TÓM TẮT
Mở đầu: Dây Khai (Coptosapelta tomentosa (Blume) Vahl. ex Heyne var. dongnaiensis (Pit.) Phamh.) họ Rubiaceae là cây thuốc dây tộc của đồng bào
Re được sử dụng từ rất lâu với các tác dụng đáng chú ý như trị thấp khớp, rửa vết thương phần mềm tránh nhiễm trùng và sử dụng như thuốc bổ. Những nghiên cứu trước đây về tác dụng sinh học của Dây Khai cho thấy phân đoạn saponin ở rễ Khai có tác dụng kháng viêm mạnh.
Mục tiêu: Đề tài tiếp tục nghiên cứu về tác dụng kháng viêm của các phân đoạn từ thân Khai, phân tách chất tinh khiết từ phân đoạn có tác dụng kháng viêm mạnh để tiếp tục cho những thử nghiệm dược lí tiếp theo.
Phương pháp: Mô hình gây phù chân chuột với chất carrageenin được sử dụng khảo sát tác dụng kháng viêm của các phân đoạn từ dây Khai. Phân đoạn có hoạt tính kháng viêm mạnh nhất được tách thành các phân đoạn đơn giản bằng các phương pháp thường quy của phòng thí nghiệm như phân bố lỏng lỏng, sắc kí cột .Từ các phân đoạn đơn giản, các chất tinh khiết được phân
THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA DÂY KHAI (COPTOSAPELTA TOMENTOSA)
26 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1782 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thành phần hóa học của dây khai (coptosapelta tomentosa), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA DÂY KHAI
(COPTOSAPELTA TOMENTOSA)
TÓM TẮT
Mở đầu: Dây Khai (Coptosapelta tomentosa (Blume) Vahl. ex Heyne var.
dongnaiensis (Pit.) Phamh.) họ Rubiaceae là cây thuốc dây tộc của đồng bào
Re được sử dụng từ rất lâu với các tác dụng đáng chú ý như trị thấp khớp, rửa
vết thương phần mềm tránh nhiễm trùng và sử dụng như thuốc bổ. Những
nghiên cứu trước đây về tác dụng sinh học của Dây Khai cho thấy phân đoạn
saponin ở rễ Khai có tác dụng kháng viêm mạnh.
Mục tiêu: Đề tài tiếp tục nghiên cứu về tác dụng kháng viêm của các phân
đoạn từ thân Khai, phân tách chất tinh khiết từ phân đoạn có tác dụng kháng
viêm mạnh để tiếp tục cho những thử nghiệm dược lí tiếp theo.
Phương pháp: Mô hình gây phù chân chuột với chất carrageenin được sử
dụng khảo sát tác dụng kháng viêm của các phân đoạn từ dây Khai. Phân đoạn
có hoạt tính kháng viêm mạnh nhất được tách thành các phân đoạn đơn giản
bằng các phương pháp thường quy của phòng thí nghiệm như phân bố lỏng
lỏng, sắc kí cột ….Từ các phân đoạn đơn giản, các chất tinh khiết được phân
lập bằng sắc kí cột với pha tĩnh silica gel và Sephadex. Cấu trúc của chất phân
lập được xác định bằng phổ MS và NMR.
Kết quả: Cao cồn toàn phần của thân Khai thể hiện hoạt tính kháng viêm có ý
nghĩa thống kê ở liều 8g dược liệu/kg. Cao cồn được phân tách thành 5 phân
đoạn bằng phương pháp phân bố lỏng lỏng với các dung môi petroleum ether,
benzen, ethyl acetat, n-butanol. Các phân đoạn được thử hoạt tính kháng viêm
với liều qui theo liều 8g dược liệu/kg thể trọng chuột dựa trên hiệu suất chiết
cao. Cao EtOAc thể hiện hoạt tính kháng viêm mạnh nhất. Từ phân đoạn này,
các phương pháp sắc kí cột bằng silica gel và Sephadex LH 20 được sử dụng,
đã phân lập được 4 chất là 3-O-β-D- glucopyranosyl sitosterol; 3-O-[β-D-
glucopyranosyl-(1→3)-α-L-rhamnopyranosyl]-quinovic; 3-O-[β-D-
glucopyranosyl-(1→4)-α-L-rhamnopyranosyl]- quinovic acid, 3-O-[β-D-
glucopyranosyl-(1→3)-α-L-rhamnopyranosyl-] quinovic acid 28- β-D-
glucopyranosyl ester.
