Khái niệm đói nghèo của thế giới.
Thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng khái niệm đói nghèo như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo 4 khía cạnh là thời gian, không gian, giới và môi trường.
Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ có mức sống dưới mức "chuẩn" trong một thời gian dài. Cũng có người nghèo khổ "tình thế" chẳng hạn như những người thất nghiệp, những người mới nghèo do suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, tệ nạn xã hội, rủi ro.
Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn nơi có 3/4 dân số sinh sống. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng.
Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia đình nghèo nhất do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn ông làm chủ thì phụ nữ khổ hơn nam giới.
Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói nghèo đều sống ở những vùng sinh thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp về môi trường đều đang ngày càng trầm trọng thêm.
Từ nhận dạng trên, Liên Hiệp Quốc đưa ra hai khái niệm chính về đói nghèo như sau:
72 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng - Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ ngân hàng có thể tiếp cận nghiên cứu, tổ chức lập dự án hướng dẫn hộ nghèo tham gia dự án để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Ba là: Thông qua quá trình trực tiếp ''nắm vùng'' với các hộ nghèo vay vốn, tự nó đã tạo ra điều kiện tốt nhất để cán bộ ngân hàng kiểm tra sử dụng vốn, hướng dẫn thu hoạch sản phẩm và tiến hành thu nợ tiền vay.
Bốn là: Nhân sự bộ phận hướng dẫn người nghèo sản xuất có hiểu biết nhất định về hoạt động ngân hàng nhưng cơ bản là những cán bộ có kỹ thuật sản xuất, hiểu biết nông dân và nông thôn. Với nhân sự bộ phận này, ngân hàng phục vụ người nghèo có thể phối hợp với các tổ chức khuyến nông để tuyển dụng những người đủ tiêu chuẩn tình nguyện xin làm việc tại ngân hàng phục vụ người nghèo. Về lâu dài ngân hàng phục vụ người nghèo có thể tuyển dụng những sinh viên trẻ mới ra trường ở các ngành kỹ thuật, sau đó bồi dưỡng cho họ kiến thức tài chính ngân hàng và đưa vào bộ phận tổ chức nói trên, có thể nói sợi chỉ đỏ xuyên suốt để quán triệt quan điểm đạo đức với người nghèo, trước hết chính là ở chỗ, ngân hàng phục vụ người nghèo phải hết sức phục vụ vì người nghèo. Muốn vậy bộ máy nhân sự của nó phải là những người có tâm huyết, hết sức thương yêu người nghèo.
3.2.2.2. Giải pháp tạo lập và khai thác tối đa nguồn vốn cho hoạt động ngân hàng phục vụ người nghèo.
- Vốn điều lệ.
Là một ngân hàng ''chính sách'' song ngân hàng phục vụ người nghèo là một tổ chức tín dụng của Nhà nước, có tư cách pháp nhân, được Nhà nước cấp vốn điều lệ. Hiện nay vốn điều lệ của ngân hàng phục vụ người nghèo là 700 tỷ đồng. Tôi cho rằng với số vốn điều lệ này quá thấp, bởi 2 lý do sau.
Thứ nhất: ngân hàng phục vụ người nghèo với mục tiêu hoạt động vì người nghèo, gắn liền với khách hàng người nghèo song không có nghĩa là cơ sở vật chất cho hoạt động của nó phải ''nghèo'' theo quá mức, mà ngân hàng phục vụ người nghèo phải có một cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động của hệ thống có mạng lưới từ trung ương đến cơ sở. Vốn để tạo ra cơ sở vật chất của ngân hàng phục vụ người nghèo chủ yếu vẫn do sự hỗ trợ của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Thứ hai: Nguồn vốn điều lệ của ngân hàng phục vụ người nghèo không chỉ sử dụng xây dựng cơ sở vật chất mà còn tạo ra nguồn vốn cho vay trong điều kiện nguồn vốn huy động hạn chế thì sử dụng nguồn vốn điều lệ để tạo ra nguồn vốn cho vay là hết sức cần thiết của ngân hàng phục vụ người nghèo. Bởi vậy việc tăng vốn điều lệ lên một mức cao hơn cho ngân hàng phục vụ người nghèo là phù hợp với thực tiễn đặt ra. Mặt khác vốn điều lệ của ngân hàng phục vụ người nghèo bao gồm: vốn ngân sách Nhà nước cấp và vốn đóng góp dưới hình thức cổ phần của các cổ đông. Do đó cần động viên khuyến khích các cổ đông sáng lập tăng cổ phần đóng góp của mình để tăng vốn điều lệ ban đầu cho ngân hàng phục vụ người nghèo và cho phép các tổ chức kinh tế, xã hội, cá nhân trong và ngoài nước tự nguyện đóng góp cổ phần tham gia vốn điều lệ. Số cổ đông này, nếu có cổ phần đóng góp lớn sẽ được bầu vào hội đồng quản trị của ngân hàng phục vụ người nghèo.
- Vốn cổ phần.
Ngân hàng phục vụ người nghèo là tổ chức tín dụng của Nhà nước song nó là ngân hàng chính sách nên phải có thiết chế hoạt động riêng. Điều lệ hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo cần tạo ra một pháp lý mà ở đó ngân hàng phục vụ người nghèo được phép huy động cổ phần đóng góp từ các cổ đông thông thường, bao gồm 2 dạng:
Dạng cổ phần bắt buộc: ngân hàng phục vụ người nghèo quy định vốn cổ phần đóng góp bắt buộc cho mọi thành viên vay vốn. Mức đóng góp bằng tỷ lệ phần trăm trên số tiền mỗi khoản vay và được khấu hao từ khoản vay. Tỷ lệ này được quy định rất nhỏ khoảng 1-2%, tạo ra tâm lý tự nguyện của người vay, họ xem đó như là một khoản tiết kiệm nhỏ. Song đối với toàn hệ thống ngân hàng phục vụ người nghèo, có thể tạo ra nguồn vốn tái cho vay đáng kể. Ví dụ: tỷ lệ đóng góp cổ phần bằng 1% khoản vay, doanh số cho vay là 8000 tỷ đồng ta sẽ huy động vốn cổ phần đóng góp dạng này 80 tỷ đồng. Tất nhiên đối với loại cổ phần này không được hưởng cổ tức, không cho phép cổ đông rút ra bất cứ lúc nào.
Dạng cổ phần tự nguyện: Nhà nước và ngân hàng phục vụ người nghèo khuyến khích và động viên tất cả mọi tổ chức kinh tế, xã hội, đoàn thể, mọi cá nhân trong và ngoài nước tham gia đóng góp cổ phần hưởng cổ tức vào ngân hàng phục vụ người nghèo. Loại cổ phần này nên duy trì ổn định, chỉ được rút ra khi có thời gian đóng vào khá dài (5năm, 10 năm, 20 năm...). Khi công tác tuyên truyền, phong trào xã hội và từ thiện trong cộng đồng được mở rộng và phát triển thì vốn cổ phần dạng này sẽ nâng lên.
- Nguồn vốn huy động từ kênh ngân sách Nhà nước.
Hiện nay vốn của ngân sách Nhà nước chi cho các mục đích liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo ở nước ta với con số không phải nhỏ. Mặc dù ngân sách Nhà nước vẫn bội chi lớn, chính phủ vẫn phải đi vay dân, vay nước ngoài để bù đắp nhưng hàng năm vẫn phải chi ra hàng nghìn tỷ đồng cho chương trình này.
