Đề tài Tăng trưởng nguồn vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Vốn của các NHTMQD là hiện do Nhà nước cung cấp cho để hoạt động, điều này gây hạn chế về quy mô nguồn vốn của ngân hàng, như thế sẽ làm cho ngân hàng trở nên khó khăn trong các hoạt động của ngân hàng cũng như trong hoạt động huy động vốn. Chính vì thế, Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện cổ phần hóa các NHTMQD nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng này thu hút được các điều kiện bên ngoài như vốn, trình độ quản lý,.giúp ngân hàng có điều kiện phát triển hơn nữa, nhất là trong xu thế hội nhập như hiện nay. Cơ chế cạnh tranh trong hoạt động giữa các NHTM, nhất là trong hoạt động huy động vốn, đã thúc đẩy các NHTM tự cố gắng và đã đạt được nhiều thành tích trong thời gian qua. Tuy nhiên, giữa khối các NHTMCP và NHTMQD vẫn có sự khác biệt trong đó lợi thế cạnh tranh luôn thuộc về các NHTMQD. Sự khác biệt này cần được xóa bỏ càng sớm càng tốt nhằm xác lập quyền cạnh tranh như nhau giữa các MHTM trong nước với nhau. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có một đội ngũ các NHTM thực sự khỏe mạnh, hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của nền kinh tế. Nhà nước cần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định nhằm giúp các thành phần kinh tế tại Việt Nam yên tâm hoạt động và mở rộng quy mô của nó, nhất là đối với các NHTM. Vì môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lớn tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi cũng như sẽ gây khó khăn đối với ngân hàng trong hoạt động huy động vốn. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là tiền đề cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước cũng như nguồn vốn mà ngân hàng huy động được.

doc80 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng trưởng nguồn vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại nhà vào tài khoản đã được hình thành trong dân cư. Như vậy, nguồn vốn không kỳ hạn mà NH ĐT&PTVN huy động được sẽ tăng lên trong thời gian tới. Vốn huy động có kỳ hạn Vốn huy động có kỳ hạn là hình thức huy động vốn thu hút được lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư là chủ yếu, lượng vốn huy động được phụ thuộc chủ yếu vào lãi suất tiền gửi, ngoài ra còn phụ thuộc phong cách phục vụ của ngân hàng, vị trí giao dịch có thuận lợi với khách hàng hay không,… Lượng vốn huy động dưới hình thức này luôn tăng qua các năm, năm 2005 đạt 92.302 tỷ đồng, gấp 1,72 lần so với năm 2002, tốc độ tăng bình quân hàng năm của nguồn này là 19,74%. Điều này đã cho thấy chính sách lãi suất cũng như các chính sách khác trong huy động vốn của NH ĐT&PTVN đã đạt hiệu quả cao. Đây là một trong những thành công trong công tác huy động vốn do nhu cầu vốn có kỳ hạn rất lớn. Tính đến ngày 31/12/2005, vốn trung và dài hạn của NH ĐT&PTVN đã huy động được là 50.003 tỷ đồng, chiếm gần 50% tổng vốn huy động của NH ĐT&PTVN. Biểu 8.2: Vốn huy động có kỳ hạn qua các năm Bảng 9 - Cơ cấu vốn huy động có kỳ hạn tại BIDV Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tiền gửi có kỳ hạn - Dưới 12 tháng - Trên 12 tháng 52.068 27.093 24.975 59.703 28.930 30.773 72.963 32.256 40.707 89.275 42.299 46.976 Giấy tờ có giá 1.475 1.934 2.723 3.027 Vốn huy động có kỳ hạn 53.543 61.637 75.686 92.302 Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Như vậy trong tổng số vốn có kỳ hạn của BIDV đã huy động được qua các năm thì vốn huy động qua hình thức tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất lớn, phần vốn mà BIDV huy động được thông qua việc phát hành giấy tờ có giá chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số vốn có kỳ hạn mà BIDV đã huy động được. Biểu 9 - Cơ cấu vốn huy động có kỳ hạn tại BIDV 2.2.2.3 Cơ cấu huy động vốn phân theo loại tiền Vốn huy động bằng VND và ngoại tệ tăng dần qua các năm nhưng trong cơ cấu về vốn huy động của mình thì BIDV vẫn duy trì được tỷ lệ tương đối ổn định, điều đó cho thấy BIDV đã giải quyết được mối quan hệ giữa huy động và sử dụng vốn của mình có hiệu quả. Bảng 10: Cơ cấu huy động vốn theo loại tiền (quy đổi VND) Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Tổng vốn huy động 68.655 100 80.230 100 94.714 100 111.907 100 VND 50.118 73 62.579 78 71.982 76 87.287 78 Ngoại tệ 18.537 27 17.651 22 22.732 24 24.620 22 Nguồn: Báo cáo phòng nguồn vốn NHĐT&PTVN Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt là một ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam, có uy tín đối với các tổ chức trong và ngoài nước. NH ĐT &PTVN luôn là lựa chọn hàng đầu của các tổ chức nước ngoài và của chính phủ khi có nguồn viện trợ hay các chương trình viện trợ của các tổ chức quốc tế cho Việt Nam như WB, ADB,…là ngân hàng nhận được sự uỷ thác của Chính phủ và các nguồn vốn uỷ thác của các tổ chức nước ngoài viện trợ cho Việt Nam. NH ĐT&PTVN đã được Bộ Tài Chính chấp thuận chọn làm ngân hàng phục vụ cho 16 chương trình dự án mới từ nguồn ADB, WB, NIB, Nhật, Đức và các nước khác với tổng trị giá 436,64 triệu USD vào cuối năm 2005. Tổng số dự án uỷ thác là 242 (120 dự án cho vay lại và 122 dự án uỷ thác rút vốn). Biểu 10 - Cơ cấu huy động vốn theo loại tiền (quy đổi VND) NH ĐT&PTVN cũng nhận được nhiều nguồn tín dụng ưu đãi của các tổ chức tín dụng nước ngoài, hơn nữa những dịch vụ thanh toán quốc tế của NH ĐT&PTVN ngày càng nâng cao vì thế nguồn ngoại tệ huy động được từ các tổ chức trong nước cũng tăng lên đáng kể, ngoài ra, chính sách lãi suất của NH ĐT&PTVN đã phát huy rất có hiệu quả, lượng tiền gửi tiết kiệm của dân cư bằng ngoại tệ cũng tăng lên,… Chính vì thế lượng vốn huy động bằng ngoại tệ của NH ĐT&PTVN luôn tăng qua các năm. Năm 2002, lượng ngoại tệ mà NH ĐT&PTVN huy động được quy ra VND là 18.537 tỷ đồng, đến năm 2005 con số này là 24.620 tỷ đồng, tăng 32,81% so với năm 2002. 