Kết luận: Đề tài nghiên cứu thành phần hóa học của dây Khai theo định hướng
tác dụng kháng viêm đã phân lập được 4 hợp chất glycosid từ phân đoạn có tác
dụng kháng viêm mạnh nhất. Đây là lần đầu tiên các hợp chất này được phân
lập từ dây Khai. Đề tài tạo cơ sở và tiền đề cho việc nghiên cứu ứng dụng dây
Khai thành dạng chế phẩm kháng viêm hiệu quả, an toàn trong tương lai.
Từ khóa: Coptosapelta tomentosa, Rubiaceae, saponin triterpen, acid
quinovic, kháng viêm
ABSTRACT
STUDY CHEMICAL CONSTITUENTS IN ANTI INFLAMMATORY
EXTRACTS OF COPTOSAPELTA TOMENTOSA
Tran Thi Van Anh, Tran Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 -
Supplement of No 1 - 2010: 116–122
-Trần Thị Vân Anh (BCV), ThS., Bộ môn Dược liệu,Khoa Dược ĐH
YDược TpHCM,
Đt: 0918852989
-Trần Hùng, PGS.TS, Bộ môn Dược liệu, KhoaDược, ĐH Y Dược
TpHCM
Background: “Day Khai” Coptosapelta tomentosa (Blume) Vahl. ex Heyne
var. dongnaiensis (Pit.) Phamh. Rubiaceae, an ethnomedicine of Re minority in
central Vietnam, has long been used for treatment of rheumatism, for washing
wounds to avoid infection or as a tonic. The previous results of bioactivity
investigation revealed that saponin extract of the root possessed a strong anti-
inflammatory activity.
Objective: The aim of this study was investigation of the inflammatory activity
of fractions from “Day Khai” and isolation of the principal components from
the active fractions for further pharmacological studies.
Methods: Carrageenin-induced paw oedema model was used for estimation of
inflammatory activity of fractions. From the most active fraction, chemical
constituents were chemically investigated to find out the main class of
compounds for isolation work. Extraction, fractionation and isolation were
carried out as common phytochemical methods. Structures of isolated
compounds were deduced by means of MS and NMR spectroscopy.
Results: The crude ethanol extract of the stems of Coptosapelta tomentosa
presented anti-inflammatory activity at dose 1 g/kg. Among five fractions,
which were partioned from ethanol extract by solvent-solvent distribution,
EtOAc fraction possessed higher levels of activity. From this fraction, four
compounds were isolated by column chromatography on silica gel and
Sephadex LH 20. Their structures were identified as 3-O-β-D- glucopyranosyl
sitosterol; 3-O-[β-D-glucopyranosyl-(1→3)-α-L-rhamnopyranosyl]-quinovic;
3-O-[β-D-glucopyranosyl-(1→4)-α-L-rhamnopyranosyl]-quinovic acid, 3-O-
[β-D-glucopyranosyl-(1→3)-α-L-rhamnopyranosyl-] quinovic acid 28- β-D-
glucopyranosyl ester.
Conclusion: Bioassay-directed fractionation using the carrageenin induced
edema in the rat paw, follow by chromatographic isolation has led to the
isolation of four glycosides from the most active fraction of the Coptosapelta
tomentosa stems. This is the first time these compounds are reported as the
constituents of Coptosapelta tomentosa. This study is also the premise for
developing new anti inflammatory product in the future.
Keywords: Coptosapelta tomentosa, Rubiaceae, saponin, quinovic acid,
isolation, anti-inflammatory
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các thuốc có nguồn gốc từ dược thảo ngày càng được ưa chuộng và sử dụng
phổ biến trên thế giới. Theo xu hướng đó, nhiều cây thuốc dân gian đang được
chú ý nghiên cứu để có cơ sở khoa học cho việc sử dụng phổ biến và lâu dài.