Vốn ngân sách Nhà nước dù dưới 2 dạng: cấp phát không hoàn lại và cấp phát có hoàn lại thông qua các chương trình tín dụng Nhà nước. Thực tế cho thấy cách thức cấp phát, cho vay của ngân sách Nhà nước thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo đạt hiệu quả còn thấp do nhiều nguyên nhân. Song cốt lõi của vấn đề bởi nguyên nhân nguồn vốn chưa được bảo toàn tăng trưởng, sinh lời. Bên cạnh đó cách thức truyền tải vốn thấp của nguồn vốn thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Bởi vậy các nguồn vốn của NSNN cho mục tiêu, chương trình xoá đói giảm nghèo chưa được tập trung. Song để nguồn vốn không phân tán và chồng chéo, cấp đúng đối tượng phải chuyển về một mối thực hiện chức năng tín dụng cho người nghèo. Ngân hàng phục vụ người nghèo được thành lập với đúng ý nghĩa của nó, là kênh huy động vốn chính thức các nguồn vốn cho người nghèo. Trong đó các nguồn vốn của ngân sách Nhà nước cho mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo phải được chuyển vào kênh tín dụng này bao gồm các nguồn chủ yếu sau:
+ Nguồn ngân sách Nhà nước cấp cho chương trình tín dụng có liên quan đến người nghèo thực hiện qua kho bạc Nhà nước. Kênh này bao gồm: nguồn vốn thực hiện chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, nguồn vốn thực hiện chương trình quốc gia về phủ xanh đất trống đồi núi trọc...
Cơ sở thực hiện việc chuyển một phần các nguồn vốn nói trên vào kênh tín dụng ngân hàng phục vụ người nghèo được luận chứng bởi.
Một là: Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nêu rõ ''Hiện nay gần 20 chương trình quốc gia và dự án được thực hiện có nội dung gắn với xoá đói giảm nghèo. Từ năm 1996 sẽ lồng ghép chương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình khác trong đó lấy chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn làm nòng cốt''. Như vậy ý nghĩa mục tiêu của các chương trình quốc gia này đã được khẳng định về tính chủ đạo cho việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo trong các năm tới ở nước ta. Do đó để tạo ra nguồn vốn tập trung hỗ trợ người nghèo, tôi cho rằng việc chuyển một bộ phận của 3 nguồn vốn trên vào ngân hàng phục vụ người nghèo là cần thiết và hợp lý. Vốn giải quyết việc làm chỉ giao cho kho bạc Nhà nước quản lý và cho vay tạo việc làm cho vùng đô thị và các dự án lớn.
Hai là: chính việc giao cho ngân hàng phục vụ người nghèo quản lý các nguồn vốn nói trên không những tập trung nguồn vốn về một mối, quản lý có hiệu quả cao hơn mà còn tạo điều kiện cho kho bạc Nhà nước thực hiện tốt các chức năng vốn có của nó.
Ba là: Đưa nguồn vốn hỗ trợ người nghèo vào một kênh tín dụng chính thức sẽ hạn chế sự lộn xộn của kênh vốn cho người nghèo trên thị trường tài chính tín dụng nông thôn. Người nghèo được vay vốn một kênh với chính sách thống nhất như mức cho vay, lãi suất cho vay, thời hạn cho vay, phương thức trả nợ...
Bốn là: nguồn vốn của NSNN được bảo toàn thông qua hình thành quỹ bảo toàn vốn ngân sách cấp tại ngân hàng phục vụ người nghèo.
Ngân sách Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho vùng nghèo, các xã đặc biệt khó khăn xây dựng cơ sở hạ tầng để cải thiện mức sống cộng đồng.
Ngân sách Nhà nước chi cho các chương trình mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội.
Quan điểm sử dụng các nguồn kinh phí NS nói trên là hình thành các dự án nhỏ của các tổ chức đoàn thể cộng đồng, ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện cho vay vốn để thực hiện dự án. Nguồn ngân sách được ngân hàng phục vụ người nghèo bảo toàn vốn gốc ban đầu của nó.
- Nguồn hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước địa phương được trích một phần chuyển vào ngân hàng phục vụ người nghèo điạ phương để hỗ trợ nguồn vốn cho vay đối với người nghèo. Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo đã trở thành vấn đè trên bình diện quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa là vốn hỗ trợ cho người nghèo không chỉ thuộc các chương trình quốc gia, mà sự đóng góp tích cực của từng địa phương là hết sức cần thiết. Tính đến ngày 31-12-2000 nguồn vốn từ ngân sách địa phương chuyển sang ngân hàng phục vụ người nghèo là con số không nhỏ. Song phải hình thnàh cơ chế động viên thu hút và sử dụng nguồn vốn này thống nhất trong cả nước. Theo tôi, cơ chế đó phải thực hiện được nguyên tắc bảo toàn vốn gốc cho ngân sách, chứ không trả lãi trực tiếp cho địa phương.
- Tiền gửi tiết kiệm của cộng đồng người nghèo.
Mặc dù phải vay mượn và ''ăn đong'' nhưng người nghèo ở nước ta luôn có tư tưởng, ý thức tiết kiệm. Với những món tiền nhỏ của những hộ nghèo có thể tiết kiệm được, sẽ trở thành khoản tiền lớn, tạo nguồn cho ngân hàng phục vụ người nghèo quay vòng nó. Việc thực hiện huy động vốn bằng các hình thức tiết kiệm bắt buộc hoặc tự nguyện sau đây:
Tiền gửi tiết kiệm bắt buộc: Tiết kiệm bắt buộc là yêu cầu đối với các hộ nghèo khi vay vốn ngân hàng phục vụ người nghèo. Tiết kiệm của hộ nghèo được gửi trực tiếp thông qua tổ vay vốn để gửi vào ngân hàng phục vụ người nghèo. Sự bắt buộc này đã hình thành cho người nghèo có ý thức và kế hoạch chi tiêu tiết kiệm để tạo nguồn tích luỹ trả nợ khi đến hạn, hơn nữa tạo thói quen tiếp cận với nền kinh tế tiền tệ mà họ đang bước tới. Việc gửi tiền tiết kiệm bắt buộc đối với hộ nghèo và phù hợp với khả năng tiết kiệm của hộ nghèo vay vốn có thể tiến hành theo định kỳ quy định của ngân hàng phục vụ người nghèo và phù hợp với khả năng tiết kiệm của hộ nghèo. Nhưng hiệu quả hơn cả, phải tiết kiệm từ món tiền nhỏ với từng định kỳ thời gian hàng tuần hay 20 ngày trở lại. Số tiền tiết kiệm bắt buộc cũng không cần trả lãi cho người nghèo, bởi doanh số nhỏ được xem như tiền cất ''hòm'' vậy.
Tiền gửi tiết kiệm tự nguyện nhưng hấp dẫn thông qua xổ số: hình thức tiết kiệm tự nguyện, không hưởng lãi nhưng gắn liền với trao thưởng thông qua xổ số tiết kiệm chắc chắn có nhiều khả thi. Bởi tâm lý phần lớn của người nghèo ở nông thôn nước ta là luôn ''cầu''may. Tình trạng đánh đề ở các vùng quê Việt Nam là minh chứng cho điều đó. Ngân hàng phục vụ người nghèo có thể phối hợp với các công ty xổ số quay thưởng cho sổ tiết kiệm trên cơ sở giải thưởng và chi phí được tính từ lãi tiết kiệm mà họ không phải trả cho người nghèo. Hình thức tiết kiệm này còn có tác dụng hạn chế tình trạng đánh đề và phường hụi ở nông thôn.
Tiền gửi từ quỹ tổ tương hỗ. Ngân hàng phục vụ người nghèo cần hướng dẫn cho các tổ vay vốn hình thành quỹ tổ tương hỗ. Việc hình thành quỹ này là cần thiết cho sự tương trợ và ràng buộc với nhau giữa các thành viên trong tổ, bởi nếu được quy định như sau:
Thành viên ra khỏi tổ không được rút tiền đóng góp.
Có thể rút tiền quỹ trả nợ cho mỗi thành viên khi mất khả năng trả nợ ngân hàng.
Quỹ tổ được hình thành từ khấu trừ khoản vay (khoảng 1-2%) và được gửi vào ngân hàng phục vụ người nghèo nơi thành viên vay vốn. Tiền gửi sẽ được ngân hàng trả lãi. Việc tạo ra quỹ tổ là điều kiện giảm bớt rủi ro cấp tín dụng cho người nghèo chỉ dựa vào tín chấp là bảo đảm không có pháp lý.