2.3 Đánh giá thực trạng nguồn vốn & huy động vốn tại NHĐT&PTVN Những kết quả đã đạt được 2.3.1.1 Kết quả đã đạt được Nhờ coi trọng công tác huy động vốn, đồng thời đẩy mạnh dịch vụ chăm sóc khách hàng, tích cực ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt động tại ngân hàng, NH ĐT&PTVN đã tạo ra nhiều sản phẩm mới, tạo ra nhiều tiện ích cho khách hàng, mở rộng mạng lưới trên toàn lãnh thổ Việt Nam. NH ĐT&PTVN đã đạt được một số kết quả nhất định trong công tác huy động vốn. NH ĐT&PTVN đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước bằng việc huy động vốn cho phát triển và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Tổng nguồn vốn không ngừng tăng lên, đáp ứng nhu cầu tín dụng ngắn, trung và dài hạn của nền kinh tế, nhất là vốn trung và dài hạn. NH ĐT&PTVN luôn là bạn đồng hành của các ngành, tổ chức kinh tế quan trọng của đất nước như ngành công nghiệp đóng tàu, luyện kim, khoáng sản, dầu khí, … các đơn vị thi công những chương trình trọng điểm của Nhà nước. NH ĐT&PTVN luôn là sự lựa chọn của các tổ chức kinh tế, tín dụng của nước ngoài khi muốn tham gia vào hoạt động tại Việt Nam, NH ĐT &PTVN còn có trách nhiệm trong việc thực hiện các dự án của chính phủ với tư cách là ngân hàng uỷ thác, quản lý nguồn vốn của chính phủ trong nhiều chương trình kinh tế trọng điểm. Huy động vốn luôn thể hiện sự phát triển ổn định. Tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn ở mức cao, tăng trưởng trung bình đạt gần 20%. Lãi suất huy động của NH ĐT&PTVN luôn duy trì trong nhóm những ngân hàng thương mại có mức lãi suất thấp nhất trên thị trường là do chi phí huy động vốn so với các ngân hàng khác là cạnh tranh và hiệu quả hơn. NH ĐT&PTVN luôn nắm bắt được thời cơ một cách tốt nhất, có hướng đi đúng đắn theo định hướng của ngành và luôn là ngân hàng đi đầu trong việc định hướng lãi suất trên thị trường. Tiến hành đưa vào áp dụng một số sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ hiện đại mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng trong hoạt động huy động vốn như phát hành chứng từ có giá, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm theo hình thức lãi suất bậc thang,… Các dịch vụ như trả lương tự động, thẻ ATM, chuyển tiền kiều hối qua trung tâm chuyển tiền tập trung, cung ứng các dịch vụ phục vụ hoạt động kinh doanh của khách hàng,…tư vấn tài chính cho khách hàng. Cơ cấu huy động vốn rất hợp lý, vốn huy động ngắn hạn so với trung và dài hạn, tỷ trọng giữa vốn huy động bằng ngoại tệ và VND cũng rất hợp lý, vốn ngoại tệ huy động được đã sử dụng với hiệu quả cao, đáp ứng được nhu cầu về ngoại tệ của thị trường. Vốn huy động được từ dân cư luôn ổn định ở mức cao, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động được của NH ĐT&PTVN. Luôn tăng trưởng về mặt lượng trong tổng nguồn vốn nhưng xét về tỷ trọng thì giảm dần, sự giảm đó là do sự tăng trưởng nhanh của nguồn vốn huy động được từ các tổ chức. Nguồn vốn huy động từ các tổ chức của NH ĐT&PTVN qua các năm tăng cả về lượng và tỷ trọng trong tổng nguồn vốn, đây là nguồn vốn ổn định, có chi phí thấp. Và đây là một lợi thế của NH ĐT&PTVN trên thị trường huy động vốn ngày càng cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Chất lượng dịch vụ bước đầu được cải thiện đáng kể, góp phần nâng cao uy tín của NH ĐT&PTVN dưới góc nhìn của một khách hàng, như thế lượng khách hàng đến với NH ĐT&PTVN ngày càng nhiều. Kế hoạch huy động vốn đã theo sát và đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của Ngân hàng. 2.3.1.2 Nguyên nhân Hoạt động huy động vốn của NH ĐT&PTVN đã và đang từng bước đạt được những kết quả khả quan như trên là do những nguyên nhân sau: Nguyên nhân khách quan Nền kinh tế của Việt Nam ta trong thời gian vừa qua đã có những bước phát triển ổn định với tốc độ cao, trung bình hàng năm đạt 7,5% trong giai đoạn 2002-2005 đặc biệt năm 2005 Việt Nam đạt mức tăng trưởng GDP là 8,4% - mức cao nhất trong vòng gần 10 năm trở lại đây. Kim ngạch xuất nhập khẩu cũng tăng đáng kể, cụ thể xuất khẩu tăng khoảng 14-16% và nhập khẩu tăng từ 13-15%, nền kinh tế của chúng ta đang hướng tới một nền kinh tế xuất khẩu. Lạm phát được kiềm chế ở một con số, đời sống nhân dân được cải thiện, các tổ chức kinh tế có điều kiện phát triển mạnh, nguồn kiều hối từ nước ngoài chuyển về ngày càng nhiều, sự đầu tư, viện trợ của nước ngoài cho Việt Nam tăng đáng kể. Do đó, đây là cơ hội để các NHTM nói chung và NH ĐT &PTVN nói riêng thu hút, huy động vốn tăng cả về chất lượng lẫn quy mô. Môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhiều bộ luật quan trọng được ra đời và chỉnh sửa có bổ xung như luật dân sự, luật thương mại, luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh và chống độc quyền,… đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển hơn nữa và các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam. Hệ thống pháp luật về ngân hàng được hoàn thiện căn bản với việc ban hành Luật NHNN và Luật TCTD thay thế cho pháp lệnh về NHNN và Pháp lệnh về Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính năm 1990. Để phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và nâng cao hiệu quả của hệ thống ngân hàng, tháng 6/2003 Quốc Hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ xung một số luật NHNN và năm 2004 Luật các tổ chức tín dụng tiếp tục được sửa đổi và hoàn thiện. Thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ, cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tiếp tục mở cửa thị trường tài chính ngân hàng cho các tổ chức tài chính nước ngoài. Đến năm 2010 thì các ngân hàng của Mỹ sẽ được đối xử bình đẳng với các NHTM trong nước. Trước những cam kết của Việt Nam với Mỹ và cam kết khi gia nhập WTO thì đòi hỏi các ngân hàng trong nước phải đổi mới toàn diện. NH ĐT&PTVN cũng không phải ngoại lệ, đứng trước điều đó đòi hỏi NH ĐT&PTVN phải có những chuyển biến toàn diện trong tất cả các khía cạnh nhằm thay đổi mình và nâng cao khả năng cạnh tranh khi hội nhập. Nguyên nhân chủ quan BIDV là một trong những ngân hàng có uy tín lớn ở Việt Nam với hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, đội ngũ cán bộ công nhân viên giỏi chuyên môn, nhiệt tình với công việc, hết lòng phục vụ khách hàng, gắn bó lâu dài với ngân hàng. Ban lãnh đạo là những người gắn bó lâu dài với ngành ngân hàng, có chính sách quản lý, chính sách sản phẩm rất linh hoạt với những biến động của thị trường, khả năng dự báo về những thay đổi của thị trường rất tốt từ đó mà đưa ra những chính sách, biện pháp thích hợp nhằm hạn chế bất lợi phát huy những lợi thế của BIDV. BIDV là một ngân hàng có quy mô lớn, là một trong những ngân hàng có tiềm lực tài chính tốt nhất tại Việt Nam hiện nay. BIDV có mạng lưới rộng khắp toàn quốc với 79 chi nhánh cấp 1, 3 sở giao dịch và 62 chi nhánh cấp 2 tính đến cuối năm 2005. Khách hàng là doanh nghiệp của NH ĐT&PTVN là các tổ chức kinh tế, các Tổng công ty, các doanh nghiệp vừa và nhỏ,…hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau. Đây là đối tượng khách hàng mà NH ĐT&PTVN đã có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ trong rất nhiều năm. Khách hàng cá nhân của BIDV thuộc mọi thành phần kinh tế, hiện số lượng khách hàng là cá nhân của NH ĐT&PTVN lên tới trên 1 triệu người, mục tiêu trong thời gian tới (2006-2007) NH ĐT&PTVN sẽ tăng gấp đôi số lượng khách hàng cá nhân của mình. Hệ thống công nghệ thông tin của NH ĐT&PTVN đã được hiện đại hoá tại tất cả các chi nhánh, tạo điều kiện triển khai đồng bộ, hiệu quả các sản phẩm dịch vụ mới trên phạm vi toàn quốc. NH ĐT&PTVN có lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn và tín dụng trung và dài hạn, có thế mạnh trong việc tài trợ cho các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do đã có kinh nghiệm về quản lý vốn đầu từ trước đây. Hiện NH ĐT&PTVN đang chọn lọc đầu tư trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. NH ĐT&PTVN có kinh nghiệm trong vai trò của một ngân hàng đại lý, bán buôn, uỷ thác đầu tư cho nước ngoài (như dự án tài chính nông thôn của WB). NH ĐT&PTVN là một trong những ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam được SBV cấp phép để phát triển các sản phẩm phái sinh như quyền chọn ngoại tệ, sản phẩm tiền gửi cơ cấu, quyền chọn giữa ngoại tệ và VND. NH ĐT&PTVN cũng là ngân hàng hàng đầu của Việt Nam trong việc quản lý tài sản, NH ĐT&PTVN đang thực hiện quản lý tài sản từ nguồn phát hành trái phiếu quốc tế của chính phủ. Trong hoạt động kinh doanh đối ngoại thì NH ĐT&PTVN là một trong những ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam, ngoài ra NH ĐT&PTVN còn là ngân hàng thương mại Việt nam đầu tiên đăng ký thành công thương hiệu tại thị trường Hoa Kỳ. Chính sách lãi suất linh hoạt dựa trên tín hiệu của thị trường, tuỳ tình hình cụ thể mà NH ĐT&PTVN đã đưa ra những sản phẩm với mức lãi suất phù hợp, đảm bảo vẫn thu hút khách hàng vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác. 2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân trong công tác huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Những hạn chế trong công tác huy động vốn tại NHĐT&PTVN Thị phần của NH ĐT&PTVN trong hoạt động huy động vốn chưa tương xứng với vị thế và khả năng của mình. Hiện thị phần huy động vốn từ nền kinh tế mới chỉ đạt 17%, và đang có chiều hướng giảm dần. Vốn chủ sở hữu của NH ĐT&PTVN trên tổng nguồn vốn còn khá thấp, chưa đạt tới tiêu chuẩn vốn quốc tế (Theo hiệp định Basel). Các hình thức huy động vốn. Do đó, kèm theo là lãi suất không linh hoạt. Việc triển khai thành công dự án hiện đại hoá ngân hàng của NH ĐT&PTVN đã là một cơ sở tốt cho việc tạo ra các sản phẩm mới nhằm thu hút khách hàng nhưng chưa được thực hiện mạnh mẽ. Đối với dân cư, sản phẩm hiện nay chủ yếu sử dụng là tiết kiệm có kỳ hạn, không kỳ hạn là những sản phẩm truyền thống, khách hàng chưa được sử dụng các sản phẩm hiện đại như tự động đầu tư,… tại các NHTM CP ở Việt Nam hiện nay tuy đưa ra những sản phẩm tiết kiệm thông thường nhưng đã có những hình thức chuyển đổi làm cho sản phẩm cung cấp linh hoạt hơn như sản phẩm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn nhưng rút gốc linh hoạt, tiền gửi bằng VND nhưng được đảm bảo bằng đồng đô la Mỹ khi VND bị mất giá,… Các sản phẩm của NH ĐT&PTVN còn mang tính chất đơn lẻ, chưa có sự kết nối giữa các sản phẩm này với nhau để tạo thành một nhóm sản phẩm có những điểm riêng nhất định phục vụ cho từng nhóm khách hàng, đảm bảo khi khách hàng sử dụng một sản phẩm của NH ĐT&PTVN thì NH ĐT&PTVN có thể bán chéo sản phẩm khác cho khách hàng, như thế vừa tạo nguồn thu cho NH ĐT&PTVN mà còn nâng cao chất lượng, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng. Chất lượng dịch vụ trong huy động vốn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Sự phát triển của thị trường đòi hỏi các ngân hàng phải cung cấp một danh mục đa dạng liên quan tới hoạt động huy động vốn. Đồng thời phải có sự tư vấn cho khách hàng hiểu rõ hơn các dịch vụ mà NH ĐT &PTVN cung cấp cho khách hàng, khi họ hiểu được lợi ích từ sản phẩm thì họ sẽ tích cực tham gia. Chính sách khách hàng chưa được thực hiện tốt ở một số bộ phận cán bộ và một số phòng nghiệp vụ của NH ĐT&PTVN, có những bộ phận trong NH ĐT&PTVN chưa có sự kết hợp chặt chẽ với nhau, chưa có cơ chế phân công cụ thể dẫn đến hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau gây ảnh hưởng tới uy tín của NH ĐT&PTVN đối với khách hàng, gây nên cảm giác khó chịu cho khách hàng. Nguyên nhân Do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các tổ chức tài chính, nhất là sự phát triển của hệ thống Bảo hiểm và tiết kiệm Bưu điện, các ngân hàng cổ phần, ngân hàng nước ngoài,… đã dẫn tới sự chia sẻ thị phần trong hoạt động huy động vốn của NH ĐT&PTVN. Sự không ổn định của giá bất động sản, nhất là thời kỳ 2002-2003 đã dẫn đến tình trạng đầu cơ của dân chúng, có không ít nguồn vốn đã được đầu tư vào thị trường này thay vì gửi vào ngân hàng. Sự phát triển mạnh mẽ từ thị trường chứng khoán Việt Nam đã gây nên làn sóng rút tiền ở ngân hàng để đầu tư chứng khoán, cũng gây sụt giảm nguồn vốn của ngân hàng nói chung và NH ĐT&PTVN nói riêng. Luật doanh nghiệp ra đời cùng với cơ chế tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp làm cho số luợng doanh nghiệp thành lập mới tăng lên đáng kể. Vì thế một lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư trước đây, kể cả tiền gửi tại ngân hàng, thay vì gửi trong ngân hàng để nhận lãi thì nay được rút ra để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh. Xu hướng chuyển dịch nguồn vốn từ NHTMNN nói chung và NH ĐT &PTVN nói riêng sang khối các NHTMCP, NH liên doanh, ngân hàng nước ngoài. Nhất là khối ngân hàng nước ngoài, khối này đã có sự tăng trưởng về vốn huy động và dư nợ tín dụng khi NHNN có những tháo gỡ về hạn chế huy động vốn VND. Việc chuyển dịch này đồng nghĩa với việc phân chia lại thị trường, nguồn vốn đang chuyển dịch theo hướng có lợi cho ngân hàng nước ngoài. Vì thực tế việc thanh toán qua ngân hàng nước ngoài nhiều hơn, trình độ cao hơn, công nghệ hiện đại hơn và khách hàng cảm thấy yên tâm hơn. Tâm lý thói quen sử dụng tiền mặt còn phổ biến trong dân cư, thu nhập của đại bộ phận người dân còn thấp. Công tác quản trị điều hành còn mang tính thủ công, gây khó khăn trong việc xây dựng các chính sách dài hạn do thiếu chương trình phần mềm quản trị vốn. Trình độ của cán bộ còn, điều này cũng gây hạn chế trong hoạt động của ngân hàng nói chung cũng như trong hoạt động huy động vốn nói riêng. Công tác Marketing chưa tốt, chưa được thực hiện nhất quán, từng bộ phận, cá nhân chưa ý thức hết được tầm quan trọng của công tác này. Công tác thu thập thông tin về thị trường, về khách hàng của cán bộ trực tiếp làm công tác huy động vốn còn hạn chế. Các hình thức quảng cáo, tiếp thị còn ít, dàn trải, hiệu quả chưa cao, khách hàng chưa biết hết tiện ích mà các sản sẩm dịch vụ của NH ĐT&PTVN mang lại, nhiều khi đưa ra mang tính chất hình thức mà chưa quảng bá sâu rộng trong quần chúng. Hiện nay các hình thức huy động vốn của NH ĐT&PTVN tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa được phong phú, còn nghèo nàn, mang tính chất truyền thống, chưa đa dạng. Phổ biến mới có các loại tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tài khoản tiền gửi thanh toán. Trong khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng thêm các dịch vụ mới ngày càng gia tăng. Mặc dù NHNN đã cho phép các NHTM đa dạng hoá các loại tiền gửi, với nhiều hình thức khác nhau. Nhưng do nhiều lý do, việc đa dạng hoá các loại tiền gửi để thu hút vốn vào ngân hàng vẫn chưa có các biện pháp đồng bộ. Đối với doanh nghiệp thì hầu như mới chỉ có hình thức tiền gửi trên tài khoản tiền gửi trên tài khoản tiền gửi, còn đối với dân cư thì chủ yếu vẫn là tiền gửi tiết kiệm và phát hành kỳ phiếu. Chính sách lãi suất còn cứng nhắc, chưa có được bảng lãi suất dài hạn hợp lý có tính đến yếu tố trượt giá nhằm thu hút khách hàng gửi tiền với thời hạn dài hơn, kỳ hạn huy động vốn chưa được linh hoạt. Chưa có bộ phận nghiên cứu chuyên trách phát triển sản phẩm, NH ĐT &PTVN cần nắm bắt, theo dõi nhu cầu và thị hiếu của từng đối tượng khách hàng trên thị trường, để từ đó đưa ra những sản phẩm dịch vụ chất lượng cao phù hợp mang tính cạnh tranh cao. chương 3: tăng trưởng nguồn vốn tại Ngân hàng Đầu Tư và phát triển việt nam 3.1 Định hướng hoạt động của ngân hàng ĐT&PT Việt Nam 3.1.1 Chiến lược phát triển của NHĐT&PTVN Trước những yêu cầu cấp bách của nền kinh tế, NH ĐT&PTVN đã xác định rõ chiến lược 2005-2010, cụ thể là xây dựng NH ĐT&PTVN trở thành một ngân hàng đa sở hữu, kinh doanh đa lĩnh vực, hoạt động theo thông lệ quốc tế, ngang tầm các ngân hàng trong khu vực Đông Nam á, từng bước chuẩn bị triển khai với những mục tiêu, bước đi cụ thể: Tiếp tục xây dựng và triển khai thực hiện lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính, đổi mới quản trị điều hành,… trên cơ sở tổng kết đánh giá kết quả 5 năm thực hiện đề án tái cơ cấu NH ĐT&PTVN. Khởi động chương trình cổ phần hoá và tích cực chuẩn bị các điều kiện cho lộ trình cổ phần hoá. Cổ phần hoá là giải pháp có tầm chiến lược quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu dài hạn của NH ĐT&PTVN. Cổ phần hoá không chỉ đơn thuần dừng ở mục tiêu phát hành cổ phiếu ra công chúng mà quan trọng hơn cả là phải hình thành nên một cơ chế vận hành thích hợp sau cổ phần hoá, hoạch định và triển khai chính sách kinh doanh tối ưu. Do vậy, song song với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, NH ĐT&PTVN cũng đồng thời tìm kiếm đối tác chiến lược nhằm tăng cường thực hiện mục tiêu này. Đối với ngân hàng : An toàn - Hiệu quả - Tăng trưởng, an toàn ở đây là trong mọi lĩnh vực kinh doanh, hiệu quả mang ý nghĩa kinh tế xã hội, tăng trưởng phù hợp với tốc độ phát triển nền kinh tế của đất nước và chính sách tiền tệ của NH ĐT&PTVN Đối với khách hàng: Đem đến cho ngân hàng sự an toàn tiền gửi, phục vụ nhanh chóng với giá rẻ. Khách hàng của NH ĐT&PTVN là các Tổng công ty lớn, các tập đoàn,…, các khách hàng này có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước và các khu vực có tiềm năng lớn về kinh tế. Xây dựng mô hình tổ chức một cách khoa học, phù hợp với mục tiêu kinh doanh, phát huy được tính sáng tạo, xây dựng bộ máy quản lý có hiệu quả cao, năng động, vừa đảm bảo cơ chế quản lý của Nhà nước về kinh tế, vừa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của cơ chế thị trường. Xây dựng hệ thống công nghệ ngân hàng hiện đại, tiên tiến, vừa có khả năng nâng cao chất lượng phục vụ, tạo ra nhiều sản phẩm ngân hàng mới, vừa nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát chống rủi ro. Hệ thống công nghệ tiên tiến được coi là cơ sở hạ tầng, là đòn bẩy cho sự phát triển của NH ĐT&PTVN Xây dựng đội ngũ cán bộ có chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp, đồng thời tạo ra những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản trị ngân hàng hiện đại trong cơ chế thị trường. 3.1.2 Chiến lược huy động vốn Nguồn vốn là thế mạnh, là động lực tạo đà cho việc thực hiện thành công chiến lược phát triển NH ĐT&PTVN đến năm 2010. Chính vì thế, NH ĐT&PTVN tiếp tục duy trì và phát huy các biện pháp huy động vốn hiệu quả, có khả năng cạnh tranh cao, nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng và các tổ chức. Dựa trên uy tín đã có sẵn ở thị trường trong và ngoài nước, NH ĐT&PTVN thúc đẩy hơn nữa nguồn vốn uỷ thác của Nhà nước và của các tổ chức nước ngoài. Từ nay đến năm 2010, NH ĐT&PTVN phấn đấu giữ thế mạnh hàng đầu về nguồn vốn, nhất là vốn trung và dài hạn trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Chiến lược huy động vốn cần phải đối phó với thách thức từ sự phát triển của thị trường chứng khoán, các công ty bảo hiểm,… Đặc thù của nền kinh tế Việt Nam là tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông rất lớn, tỷ lệ người dân sử dụng các dịch vụ của ngân hàng còn thấp. Nhiệm vụ của hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung và NH ĐT&PTVN nói riêng trong thời gian tới là phải từng bước khắc phục tình trạng trên, cải thiện phương thức thanh toán, cung cấp cho thị trường những tiện ích thuận lợi dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến, đưa ngân hàng trở nên gần gũi hơn với người dân. Xuất phát từ những quan điểm đó, NH ĐT&PTVN đã xác định chiến lược huy động vốn, bao gồm: Phát triển các hình thức huy động vốn như hiện nay áp dụng chính sách lãi suất có tính cạnh tranh cao trên thị trường. Đẩy nhanh tiến bộ khoa học công nghệ, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt Đa dạng hoá các nguồn vốn Tăng cường hơn nữa nguồn vốn trung và dài hạn Đẩy mạnh quan hệ với các ngân hàng trong và ngoài nước. Đẩy mạnh hình thức huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu quốc tế, thực hiện vay vốn nước ngoài dưới hình thức tài trợ vốn, vay theo hạn mức tín dụng,… 3.3 Giải pháp tăng trưởng nguồn vốn tại NHĐT&PT Việt Nam Tăng cường vốn huy động là điều kiện tiên quyết để giữ vững vị thế của một NHTM hàng đầu. Có vốn lớn mới thúc đẩy được tăng trưởng tín dụng, tạo đà cho việc thực hiện thành công nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy trên cơ sở phân tích và dự đoán tình hình phát triển kinh tế của đất nước, xác định tỷ lệ vốn huy động kỳ vọng của thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, đánh giá đúng thế mạnh, điểm yếu của mình trong bối cảnh có nhiều loại hình ngân hàng cùng hoạt động, NH ĐT&PTVN cần có giải pháp riêng cho mình để tăng cường huy động vốn trên nguyên tắc: huy động cả nội lực tài chính của mình lẫn nội lực bên ngoài. 