“Dây Khai” (Coptosapelta tomentosa (Blume) Vahl. ex Heyne var.
dongnaiensis (Pit.) Phamh.) là một cây thuốc của đồng bào dân tộc Re ở miền
Nam Trung bộ. Theo kinh nghiệm dân gian, rễ Khai dùng để rửa các vết
thương phần mềm tránh nhiễm trùng, mau lên da non, đặc biệt tác dụng rất tốt
khi sử dụng trị thấp khớp hay đau nhức (4,5). Các nghiên cứu về hóa học cũng
như tác dụng sinh học dây Khai cũng đã được tiến hành và xác định thành
phần hóa học có tác dụng kháng viêm là saponin(2). Với mục đích nghiên
cứu sâu hơn về thành phần hóa học cũng như tác dụng dược lí của dược liệu
này tạo cơ sở cho việc phát triển cây thuốc dân tộc trong tương lai, đề tài
tiến hành khảo sát thành phần hóa học của thân Khai theo định hướng tác
dụng kháng viêm.
NGUYÊN LIỆU-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nguyên liệu
Nguyên liệu gồm thân và rễ Khai thu hái bởi người dân địa phương tại núi
Yang lố, huyện Khánh vĩnh, Khánh hòa (10/2007). Mẫu được định danh và lưu
tại bộ môn Dược liệu, Khoa Dược, ĐH Y Dược TPHCM.
Phương pháp
Thử hoạt tính kháng viêm: Theo mô hình gây phù chân chuột bằng
carrageenin (Bộ môn Dược lí, ĐH Y Dược TPHCM).
Chuột được gây phù bàn chân trái bằng carrageenin 1%. Trước và sau 3 giờ
gây phù, chân chuột được đo độ phù bằng máy Plethysmosmeter, chuột có độ
phù >50% được chọn chia lô thí nghiệm.
Các đợt thử nghiệm luôn có lô trắng (uống nước cất), lô chứng (uống
diclofenac liều 10 mg/kg), các lô thử (uống cao chiết). Theo dõi và so sánh độ
sưng phù chân chuột của các lô thử nghiệm và lô chứng trong 6 ngày.
Phương pháp chiết xuất và phân lập chất: Dược liệu chiết xuất bằng phương
pháp ngấm kiệt với cồn 96%. Phân tách các phân đoạn chiết bằng phân bố lỏng
lỏng.
Phân tách các chất bằng kĩ thuật sắc kí cột chân không, sắc kí cột cổ điển, sắc
kí rây phân tử và phương pháp kết tinh lại.
Xác định cấu trúc: Cấu trúc hóa học các hợp chất phân lập được xác định bằng
phổ MS thực hiện trên máy Quattro Micro API và các kỹ thuật phổ NMR với
máy Bruker Avance 500 sử dụng TMS (tetramethylsilan) làm chất chuẩn nội.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
So sánh tác dụng kháng viêm của hai bộ phận dùng thân và rễ Khai
Thân và rễ Khai được chiết sơ bộ với cồn 96% thu các cao chiết toàn phần.
Cao toàn phần thân và rễ được tiến hành thử nghiệm hoạt tính kháng viêm
với hai liều là 500 mg/kg và 1g/kg. Kết quả cho thấy cao cồn 96% của thân
Khai thể hiện hoạt tính kháng viêm có ý nghĩa thống kê ở liều 1g/kg (tương
ứng với 8g dược liệu/kg), tác dụng thể hiện cao hơn khi so sánh với cao cồn
của rễ ở liều tương tự. Vì vậy thân Khai được tiếp tục chiết tách, phân lập
thành phần có tác dụng kháng viêm.
Tác dụng kháng viêm của các phân đoạn thân Khai.
10 kg thân Khai được ngấm kiệt với cồn 96%. Dịch chiết được cô dung môi,
thu cao cồn toàn phần. Cao toàn phần được thêm nước và phân bố lỏng lỏng
với các dung môi có độ phân cực tăng dần thu được các phân đoạn cao petrol
ether (PE), benzen (Bz), ethyl acetat (EtOAc), n-butanol (BuOH) và cao nước
Các phân đoạn cao được tiến hành thử hoạt tính kháng viêm với liều quy đổi
theo liều cao toàn phần có hoạt tính đã thử nghiệm là 8g dược liệu/ kg thể trọng
chuột.
