Đề tài Thanh toán quốc tế trong ngoại thương

GS-TS Trần Ngọc Thơ, Phó trưởng Khoa Tài chính, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, cho rằng: Thị trường đang rất khắc nghiệt, DN phải tự định liệu cho mình về mọi mặt, có chiến lược lâu dài để đối phó với những tình huống mang tính gây “sốc”. DN phải tìm lối thoát cho riêng mình như: 1. Tìm những ngân hàng có thế mạnh về lĩnh vực mình đang hoạt động. Thời điểm này có thể vay vốn bằng ngoại tệ (cụ thể là USD) vì đây là ngoại tệ đang dư thừa, lãi suất thấp, dễ vay. Tuy nhiên, độ rủi ro khi vay USD cũng rất cao, có thể giá USD đảo chiều bất cứ lúc nào. Để phòng ngừa rủi ro này, doanh nghiệp nên mua bảo hiểm khi USD lên giá. 2. Từng DN phải tiến hành tái cấu trúc, rà soát tất cả chi phí trong sản xuất kinh doanh để có thể giảm tối thiểu chi phí, tăng hiệu quả đầu vào trong cung ứng, sản xuất và lưu thông; chọn lọc, xác định những sản phẩm tối ưu là sở trường, lợi thế cạnh tranh và phân khúc thị trường thích hợp. DN cũng phải tổ chức lại sản xuất, tinh giản lao động nhằm tăng năng suất, giảm giá thành, đồng thời đẩy mạnh tiếp thị.

doc18 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1978 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thanh toán quốc tế trong ngoại thương I. Một số vấn đề chung về thanh toán quốc tế trong ngoại thương ở nước ta: 1. Khái niệm: Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả cà quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác hay giữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế , có thể thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước có liên quan. 2. Các nhân tố chủ quan tác động tới thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam: 2.1. Tổ chức mạng lưới thanh toán quốc tế: Trong thanh toán quốc tế luôn có vai trò của các ngân hàng tham gia cung ứng dịch vụ, trong thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ, thực tế có nhiều ngân hàng tham gia vào quá trình luân chuyển chứng từ có giao dịch. Với đặc thù là hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, các ngân hàng thương mại ngày nay được tổ chức thành mạng lưới các chi nhánh, văn phòng giao dịch, văn phòng đại diện rộng khắp không chỉ trong nước mà còn ra thế giới. Theo cam kết WTO về mở cửa dịch vụ ngân hàng, từ 1-4-2007, ngân hàng nước ngoài sẽ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, được đối xử bình đẳng so với ngân hàng trong nước, được kinh doanh tiền đồng và phát hành thẻ tín dụng. Điều này sẽ gây ra ảnh hưởng không nhỏ tới hệ thống ngân hàng trong nước. Một mặt sẽ giúp các ngân hàng trong nước đa dạng các loại hình dịch vụ và nâng cao năng lực cạnh tranh hơn. Khi các Ngân hàng nước ngoài vào thì sẽ kích thích hoặc sẽ tạo sức ép lên các ngân hàng trong nước đổi mới, đa dạng và phục vụ tốt hơn các loại dịch vụ ngân hàng. Nhưng mặt khác, các ngân hàng trong nước lại phải đối mặt với việc bị mất đi một phần hoạt động kinh doanh vốn trước kia là độc quyền của mình. Theo như một điều tra của Chương trình phát triển Liên hợp quốc tiến hành hồi cuối năm 2005 cho thấy trong số khách hàng được hỏi, 45% trả lời sẽ chuyển sang vay vốn ngân hàng nước ngoài, 50% sẽ lựa chọn dịch vụ ngân hàng nước ngoài thay thế, 50 % lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền (đặc biệt là gửi ngoại tệ). Nếu căn cứ vào điều tra này thì hệ thống ngân hàng trong nước sẽ mất đi một nửa hoạt động kinh doanh của mình. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng nước ngoài thì các ngân hàng Việt Nam sẽ huy động vốn được ít hơn. Nếu vậy, có thể ngân hàng Việt Nam sẽ phải vay vốn trên thị trường tiền tệ với chi phí đắt hơn để đáp ứng nhu cầu cho vay. Tuy nhiên có thể nói điều đó là khó tránh khỏi nhưng dù gì thì lợi nhiều hơn là hại. Theo Tiến sỹ Lê Quốc Lý - Vụ trưởng Vụ Tài chính - tiền tệ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nhận xét về chất lượng của các ngân hàng trong nước: “Hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ truyền thống. Các dịch vụ hiện có là huy động vốn, cho vay tín dụng, dịch vụ thanh toán, và các dịch vụ khác như dịch vụ ngoại hối (mua bán ngoại tệ, dịch vụ kiều hối, thu đổi ngoại tệ), các dịch vụ ngân hàng điện tử. Khả năng huy động vốn còn nhiều hạn chế do sản phẩm huy động vốn chưa thực sự hấp dẫn. Điều này làm