- Tiền gửi thực hiện mục tiêu hỗ trợ người nghèo của các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính tín dụng. Để thành công trong việc hỗ trợ vốn cho người nghèo, thì ngân hàng phục vụ người nghèo phải được sự hỗ trợ hợp lực của toàn nền kinh tế. Trong đó về phương diện nguồn vốn phải có sự chia sẻ khó khăn của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tín dụng, đặt ra điều này bởi các lý do sau:
Một là: Xoá đói giảm nghèo là một mục tiêu trong hệ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Kinh tế xã hội phát triển điều đó đảm bảo và quyết định cho tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế được xem là một trong những mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ quốc gia. Hiểu một cách lôgic, xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ mà hệ thống ngân hàng Việt Nam phải góp phần gánh vác để thực hiện tốt mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Bởi vậy các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính tín dụng phải có nhiệm vụ tạo nguồn vốn để hỗ trợ người nghèo là vấn đề đặt ra có đủ luận chứng.
Hai là: Vấn đề giúp người nghèo có vốn làm ăn là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội và toàn thể cộng đồng. Quả thật về mặt nhân văn người nghèo cũng là con người cần phải giúp đỡ họ. Trong đó các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tín dụng, với lợi thế nguồn vốn của mình, với bề dầy lịch sử cấp vốn cho người nghèo, phải có trách nhiệm tạo nguồn vốn cho người nghèo là vấn đề phù hợp đạo lý nhân văn nói trên.
Ba là: Để đảm bảo thực hiện sự hỗ trợ nói trên, cần phải có một điều lệ quy định rõ trách nhiệm này trong luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng.
- Tiền gửi từ các tổ chức kinh tế xã hội, cá nhân trong và ngoài nước. Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức kinh tế, xã hội, cá nhân trong và ngoài nước gửi tiền vào ngân hàng phục vụ người nghèo để tạo nguồn vốn cho vay đối với người nghèo. Tuy nhiên đây là hình thức tiền gửi theo cơ chế lãi suất thị trường. Bởi vậy tuỳ vào yêu cầu thực tiến nguồn vốn mà ngân hàng phục vụ người nghèo tổ chức huy động.
Nhà nước cho phép huy động tiền gửi từ các quỹ bảo hiểm và các quỹ khác với lãi suất thấp để tạo nguồn vốn cho ngân hàng phục vụ người nghèo hoạt động. Thực tế một số quỹ thuộc dạng này có nguồn vốn rất lớn tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng để sinh lời nó thông qua tác động của kênh vốn tín dụng.
- Huy động vốn từ các nguồn tài trợ cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo.
Ngân hàng phục vụ người nghèo với tư cách đại diện cho chính phủ tiếp nhận mọi nguồn vốn hỗ trợ cho người nghèo, tự nó đã khẳng định là tổ chức chính thức được giao nhiệm vụ thu hút các nguồn tài trợ cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Để khai thác các nguồn tài trợ cho mục tiêu nói trên, yếu tố cần thiết trước hết phải có định hướng, chính sách của Nhà nước phải rõ ràng, cụ thể. Định hướng, chính sách của Nhà nước là hành lang và đường băng, cũng là điều kiện để khỏi dòng vốn tài trợ này và thu hút nó vào kênh tín dụng cho người nghèo. Để làm được điều đó định hướng và chính sách của Nhà nước phải thể hiện được các nội dung sau:
Thứ nhất: Khuyến khích sự tài trợ của mọi tổ chức cá nhân chia sẻ với cộng đồng người nghèo. Qua đó họ có những hành động, chương trình giúp đỡ có tính nhân đạo cho người nghèo vùng nghèo.
Thứ hai: Khuyến khích mọi tổ chức kinh tế, xã hội, đoàn thể và cá nhân hình thành các dự án thu hút nguồn tài trợ cho người nghèo, đồng thời tạo điều kiện tốt nhất cho họ tiếp nhận các nguồn tài trợ đó.
Thứ ba: Đảm bảo các nguồn tài trợ được sử dụng với hiệu quả cao nhất vừa thực hiện đúng mục tiêu tài trợ, vừa tạo lòng tin cho người tài trợ.
Để khỏi tăng các nguồn tài trợ nói trên, ngân hàng phục vụ người nghèo cần phải giải quyết tốt các vấn đề sau:
Một là: ngân hàng phục vụ người nghèo chủ động phối hợp cùng với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, hiệp hội kêu gọi và ký kết các hiệp ước tài trợ thông qua đầu tư vốn vào các chương trình và dự án, giúp đỡ kỹ thuật, đào tạo trí thức cho người nghèo.
Hai là: ngân hàng phục vụ người nghèo phối hợp với các bộ, ngành, đoàn thể hữu quan xây dựng các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn có tính khả thi để thu hút các nguồn tài trợ.
Ba là: Hình thành một cơ chế tiếp nhận nhanh nguồn tài trợ từ uỷ thác của chủ dự án hoặc chương trình trong khuôn khổ luật lệ cho phép.
Bốn là: ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện quản lý nguồn và cấp tín dụng đạt chất lượng theo yêu cầu của chủ dự án và đúng mục tiêu dự án. Thực tế cho thấy các nguồn tài trợ cho muc tiêu xoá đói giảm nghèo mang nặng tính chất xã hội từ thiện và nhân đạo song không phải như vậy mà cho phép phía nhận tài trợ quản lý lỏng lẻo. Ngược lại hoàn toàn điều đó, phía quản lý tài trợ chịu sự kiểm soát khắt khe của phía tài trợ. Bởi vậy yêu cầu ngân hàng - người tiếp nhận uỷ thác quản lý phải nâng cao vai trò, trách nhiệm thực hiện đúng cam kết của hợp đồng đã nhận với bên uỷ thác.
Tài trợ vốn cho người nghèo đang là xu thế của cộng đồng thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng. Trong điều kiện nguồn vốn huy động qua các kênh chính thức đáp ứng cấp tín dụng cho người nghèo thì khỏi tăng nguồn vốn tài trợ cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo là hết sức quan trọng cho hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo. Điều đó, với sự nỗ lực riêng của ngân hàng phục vụ người nghèo là chưa đủ mà cần sự trợ giúp của Nhà nước các cấp, các ngành, các tổ chức kinh tế, xã hội thông qua phong trào tuyên truyền khích lệ các nhà tài trợ và các nhà hảo tâm.
- Nguồn vốn từ quỹ bù đắp rủi ro.
Cấp tín dụng cho người nghèo bao giờ cũng đồng hành với rủi ro mất vốn. Quả thật, khả năng hoàn trả vốn đúng hạn và đầy đủ của người nghèo vay vốn còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy các hộ nghèo chủ yếu tập trung vào vùng nông thôn, sản xuất nông nghiệp gắn với thiên tai, mất mùa xảy ra thường xuyên. Do vậy không có quỹ bù đắp rủi ro mất vốn cho ngân hàng phục vụ người nghèo thì sự tồn tại của nó hết sức mong manh. Bởi nguồn vốn sẽ hụt dần cùng với việc khoanh nợ, xoá nợ cho hộ nghèo, mặt khác do tâm lý sợ bị lỗ, người nghèo thích thu lợi nhanh nên tính toán bỏ vốn làm ăn luẩn quẩn, ít hiệu quả. Người nghèo thường tung hết vốn liếng vào làm ăn nên khi thất bát rơi vào thế ''trắng tay'', nợ nần. Cũng không ít trường hợp do túng thiếu quanh năm, tiền vốn ngân hàng cho vay có thể bị sử dụng vào mục đích khác như mua lương thực, chữa bệnh, tiền học cho con... để đảm bảo những nhu cầu cơ bản của con người.