Kết quả thử nghiệm cho thấy cao EtOAc có hoạt tính kháng viêm mạnh nhất
trong các phân đoạn, tiếp đến là cao Bz.
V3h:Độ phù chân chuột sau 3 giờ gây viêm
V
3
h
:
Đ
ộ
p
h
ù
c
h
â
n
c
h
u
ộ
t
s
a
u
3
g
i
ờ
g
â
y
v
i
ê
m
Hình 1: Sự thay đổi độ phù chân chuột theo thời gian giữa lô chứng, diclofenac
và lô các cao chiết ở liều tương ứng với 8 g dược liệu/ kg thể trọng chuột
Phân tách chất từ phân đoạn cao EtOAc
Dựa trên kết quả thử nghiệm hoạt tính kháng viêm, cao EtOAc được tiếp tục
nghiên cứu để phân lập các chất.
Thử nghiệm định tính cho thấy thành phần chính của cao EtOAc là saponin
Phân đoạn cao EtOAc được tinh chế dựa theo độ tan của cao trong các pH
khác nhau. Cao EtOAc được hòa trong NaOH 2%, và chiết phân bố với
ethyl acetat thu được cao E1. Dịch kiềm còn lại được acid hóa tới pH=3 thu
tủa E2. Dịch acid được lắc tiếp với n-butanol thu cao E3.
Cao E1, được xử lí các tạp màu bằng than hoạt và kết tinh lại nhiều lần trong
hỗn hợp ethylacetat và metanol (1:1) thu được chất Y tinh khiết.
Cao E2 là phân đoạn chính có các thành phần chủ yếu của cao EtOAc được
phân tách bằng kĩ thuật sắc kí cột chân không cho 17 phân đoạn. Phân đoạn
11, 12, 17 được loại tạp và phân tách tiếp bằng kĩ thuật sắc kí rây phân tử và
sắc kí cột cổ điển thu được lần lượt các chất tinh khiết là G, H và M.
Hình 2: Sơ đồ phân tách các chất từ cao EtOAc
Xác định cấu trúc các chất phân lập được
Chất Y: Chất Y là bột vô định hình màu trắng, ít tan trong ethyl acetat,
methanol và nước.
Khối phổ ESI-MS của Y cho đỉnh [M+Na]+ 599,5. Tương ứng với phân tử khối
của Y là 576,5. Phổ cộng hưởng từ 13C NMR cho thấy Y có 35 carbon ứng với
công thức công thức phân tử là C35H60O6 với độ bất bão hòa (Ω) là 6.
Phân tích dữ liệu phổ cho thấy Y là 1 steroid glycosid có 27C. So sánh với dữ
liệu phổ của các chất đã được công bố cho thấy dữ liệu phổ của Y hoàn toàn
trùng khớp khi được so sánh dữ liệu phổ của chất 3-O-β-D- glucopyranosyl
sitosterol(3). Như vậy, Y được xác định là 3-O-β-D- glucopyranosyl sitosterol.
Báng 1: Dữ liệu phổ của chất Y (C5D5N) so sánh với 3-O-β-D-glucopyranosyl
sitosterol(3)
Carbon δC (ppm) δC TK Carbon δC (ppm) δC TK
1 37,25 t 37,5 19 18,74 q 19,4
2 29,75 t 30,2 20 35,91 d 36,4
3 78,83 d 78,5 21 19,05 q 19,1
4 38,93 t 40.0 22 34,07 t 34,5
5 140,97 s 140,9 23 26,57 t 26,5
6 121,53 d 121,8 24 45,99 d 46,1
7 31,85 t 32,1 25 29,53 d 29,5
8 31,91 d 32,1 26 19,54 q 19,2
9 50,28 d 50,3 27 19,05 q 20,0
10 36,6 s 36,9 28 24,14 t 23,4
11 21,01 t 21,3 29 11,82 q 12,2
12 39,81 t 39,3 1’ 101,85 d 102,5
13 42,30 s 42,5 2’ 74,37 d 75,2
14 56,73 d 56,9 3’ 77,41 d 78,3
15 24,14 t 24,5 4’ 71,06 d 71,7
16 28,05 t 28,6 5’ 77,13 d 78,2
17 56,4 d 56,3 6’ 62,11 t 62,8
18 11,66 q 12,0
Hình 3: Công thức chất 3-O-β-D-glucopyranosyl sitosterol
Chất H: H là tinh thể hình kim không màu, tan tốt trong các dung môi phân
cực như metanol, aceton, ethanol, kém tan trong dung môi kém phân cực.