hạn chế khả năng khai thác lợi ích của dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. Thời gian qua, tổng nguồn tiền gửi của hệ thống tăng là do sự phát triển của các ngân hàng cổ phần. Tuy nhiên, tình hình này có thể thay đổi khi Việt Nam phải thực hiện các cam kết song phương với Mỹ từ tháng 4 năm 2007. Tăng trưởng tín dụng của hệ thống có xu hướng giảm dần do quy mô thị trường tín dụng đã được mở rộng do các doanh nghiệp đẩy mạnh huy động vốn từ thị trường trong và ngoài nước thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu; do quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã làm giảm tỷ trọng vốn cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh đối với khối các doanh nghiệp này. Đồng thời, tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm lại cũng nhằm kiềm chế lạm phát trong những năm gần đây. Trong dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, mặc dù khả năng thanh toán đã được mở rộng so với trước đây nhưng vẫn có nhiều hạn chế. Các quy định về séc du lịch, hối phiếu ngân hàng hoặc tiêu chuẩn an toàn trong thanh toán điện tử chưa được quy định rõ, dẫn đến tâm lý e ngại của các ngân hàng khi mở rộng dịch vụ này. Các sản phẩm trên thị trường tiền tệ hiện cũng có những hạn chế nhất định như chưa có quy định về chứng chỉ tiền gửi được giao dịch trên thị trường thứ cấp dẫn đến hạn chế về khối lượng giao dịch. Đối với các sản phẩm ngoại hối và nghiệp vụ phát sinh, mặc dù một số ngân hàng đã thử nghiệm nhưng trên thực tế việc cung cấp rộng rãi dịch vụ này còn nhiều hạn chế do chưa có quy định pháp lý cụ thể về tỉ giá và lãi suất đối với công cụ phát sinh. Các công cụ chuyển nhượng cũng có tình hình tương tự. Mặc dù gần đây, Chính phủ đã nỗ lực rất lớn trong việc ban hành pháp lệnh về công cụ chuyển nhượng trong đó đưa ra một số hình thức hối phiếu và séc nhưng một trong những công cụ rất quan trọng là công cụ nợ dài hạn để huy động vốn lại chưa có khuôn khổ pháp lý để thực hiện.” Cũng theo bài báo “Vạ lây” trong thanh toán quốc tế chúng ta cũng thấy được một lỗ hổng trong hệ thống ngân hàng trong nước khi thâm nhập vào các thị trường mới: Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cả nước năm 2007 ước 109,21 tỷ USD và dự kiến năm 2008 là 133 tỷ USD.Giao thương những năm tới sẽ không dừng ở những thị trường truyền thống mà sẽ được mở rộng sang các nước châu Phi, Mỹ Latin hay Trung Đông. Một vấn đề đặt ra là nếu không khơi thông hệ thống thanh toán tại các thị trường mới thì cả doanh nghiệp và ngân hàng rất dễ bị “vạ lây”… Lâu nay, khi mở đơn hàng tại các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Nga... doanh nghiệp và ngân hàng đều yên tâm vì đã có một quá trình giao dịch trước đó. Những thị trường này, do môi trường pháp lý minh bạch, cầu hàng hóa cao, hệ thống thanh toán tốt nên nhiều nước đẩy mạnh xuất khẩu vào đây, dẫn đến cạnh tranh hàng hóa gay gắt. Thực tế này buộc các nhà xuất khẩu Việt Nam phải chuyển hướng sang thị trường các nước châu Phi, Mỹ Latin và Trung Đông. Tuy vậy, những thị trường mới này cũng không hoàn toàn dễ đối với doanh nghiệp xuất khẩu và ngân hàng thanh toán bởi những rủi ro muôn hình vạn trạng. Bà Phan Thị Hồng Hải, Trưởng phòng thanh toán xuất nhập khẩu Vietinbank cho biết: “Có khi tàu về đến cảng, khách hàng đòi mở L/C lấy tiền nhưng không có hàng, kiểm tra mới biết khi quá cảnh tại các cảng trung chuyển, chủ tàu đã bỏ quên hàng ở cảng Đài Loan”. Bà Hải cho biết thêm một trường hợp khác khi Vietinbank mở L/C cho một chuyến tàu nhập nguyên liệu từ nước ngoài nhưng khi đi qua Singapore đã bị giữ lại do chủ tàu vướng phải rắc rối pháp lý với chính quyền sở tại, bất chấp con tàu đó đang chở hàng cho doanh nghiệp Việt Nam. Hiện tại, để xử lý các phát sinh tranh chấp trong thanh toán quốc tế, có rất nhiều cách nhưng không phải lúc nào cũng mang lại kết quả như mong đợi. Thông thường, cách xử lý êm thấm nhất là tự dàn xếp với nhau nhưng cách này rất ít khi có kết quả. Cách thứ hai là khởi kiện ra tòa án nước ngoài hoặc tòa án quốc tế nhưng ngay cả khi có phán quyết của tòa thì cũng không đồng nghĩa với việc bán án được thực thi triệt để. “Nếu bị đơn là công dân nước ngoài, không có tài sản tại Việt Nam thì lấy tài sản đâu để bảo đảm thực hiện phán quyết của tòa?”, bà Thúy nói. Lúc đó, lại phải giải