Lập quỹ bù đắp rủi ro là việc cần thiết cho mọi tổ chức tín dụng, song nó lại cần thiết hơn đối với tổ chức tín dụng cho người nghèo. Mặc dù đã có quyết định số 48/1999/QĐ - NHNN 5 ngày 8-2-1999 của thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam, song hiện nay vẫn chưa thể thực hiện được bởi vì vấn đề đặt ra là lấy nguồn từ đâu để lập quỹ bù đắp rủi ro này và sử dụng nó cho hiệu quả trong điều kiện ngân hàng phục vụ người nghèo với khả năng tạo ra lợi nhuận rất thấp. Vì vậy, theo tôi cần tạo ra một cơ chế lập quỹ bù đắp rủi ro cho ngân hàng phục vụ người nghèo phù hợp với tính ''chính sách'' của nó. Nhà nước nên cho phép trích từ ngân sách Nhà nước để cấp cho ngân hàng phục vụ người nghèo hình thành quỹ bù đắp rủi ro trên cơ sở có sự tự lực của ngân hàng phục vụ người nghèo. Tức là quỹ bù đắp rủi ro được lập từ hai nguồn: ngân sách Nhà nước cấp và nguồn trích từ lợi nhuận của ngân hàng phục vụ người nghèo. Song phần ngân sách Nhà nước cấp là chủ yếu, tỷ lệ này sẽ được giảm dần khi lợi nhuận của ngân hàng phục vụ người nghèo tăng lên.
Nguồn của ngân sách Nhà nước cấp để hình thành quỹ bù đắp rủi ro cho ngân hàng phục vụ người nghèo được trích ra từ quỹ dự phòng trợ cấp các vùng thiên tai đối với hộ nghèo, vùng nghèo... Như vậy chi ngân sách Nhà nước thực tế không tăng lên mà thay đổi phương thức chỉ để đạt mục tiêu sử dụng cao hơn. Bởi vậy trợ cấp khắc phục thiên tại bằng xin, cho, cấp chỉ phù hợp với những giải pháp tính thế mang tính cứu tế mà thôi.
Để ngân hàng phục vụ người nghèo hoạt động và phát triển, quỹ bù đắp rủi ro được lập thường xuyên với số dư đủ lớn. Khi thực tế có rủi ro, được trích quỹ để bù đắp kịp thời đảm bảo nguồn vốn hoạt động cho ngân hàng phục vụ người nghèo. Quỹ bù đắp rủi ro cho ngân hàng phục vụ người nghèo khi chưa sử dụng (phản ánh trên số dư của quỹ) được sử dụng để tăng nguồn vốn cho vay và bảo toàn nó. Tuy nhiên để quỹ này sử dụng đúng mục đích và hiệu quả phải có một cơ chế quản lý như đối với các quỹ tài chính đặc thù.
- Ngoài những nguồn vốn nói trên, ngân hàng phục vụ người nghèo có thể sử dụng tối đa các nguồn huy động tiền gửi bằng việc quy định miễn nộp dự trữ bắt buộc vaò ngân hàng Nhà nước.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải gửi tại ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Như vậy nếu ngân hàng phục vụ người nghèo được thực thì chính sách miền nộp dự trữ bắt buộc vào ngân hàng Nhà nước sẽ tạo ra khả năng mở rộng hệ số tạo tiễn của nó. Nói một cách cụ thể hơn, việc được miễn nộp tiền dự trữ bắt buộc sẽ tạo cho ngân hàng phục vụ người nghèo sử dụng tối đa nguồn vốn huy động từ tiền gửi để cho vay. Hơn nữa, đó cũng là điều kiện làm giảm đáng kể lãi suất cho vay đối với ngân hàng phục vụ người nghèo.
Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn có đủ luận chứng để thực thi miễn nộp tiền dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng phục vụ người nghèo bởi các lý do sau:
Một là: Tiền gửi huy động của ngân hàng phục vụ người nghèo ít xảy ra mất khả năng thanh toán bởi chủ yếu nguồn tiền gửi ổn định, quy mô nhỏ.
Hai là: Việc tăng hộ số tạo tiền, theo đó cung ứng tiền thông qua cấp tín dụng cho người nghèo tăng lên, song ngân hàng Nhà nước vẫn chủ động kiểm soát được lượng tiền cung ứng, bởi hạn mức tín dụng cho người nghèo có giới hạn theo khả năng nguồn vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo.
Ba là: Nâng hệ số tạo tiền, giảm được lãi suất cho vay có tác động tích cực thực hiện chính sách ưu đãi đối với người nghèo, điều đó không ảnh hưởng lãi suất trên thị trường tín dụng của nền kinh tế bởi đối tượng nhận tín dụng được giới hạn trong khu vực người nghèo và vùng nghèo.
Từ những phân tích ở trên, hơn nữa thực tiễn hoạt động của một ngân hàng ''chính sách'' yêu cầu ngân hàng Nhà nước phải thực thi chính sách miễn nộp dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng phục vụ người nghèo. Tạo cho nó khả năng tăng nguồn vốn hoạt động mà không gây tác động tiêu cực đến việc thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước.
3.2.2.3. Giải pháp sử dụng vốn cho người nghèo của ngân hàng phục vụ người nghèo.
- Đối tượng được cấp tín dụng.
Cấp tín dụng cho người nghèo chẳng khác gì tạo cho họ chiếc cần câu để họ câu được xâu cá. Để câu được xâu cá, người nghèo phải biết câu. Bởi vậy tín dụng cho người nghèo cũng chỉ cấp cho ai biết sử dụng nó để tăng thu nhập góp phần xoá đói giảm nghèo. Để xác định đúng đối tượng này là hết sức cần thiết nhưng có nhiều phức tạp.
Trước hết chúng ta phải xác định đối tượng người nghèo vay vốn là các hộ nghèo. Bởi vậy từ khi nghị quyết 10 Đại hội Đảng lần thứ 6, hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ. Do vậy hộ nghèo được sử dụng làm đối tượng cấp tín dụng là hoàn toàn đáp ứng yêu cầu thực tiễn đã và đang đặt ra. Vậy cơ sở nào để xác định là hộ nghèo? Như đã nói ở trên, hiện nay nước ta đang quy định chuẩn mực hộ nghèo theo quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01-11-2000. Song vấn đề đặt ra việc xác định hộ gia đình nào có mức thu nhập đúng chuẩn mực hộ nghèo là hết sức khó khăn mỗi khi thu nhập làm ăn của từng hộ không được công khai. Vậy khả thi hơn cả, để xác định hộ nghèo một cách tương đối (theo nghĩa so với chuẩn mực) phải thiết lập môt cơ chế kiểm soát, giảm sát của cộng đồng thông qua bình xét, lựa chọn công khai của các tổ chức, đoàn thể địa phương, làng thôn. Tính ''công khai cộng đồng'' tự nó sẽ lấn áp và đè bẹp tính ''độc quyền, xét, xin, cho'' phi cộng đồng của tổ chức chính quyền sở tại thường xảy ra trong việc công nhận hộ nghèo được vay vốn. Trở lại vốn đề ''cần câu'' và ''xâu cá'' nói trên, hộ nghèo muốn vay vốn phải biết sử dụng vốn mà quyết định trước hết là phải có sức lao động. Bởi vậy các đối tượng nghèo đói không có sức lao động hoặc đối tượng rượu chè, cờ bạc... không thuộc đối tượng cấp tín dụng.
- Xác định điều kiện cấp tín dụng.
Ngân hàng phục vụ người nghèo cần tạo ra một điều kiện vay vốn nới rộng, thuận lợi cho người vay song phải đảm bảo tính nghiêm ngặt của tổ chức tín dụng này. Các điều kiện đó là:
+ Ngoài những điều kiện vay vốn thông thường của ngân hàng thì các hộ nghèo phải cam kết chấp hành điều lệ vay vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo như gia nhập tổ vay vốn, đóng góp cổ phần, tiết kiệm bắt buộc, sử dụng vốn tạo được thu nhập...
+ Vốn vay trước hết dùng vào sản xuất kinh doanh để tăng thu nhập, sau đó mới cho vay sửa nhà cửa, tạo nơi ăn chốn ở và vay tiêu dùng khác.
- Lãi suất cho vay đối với người nghèo đang là vấn đề phức tạp. Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nhưng có thể tổng hợp thành 2 loại như sau:
Loại thứ nhất: Để giúp người nghèo sản xuất, giảm bớt chi phí đầu vào nên áp dụng lãi suất cho vay theo dạng tài trợ.