Phổ cộng hưởng từ 13C-NMR cho thấy có 42 tín hiệu của carbon. Phổ khối
ESI-MS cho đỉnh [M+Na]+ 817,5 tương ứng với phân tử khối của H là 794,5.
Kết hợp hai dữ liệu phổ cho thấy H có công thức nguyên là C42H66O14, với độ
bất bão hòa của phân tử (Ω) là 10.
Phổ cộng hưởng từ 13C-NMR và DEPT của H cho thấy chất này có đặc điểm
cấu trúc như sau:
42 carbon trong đó có 8 carbon bậc IV, 17 carbon bậc II, 10 carbon bậc II và 7
carbon bậc I,
2 carbon của 2 nhóm carbonyl,
Một nối đôi kiểu >C=CH- (δc 133.82 ppm, s; 128.70 ppm, d),
7 nhóm methyl trong đó có 3 nhóm methyl gắn trên carbon bậc III và 4 nhóm
còn lại là các methyl góc,
12 carbon carbinol, trong đó có 2 carbon anomer (δc 103,01 ppm, δH 5,02 ppm,
δc 105,26 ppm, δH 5,15 ppm). Trong 10 carbon mang oxy còn lại, chỉ có 1
carbon là bậc II, tất cả các carbon còn lại là bậc III,
Với các đặc điểm trên, chất H có cấu trúc của 1 glycoside với 2 đường hexose
và 1 aglycon triterpen với 30 carbon.
Các dữ liệu phổ NMR cho thấy H là 1 triterpen glycosid có cấu trúc khung cơ
bản là ursendioic. Từ kết quả phân tích các dữ liệu phổ COSY, HMBC, v;
75ppm, s) và C-28 (δC 180,26 ppm, s) được xác định bởi tương tác quan sát
được giữa 2 carbon carboxyl này với các proton H-15, H-16 và proton H-18.
Nhóm thế còn lại trên khung là nhóm OH ở vị trí C-3. Cấu trúc phần genin của
H được xác định là acid 3-hydroxy-urs-12-en-27,28-dioic ( acid quinovic).
Mạch đường được xác định là đường β-D-glucopyranose nối với α-L-
rhamnopyranose qua liên kết 1→3 và đường rhamnose trực tiếp nối với genin
qua liên kết với nhóm OH ở vị trí C3.
Công thức của H xác định là 3-O-[β-D-glucopyranosyl-(1→3)-α-L-
rhamnopyranosylyl]-- quinovic acid.
Chất G: G là tinh thể hình kim không màu tan tốt trong dung môi phân cực như
methanol, aceton, ethanol, kém tan trong dung môi kém phân cực.
Khối phổ ESI- MS cho đỉnh [M +Na+] 817,5. Phân tử khối của G là 794,5. Dữ
liệu phổ của G hoàn toàn giống chất H với cấu trúc dự kiến là một
monodesmosid của acid ursendioic với phần đường là 1 biosid gồm một hexose
và một 6-desoxyhexose.
Dựa trên các dữ liệu phổ thực nghiệm, đã xác định được phần genin của G là
acid quinovic và mạch đường gồm đường β-D-glucopyranose nối với α-L-
rhamnopyranosyle theo liên kết 1→4.