quyết xung đột đó thông qua mối quan hệ với tư pháp quốc tế. Chẳng hạn như phán quyết của tổ chức trọng tài quốc tế trên cơ sở công ước NewYork 1958, (năm 1995, Việt Nam đã tham gia công ước này). Từ đó, nhờ các tổ chức trọng tài quốc tế ra phán quyết và chuyển qua bộ tư pháp của quốc gia có bị đơn nhờ can thiệp. Tuy nhiên, nếu bị đơn lại ở những quốc gia chưa tham gia vào công ước này thì chuyện kiện tụng rơi vào bế tắc.Vậy, bài học rút ra ở đây là gì? Theo bà Hải, cách tốt nhất trước khi đặt bút ký hợp đồng làm ăn, doanh nghiệp và ngân hàng thanh toán phải thực sự hiểu khách hàng, hiểu bản chất hệ thống giao dịch của nhau để phòng ngừa rủi ro. Trường hợp phải mang nhau ra tòa thì không khác gì “được vạ, má sưng”. Từ thực tế trên, một vấn đề được đặt ra ở đây là muốn mở rộng được thị trường xuất khẩu mới, phải khơi thông được hệ thống thanh toán tin cậy mà ngân hàng là một trong những kênh thanh toán an toàn và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, để làm được điều này, nhiều lãnh đạo ngân hàng có nghiệp vụ thanh toán quốc tế đều khẳng định vai trò to lớn của các tham tán thương mại Việt Nam tại nước ngoài trong việc cung cấp thông tin về đối tác cho doanh nghiệp và ngân hàng thanh toán trong nước. Thế nhưng lâu nay, vai trò của tham tán trong vấn đề này hết sức mờ nhạt. Bà Hải nói: “Có thể các tham tán có quan hệ mật thiết với nhà xuất khẩu nhưng với ngân hàng thanh toán thì không và Vietinbank đành phải tìm kiếm thông tin bằng cách mua nhưng không phải lúc nào cũng mua được “hàng tốt”. Ông Trần Quốc Tuấn, Lãnh sự phụ trách thương mại Việt Nam tại thành phố Sanfrancisco (Mỹ) chia sẻ: “Chúng tôi vẫn trả lời cho các doanh nghiệp Việt Nam là các thông tin đối tác đưa ra có đáng tin cậy không, doanh nghiệp đó đang tồn tại hay đã bị giải thể, còn những thông tin “sâu” hơn thì phải mua”. Theo ông Tuấn, thông tin “sâu” ở đây bao gồm: tình hình tài chính của đối tác, năm vừa qua có “dính” kiện tụng hay đang chịu một phán quyết nào đó của tòa hay không..., và thương vụ sẽ chỉ cho doanh nghiệp hoặc ngân hàng Việt Nam tìm đến những địa chỉ đáng tin cậy để mua. Đối với thị trường Mỹ, nơi các định chế tài chính đều hoạt động trong một môi trường pháp lý hoàn hảo nên trở ngại trong thanh toán không không thể không xử lý được nhưng còn thị trường một số nước châu Phi như Kenia, Nigieria, Mozambique... thì sao? Rõ ràng, đây là một câu hỏi đang bỏ ngỏ cho không ít ngân hàng thương mại trong nước. Để có thể triển khai mảng nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại các thị trường xuất khẩu mới, các ngân hàng không thể thiếu vắng sự hỗ trợ của các tham tán thương mại nước ngoài. Như vậy cùng với việc phải ngày càng hoàn thiện các dịch vụ hiện có thì hệ thống ngân hàng trong nước phải học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng trên thế giới để có thể mở rộng triển khai và phát triển các dịch vụ mới như: Phát hành chứng chỉ tiền gửi, đi vay trên thị trường quốc tế; nghiệp vụ thanh toán bù trừ bằng tài sản tài chính; giữ hộ và quản lý hộ tài sản, thu hộ thuế, tư vấn tài chính, cung cấp các kế hoạch hưu trí, mua bán nợ, phòng ngừa rủi ro ngoại tệ, môi giới tiền tệ. Tiếp tục phát triển thẻ thanh toán nội địa. Mở rộng các phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt; tập trung phát triển các dịch vụ thanh toán cho việc mua bán hàng hoá, dịch vụ tại các trung tâm thương mại lớn, các siêu thị và cửa hàng tự chọn. Triển khai thí điểm việc quản lý chi tiêu tài chính công bằng thẻ thương mại; phát triển các dịch vụ thanh toán mới khác như dịch vụ ngân hàng điện tử và dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Hệ thống ngân hàng trong nước phải nhanh chóng áp dụng đầy đủ các thông lệ và chuẩn mực quốc tế vào hoạt động của các ngân hàng thương mại trong nước. Có như vậy hệ thống ngân hàng mới có thể đứng vững được trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và có sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài lớn có uy tín và giàu kinh nghiệm. Việc phát triển hệ thống ngân hàng của Việt Nam sẽ giúp ích và tạo thuận lợi rất nhiều cho việc thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp trong nước và nếu như có thể chúng ta có thể trở thành một trung tâm dịch vụ tài chính uy tín thu hút được nhiều hơn nữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. 