Loại thứ hai: Hiện nay người nghèo rất cần vốn để tổ chức sản xuất kinh doanh, một số phải vay nặng lãi ở thị trường vốn ''ngầm'' yêu cầu của họ là được vay vốn nhanh. Vì vậy lãi suất cho vay đối với người nghèo nên áp dụng bằng hoặc lớn hơn lãi suất thị trường.
Cả 2 loại lý kiến trên, xét điều kiện của Việt Nam hiện nay là chưa hợp lý, bởi lẽ.
Trường hợp thứ nhất: Cho vay theo lãi suất tài trợ, bộc lộ một số nhược điểm như gây cho người nghèo tâm lý trông chờ, ỷ lại, sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả, thậm chí sử dụng vốn vay để gửi lại ngân hàng hoặc cho vay các đối tượng khác để hưởng chênh lệch lãi suất. Mặt khác nguồn vốn cho vay sẽ cạn kiệt dần do tiền lãi thu được, ngoài phần bù đắp chi phí, không thể bảo toàn vốn, chưa kể rủi ro mất vốn. Vì vậy đã làm triệt tiêu dần tính sinh lời của vốn tín dụng.
Trường hợp 2: Nếu cho vay với lãi suất ngang bằng hặoc cao hơn lãi suất thị trường là không chú ý đến người nghèo và như vậy càng đẩy người nghèo vaò ngõ cụt.
Vấn đề đặt ra một khi chúng ta thừa nhận giải pháp vốn tín dụng cho người nghèo là hết sức cần thiết và quan trọng, thì phải có sự ưu tiên về mặt lãi suất và điều kiện vay vốn. Mặt khác cùng với việc thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để thực hiện mục xoá đói giảm nghèo thì lãi suất tín dụng cho người nghèo được đặt ra như một công cụ ảnh hưởng trực tiếp đối với quá trình ổn định đời sống, phát triển sản xuất và từ đó có thể bứt khỏi ngưỡng đói nghèo.
Để khắc phục các tồn tại khi thực hiện chính sách lãi suất của 2 loại ý kiến nêu trên, theo tôi nên áp dụng mức lãi suất cho vay đối với người nghèo thấp hơn lãi suất thị trường và cao hơn lãi suất tài trợ song phải đảm bảo bù đắp được chi phí, bảo toàn được nguồn vốn, tiến tới có lợi nhuận để bù đắp rủi ro.
- Một số vấn đề khi thực hiện cho vay và thu hồi nợ.
Một là: Mức cho vay đối với từng hộ nghèo được án định dựa trên 2 cơ sở đó nguồn vốn có thể huy động của ngân hàng phục vụ người nghèo và thực tế nhu cầu vay vốn, từng loại hộ sản xuất kinh doanh khác nhau. Hiện nay mức cho vay tối đa không quá 3 triệu đồng/hộ. Riêng đối với những hộ nghèo đầu tư cho chăn nuôi đại giá súc, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, nuôi trồng đánh bắt hải sản, kinh doanh ngành nghề được vay vốn tối đa là 5 triệu đồng/hộ. Việc quy định mức cho vay bình quân nói trên là chưa phù hợp với các đối tượng hộ nghèo phi nông nghiệp, các hộ nghèo đánh bắt hải sản. Bởi vậy ngân hàng phục vụ người nghèo phải đảm bảo cho hộ nghèo một mức tín dụng để họ tạo ra thu nhập. Việc chia bình quân mức cho vay là tạo điều kiện cho sự vùng dậy tư tưởng trông chờ hưởng cứu tế của người nghèo.
Hai là: Để cho hộ nghèo tạo ra thu nhập và trả nợ từ bán sản phẩm thì việc quy định thời hạn cho vay phải gắn liền với chu kỳ sản xuất kinh doanh mà hộ gia đình đầu tư. Việc quy định thời hạn cho vay đối với hộ nghèo chỉ bằng hai loại ngắn hạn và trung hạn là cần thiết, song chính nó có thể là sự áp đặt phi lý trong nhiều trường hợp. Bởi vậy theo tôi cần phải đa dạng nhiều loại thời hạn cho vay.
Ba là: Để vốn tín dụng đến với người nghèo không sai đối tượng, sử dụng sai mục đích thì công việc thẩm định của cán bộ tín dụng là không thể thiếu được. Bởi vậy theo tôi thì bộ phân cấp tín dụng chỉ được ký vào hợp đồng tín dụng khi có kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng phụ trách khu vực.
Bốn là: Để vốn cho vay đúng đến đối tượng được cấp, mặt khác tránh các trung gian quy định thu phụ phí, vấn đề đặt ra phải tạo một cơ chế mà ngân hàng phục vụ người nghèo phát vốn trực tiếp đến từng hộ nghèo hoặc thông qua tổ vay vốn.
Năm là: Việc thu nợ tiền vay đối với hộ nghèo phải căn cứ vào thu hoạch sản phẩm thực tế của họ. Nhiệm vụ thu nợ là công việc thường xuyên được giao chuyên trách cho một bộ phận của ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện, với quy định chuyên trách vừa là người hướng dẫn sản xuất, vừa kiểm tra sử dụng vốn thì việc thu nợ lại càng thuận lợi hơn. Trong nhiều trường hợp, cán bộ thu nợ có thể giúp đỡ bao tiêu sản phẩm để các hộ nghèo có tiền trả nợ.
Sáu là: Ngân hàng phục vụ người nghèo cần thực hiện một quy trình mà ở đó các thủ tục nghiệp vụ đơn giản và thực hiện quy chế công khai hoá mọi công đoạn thủ tục xin cấp tín dụng đối với hộ nghèo. Sự công khai này bao gồm: danh sách được xét cho vay, mức cho vay, thời hạn cho vay... được thông báo rộng rãi để có sự giám sát của cộng đồng.
3.2.3. Huy động và sử dụng vốn hỗ trợ người nghèo từ các quỹ của các tổ chức quần chúng hiệp hội trong nước.
Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về sự xuất hiện của các mô hình tổ chức dịch vụ tài chính vi mô không chính thức để tài trợ vốn cho người nghèo như: quỹ hộ trợ nông dân của hội nông dân Việt Nam, quỹ tương trợ phục nữ nghèo của hội phụ nữ và một số quỹ khác. Song xét chung có 2 loại ý kiến sau đây:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, sự ra đời các kênh dẫn vốn nói trên làm tăng thêm sự lộn xộn của thị trường tài chính tín dụng ở nông thôn nói chung và kênh dẫn vốn cho người nghèo nói riêng. Bởi nó đã làm phát sinh cho vay trùng lặp, chồng chéo, vốn vay chạy vòng vèo... và cuối cùng hiệu quả tiếp vốn cho người nghèo đạt hiệu quả thấp. Do đó cần xem xét lại sự tồn tại của nó.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, phát triển các quỹ tạo nguồn vốn hỗ trợ nông dân nghèo và phụ nữ nghèo là đáp ứng sự đa dạng hoá các nguồn vốn, từ đó đáp ứng nhiều hơn nhu cầu vốn cho người nghèo. Vì vậy sự phát triển của các quỹ này là phù hợp cần được nghiên cứu và xác định hướng hoàn thiện để nâng cao về mặt thể chế trong tương lai. Tôi đồng tình với loại ý kiến này. Bởi vậy xin đề xuất một số điểm nhằm huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ người nghèo từ các quỹ nói trên như sau:
- Đối với quỹ hỗ trợ nông dân.
+ Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế hoạt động đối với quỹ hỗ trợ nông dân phù hợp với chính sách tín dụng cho người nghèo trên cơ sở tham chiếu tính đặc thù hoạt động của hội nông dân. Về hướng lâu dài, nếu đủ khả năng, cần chuyển nó trở thành dạng ngân hàng cổ phần nông thôn. Trước mặt để củng cố hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân, ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện giúp đỡ nghiệp vụ cho cán bộ quản lý quỹ này.
