghiệp chỉ diễn ra ở một số nơi có cơ sở hạ tầng giao thông vận tải thận lợi, gần thị trường lớn và có bình quân ruộng đất trên đầu người tương đối cao.
- Các hoạt động dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ, nhưng chỉ mới tập trung vào một số ngành như ăn uống, buôn bán nhỏ các hàng công nghiệp tiêu dùng vv… các ngành như du lịch, bảo hiểm, cung ứng kỹ thuật và công nghệ chưa ứng kỹ thuật và công nghệ chưa từng xứng, chất lượng các hàng hoá dịch vụ nhìn chung còn thấp.
- Nhiều điều kiện cần thiết cho sự ra đời của sản xuất hàng hoá như thị trường đất đai, sức lao động, thị trường tiền tệ chưa được thiết lập một cách hoàn chỉnh, công khai. Một số các yếu tố cấu thành đầu vào của sản phẩm chưa phải là hàng hoá, hoặc đang trong trạng thái độc quyền.
Chính vì nền kinh tế còn đang trong bước quá độ của sự phát chuyển đổi như vậy nên Nhà nước cũng chưa kiên quyết từ bỏ ngay cách quản lý trực tiếp đối với nền kinh tế để chuyển hẳn sang cách quản lý gián tiếp được mà vẫn phải tiến hành đan xen có hai phương thức điều này thể hiện rõ trên các mãi sau đây:
- Trong nền kinh tế thị trường các cơ sở sản xuất là những đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, họ tự lo lấy vốn, vật tư kỹ thuật để phục vụ sản xuất, tự chịu trách nhiệm về kết quả của hoạt sản xuất bao nhiêu và bán cho ai là do nó tự định đoạt. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào như trước nữa. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều cơ quan Nhà nước nhiều cấp chính quyền vẫn còn giao kế hoạch sản xuất, kế hoạch giao nộp và đóng góp cho các hợp tác xã và nông dân hay can thiệp vào công tác tổ chức và nhân sự của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn của địa phương mình vv… Trong sản xuất công nghiệp chế độ bao cấp vẫn còn trên thực tế.
- Để cho sản xuất hàng hoá phát triển nhanh, phát triển đúng quy luật, Nhà nước phải là người tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho nó. Bằng chủ trương xoá bỏ ngăn sông cấm chợ, xoá bỏ chế độ nhiều giá, chúng ta đă khuyến khích sự ra đời nhanh của thị trường hàng hoá thị trường, vật tư kỹ thuật thông suốt và thống nhất trong cả nước đây là điều tốt, những thị trường khác rất cần thiết đối với sự hình thành và phát triển của sản xuất hàng hóa như thị trường sức lao động, thị trường đất đai, thị trường tiền tệ, thị trường chất xám. Vì Nhà nước vẫn chưa có giải pháp rõ ràng dứt khoát và có hiệu lực trở ngại đối với sự phát triền sản xuất hàng hoá ở nước ta hiện nay.
- Trong nền kinh tế thị trường công cụ chủ yếu Nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế là hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật càn đầy đủ, đồng bộ bao nhiêu, việc quản lý của Nhà nước càng chặt chẽ, thuận lợi bấy nhiêu, nên nền kinh tế đã chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá, song những luật rất cơ bản như luật lao động, luật thuê mướn nhân công, luật phá sản, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật cạnh tranh và chống độc quyền… vẫn chưa có
- Bộ máy Nhà nước trung ương vẫn chưa hợp lý, nhiều cơ quan chưa có chức năng, nhiệm vụ,có người mới đề ra việc, nhiều người đứng đầu các cơ quan Nhà nước vẫn chưa phải là những người tiêu biểu, đại diện cho trí tuệ của cơ quan , của ngành đó.
- Chức năng, nhiệm vụ và cách tổ chức bộ máy chính quyền ở các cấp vẫn chưa được phân định rõ ràng, còn gây nhiều nỗi băn khoăn trong cán bộ và nhân dân.
- Luật viên chức Nhà nước vẫn chưa có. Các chức danh trong bộ máy quản lý chưa có, chính vì vậy viện bố trí người còn rất tuỳ tiện, người được được đào tạo, người có tài năng không được quan tâm trọng dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý của Nhà nước được tiến hành thông qua các chính sách của Nhà nước như thuế, giá cả, tiền tệ và tín dụng, lãi suất, tỷ giá hối đoái vv…
Trong những năm qua Nhà nước ta cũng đã đề ra được nhiều chính sách nhằm khuyến khích sản xuất hàng hoá phát triển. Tuy nhiên, chúng ta còn thiếu một bộ máy Nhà nước, đổi mới phương thức sử dụng các công cụ quản lý kinh tế cho phù hợp vói cơ chế mơi. Chính vì vậy, để thúc đẩy nhanh việc cơ cấu lại nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường, Nhà nước cần phải xác định lại vai trò của mình, đổi mới và hoàn thiện hệ thống công cụ quản lý kinh tế.