2.2. Công nghệ thông tin và nhân sự: Nhân tố công nghệ thông tin có ảnh hưởng rất lớn trong thanh toán quốc tế vì đối với hoạt động thanh toán quốc tế thì yêu cầu phải nhanh, chính xác và an toàn. Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ, internet và dịch vụ giao dịch trực tuyến ngày càng trở thành những công cụ quan trọng, quyết định tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng,  thương mại điện tử, chứng khoán, … Ngày càng có nhiều phần mềm công nghệ thông tin phục vụ cho các hoạt động của các ngân hàng để đảm bảo sự chính xác, nhanh chóng và trên hết là sự an toàn tuyệt đối. Các ngân hàng trong nước đều chú trọng định hướng hoạt động trên cơ sở hiện đại hoá, ứng dụng công nghệ cao, tăng tiện ích và đa dạng hoá sản phẩm. Mặc dù nước ta được coi là một nước đi sau nhưng với việc công nghệ thông tin ngày càng được phát triển và sự quan tâm áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến vào hoạt động của mình thì các ngân hàng ngày càng đảm bảo được các yêu cầu trong thanh toán quốc tế. Con người luôn là một yếu tố sống còn trong mọi hoạt động kinh tế. Đối với hoạt động thanh toán quốc tế đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn nhất định như có kiến thức về thương mại quốc tế, được trang bị và hiểu biết về luật pháp, thông lệ và tập quán thương mại của các nước, có khả năng nắm bắt kịp thời những thay đổi trong thương mại và các sản phẩm dịch vụ trong hoạt động thanh toán quốc tế. Cán bộ thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế yêu cầu phải có trình độ và ý thức nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán quốc tế và chất lượng dịch vụ tốt hơn, thu được nhiều khách hàng hơn. Đối với nước ta, nguồn nhân lực là một nhân tố rất đáng quan tâm. Mặc dù số người được đào tạo trong thanh toán quốc tế là khá lớn nhưng do còn nhiều bất cập trong hệ thống giáo dục mà đặc biệt là trình độ ngoại ngữ còn nhiều yếu kém nên nguồn nhân lực vẫn chưa thể đáp ứng được các yêu cầu của nghiệp vụ này. Các ngân hàng hay doanh nghiệp khi thuê một nhân viên mới ra trường cần đào tạo rất nhiều để đội ngũ đó có thể đáp ứng được yêu cầu công việc. Hơn nữa, kinh nghiệm trên thị trường quốc tế của chúng ta chưa nhiều nên rất dễ đến tình trạng rơi vào kiện tụng và phần thua thường giành cho phía Việt nam. Vì vậy, cần chú trọng vào công tác đào tạo và truyền đạt kinh nghiệm cho người đi sau để họ có thể đối phó được nhiều tình huống. Ngoài việc được đào tạo thì bản thân người lao động cũng cần tự rèn luyện nâng cao kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm của mình. Theo bài báo “ Doanh nghiệp Việt nam còn nhiều bất cẩn trong thanh toán quốc tế”: Cứ khoảng 10 doanh nghiệp giao dịch xuất nhập khẩu qua ngân hàng HSBC thì 7 phải chỉnh sửa lại L/C (thư tín dụng). "Điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam là khi thanh toán quốc tế không xem kỹ các chứng từ L/C, không hiểu biết đầy đủ các hợp đồng và điều khoản đi kèm; không nắm bắt được một cách đầy đủ về các thủ tục giao nhận hàng, nhận biết đơn hàng cũng như các biện pháp quản lý rủi ro về mặt chứng từ, lãi suất, tỷ giá...". Điều này là hệ quả của việc nguồn nhân lực chưa đạt tiêu chuẩn. Theo bà Bùi Tường Minh Anh - Giám đốc thanh toán quốc tế của ngân hàng HSBC: “Điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam còn là thiếu kinh nghiệm giao dịch trên thị trường quốc tế. Phần lớn không xem xét kỹ hoặc không hiểu hết những rủi ro về luật pháp có thể xảy ra từ những điểm chưa rõ ràng trong hợp đồng xuất nhập khẩu. "Nếu không biết rõ về tình hình kinh tế chính trị của những nước đối tác do chính sách của họ thay đổi thường xuyên, doanh nghiệp xuất nhập khẩu vào thị trường đó dễ bị rủi ro. Cũng còn nhiều quốc gia hiện có chính sách, luật lệ không rõ ràng. Ngoài ra, còn không ít nghiệp vụ mới đang gây tranh cãi giữa các quốc gia về thanh toán quốc tế" Vì vậy, để có thể tránh được những sự cố ngoài ý muốn này thì các doanh nghiệp cần một độ ngũ cán bộ đủ năng lực, hiểu biết và thường xuyên cập nhật thông tin một cách chính xác và nhanh chóng . II. Thực trạng và giải pháp trong thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp nước ta trong tình hình lạm phát hiện nay: 1. Thực trạng thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp hiện nay: Trong thời gian gần đây, lạm phát đã làm hàng loạt nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào và lãi suất vay ngân hàng tăng cao. Điều này khiến doanh nghiệp Việt Nam hiện gặp rất nhiều khó khăn trong thanh toán quốc tế. Liên tục trong 3 tháng qua, giá cả tăng cao. Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2008 đã tăng 9,19% so với tháng 12/2007. Chỉ riêng trong tháng 3/2008, CPI tăng 2,99% so với tháng trước. Như vậy, CPI 3 tháng đầu năm đã cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm đặt ra. Doanh nghiệp (DN) đang chịu sức ép lớn từ những đợt tăng giá liên tục. Giá hàng loạt mặt hàng rất quan trọng như xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo, giấy, sợi, bông... cho đến giá nguyên liệu nông sản đua nhau tăng, dẫn đến nguyên vật liệu đầu vào tăng đến 30 - 40%, phí vận tải cũng tăng, giá nhà đất bị đẩy lên đến mức phi lý... Thêm nữa, việc ngân hàng tăng lãi suất khiến DN khó vay vốn, nếu vay được, lãi suất cũng cao, đầu tư có nhiều rủi ro. Lãi suất cho các DN vay phổ biến hiện nay vào khoảng 18 -24%. Khó khăn lớn nhất của các DN hiện nay không phải giá đầu vào mà là lãi suất ngân hàng, vì 90% vốn hoạt động của DN Việt Nam là vay ngân hàng. Theo ông Lý Ngọc Tuấn, Tổng giám đốc Tổng Công ty Đầu tư xây dựng và Thương mại Việt Nam: ”Thời gian qua, DN chúng tôi rất khó khăn khi vay vốn của ngân hàng, khi vay được, lãi suất cũng rất cao. Hiện tại, chúng tôi có 100 hợp đồng xây lắp và đầu tư với số vốn lên tới nhiều nghìn tỉ đồng. DN đang phải loay hoay giải quyết bài toán này. Chúng tôi đang bị kẹt trong nghịch lý, muốn giảm tiền vay vì lãi suất quá cao nhưng thực tế vẫn phải vay vì đói vốn. Lãi suất cao còn ảnh hưởng đến kế hoạch dự trữ vốn đầu tư kinh doanh của DN. Do lãi suất cao, để an toàn, các điều kiện mà ngân hàng ràng buộc DN ngày càng chặt chẽ, khó khăn hơn. Điều này sẽ kìm hãm sản xuất. “Có ý kiến cho rằng, nên cho dừng những công trình chậm tiến độ, kém khả thi, theo tôi không nhất thiết phải dừng những công trình thi công chậm tiến độ do điều kiện khách quan. Điều quan trọng là phải giải quyết tốt bài toán vĩ mô, phải cắt giảm những công trình đầu tư không hợp lý để đầu tư vào công trình mang lợi ích dân sinh, ví dụ, chúng ta thiếu điện thì nên ưu tiên đầu tư vào các công trình thủy điện. Nên cắt giảm những công trình như văn phòng, trụ sở. Chúng tôi có một số hợp đồng quốc tế mà những điều kiện đã bị chốt cứng. Trước sự biến động giá, biết chắc là thực hiện sẽ thua lỗ nhưng vì thương hiệu, vì hình ảnh đất nước nên vẫn phải làm. Thời kỳ khó khăn, nhiều DN phải tìm cách cắt giảm mọi chi phí nhưng chúng tôi lại làm ngược lại. DN sẽ trả cổ tức, tiền lương cho cán bộ công nhân viên sao cho có tính cạnh tranh, doanh nghiệp cũng tìm cách tăng mức tụ vốn. Chúng tôi sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn này”, ông Tuấn nói. Còn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu đang gặp khó khăn hơn so với các doanh nghiệp nhập khẩu: Đồng Việt Nam hiện tăng giá so với đồng đôla từ 6 - 7%. Điều này có nghĩa là hàng Việt Nam đắt lên, sức cạnh tranh kém đi. DN xuất khẩu thanh toán bằng đồng đô la sẽ bị thiệt. Và với tình trạng vốn của các doanh nghiệp chủ yếu là đi vay thì rủi ro còn cao hơn nữa. Ví dụ như việc anh Nguyễn Xuân Hoàng - Chủ doanh nghiệp sản xuất Mây tre đan xuất khẩu ở Hà Tây than phiền: “Hiện tại mức huy động vốn của các ngân hàng tăng đến chóng mặt, điều này khiến các doanh nghiệp như chúng tôi sản xuất phải dè dặt. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp dựa chính vào vay tín dụng. Nếu vay với mức cao như thế này, khi thanh toán xong đơn hàng, tôi e rằng công sức bỏ ra chỉ đủ trả tiền nhân công và lãi ngân hàng…” 2. Giải pháp cho các doanh nghiệp trong tình hình lạm phát hiện nay: Muốn thoát khỏi tình trạng này thì chính phủ và các doanh nghiệp phải làm sao để giảm thiểu tình trạng lạm phát đang gia tăng. Theo ông Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc NHNN - Hội đồng Tư vấn tiền tệ quốc gia: ”Lạm phát vừa qua là do các nguyên nhân tăng tiền, do giá quốc tế và thiên tai, dịch bệnh. Hai nguyên nhân giá quốc tế và dịch bệnh là bất khả kháng, mình chỉ tạo điều kiện thích nghi, khắc phục. Riêng nguyên nhân tiền có 5 kênh: Do ta bỏ tiền ra mua USD vào với số