3.2.1 Đa dạng hóa hình thức huy động vốn Hiện nay các hình thức huy động vốn của NH ĐT&PTVN tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa được phong phú. Phổ biến mới có các loại tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tài khoản tiền gửi thanh toán. Trong khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng thêm các dịch vụ mới ngày càng gia tăng. NH ĐT&PTVN cần tiếp tục cải tiến, phát triển đa dạng hoá sản phẩm đem lại tiện ích cho từng đối tượng khách hàng. 3.2.1.1 Đối với khách hàng cá nhân Đây là đối tượng là lâu dài đem lại nguồn vốn ổn định cho Ngân hàng, nhất là tăng tỷ trọng vốn huy động trung và dài hạn trong cơ cấu nguồn vốn. Các ngân hàng cũng như các tổ chức phi ngân hàng ngày càng quan tâm tới nhóm khách hàng này. NH ĐT&PTVN không ngừng đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở nâng cao hàm lượng công nghệ và tăng độ an toàn cho khách hàng cũng như chính bản thân ngân hàng nhằm thu hút vốn từ khách hàng cá nhân. NH ĐT&PTVN cần phát triển cả 3 nhóm sản phẩm huy động vốn đối với cá nhân là tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiết kiệm, và các sản phẩm mang tính chất đầu tư. Tài khoản tiền gửi thanh toán - tiền gửi vãng lai: NH ĐT&PTVN cần có chính sách khuyến khích cá nhân người Việt Nam cũng như người nước ngoài mở tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu chi tiêu, thanh toán ngày càng gia tăng. Với thị trường đầy tiềm năng với hơn 80 triệu dân, việc đưa các sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu cuả khách hàng đồng thời áp dụng các dịch vụ giá trị gia tăng đi kèm tạo điều kiện cho việc thu nguồn vốn rất lớn với giá thành thấp cho ngân hàng. Mặt khác do tính chất phân tán của khách hàng nên giảm tính phụ thuộc của ngân hàng vào khách hàng. Để nhanh chóng mở rộng thị trường bán lẻ NH ĐT&PTVN theo chiến lược phát triển của mình thì NH ĐT&PTVN cần nghiên cứu sớm đưa vào sử dụng các sản phẩm mới, hiện đại trên nền tảng công nghệ cao như: Phone Banking (dịch vụ ngân hàng qua điện thoại): Dịch vụ này cho phép khách hàng có tài khoản tại NH ĐT&PTVN tiếp cận và sử dụng dịch vụ của NH để thanh toán các hoá đơn dịch vụ sinh hoạt hàng ngày, giao dịch đặt lệnh chứng khoán từ xa, đồng thời khách hàng cũng nhận được các thông tin về số dư tài khoản, tỷ giá lãi suất,… Sản phẩm này sẽ đem đến cho khách hàng tiện ích vượt trội, rút ngắn khoảng cách giữa khách hàng và ngân hàng, thu hút số vốn lớn người dân mở và sử dụng tài khoản tại ngân hàng phù hợp với chủ trương chính sách của NH ĐT&PTVN. Thấu chi trên tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân cho phép khách hàng được thấu chi từ tài khoản cá nhân của mình trong hạn mức cho phép. Nhu cầu sử dụng sản phẩm này lớn rủi ro không cao, tính cạnh tranh lớn nên NH ĐT&PTVN cần đưa sản phẩm này cung cấp cho đối tượng khách hàng cá nhân là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài có thu nhập ổn định thông qua tài khoản thanh toán mở tại NH ĐT&PTVN. Tài khoản tiền gửi có dịch vụ thanh tóan hóa đơn tự động, tiền gửi có số dư nhất định được trả lãi theo lãi suất thị trường tiền tệ, hay lãi suất tự động bậc thang theo hướng số dư càng lớn thì lãi suất được hưởng càng cao. Phát triển hệ thống ATM có khả năng đảm bảo cho khách hàng rút, nộp vào tài khoản giảm thiểu thời gian giao dịch qua quầy. Triển khai kế hoạch thu hút nguồn vốn tiền kiều hối: NH ĐT&PTVN cần liên kết với các công ty xuất khẩu lao động, các công ty dịch vụ kiều hối ở nước ngoài, các ngân hàng đại lý nước ngoài để thu hút nguồn kiều hối đáng kể chuyển về và gửi ở ngân hàng. Với hơn 2,5 triệu kiều bào đang sinh sống ở nứơc ngoài chỉ riêng việc chuyển tiền về giúp đỡ gia đinh người thân theo ước tính chung, hằng năm có thể đạt kim ngạch từ 2 tỷ USD trở lên. Chưa kể đến chúng ta hiện đạng có một lực lượng lớn người dân đang tham gia hoạt động ở nước ngoài,… Gia tăng dịch vụ này nhằm gia tăng huy động vốn và tăng cường phu phí dịch vụ từ việc thanh toán. NH ĐT&PTVN cần sớm đưa vào sử dụng rộng rãi hình thức thanh toán bằng séc cá nhân, đảm bảo an toàn cho khách hàng và tăng nguồn tiền gửi tối đa tại ngân hàng. Tài khoản tiết kiệm Vốn huy động từ tài khoản luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn huy động. Vì vậy NH ĐT&PTVN cần đa dạng hóa các sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng nhằm giữ khách hàng truyền thống mở rộng khách hàng mới trên thị trường khác nhau. NH ĐT&PTVN phải tính đến tính hấp dẫn, linh hoạt của sản phẩm mới như tiệt kiệm cho tương lai (tiết kiệm tích luỹ) tiết kiệm mua nhà ở, ô tô, tiết kiệm vì sự thành tài của con em (tiết kiệm du học) hay một số hình thức tiết kiệm kèm dịch vụ, tiết kiệm bảo đảm giá trị, bảo hiểm tỷ giá,… tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm an sinh học đường, tiết kiệm hôn nhân, tiết kiệm báo hiếu… Đa dạng hóa các kỳ hạn huy động: Hiện nay NH ĐT&PTVN huy động tiền gửi tiết kiệm các loại kỳ hạn từ 1 tháng đến 60 tháng. Xuất phát từ nhu cầu của khách hàng NH ĐT&PTVN cần đa dạng hóa các kỳ hạn huy động từ những kỳ hạn ngắn dưới 1 tháng đến những kỳ hạn trên 60 năm. Đa dạng hoá cách tính và trả lãi cho khách hàng, đảm bảo lợi ích cho cả hai bên đưa ra sản phẩm có tính linh hoạt cao. Tăng cường huy động qua hình thức cho vay. Ngoài hình thức cho vay thông qua các hợp đồng, hiệp định khung cần có thêm các hình tức như phát hành trái phiếu ngoại tệ trong và ngoài nước, đồng thời lựa chọn và liên kết với các doanh nghiệp thực hiện phát hành trái phiếu công trình, công ty, … Liên kết với bảo hiểm để có thể bán chéo sản phẩm như tiết kiệm gửi góp, phát triển các đại lý thu đổi ngoại tệ, … Triển khai sản phẩm huy động bằng tiết kiệm bằng vàng. Trong thực tế ngoài lượng tiền đồng hay ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi, người dân Việt Nam thường có thói quen để dành vàng. NH ĐT&PTVN hiện chưa có hình thức huy động bằng vàng, tuy nhiên triển khai hình thức này thu hút thêm một lượng vốn khá phong phú. Để áp dụng hình thức này thì đòi hỏi NH ĐT&PTVN phải làm tốt khâu kiểm định đánh giá chất lượng vàng. Các hình thức huy động vốn mang tính chất đầu tư: NH ĐT&PTVN cần nghiên cứu xem xét để áp dụng các hình thức huy động vốn mới, phát hành kỳ phiếu tiền gửi với lãi suất cố định được trả lãi định kỳ,… Sớm đưa dịch vụ uỷ thác quản lý tài sản vào triển khai, mở tài khoản đầu tư tự động, hay các sản phẩm để khách hàng tham gia đầu tư cùng ngân hàng, cùng chia sẻ rủi ro và lợi nhuận. Đưa ra các chính sách về sản phẩm mới cũng như áp dụng thành công sản phẩm mới này NH ĐT&PTVN cần nhanh chóng xây dựng và triển khai phòng chuyên trách về phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho từng đối tượng khách hàng là tổ chức và cá nhân. 3.2.1.2 Đối với khách hàng là tổ chức Đây là đối tượng đem lại nguồn vốn huy động rất lớn cho NH ĐT &PTVN với chi phí thấp. NH ĐT&PTVN cần sớm triển khai các sản phẩm như trả lương tự động, quản lý vốn tự động, dịch vụ ngân hàng điện tử (E-Banking). áp dụng các sản phẩm và dịch vụ để hỗ trợ khách hàng như tín dụng, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế để tạo sự gắn bó với khách hàng và duy trì tài khoản tại NH ĐT&PTVN. Mở thêm các dịch vụ như dịch vụ quản lý tiền, quản lý rủi ro bằng sản phẩm hedging, chiết khấu, cấp giấy tờ có giá,… Mở rộng hoạt động tài chính, chi trả thu nhập, lương cho doanh nghiệp lớn. Hoạt động này tạo ra một lượng tài khoản lớn và tiền gửi khá lớn từ các doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên của họ. NH ĐT&PTVN cần đưa ra những chính sách nhằm thu hút nhiều hơn nữa nguồn kiều hối. Vì với lợi thế về mạng lưới như hiện nay, BIDV có thể kết hợp với một số biện pháp như hỗ trợ thanh toán tiền kiều hối, thành lập công ty phụ trách về nguồn tiền này vì thực tế lượng kiều hối chuyển về qua các công ty là rất lớn, tạo nguồn ngoại tệ đáng kể cho ngân hàng. Ngoài ra trong công tác thanh toán xuất nhập khẩu, nhất là trong hoạt động mở L/C, BIDV có thể huy động bằng cách giảm tỷ lệ ký quỹ xuống hoặc tiền ký quỹ của khách hàng tại BIDV được hưởng lãi suất có kỳ hạn thay bằng không kỳ hạn như hiện nay. 3.2.