5. Các giải pháp cơ bản để tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay
Để có thể hoàn thành chức năng định hướng nền kinh tế, Nhà nước phải tạo ra được công cụ định hướng để quy tụ hành động của các doanh nghiệp và người tiêu dùng cá biệt thành véc tơ vận động của nền kinh tế để định hướng nền kinh tế phát triển bền vững thì Nhà nước cần phải thực hiện:
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn:
- Bằng việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội Nhà nước có thể thực hiện được ý đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo vùng lãnh thổ, khai thác sử dụng có hiệu quả tài nguyên , đưa thị trường trong nước hoà nhập với thị trường thế giới làm cho nền kinh tế phát triển, tăng trưởng ổn định, vững chắc, công bằng và có hiệu quả.
- Kế hoạch hoá định hướng: kế hoạch chương trình phát triển kinh tế xã hội do Nhà nước ta đề ra theo mô hình kinh tế mới không chỉ là giao chỉ tiêu thực hiện mà còn là điều phối sự hoạt động của dự án đã đề ra.
Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần phát triển
- Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá kinh tế.
- Quy định và đảm bảo các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Đa dạng hoá chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
- Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường.
Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng hiệu quả tạo ra động lực cho sản xuất
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng, sự hoạt động của quy luật càng dẫn đến sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia sẻ dan cư thành các tầng lớp khác nhau. Tình trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vực chính trị xã hội.Vì vậy Nhà nước phải hoàn thành chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thoả mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả. Để giải quyết tình trạnh bất bình đẳng trong thu nhập cần thiết phải xây dựng lại hệ thống thuế để điều tiết mỗi phần thu nhập của lớp người giàu có, đồng thời giúp đỡ những người nghèo có cơ hội trở thành giàu có. Nhà nước cần phải giúp họ tạo công ăn việc làm, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghiệp vụ, cho vay vốn ban đầu với chế độ ưu đãi thích đáng. Cần phải hình thành các quỹ trợ cấp, bảo hiểm từ những nguồn vốn ngân sách và từ nguồn vốn huy động của dân để giúp đỡ cho những người tạm thời thất nghiệp, những người già yếu…
Can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết
Định hướng, tạo môi trường, phân phối thu nhập là những công việc cần thiết để thực hiện vai trò của Nhà nước trong chiến lược dài hạn dưới ảnh hưởng của cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế. Chính vì vậy trong quá trình thực hiện mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn những cú sốc làm chệch hướng mục tiêu là điều không thể tránh khỏi. Trong trường hợp đó Nhà nước phải sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế, khối lượng tiền và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra đưa nền kinh tế đi theo định hướng.
Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước cùng một lúc phải hoàn thành hai nhiệm vụ lớn trong lĩnh vực kinh tế.
- Điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn, quyết định phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho công bằng bình đẳng và hiệu quả.
- Nhà nước quản lý tải sản quốc gia, phân bố các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý. Nhà nước thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế trong toàn quốc gia. Đồng thời, Nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọng quyết định sự tồn tại của thể chế, với tư cách là người chủ quản lý đất nước, là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế.
Kết luận
Trong 15 năm qua, sự nghiệp đổi mới nói chung và chuyển đổi chức năng kinh tế của Nhà nước ta đã thu được những thành tựu đáng tự hào. Từ năm 1989 đến nay, Việt Nam đă chế ngự được tình trạng lạm phát phi mã đồng tiền tương đối ổn định. Công cuộc đổi mới góp phần cải thiện hình ảnh của Nhà nước Việt Nam trên trường quốc tế. Các chính sách của Việt Nam về kinh tế & xã hội đã tạo ra cơ sở để đầu tư nước ngoài thu hút vốn viện trợ và sự giúp đỡ của nhiều nước, các tổ chức quốc tế và cá nhân. Như vậy, do đi đúng hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện quyền tự do kinh doanh phù hợp với pháp luật, phát triển và đa dạng hoá quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy được các tiềm năng và động lực ở trong nước, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế –xã hội, bước đầu tranh thủ được đầu tư và thị trường quốc tế, đổi mới nhanh chóng đưa nền kinh tế chuyển dần sang thế ổn định và phát triển có hiệu quả phù hợp với xu hướng phát triển của thập kỷ 90 trên thế giới. Đất nước đã có sự thay đổi sâu sắc tạo thế và lực lớn mạnh cho sự phát triển trong thời gian tới mặc dù chúng ta vẫn phải đương đầu với những khó khăn, thách thức để lại do cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế của cá nước khu vực, hoặc lựa chọn chiến lược, sách lược cho sự phát triển cuẩ nền kinh tế chưa phù hợp.
Đối với cá nhân em, là một cử nhân kinh tế sau này sẽ là người chủ thực sự của đất nước, sẽ đem những kiến thức đã được học trong thời gian học đại hoc, qua sách báo, qua phương tiện thông tin đại chúng để tham gia vào quá trình xây dựng và kiến thiết đất nước phát triển Mặt khác, không ngừng hoc hỏi, trau dồi, bổ sung thêm những tri thức thông tin cập nhật trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế để phục vụ cho tương lai sau này, trở thành một thành viên có ích cho xã hội.%
mục lục
Tài liệu tham khảo
TạP CHí Tổ CHứC Nhà nước
Tạp chí kinh tế và phát triển
Tạp chí luật học
Tạp chí quản lý nhà nước
Tạp chí kinh tế & dự báo
Văn kiện đại hội đảng
Giáo trình kinh tế chính trị
Giáo trình quản lý nhà nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33776.doc