lượng lớn trong một thời gian ngắn; tiền vay tín dụng tăng lên nhanh do yêu cầu sản xuất, kinh doanh…; nguồn vốn nước ngoài vào “dềnh” lên; hiệu quả đầu tư của ta không cao dẫn tới hệ số hiệu quả (ICO) “kéo” ra, gấp đôi các nước khu vực; tài khóa bội chi…Từ thực tế này khi xử lí phải xử lí đồng thời 5 yếu tố mà mục đích là làm thế nào để rút được tiền về.” 2.1. Giải pháp từ phía chính phủ: Chúng ta đang chống lạm phát trong điều kiện kinh tế toàn cầu đang rơi vào suy thoái nên phải cân nhắc các giải pháp một cách thận trọng. Thắt chặt tiền tệ quá mức, lãi suất cao, ảnh hưởng đến DN. Nếu nới lỏng tỉ giá hối đoái quá mức, đồng Việt Nam tăng giá, gây khó khăn cho xuất khẩu. Ông Cao Sỹ Kiêm cho biết phải đưa ra bài toán từ nhiều hướng để điều chỉnh chính sách tiền tệ. Ví dụ, thứ nhất, nhìn vào lạm phát đang có chiều hướng giảm một chút để tính đến giảm lãi suất ngân hàng. Thứ hai, nhìn vào xu hướng đồng đô la đang biến động có lợi cho các DN xuất khẩu, ngân hàng ngừng việc nới lỏng tỉ giá hối đoái. Ngân hàng Nhà nước cũng cam kết mua hết ngoại tệ xuất khẩu cho DN. Chính phủ đã đề ra những biện pháp chống lạm phát quyết liệt, nhưng mới chỉ có ngân hàng và DN vào cuộc, còn nhiều cơ quan khác như cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý đầu tư công, cơ quan chịu trách nhiệm về chi tiêu ngân sách, cơ quan chịu trách nhiệm tăng nguồn cung hàng hoá như Bộ NN&PTNT chưa vào cuộc mạnh mẽ. Chống lạm phát phải thực hiện đồng bộ, thì cái giá DN phải trả sẽ ít hơn, chứ không dồn vào chuyện lãi suất và tỉ giá hối đoái. Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Haruhiko Kuroda khuyến nghị Chính phủ Việt Nam nên tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, giám sát chặt chẽ chỉ số lạm phát, cán cân thanh toán, đảm bảo phát triển kinh tế bền vững. Ông Cao Sỹ Kiêm khẳng định: Ba giải pháp đang được đề cập áp dụng trong thời điểm hiện nay là: tăng dự trữ bắt buộc, lãi suất và mua trái phiếu Ngân hàng Nhà nước. Xét báo cáo số 98/NHNN-VP ngày 27 tháng 02 năm 2008 của Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia về đánh giá tình hình thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ 2 tháng đầu năm 2008 và giải pháp điều hành trong những tháng tới, ý kiến của các Phó Thủ tướng Chính phủ, của các Bộ, ngành và cơ quan liên quan tại cuộc họp Thường trực Chính phủ ngày 28 tháng 02 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ có ý kiến như sau: 1. Đồng ý với những đánh giá, dự báo tình hình và một số kiến nghị về giải pháp điều hành chính sách tài chính, tiền tệ của Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia tại báo cáo trên. Việc điều hành chính sách tài chính, tiền tệ 2 tháng đầu năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình giá cả năng lượng, nguyên liệu và lương thực trên thế giới vẫn tiếp tục tăng, nền kinh tế Mỹ và kinh tế thế giới có sự giảm sút, đã gây ra tác động mạnh đến nền kinh tế nước ta. Mặc dù các biện pháp kiểm soát giá cả, lạm phát đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương điều hành ngay từ đầu năm, nhưng thực tế chỉ số giá tiêu dùng 2 tháng đầu năm vẫn tiếp tục tăng ở mức cao (6,02%) đang là những thách thức lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu đề ra về tăng trưởng và lạm phát năm 2008. 2. Trong những tháng còn lại của năm 2008, tình hình giá cả thị trường thế giới vẫn có khả năng tiếp tục biến động tăng, sẽ tác động mạnh đến lạm phát và phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Để thực hiện tốt các mục tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2008 nói chung, yêu cầu các Bộ, ngành, các địa phương cần tập trung phối hợp chỉ đạo thực hiện tốt các biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá, đi đôi với thúc đẩy sản xuất, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. 3. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 75/TTg-KTTH ngày 15 tháng 01 năm 2008 về biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá năm 2008. 4. Cải thiện môi trường đầu tư để huy động đủ vốn đáp ứng cho yêu cầu tăng trưởng; đồng thời, phải đặc biệt quan tâm nâng cao hiệu quả việc sử dụng vốn đầu tư, nhất là lĩnh vực đầu tư công; xem xét lại những công trình, dự án đọng vốn quá lâu, thiết kế ban đầu không còn phù hợp nữa hoặc công trình đầu tư kém hiệu quả; đình hoãn hoặc dãn những công trình chưa thật cần thiết. 