+ Phải xác định đối tượng cho vay nông dân nghèo là hộ. Hội nông dân phải kết hợp tốt với ngân hàng phục vụ người nghèo để phân vùng đối tượng cho vay, tránh cấp vốn chồng chéo.
+ Lãi suất cho vay đối với nông dân nghèo từ quỹ hỗ trợ nông dân phải quy định bằng mức lãi suất cho vay đối hộ nghèo từ nguồn vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo.
+ Hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân phải được điều chỉnh trong một thể chế kiểm soát của cộng đồng nông dân nghèo. Có như vậy mới đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững lâu dài của quỹ.
+ Để tăng cường nguồn vốn hoạt động, quỹ hỗ trợ nông dân cần mở rộng nguồn tài trợ thông qua hình thành các dự án phát triển nông thôn mới.
- Đối với quỹ tương trợ phụ nữ nghèo.
+ Đa dạng hoá các nguồn vốn vay cho phụ nữ nghèo, tạo cơ hội cho họ có việc làm, tăng thu nhập. Muốn vậy phải.
Củng cố và phát triển mạnh nhóm phụ nữ tín dụng - tiết kiệm: như một số nơi đã làm, đây là một mô hình tốt, có tác dụng nhiều mặt. Tuy nhiên cho đến nay cả nước mới thành lập 100 nghìn nhóm, mới có khoảng trên 1500 chị em tham gia vào các nhóm này. Nếu ta đem so sánh với con số đó với số phụ nữ cả nước (khoảng gần 39 triệu) thì quả là còn rất ít. Vì vậy trong thời gian tới Hội phụ nữ các cấp cần có biện pháp phát triển mạnh và trung ương Hội nên giao thành chỉ tiêu cụ thể cho các cấp hội cơ sở nhằm nhân rộng mô hình có hiệu quả này.
Đẩy mạnh phong trào ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo và nhân rộng quỹ tình thương. Cần mở rộng đối tượng tham gia vào phong trào này, không chỉ bó hẹp trong nữ công nhân viên chức mà còn thu hút đông đảo các tổ chức xã hội, các cơ quan, đoàn thể khác. Dấy lên phong trào ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo trong cả cộng đồng nhân dịp 8/3 hàng năm. Song song với các hoạt động trên, hội cần tạo điều kiện cho chị em được tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng chính thức. Hội có thể ký kết nghị quyết liên tịch với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng phục vụ người nghèo để mở rộng diện phụ nữ nông thôn, phụ nữ nghèo được vay vốn với quy mô lớn hơn, thời gian dài hơn. Đặc biệt trong điều kiện mở cửa, thì cần coi trọng nguồn vốn quốc tế để tăng hoạt động cho quỹ.
+ Tiếp tục duy trì phong trào giúp nhau trong chị em, mở rộng mô hình giúp nhau theo địa chỉ.
Đẩy mạnh phong trào ''phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế giá đình'' dưới nhiều hình thức như: giúp nhau về vốn, giống cây con, vật liệu làm nhà, ngày công, kiến thức, nơi tiêu thụ sản phẩm. Tuyên truyền giáo dục chị em tinh thần tiết kiệm, tự vươn lên là chính. Phát triển hình thức tổ chức phụ nữ tiết kiệm đa mục đích như tiết kiệm làm sân, làm bể, cho con đi học...
Phân công và khuyến khích phát triển hình thức giúp nhau theo địa chỉ mỗi năm thực hiện kế hoạch trung ương hội giúp 1 tỉnh nghèo, 1 tỉnh thành giúp 1 huyện nghèo, 1 huyện lại giúp 1 xã nghèo, mỗi xã giúp 1 thôn nghèo và 5 hộ nghèo nhất.
+ Đẩy mạnh hoạt động cung cấp kiến thức cho phụ nữ nghèo, vận động khuyến khích họ áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Để giúp phụ nữ nghèo vượt qua nghèo đói, bên cạnh việc cho vay vốn thì việc cung cấp các kiến thức và nâng cao năng lực sản xuất cho phụ nữ là biện pháp quan trọng và cơ bản. Vì vậy các cấp hội cần chủ động liên kết phối hợp với các ngành chức năng, nhất là các cơ sở khuyến nông, khuyến lâm để tổ chức hướng dấn chị em về kỹ thuật nuôi trồng cây con. Lồng ghép việc cung cấp vốn với việc cung cấp kiến thức. Đa dạng hoá hình thức tuyên truyền, hướng dẫn chị em ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất thông qua các mô hình trình diễn, thao tác tại chỗ, tham quan học tập gương điểm hình, sinh hoạt câu lạc bộ phụ nữ, phát triển mạng lưới khuyến nông trên cơ sở lựa chọn các chị em làm ăn giỏi.
+ Về lãi suất cho vay. các quỹ tương trợ phụ nữ nghèo không cần áp dụng lãi suất thấp bởi 3 lý do: phụ nữ nghèo vay vốn gắn liền với tiết kiệm món nhỏ, họ cần đáp ứng vốn kịp thời hơn là ưu đãi về lãi suất, để mở rộng nguồn vốn của quỹ thì thường phải đi vay các ngân hàng với lãi suất thị trường nên khi cho vay áp dụng lãi suất thị trường là tất yếu, đảm bảo nguồn tài chính cho quỹ hoạt động lâu dài.
+ Cũng như quỹ hỗ trợ nông dân, để nâng vị trí pháp lý cho hoạt động của các quỹ tương trợ phụ nữ nghèo cũng cần có một quy chế từ phía ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Về lâu dài cần phát triển thành các ngân hàng cổ phần nông thôn hoặc đô thị.
3.3. Những điều kiện để thực hiện các giải pháp về tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo.
3.3.1. Tạo lập môi trường chính sách và pháp lý cần thiết để các tổ chức tài chính vi mô trực tiếp cung ứng vốn cho người nghèo hoạt động và phát triển.
Để thực hiện các giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ người nghèo thì vấn đề quyết định trước hết, phải tạo ra một thể chế phù hợp cho hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô.
Theo tôi, ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần xác định rõ loại ngân hàng ''chính sách'' trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong đó tất yếu có ngân hàng phục vụ người nghèo. Thể chế hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo phải có pháp lệnh riêng. Mặt khác bên cạnh ngân hàng phục vụ người nghèo, ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải tạo thể chế chính thức cho các tổ chức tài chính vi mô và dịch vụ tài chính vi mô có đủ môi trường pháp lý để hoạt động. Nên mở rộng các mô hình dịch vụ tài chính vi mô lên một cấp độ mới trong sự liên kết với các tổ chức tài chính vi mô chính thức.
3.3.2. Hình thành và ban bố dự luật tín chấp vay vốn tín dụng.
Như trên đã phân tích, cấp vốn tín dụng cho người nghèo tự nó đã hàm chứa tính rủi ro cao dẫn đến mất vốn. Hơn nữa, chủ yếu áp dụng biện pháp tín chấp khi cấp vôn thì rủi ro mất vốn càng có nguy cơ, xảy ra cao hơn.
Trong thực tế, mặc dù việc tín chấp có đảm bảo của chính quyền sở tại hoặc tổ vay vốn của người vay song khi rủi ro thì vấn đề xử lý mất vốn chưa có một điều luật cụ thể nào. Không ít trường hợp gây phức tạp trong việc xử lý, giải quyết nợ khê đọng hoặc nợ khó đòi phát sinh khi các hộ nghèo vay vốn. Để thu hồi vốn, họ chủ yếu nhờ cơ quan pháp luật song trong tay cơ quan pháp luật vẫn chưa đủ điều luật cụ thể để phân định và xử lý. Rốt cuộc cơ quan yêu cầu là kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng thường phải chi một khoản tiền không biết hạch toán vào đâu cho hợp lý. Một số trường hợp cơ quan cấp vốn tín dụng đã dùng tối đa các giải pháp khác nhau nhưng vẫn không thu hồi được.