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngân hàng Trong bất kỳ một hoạt động nào của ngân hàng, nhân tố con người luôn có vai trò mang tính quyết định tới hiệu quả và độ an toàn trong hoạt động đó cho dù ngân hàng đó được trang bị những công nghệ hiện đại nhất. Vì thế để BIDV cần phải tiến hành một số biện pháp như: áp dụng chính sách tuyển dụng công khai, tuyển dụng từ nhiều nguồn khác nhau như từ các trường đại học, từ nguồn du học sinh,… áp dụng chính sách huấn luyện đào tạo lại thường xuyên, định kỳ đối với nhân viên cũ. Có chính sác lương bổng hấp dẫn nhân tài vào làm việc Chính sách thưởng phạt hợp lý, công bằng. 3.2.3 Cơ cấu lại mô hình tổ chức và phát triển mạng lưới NH ĐT&PTVN sớm cấu trúc lại hệ thống theo mô hình định hướng khách hàng kết hợp với sản phẩm. Đây là mô hình tổ chức quản lý hiện đại vừa để xây dựng kênh phân phối dịch vụ phù hợp với . Thành lập công ty chuyển tiền kiều hối để huy động nguồn kiều hối rất lớn từ nước ngoài chuyển về. Trước xu thế cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt như hiện nay, mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển hoạt động của NH ĐT&PTVN. Xây dựng mạng lưới hệ thống các chi nhánh cấp I và các phòng giao dịch, các công ty trực thuộc trên những địa bàn có hoạt động kinh tế sôi động. Trên cơ sở phân tích hiệu quả và tiềm năng phát triển, BIDV cần có những chính sách ưu đãi đặc biệt để khuyến khích huy động vốn trên từng địa bàn cụ thể. Ngân hàng cần mở thêm quỹ tiết kiệm ở nơi đông dân cư và nên mở thêm thời gian giao dịch 2 ca, ca 2 từ 17h đến 20h, giao dịch thêm vào những ngày nghỉ những ngày lễ. Như thế sẽ đáp ứng tốt hơn cho những khách hàng không có thời gian đến giao dịch với ngân hàng vào các ngày trong tuần và trong giờ hành chính Đưa thêm hình thức quỹ tiết kiệm lưu động mà trước hết là đến phường, xã, định kỳ mỗi lần từ một đến hai lần, phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền, quảng cáo, hướng dẫn khách hàng làm thủ tục nhận tiền gửi và chi trả. Bên cạnh việc phát triển mạng lưới trong nước, BIDV cũng cần phải chú trọng tới việc mở các văn phòng đại diện, chi nhánh tại nước ngoài. Thông qua các văn phòng đại diện, chi nhánh ở nước ngoài thì có thể thu hút được nguồn kiều hối từ các nước này gửi về Việt Nam. Mỗi chi nhánh của BIDV và cả BIDV Trung ương cần thiết phải có bộ phân chuyên trách về phát triển mạng lưới riêng trển địa bàn do mình quản lý nhằm thu hút hơn nữa nguồn vốn tại địa bàn. 3.2.4 Đầu tư phát triển công nghệ Hiện nay NH ĐT&PTVN tiếp tục duy trì, hoàn thiện và mở rộng các ứng dụng tin học như kế toán giao dịch, thanh toán quốc tế, thông tin quản lý để phục vụ hiệu quả hơn cho hoạt động kinh doanh. Từng bước nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ mới, các dịch vụ ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại. BIDV cần trang bị thêm hệ thống điện thoại, máy vi tính tới các phòng ban để giảm bớt công việc thủ công. Trang bị máy tính xuống các quỹ tiết kiệm, chi nhánh để có thể xử lý tức thời các giao dịch mà không phải xử lý theo lô cuối ngày như đang làm tại chi nhánh, sau đó các máy tính ở các quỹ được nối mạng với máy chủ tại trụ sở. Làm được như vậy sẽ đảm bảo an toàn tài sản và giảm bớt thời gian trong quá trình giao dịch với khách hàng, giúp cho quản lý nguồn vốn dễ dàng hơn. Mặt khác BIDV cần cung cấp các thiết bị để tiến hành các dịch vụ mới như thẻ thanh toán, thẻ rút tiền tự động. Để thực hiện cơ giới hoá toàn hệ thống các quỹ tiết kiệm, các chi nhánh thì ngân hàng phải đào tạo cán bộ ở các quỹ phải sử dụng được máy tính thành thạo. BIDV cần có bộ phận chuyên trách nghiên cứu về chiến lược phát triển công nghệ thông tin, có sự gắn kết những mục tiêu của bộ phận nghiên cứu phát triển chiến lược công nghệ thông tin trong ngắn hạn cũng như dài hạn với mục tiêu chung của mình một cách đồng bộ, có định hướng tránh tình trạng nhanh chóng lạc hậu sau khi đưa vào sử dụng. 3.2.5 Tăng cường công tác Marketing quảng bá sản phẩm, dịch vụ Mặc dù cần giảm thấp chi phí nhưng ngân hàng vẫn nên duy trì kinh phí đáng kể cho các hoạt động quảng cáo thiết thực.Việc hạn chế hoạt động quảng cáo và khuếch trương trong điều kiện hiện nay của ngân hàng là không hợp lý, vì nó làm cho người gửi tiền không nắm bắt, không biết đến ngân hàng. Việc quảng cáo phải được tiến hành thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, tập trung vào các vấn đề như hình thức gửi, lãi suất, lợi ích của khách hàng khi gửi tiền. Cũng nên có những hình thức khuyến mại đối với khách hàng nhằm duy trì mối quan hệ thường xuyên và cũng bởi chính họ là người quảng cáo tuyên truyền tốt nhất cho ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng cũng cần mở rộng cung cấp thông tin tư vấn giúp cho người gửi tiền biết nên đầu tư vào đâu để có lợi. Ngoài việc quảng cáo những thông tin và hoạt động chung của ngân hàng qua báo chí, qua các phương tiện thông tin trước đây, NH ĐT&PTVN nên áp dụng một số loại quảng cáo có chi phí không cao nhưng khá hiệu quả như: phát hành lịch biếu vào dịp tết, dán biểu tượng tại các khách hàng mà có giao dịch với ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng có thể sử dụng nhiều hơn nữa những phóng sự trên ti vi hay báo chí để quảng cáo cụ thể hơn hoạt động và dịch vụ của ngân hàng. Tuy nhiên, chi phí cho các phóng sự này thường cao nên ngân hàng cần lựa chọn thời điểm thích hợp. Ngoài ra BIDV còn có thể thường xuyên cung cấp các thông tin về tình hình tài chính cũng như tính minh bạch của ngân hàng mình giúp khách hàng có thể hiểu hơn về BIDV hay các sản phẩm mà BIDV đã và đang cung cấp trên thị trường. Từ đó tạo cho khách hàng một cách nhìn tổng quát về BIDV, làm tăng lòng tin của công