Công thức của G xác định
là 3-O-[β-D-glucopyranosyl-(1→4)-α-L-rhamnopyranosyl-] quinovic acid
Chất H: R=
Chất G: R=
Hình 4: Công thức của chất G và H
Bảng 2: Dữ liệu phổ 13 C –NMR của chất H và G so sánh với quinovic
glycoside
Carbon
Chất H
(C5H5N)
Chất G
(DMSO)
TK Carbon
Chất H
(C5H5N)
Chất G
(DMSO)
TK
1 38,34 t 38,26 t 38,8 22 36,45 t 36,16 t 36,8
2 25,34 t 24,94 t 25,7 23 27,60 q 28,02 q 27,9
3 87,81 d 87,58 d 88,1 24 16,38 q 16,43 q 16,3
4 38,52 s 39,01 s 38,7 25 15,98 q 15,99 q 16,6
5 54,96 d 54,82 d 55,3 26 18,37 q 18,09 q 18,7
6 18,10 t 17,84 t 18,1 27 177,75 s 176,05 s 177,8
7 36,87 t 35,82 t 37,2 28 180,26 s 178,25 s 180,1
8 39,51 s 39,90 s 39,8 29 17,72 q 17,47 q 18,1
9 46,64 d 46,08 d 47,0 30 20,83 q 21,07 q 21,1
10 36,55 s 36,22 s 36,9 1’ 103,01 d 102,4 d 103,4
11 22,81 t 22,36 t 23,2 2’ 70,97 d 70,71 d 71,4
12 128,70 d 127,88 d 128,7 3’ 82,00 d 70,29 d 71,7
13 133,82 s 132,57 s 133,9 4’ 71,89 d 82,21 d 84,7
14 56,22 s 55,26 s 56,6 5’ 69,11 d 66,84 d 67,9
15 24,93 t 23,96 t 26,2 6’ 17,83 q 17,58 q 18,1
16 25,71 t 24,85 t 25,3 1‘’ 105,26 d 104,40 d 106,3
17 48,32 s 47,24 s 48,5 2’’ 74,75 d 74,51 d 76,2
18 54,36 d 53,62 d 54,8 3’’ 77,19 d 76,59 d 78,3
19 37,16 d 36,48 d 37,5 4’’ 70,53 d 70,04 d 72,4
20 38,82 d 38,26 d 39,2 5’’ 77,32 d 76,95 d 78,1
21 29,98 t 29,76 t 30,4 6’’ 61,49 t 61,15 t 62,5
Giá trị tham khảo TK là của chất 3-O-[β-D-glucopyranosyl-(1→4)-α-L-
rhamnopyranosyl-] quinovic acid đo trong C5D5N(1)
Chất M: Chất M ở dạng bột vi tinh thể, tan tốt trong dung môi phân cực như
methanol, aceton, ethanol, kém tan trong dung môi kém phân cực.
Khối phổ ESI-MS cho đỉnh [M+Na] + 979,8. Tương ứng với phân tử khối là
956,8. Phổ cộng hưởng từ 13 C NMR và DEPT cho thấy Mcó 43 8đỉnh.
Công thức phân tử của M như vậy sẽ là C48H76O19 với độ bất bão hòa (Ω) là
11.
M8221,,132,48129,19,83 104,76 ppm5,07 ppm102,76 ppm4,99 ppm và
94,88 ppm 6,03 52Với các đặc điểm cấu trúc như trên, có thể nhận thấy M
có nhiều điểm tương đồng với H nhưng có nhiều hơn H một đơn vị đường
hexose. 2 chất này có thể cùng chung phần genin và sự khác biệt chỉ ở phần
đường
Khảo sát cẩn thận dữ liệu phổ cộng hưởng từ hạt nhân (HSQC, COSY,
HMBC) của M cho kết quả là các tín hiệu của 42 carbon gồm phần genin và
2 đường rhamnose và glucose gần như trùng với các tín hiệu tương ứng của
chất H. Proton anomer của đường thứ 3 ( 6,03 cho thấy tương tác rất rõ với
carbon carboxyl (C 176,9 . So sánh với chất H, carbon này cũng có một sự
chuyển dịch 3,3 ppm về phía trường cao do sự ester hóa. Nhóm carboxyl này
được xác định là C-28 bởi tương tác với proton H-28 quan sát được trong
HMBC cũng như so sánh chuyển dịch hóa học của 2 nhóm carboxyl của M
với H.
Cấu trúc của đơn vị đường thứ 3 được xác định là O-β-D-glucopyranosid bởi
các dữ liệu phổ cộng hưởng từ hạt nhân và so sánh với các tài liệu công bố.