Từ thực tiễn nói trên, để hạn chế rủi ro mất vốn, tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý và giám sát vốn cho vay, theo tôi Nhà nước phải hình thành và ban bố một dự luật riêng vê tín chấp vay vốn đối với người nghèo. Có như vậy mới tạo điều kiện cho các cơ quan được giao nhiệm vụ cấp vốn tín dụng thực hiện thông đồng bén giọt chương trình tín dụng cho người nghèo.
3.3.3. Thực hiện chính sách ruộng đất đối với người nghèo.
Đây có thể nói là chính sách hàng đầu, có vị trí quan trọng nhất để tự cứu - tự xoá đói giảm nghèo của nông hộ đói nghèo. Nhưng trong nhiều năm qua, ở một số địa phương đã thực hiện chưa đúng chính sách này.
Hiện nay cả nước có hơn nửa triệu hộ nông dân đói nghèo không có, hoặc thiếu ruộng đất sản xuất, trong đó tập trung nhiều nhất vào Đồng Bằng Sông Cửu Long ( tính đến tháng 6/1999 ở Đồng Bằng Sông Cửu Long số hộ nông dân đói nghèo không có đất và thiếu đất sản xuất là trên 30 nghìn hộ, chiếm hơn 60% trong tổng số hộ nông dân đói nghèo ở Đồng bằng Sông Cửu Long). Trong khi đó có những ông chủ là dân đô thị đến chiếm đất (như Nhà nước cho không) lập nhiều đồn điền mới (mang hình thức trang trại) và có trang trại có quy mô lớn lên đến 2000 - 3000. Đây là một hiện tượng cần được nghiên cứu giải quyết. Theo tôi có thể giải quyết bằng 3 cách sau:
- Trả lại phần ruộng đất của hộ nông dân đói nghèo nợ sản phẩm cũ bị xã rút bớt ruộng đất để các hộ nông dân này canh tác tự bảo đảm cuộc sống, xoá đói giảm nghèo của gia đình họ.
- Hợp tác xã và các cấp chính quyền xác định đúng số nợ cũ khó trả của số nông hộ nghèo đói bị nợ sản phẩm của hợp tác xã, của ngân hàng và có giải pháp xoá một phần, hoặc xoá cả số nợ sản phẩm và khoanh nợ ngân hàng cho các chủ nông hộ đang trong hoàn cảnh nghèo đói.
- Đề nghị trong từng thời gian 4 - 5 năm đối với nông hộ đói và 2 - 3 năm đối với nông hộ nghèo, Nhà nước dùng chính sách phân phối lại để miễn thu thuế ruộng đất, thuỷ lợi phí, học phí, viện phí; xã miễn thu khoản về an ninh phúc lợi và các khoản đóng góp nghĩa vụ xã hội....cho những nông hộ đói nghèo.
3.3.4. Thực hiện chính sách chuyển giao công nghệ cho người nghèo.
Do đói nghèo mà người nghèo thất học, dân trí thấp, thiếu kiến thức để làm ăn. Vì vậy cần phải hướng dẫn họ cách làm ăn, phổ biến kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh thông qua đội công tác tình nguyện, các cán bộ khoa học kỹ thuật, y tế, các trí thức và sinh viên đi về nông thôn giúp đỡ người nghèo. Có chính sách để duy trì và mở rộng lực lượng này. Đây là sự bổ sung, trợ giúp nguồn lực vật chất - tinh thần tức là nguồn lực văn hoá cho phát triển nông thôn.
3.3.5. Thể chế hoá chính sách nhà ở đối với người nghèo.
Nhà ở của đa số cán hộ nghèo, gia đình chính sách đang được đặt ra một chính sách lớn về xã hội ở nước ta hiện nay, đặc biệt là các đô thị, vùng gặp thiên tai. Song vấn đề đặt ra, chuyển sang cơ chế thị trường thì nhà ở được coi là một hàng hoá, Nhà nước không thể dùng vốn ngân sách xây dựng nhà ở và phân phối cho người nghèo. Bởi vậy cần phải có một chính sách riêng về nhà ở cho người nghèo trên cơ sở thực hiện chiến lược ''tạo điều kiện về nhà ở cho nhân dân'' của Nhà nước. Mục tiêu của chính sách nhà ở cho ngườ nghèo là làm sao tạo mọi điều kiện để người nghèo có nhà ở. Nhưng chính sách đó chỉ được thực thi trên một cơ chế nhất định từ phía Nhà nước. Theo tôi chính sách nhà ở cho người nghèo phải xác định rõ một số cơ chế có thể thực thi trong điều kiện thực tế về đất ở, về hạ tầng nhà ở, quỹ nhà công, nguồn tài chính huy động.
Về đất ở: Nhà nước có thể miễn giảm tiền đất, các loại thuế đất cho người nghèo khi họ được giao đất làm nhà ở. Đối với khu vực đô thị, Nhà nước cần mở rộng xây dựng nhà cao tầng để bán hoặc cho người nghèo thuê. Họ có thể được mua hoặc thuê ở các tầng trên với giá thấp hơn bởi các căn hộ tầng cao không phải chịu hoặc chịu tít tiền đất tính theo hộ số tầng ở. Đối với các khu vực nhà ở ''ổ chuột'' hoặc ở tạm của người nghèo, khi giải toả Nhà nước phải có chính sách đền bù riêng để họ có đủ chỗ ở tối thiểu.
Về hạ tầng nhà ở: Nói chung các khu nhà mới của dân nghèo đô thị, Nhà nước phải hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng. Đối với các khu vực nhà tạm, nhà ''ổ chuột'' không phải di chuyển theo quy hoạch thì Nhà nước hỗ trợ kinh phí và bằng các nguồn đóng góp khác để xây dựng và cải tạo từng bước hạ tầng tối thiểu cho sinh hoạt của dân cư.
Về quỹ nhà công: kinh nghiệm ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, họ vẫn duy trì một quỹ nhà công riêng để giải quyết nhà ở cho người trong xã hội. ở nước ta diện tích quỹ nhà công vừa ít lại vừa sử dụng lãng phí nên cần nhanh chóng có một cuộc thống kê, phân loại, điều chỉnh và khai thác triệt để quỹ nhà ở hiện có. Từ đó có thể tạo ra một quỹ nhà dư ra do sử dụng bất hợp lý để chuyển cho người nghèo thuê. Hiện nay tất cả các thành phố lớn đang có nhiều người nghèo và thu nhập thấp chỉ trông chờ được thuê nhà công với giá như hiện nay là họ có thể cải thiện được đời sống. Bởi thực tế thuê nhà ở tư nhân phải trả tiền thuê có khi gấp cả chục lần so với thuê nhà của Nhà nước. Bên cạnh đó quỹ nhà nói trên, thì Nhà nước cần khuyến khích hơn nữa phong trào xây dựng nhà tình nghĩa cho các hộ gia đình chính sách và neo đơn trong cộng đồng.
Về nguồn tài chính: Nhà nước có nhiều biện pháp khác nhau để hỗ trợ nguồn tài chính cho các hộ nghèo tạo lập nhà ở, nhưng có 2 cách đang làm có nhiều kết quả cần phải tăng cường và mở rộng đó là:
Ngân hàng cho vay làm nhà với lãi suất thấp và thế chấp bằng chính ngôi nhà đó. Đối với những vùng nghèo và thiên tai, việc áp dụng lãi suất thấp để cho vay làm nhà sẽ được ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho ngân hàng.