chúng đối với BIDV, như thế sẽ tạo điều kiện để thu hút vốn được nhiều hơn. Ngoài ra, Marketing ngân hàng thì đòi hỏi tính chuyên nghiệp rất cao, vì thế BIDV ngoài vệic thành lập phòng Marketing thì cũng cần phải thành lập một ban riêng trong phòng Marketing để thực hiện. Cấu trúc tổ chức của phòng Marketing bao gồm bộ phận thu thập thông tin hàng ngày từ các nguồn bên ngoài như báo chí, văn bản pháp luật,…bộ phận thu thập thông tin nội bộ thông qua báo cáo nội bộ thường kỳ, kết quả phân tích Marketing và cuối cùng là bộ phận phân tích hỗ trợ ra quyết định Marketing. Để thực hiện thành công Marketing trong BIDV, ngoài bộ phận chuyên trách về Marketing thì tất cả các nhân viên cũng như ban lãnh đạo đều phải tham gia vào hoạt động này, coi tiếp thị là một công tác trọng tâm, là trách nhiệm của toàn thể cán bộ trong BIDV, áp dụng chính sách khuyến khích, tạo động lực đến từng cán bộ. Bên cạnh đó, BIDV cũng cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, giáo dục thái độ phục vụ ân cần, niềm nở cho đội ngũ cán bộ trong BIDV, nhất là các nhân viên tại quầy, phòng giao dịch. Thái độ phục vụ chính là một yếu tố tạo nên ấn tượng cho khách hàng về BIDV. Đây chính là hình tức quảng bá hình ảnh của BIDV tốt nhất đối với khách hàng. 3.2.6 Thực hiện tốt chính sách khách hàng Ngân hàng cần thực hiện tốt chính sách khách hàng, nhằm tạo ra được lượng khách hàng lành mạnh hơn. Chính sách khách hàng cần phải được công báo rộng rãi trên cơ sở đẩy mạnh và phát triển công tác thông tin, tuyên truyền quảng cáo để công chúng có thể biết được lợi ích của việc gửi tiền vào ngân hàng so với việc cất giữ hoặc đầu tư vào các hình thức khác có nhiều rủi ro. Kèm là một loạt các hình thức khuyến mại khác có tác động trực tiếp vào tâm lý người gửi tiền như việc khuyến khích bằng lợi ích vật chất: Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để có được ưu thế vững vàng, ngân hàng không những quan tâm đến vấn đề đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng mà còn phải chú ý đến mặt vật chất và tinh thần. Khắc phục tình trạng gửi tiền để tham dự xổ số có thưởng, hình thức này chỉ đem lại may mắn cho vài người như trước đây. Chúng ta nên có những món quà lưu niệm vào những ngày lễ, tết, ít hay nhiều tuỳ theo số dư tiền gửi và tính truyền thống của từng khách hàng mà có sự khuyến khích bằng vật chất tương ứng. Những việc làm này tuy nhỏ nhưng lại có tác dụng rất tích cực, nó tạo sự gần gũi thân thiện giữa ngân hàng và khách hàng, giữ cho mối quan hệ này ngày càng mở rộng và bền vững. Ngân hàng cần có chính sách thưởng cho các đơn vị kinh tế có số dư tiền gửi lớn, hoặc cho các đơn vị này vay vốn với lãi suất ưu đãi (thấp hơn mức lãi suất quy định). Ngân hàng cũng cần có những hình thức khác như: Tổ chức hội nghị khách hàng, tổ chức các cuộc họp mặt đối với những khách hàng lớn tại chi nhánh để họ hiểu thêm hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng nên có hòm thư góp ý để khách hàng kịp thời tham gia chấn chỉnh những sai sót trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Phải có một chính sách khách hàng toàn diện trên mọi khía cạnh và coi nó là một chiến lược trong hệ thống chiến lược kinh doanh. 3.2.7 NHĐT&PTVN cần vận dụng cơ chế lãi suất linh hoạt Lãi suất là công cụ quan trọng mà các ngân hàng có thể sử dụng để tăng cường quy mô, điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn. Trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn một cách hợp lý, ngoại trừ tiền gửi giao dịch ít nhạy cảm với lãi suất, các nguồn vốn có kỳ hạn đều có những phản ứng rất nhạy cảm với lãi suất huy động của ngân hàng. Với biểu lãi suất thay đổi từng thời kỳ có thể vận dụng mức lãi suất tối đa cho loại tiền gửi có kỳ hạn cần tăng tỷ trọng trong khi tiền gửi kỳ hạn khác không nhất thiết áp dụng mức tối đa. Thông qua việc áp dụng lãi suất huy động cho từng loại tiền gửi, có thể điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn sao cho phù hợp với danh mục tài sản nhằm tạo cơ hội tăng lợi nhuận. Lãi suất huy động áp dụng trong từng thời kỳ phải tuân theo quy luật về cung cầu vốn trên thị trường, trong đó lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, kế hoạch huy động vốn phải được thực hiện dựa trên kế hoạch sử dụng vốn. Lãi suất huy động có ảnh hưởng lớn trong việc huy động tiền gửi nên ngoài yếu tố lòng tin vào ngân hàng, nếu mức lãi suất huy động hợp lý thì sẽ thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào ngân hàng, sẽ làm gia tăng khối lượng vốn huy động. Hiện nay, lãi suất về cơ bản đã được tự do hóa với việc sử dụng lãi suất cho vay thỏa thuận thay vì lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Đây là một thuận lợi đáng kể trong việc huy động vốn của ngân hàng, nhưng tính toán lãi suất phải đảm bảo: + Lãi suất thực tương đối với các khoản tiền gửi, bảo đảm quyền lợi của khách hàng. + lãi suất huy động phải dựa trên cơ sở lãi suất đầu vào, bù đắp chi phí cản ngân hàng, đảm bảo kinh doanh có lãi. + Kỳ hạn càng dài thì lãi suất huy động càng cao. 3.2.8 Huy động vốn kết hợp với sử dụng vốn có hiệu quả Để khai thác và sử dụng tối đa nguồn vốn huy động của ngân hàng thì ngân hàng phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, vì nó là yếu tố quyết định đến việc huy động vốn. Vì vậy ngân hàng chỉ có thể hoạt động tốt trên cơ sở hài hòa giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Đa dạng hoá các dịch vụ đầu tư là yếu tố để kích thích công tác huy động vốn, mở rộng tín dụng các thành phần kinh tế, chú trọng kinh tế quốc doanh. Phải thường xuyên chọn lọc, phân loại khách hàng theo quy định của NHNN và của BIDV để từ đó có những chính sách, cơ chế tín dụng phù hợp cho từng khách hàng. Mở rộng tín dụng phải đảm bảo đúng nguyên tác, đúng quy trình nghiệp vụ, tránh hiện tượng cho vay tràn lan không có hiệu quả. Ngoài việc mở rộng cho vay phải tích cực thu nợ các khoản nợ đến hạn, quá hạn, nợ khó đòi, xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, có như vậy mới giảm tỷ lệ nợ quá hạn và nâng cao chất lượng tín dụng. Tăng cường cho vay hợp vốn và đồng tài trợ với những doanh nghiệp có dự án đầu tư lớn nhằm phân tán rủi ro. Ngoài ra còn một số giải pháp như BIDV phải cam kết thực hiện bảo biểm tiền gửi vì như thế thì sẽ tạo ra lòng tin, sự an tâm cho người gửi tiền. BIDV cũng cần cải thiện cơ cấu nguồn vốn sao cho phù hợp với yếu cầu sử dụng vốn của mình. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước Vốn của các NHTMQD là hiện do Nhà nước cung cấp cho để hoạt động, điều này gây hạn chế về quy mô nguồn vốn của ngân hàng, như thế sẽ làm cho ngân hàng trở nên khó khăn trong các hoạt động của ngân hàng cũng như trong hoạt động huy động vốn. Chính vì thế, Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện cổ phần hóa các NHTMQD nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng này thu hút được các điều kiện bên ngoài như vốn, trình độ quản lý,...giúp ngân hàng có điều kiện phát triển hơn nữa, nhất là trong xu thế hội nhập như hiện nay. Cơ chế cạnh tranh trong hoạt động giữa các NHTM, nhất là trong hoạt động huy động vốn, đã thúc đẩy các NHTM tự cố gắng và đã đạt được nhiều thành tích trong thời gian qua. Tuy nhiên, giữa khối các NHTMCP và NHTMQD vẫn có sự khác biệt trong đó lợi thế cạnh tranh luôn thuộc về các NHTMQD. Sự khác biệt này cần được xóa bỏ càng sớm càng tốt nhằm xác lập quyền cạnh tranh như nhau giữa các MHTM trong nước với nhau. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có một đội ngũ các NHTM thực sự khỏe mạnh, hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của nền kinh tế. Nhà nước cần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định nhằm giúp các thành phần kinh tế tại Việt Nam yên tâm hoạt động và mở rộng quy mô của nó, nhất là đối với các NHTM. Vì môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lớn tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi cũng như sẽ gây khó khăn đối với ngân hàng trong hoạt động huy động vốn. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là tiền đề cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước cũng như nguồn vốn mà ngân hàng huy động được. Nhà nước cần ban hành hệ thống pháp luật đồng bộ và rõ ràng. Điều này không chỉ tạo niềm tin với công chúng mà với những chính sách mà Nhà nước khuyến khích sẽ tác động trực tiếp đến người dân cũng như các tổ chức khi họ có thể sử dụng tiền để tiêu dùng, đầu tư hay gửi tiền vào ngân hàng. Các văn bản pháp luật và dưới luật cần được ban hành một cách có hệ thống, đảm bảo mọi hoạt động tài chính, tiền tệ, tín dụng đều được luật hóa, tạo nên môi trường ổn định về luật pháp và chế độ chính sách cho các ngân hàng. 3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước NHNN là cơ quản quản lý Nhà nước về chính sách tiền tệ của quốc gia, vì thế NHNN cần phải có một chính sách tiền tệ ổn định, giúp cho người dân yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng mà không sợ đồng tiền bị mất giá. NHNN cần sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp, các văn bản hướng dẫn và chỉ đạo liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung, trong hoạt động huy động vốn nói riêng, đảm bảo công tác quản lý của Nhà nước đối với ngành ngân hàng vừa toàn diện vừa chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thương mại. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NHNN cần khẩn trương ban hành và điều chỉnh văn bản pháp qui theo các cam kết hội nhập, hình thành môi trường pháp lý đồng bộ, tăng cường cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trên thị trường tài chính trong và ngoài nứơc. Mặt khác NHNN cần thường xuyên tiến hành đánh giá, xem xét lại các văn bản pháp luật đã ban hành để kịp thời chỉnh sửa nhằm những văn bản pháp luật này phù hợp với tình hình thực tế, tránh hiện tượng văn bản pháp luật xa rời thực tiễn. NHNN cần nâng cao biên độ tỷ giá của các NHTM so với tỷ giá do NHNN quy định và các NHTM được tự chủ hơn về lãi suất huy động cũng như cho vay của các NHTM để tạo điều kiện cho các NHTM chủ động trong hoạt động huy động vốn, tạo ra cơ cấu nguồn vốn giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ. Từ đó giúp cho hoạt động huy động vốn của các NHTM tạo ra cơ cấu nguồn vốn hợp lý, như thế thì nguồn vốn mà các NHTM cung ứng cho nền kinh tế có hiệu quả hơn. bằng ngoại tệ, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong xu thế hội nhập như hiện nay. Nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường mở, đa dạng hóa các công cụ và chứng từ có giá tham gia vào thị trường. Cùng với sự cải cách của hệ thống tài chính, NHNN cũng cần nghiên cứu và đưa ra các công cụ, chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động của thị trường mở, tạo điều kiện cho thị trưởng tài chính Việt Nam phát triển. Thị trường trái phiếu và tín phiếu kho bạc sẽ có vai trò quan trọng hơn trong việc điều hòa lãi suất của nền kinh tế. Kết luận Ngân hàng thương mại đã có những đóng góp rất đáng kể đối với sự nghiệp phát triển đất nước trong những năm qua, trong đó phải nói đến vai trò của NHĐT&PTVN. NHĐT&PTVN đã cung ứng cho nền kinh tế một lượng vốn không lồ, đáp ứng được yêu cầu vốn cho đầu tư phát triển, góp phần thực hiện chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Với tình hình hiện nay và trong tương lai thì nhu cầu tín dụng từ nền kinh tế là rất lớn, điều đó đã tạo sức ép về vốn lên các NHTM nói chung và NHĐT&PTVN. Bên cạnh đó trong điều kiện hiện nay có rất nhiều tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính phi Ngân hàng như Bảo hiểm, tiết kiệm, Bưu điện, các Công ty chứng khoán…tham gia tiếp cận nguồn vốn này. Vì vậy việc nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại NHĐT &PTVN là điều có ý nghĩa thực tiễn lớn. Thông qua các nội dung đã trình bày, luận văn đã hoàn thành những nhiệm vụ sau đây: Một là: Hệ thống hoá được những lý luận về nguồn vốn, phương thức taoj lập nguồn vốn chủ yếu cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động này đối với NHTM nói chung và BIDV nói riêng. Hai là: Phân tích thực trạng nguồn vốn của BIDV với trọng tâm là các phương thức huy động vốn cụ thể. Trên cơ sở phân tích, đưa ra những nhận xét, đánh giá, tìm ra các hạn chế, tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn tại BIDV Ba là: Chỉ ra được một số bất cập trong hoạt động huy động vốn của BIDV từ đó đưa ra một số giải pháp để tăng cường huy động vốn tại BIDV và đề ra một số kiến nghị với Nhà nước và NHNN một số vấn đề quan điểm, định hướng trong hoạt động huy động vốn. Tài liệu tham khảo Cao Sỹ Kiêm (1995): Đổi mới chính sách tiền tệ – Tín dụng – Ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, NXB CTQG. David Cox (1997): Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại NXB CTQG. Fredric S.minskin (1995): Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB KH&KT. Luật các tổ chức tín dụng năm 1997. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Báo cáo thường niên 2002. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Báo cáo thường niên 2003. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Báo cáo thường niên 2004. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Báo cáo thường niên 2005. Phan Thị Thu Hà (2004): Giáo trình NHTM, NXB Thống Kê. Trang WEB của ngân hàng Ngoại thương, Sài Gòn Thương Tín, Công thương, Nông nghiệp,…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29471.doc
Tài liệu liên quan