5. Các Bộ, ngành và địa phương phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các chính sách, nhất là giữa chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt; điều hành chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách hạn chế bội chi ngân sách, đi đôi với triển khai thực hiện tốt chính sách tiền lương, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu… bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau để đạt hiệu quả cao nhất. 6. Ngân hàng Nhà nước công bố và thực hiện việc hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại để bảo đảm khả năng thanh toán; đồng thời, xem xét việc tăng dự trữ bắt buộc, tiếp tục áp dụng biện pháp mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc đã công bố, bảo đảm phù hợp với tình hình diễn biến tiền tệ và khả năng chịu đựng của các tổ chức tín dụng. Thực hiện chính sách lãi suất thực dương theo cơ chế thị trường, điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, sử dụng có hiệu quả các công cụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ bản, bảo đảm quan hệ hợp lý giữa các loại lãi suất trái phiếu, tín phiếu Kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Bộ Tài chính sớm chỉ đạo thực hiện chuyển số dư tiền gửi của Kho bạc tại các ngân hàng thương mại hiện nay về Ngân hàng Nhà nước để bảo đảm tạo điều kiện thực hiện tốt việc điều hành chính sách tiền tệ. 7. Tiếp tục thực hiện mua ngoại tệ cho các nhà đầu tư, tính toán xem xét thứ tự ưu tiên việc mua ngoại tệ cho các đối tượng. Nghiên cứu triển khai phát hành Trái phiếu Chính phủ trong nước bằng đồng tiền Việt Nam, Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ để hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, hút bớt tiền nhàn rỗi về, giảm áp lực lạm phát và tăng dự trữ quốc gia hoặc đầu tư ra nước ngoài. Tiếp tục điều hành tỷ giá giữa đồng tiền Việt Nam với đồng Đô la Mỹ nói riêng và các loại ngoại tệ nói chung theo hướng căn cứ vào cung cầu trên thị trường, với biên độ giao động ±2%. 8. Điều hành hoạt động tín dụng ngân hàng ở mức tăng trưởng tín dụng tối đa 30% nhưng phải đáp ứng được yêu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế và khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường kiểm soát, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng theo chuẩn mực quốc tế. 9. Các giải pháp chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng phải tiếp tục tạo điều kiện phát triển lành mạnh thị trường bất động sản. Cần áp dụng các giải pháp chống đầu cơ bất động sản thông qua việc kiểm soát tín dụng, chính sách thuế, kết hợp với những biện pháp hành chính cần thiết. Bộ Xây dựng, các Bộ, ngành và địa phương liên quan cần điều chỉnh quy hoạch, rà soát các danh mục đầu tư, dự án… để tăng nguồn cung bất động sản, tạo sự cân bằng và phát triển lành mạnh thị trường bất động sản. Đối với các dự án tốt, đầu tư đúng và lành mạnh, ngân hàng tiếp tục cho vay, nếu phát hiện có biểu hiện găm giữ, đầu cơ, mua đi bán lại thì phải thu hồi vốn và kiên quyết xử lý, nhất là các doanh nghiệp nhà nước không có chức năng tham gia vào thị trường này. Đẩy mạnh tăng cung cho thị trường để giải quyết cầu về nhà ở, phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp… 10. Sớm hoàn thiện Đề án ổn định và phát triển bền vững, tăng trưởng thị trường chứng khoán. Thực hiện các biện pháp để khôi phục, phát triển thị trường, không để thị trường đi xuống. Tạo điều kiện tăng cung hàng hóa, không hạn chế các công ty tham gia công bố và niêm yết trên sàn giao dịch. Có tiến trình cổ phần hóa và IPO các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tổng công ty và các doanh nghiệp lớn; không nên chỉ lấy việc bán cổ phiếu với giá cao nhất làm chuẩn để IPO. Tiếp tục triển khai Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN ngày 01 tháng 02 năm 2008 về kiểm soát cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán; cần tuyên truyền rõ nội dung của Quyết định, để tránh tạo yếu tố tâm lý cho rằng Nhà nước chủ trương thu hẹp thị trường. 11. Nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ khả năng cho phép thành lập chi nhánh, công ty quản lý quỹ 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam để quản lý các quỹ đầu tư huy động vốn ở nước ngoài, nhằm thu hút có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài, tăng cường tính công khai minh bạch và quản lý tốt hơn hoạt động này, không để các Văn phòng đại diện thực hiện hoạt động kinh doanh trái với quy định pháp luật. 12. Nghiên cứu trình Chính phủ việc quy định tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với chứng khoán chưa niêm yết theo hướng bảo đảm được yêu cầu quản lý, giảm thiểu rủi ro và không được cao hơn mức áp dụng hiện nay với công ty niêm yết, đồng thời phù hợp với điều lệ của công ty. 13. Nghiên cứu báo cáo Thủ tướng Chính phủ khả năng cho phép Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước có thể mua vào một số cổ phiếu loại tốt, có hiệu quả và có tính thanh khoản cao trong những trường hợp cần thiết. 14. Việc lập thêm các công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại cổ phần cần phải được kiểm soát, bảo đảm đầy đủ các điều kiện và tiêu chí quy định; đồng thời, với phát triển về số lượng, cần tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán nhanh chóng ổn định và từng bước tăng trưởng, nâng cao năng lực tài chính và quy mô hoạt động, góp phần tăng nhanh quy mô thị trường. 15. Trước mắt trong điều kiện hiện nay, để tập trung thu hút nguồn ngoại tệ đang có ở trong nước, tạm thời chưa phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài. 16. Tập trung khai thác và mở rộng thị trường xuất khẩu, phấn đấu đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu cả năm trên 25%. 17. Bộ Công thương và Ủy ban nhân dân các địa phương tăng cường chỉ đạo kiểm soát tốt thị trường trong nước, chống đầu cơ găm hàng tăng giá, lạm dụng lạm phát, lạm dụng vị thế độc quyền để kiếm lời vi phạm lợi ích của người tiêu dùng. Nghiên cứu áp dụng các biện pháp phù hợp để kiểm soát giá các hàng hóa độc quyền như: định giá giới hạn, đăng ký giá, thông báo, kê khai giá, niêm yết và bán theo giá niêm yết. 18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Bộ: Tài chính, Công thương, Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thường xuyên cập nhật và cung cấp kịp thời những thông tin về tài chính, tiền tệ, chứng khoán và các biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá, phát triển sản xuất của Chính phủ... để tạo kênh thông tin chính thức đến người dân, góp phần định hướng dư luận; đồng thời, thực hiện việc giao ban hàng tuần về tình hình thực hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế. 19. Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Chính phủ có liên quan đưa tin, bài chính xác, ủng hộ các chủ trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh những thông tin sai sự thật, có tính kích động gây tâm lý bất an trong xã hội. 2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp: GS-TS Trần Ngọc Thơ, Phó trưởng Khoa Tài chính, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, cho rằng: Thị trường đang rất khắc nghiệt, DN phải tự định liệu cho mình về mọi mặt, có chiến lược lâu dài để đối phó với những tình huống mang tính gây “sốc”. DN phải tìm lối thoát cho riêng mình như: 1. Tìm những ngân hàng có thế mạnh về lĩnh vực mình đang hoạt động. Thời điểm này có thể vay vốn bằng ngoại tệ (cụ thể là USD) vì đây là ngoại tệ đang dư thừa, lãi suất thấp, dễ vay... Tuy nhiên, độ rủi ro khi vay USD cũng rất cao, có thể giá USD đảo chiều bất cứ lúc nào. Để phòng ngừa rủi ro này, doanh nghiệp nên mua bảo hiểm khi USD lên giá. 2. Từng DN phải tiến hành tái cấu trúc, rà soát tất cả chi phí trong sản xuất kinh doanh để có thể giảm tối thiểu chi phí, tăng hiệu quả đầu vào trong cung ứng, sản xuất và lưu thông; chọn lọc, xác định những sản phẩm tối ưu là sở trường, lợi thế cạnh tranh và phân khúc thị trường thích hợp... DN cũng phải tổ chức lại sản xuất, tinh giản lao động nhằm tăng năng suất, giảm giá thành, đồng thời đẩy mạnh tiếp thị. 3. Các DN Việt Nam cũng phải nâng cao được khả năng dự báo trước những biến động vĩ mô và vi mô. Điều này buộc DN phải chuyên nghiệp hơn rất nhiều trong việc quản lý tiền mặt, nguồn thu, nguồn chi, những nghiệp vụ liên quan đến ký kết hợp đồng. Lạm phát là thách thức cũng là cơ hội để DN nhìn lại hoạt động quản lý kinh doanh và tài chính của mình, phát hiện những yếu kém để sửa chữa hay hoàn thiện.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10780.doc
Tài liệu liên quan