Chính quyền sở tại với tư cách thay mặt Nhà nước tại địa phương, thông qua các hội và đoàn thể kêu gọi các cơ quan, cá nhân... tài trợ cho các hộ nghèo làm nhà, có thể bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
3.3.6. Thực hiện chính sách khuyến nông.
Mục đích chủ yếu của khuyến nông là đưa vào vùng nông thôn những hiểu biết, kỹ thuật mới để kích thích sự tiến bộ trong sản xuất và cải thiện đời sống của những nông dân, gia đình họ và cộng đồng của họ. Đây là một lĩnh vực cực kỳ quan trọng, bởi thiếu nó người nông dân sẽ bị lệ thuộc vào nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất và làm ăn. Bởi vậy về khuyến nông phải đảm bảo chuyển giao đến hộ nông dân kịp thời và chính xác thông tin về kỹ thuật, các nguồn thông tin đa dạng khác tạo điều kiện để nông dân được tiếp cận trực tiếp với thị trường. Chương trình khuyến nông phải tập trung vào: chuyển dịch cơ cấu cây trồng và mùa vụ, mở mang các giống mới, bảo vệ sản xuất muà màng... Để khuyến nông thực sự là một dịch vụ quyết định năng suất cây trồng, vật nuôi, ngành nghề nông nghiệp thì tổ chức này cần được tăng cường cả chiều rộng và chiều sâu. Nhà nước phải có những hỗ trợ về mặt tài chính để tổ chức này hoạt động có hiệu quả mặt khác nó được xem như một dịch vụ cho nông dân nhưng cần có quy định là dịch vụ miễn phí cho các đối tượng nông dân nghèo.
Kết luận
Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo là vấn đề thời sự nóng hổi song nhiều khó khăn hiện nay ở nước ta. Qua toàn bộ những luận đề được trình bày, đề tài đã giải quyết các yêu cầu đặt ra, thể hiện trên các nội dung sau.
1. Khái quát hoá những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường bao gồm: Khái niệm về kinh tế thị trường và ưu khuyết tật của nó, vai trò điều tiết của Nhà nước. Từ sự phân tích đi đến kết luận: đói nghèo là tất yếu khách quan ở nước ta hiện nay và có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói song suy cho cùng là do thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Phân tích các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo, đề tài chỉ rõ để sử dụng vốn cho người nghèo hiệu quả thì mọi nguồn vốn phải qua tác động của kênh tính dụng.
2. Phân tích đánh giá thực trạng đói nghèo và việc hỗ trợ vốn cho người nghèo thời gian vừa qua trên cả 2 phương thức cấp phát và cho vay từ các loại nguồn: ngân sách, tín dụng ngân hàng, nguồn của các tổ chức cộng đồng, và nguồn hợp tác quốc tế. Đề tài đã chỉ rõ hiệu quả, một số tồn tại và nguyên nhân dẫn đến của từng kênh tài trợ. Đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm hỗ trợ vốn cho người nghèo ở một số nước trong khu vực và sự vận dụng vào Việt Nam.
3. Trình bày và phân tích rõ hệ thống các quan điểm hỗ trợ vốn cho người nghèo. Các quan điểm này được đặt ra trên cơ sở các luận cứ khoa học cũng như điều kiện thực tiễn nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta.
Đề xuất các giải pháp tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo trong điều kiện hiện nay ở nước ta, bao gồm 2 giải pháp lớn: Khai thác và sử dụng tối đa các nguồn vốn hỗ trợ người nghèo thông qua các chương trình dự án quốc gia, hoàn thiện và phát triển ngân hàng phục vụ người nghèo lên một cấp độ mới.
Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo là một vấn đề bức thiết trên diễn đàn kinh tế. Chúng ta không thể hy vọng một sớm một chiều có thể giải quyết được. Bởi vậy để góp phần sớm giải được bài toán về vốn cho người nghèo, tôi hy vọng các giải pháp đề xuất sớm được nghiên cứu và áp dụng.
tài liệu tham khảo
1. Lịch sử các học thuyết kinh tế.
NXB Giáo dục - Hà Nội 1993, trang 178 - 191.
2. Về chương trình XĐGN ở nước ta từ nay đến năm 2000, quan điểm - chính sách - giải pháp, chuyên luận của Hoàng Chí Bảo, viện Chủ nghĩa xã hội khoa học năm 1998.
3. Việt Nam quá độ sang kinh tế thị trường - Báo cáo kinh tế của ngân hàng thế giới.
4. Nguyễn Thị Hằng - Bước tiến mới của sự nghiệp xoá đói giảm nghèo.
5. Phát biểu của Thủ tướng Phan Văn Khải tại hội nghị sơ kết năm 1999 và triển khai kế hoạch 2000 chương trình quốc gia XĐNG.
6. Báo cáo thường niên từ 1992 -2000 của kho bạc Nhà nước Việt Nam.
7. Báo cáo tổng kết 2 năm (1998-2000) thực hiện chương trình 135 - vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ.
8. Báo cáo thực hiện chương trình 135 - Sở lao động thương bình và xã hội tỉnh Cao Bằng.
9. Đánh giá thực hiện chương trình 327 - Bộ Tài chính
10. Những điển hình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn - Bộ kế hoạch đầu tư.
11. Báo cáo thường niên của Ngân hàng phục vụ người nghèo Việt Nam 1996 - 2000
12. Báo cáo thường nhiên của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 1996 - 2000.
13. Báo cáo tại hội nghị giải quyết vấn đề nghèo đói trên thế giới - Oasingtơn.
14. C.Marx: tư bản quyển 1, 2, 3,-NXB sự thất Hà Nội 1993
15. Kinh tế thị trường lý thuyết và thực tiễn. Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và quỹ hoà bình Savakawa xuất bản 1993 từ tập 1 đến tập 3.
16. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1996.
17. Đề tài KX-07-95 (Do PGS.TS. Đỗ Nguyên Phương chủ trì): Về phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo và xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay.
18. Tổng hợp tình hình thu chi ngân sách 1996 - 2000. Báo cáo vụ ngân sách - Bộ tài chính.
19. Đổi mới ngân sách Nhà nước
NXB thống kê Hà Nội 1996.
20. Hoàn thiện cơ chế tín dụng Nhà nước ở Việt Nam và việc áp dụng nó trong hệ thống kho bạc Nhà nước. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - Bộ tài chính và kho bạc Nhà nước TW thực hiện.
21. Việt Nam tấn công đói nghèo - Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000.
22. Michael Todaro Kinh tế học cho thế giới thứ 3.
NXB Giáo dục 1998.
23. Frederec S.Mishkin: Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - NXB Khoa học kỹ thuật Hà Nội.
24. Nghị quyết 10-nghị quyết trung ương của Bộ chính trị.
25. Báo cáo khảo sát mô hình Graeen Bank ở Bagladesh của đoàn chuyên gia ngân hàng Nhà nước Việt Nam .
26. Báo cáo hội thảo về chương trình tín dụng có kiểm soát do ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện.
27. Bộ lao động - Thương binh và xã hội: Xoá đói giảm nghèo 1992-2000 và phương hướng nhiệm vụ 2001-2010
28. Luật ngân sách Nhà nước.
NXB Chính trị quốc gia 1998
29. Luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng.
NXB Thống kê năm 2000
30. Nguyễn Thị Hằng - Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay.
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1997.
31. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về xoá đói giảm nghèo -
NXB Lao động 2000.
32. Báo cáo của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với chương trình xoá đói giảm nghèo.
33. Những kết quả và kinh nghiệm thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo của Hội nông dân Việt Nam.
34. Các tạp chí lao động xã hội, thời báo kinh tế, tạp chí tài chính, tạp chí ngân hàng.
Mục lục
&
Lời nói đầu
Biểu số 1: Kết quả cho vay từ nguồn vốn quỹ quốc gia giải quyết việc làm giai đoạn 1992-2000.
Chỉ tiêu
Đ.vị tính
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
- Từ nguồn vốn được ngân sách Nhà nước cấp.
Tỷ đồng
218
205
237
249
208
79
32
92
94
1414
- Tổng số tiền cho vay
Tỷ đồng
36
354
327
454
600
550
580
610
750
4261
- Dư nợ cuối năm
Tỷ đồng
362
494
650
880
860
1000
1080
1200
Trong đó: Nợ quá hạn
Tỷ đồng
22
43
90
120
150
140
165
Số lao động thu hút
Người
20.000
400.000
480.000
823.602
390.000
330.000
400.000
314.000
349.000
3.506.602
Bình quân suất vốn đầu tư cho việc làm mới
Tr đồng
1.300.000
Nguồn [6]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3791.doc