Như vậy cấu trúc của M được xác định là 3-O-[β-D-glucopyranosyl-(1→3)-
α-L-rhamnopyranosyl-] quinovic acid 28- β-D-glucopyranosyl ester.
Bảng 3: Dữ liệu phổ 13 C –NMR của chất M với chất H
Carbo
n
Chất M
(C5H5N
)
Chất H
(C5H5N
)
Carbo
n
Chất M
(C5H5N
)
Chất H
(C5H5N
)
Carbo
n
Chất M
(C5H5N
)
Chất H
(C5H5N
)
1 38,23 t 38,34 t 17 48,56 s 48,32 s 3’ 81,68 d 82,00 d
2 25,23 t 25,34 t 18 53,98 d 54,36 d 4’ 71,69 d 71,89 d
3 87,83 d 87,81 d 19 36,87 d 37,16 d 5’ 68,98 d 69,11 d
4 38,42 s 38,52 s 20 38,42 d 38,82 d 6’ 17,49 q 17,83 q
5 54,88 d 54,96 d 21 29,60 t 29,98 t 1’’
104,97
d
105,26
d
6 17,99 t 18,10 t 22 36,74 t 36,45 t 2’’ 74,47 d 74,75 d
7 35,77 t 36,87 t 23 27,51 q 27,60 q 3’’ 77,33 d 77,19 d
8 39,58 s 39,51 s 24 16,28 q 16,38 q 4’’ 70,28 d 70,53 d
9 46,50 d 46,64 d 25 15,95 q 15,98 q 5’’ 77,01 d 77,32 d
10 36,36 s 36,55 s 26 18,47 q 18,37 q 6’’ 61,47 t 61,49 t
11 22,75 t 22,81 t 27 177,89 s 177,75 s 1’’’ 94,88 d
12
129,19
d
128,70
d
28 176,90 s 180,26 s 2’’’ 72,97 d
13 132,48 s 133,82 s 29 17,48 q 17,72 q 3’’’ 78,11 d
14 56,16 s 56,22 s 30 20,60 q 20,83 q 4’’’ 70,27 d
15 24,89 t 24,93 t 1’
102,76
d
103,01
d
5’’’ 76,87 d
16 25,42 t 25,71 t 2’ 70,82 d 70,97 d 6’’’ 60,25 t
Hình 5: Công thức chất M
KẾT LUẬN VÀ BÀN LUẬN
Đề tài đã khảo sát và so sánh hoạt tính kháng viêm của cao cồn 96% của
thân và rễ Khai. Kết quả cho thấy thân Khai thể hiện hoạt tính kháng viêm
có ý nghĩa thống kê ở liều 1g cao/kg thể trọng chuột, hoạt tính kháng viêm
của thân cao hơn rễ khi thử nghiệm với liều giống nhau. Kết quả này mở ra
hướng sử dụng thân Khai làm thuốc thay vì chỉ sử dụng rễ theo kinh nghiệm
dân gian. Điều này cũng góp phần phát triển bền vững nguồn dược liệu vì
khai thác rễ sẽ làm chết cây trong khi khai thác thân sẽ có sinh khối lớn hơn
và cây có thể tái sinh, không ảnh hưởng nhiều tới nguồn tài nguyên cây thuốc.
Từ cao cồn toàn phần chiết từ thân Khai phân tách các phân đoạn theo các
dung môi có độ phân cực tăng dần và thử nghiệm tác dụng kháng viêm của
các phân đoạn cao theo liều tính theo 8 g dược liệu/kg thể trọng chuột. Kết
quả cho thấy cao EtOAc có hoạt tính mạnh nhất.
Từ cao EtOAc phân tách 4 glycosid: 3-O-β-D- glucopyranosyl sitosterol; 3-
O-[β-D-glucopyranosyl-(1→4)-α-L-rhamnopyranosyl-] quinovic acid; -O-
[β-D-glucopyranosyl-(1→3)-α-L-rhamnopyranosyl-] quinovic acid; -O-[β-
D-glucopyranosyl-(1→3)-α-L-rhamnopyranosyl-] quinovic acid 28-O-β-D-
glucopyranosyl ester. Đây là lần đầu tiên các chất này được báo cáo có trong
thành phần của dây Khai.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 170_6069.pdf