Đề tài Thị trường bảo hiểm Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chương I: Khái quát chung về thị trường bảo hiểm 1 I. Sự ra đời và phát triển của bảo hiềm . 1 l. Nguồn gốc ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm thế giới. 1 1.l. Dự trữ thuần túy. 1 1.2. Cho vay nặng lãi 2 1.3. Thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên. 2 2. Sự phát tiền của ngành bảo hiểm thế giới. 3 2.1. Các thị trường bảo hiểm Châu Âu. 3 2.2. Tình hình thị trường bảo hiểm toàn cầu. 7 II. Khái niệm và đặc điểm của thị trường bảo hiểm. 9 1. Các khái niệm cơ bản về bảo hiểm - tái bảo hiểm. 9 2. Thị trường bảo hiểm . 13 2.l - Khái niệm về thị trường bảo hiểm . 13 2.2. Các yếu tố cấu thành nên thị trường bảo hiểm. 14 2.3. Những đặc trưng cơ bản của thị trường bảo hiểm . 20 3. Các loại bảo hiểm . 25 3.l - Bảo hiểm xã hội 25 3.2. Bảo hiểm thương mại 26 II. Vai trò của thị trường bảo hiểm . 28 1. Vai trò của thị trường bảo hiểm trong nền kinh tế 28 1.1 Tạo ra một nguồn vốn lớn bằng phí bảo hiểm và tập trung vào một số đầu mối để đầu tư vào những lĩnh vực khác để phát tnển nền kinh tế quốc dân. 28 1.2. Bổ sung vào ngân sách của Nhà nước bằng lãi bảo hiểm. 28 1.3. Tăng thu và giảm chi cho cán cân thanh toán quốc gia. . 29 1.4. Thị trường Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế nhanh chóng hơn. . 29 1.5. Thị trường Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện, bảo toàn vốn vay của các ngân hàng thương mại một cách thuận lợi. . 30 1.6. Thị trường bảo hiểm có lợi cho sự phát triển và củng cố nền kinh tế hàng hóa ở nông thôn. 31 1.7. Thị trường bảo hiểm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc họp tác kinh tế, kĩ thuật, thương mại với nước ngoài và cho việc thu hút đầu tư của nước ngoài. 31 1.8. Thị trường Bảo hiểm có thể tăng cường đề phòng, hạn chế tai nạn rủi ro, giảm bớt tổn thất của cải của xã hội. 32 2. Vai trò của thị trường bảo hiểm đối với các thị trường khác. 32 IV. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển một số TT trên thế giới 34 l. Thị trường bảo hiểm Anh 34 2. Các thị trường bảo hiểm Châu á. 36 Chương II: Tình hình TTBH Việt Nam trong những năm qua . 39 I. Đánh giá tình hình phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam 39 1. Thị trường bảo hiểm nhân thọ. . 44 2. Một số tin tức chính tình hình TTBH trên thế giới năm nay. 65 II. Mô hình tổ chức thị trường bảo hiểm. . 67 1. Theo vai trò trong thị trường bảo hiểm. 67 2. Theo tính chất sở hữu. 70 III. Môi trường pháp lý đối với hoạt động của Thị trường bảo hiểm. 73 1. Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm giai đoạn trước năm 1993 73 1.1. Một số đặc điểm của thị trường BHVN trước năm 1993 . 73 1.2. Các văn bản pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. . 74 1.3. Những tồn tại về môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong giai đoạn này. . 76 2. Thực trạng môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm từ năm 1993 đến trước khi Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời 80 2.1. Một số đặc điểm của TTBH Việt Nam trong giai đoạn này. 80 2.2. Các văn bản pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm và nội dung chủ yếu 81 2.3. Những vấn đề còn tồn tại về môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong giai đoạn này. 84 3. Sự ra đời Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam. 85 4. Một số nhận xét chung về luật kinh doanh bảo hiểm . 86 Chương III. Bảo hiểm Việt Nam trước thềm hội nhập và giải pháp đẩy mạnh sự phát triển của TTBH Việt Nam đến 2010 88 I. Bảo hiểm Việt Nam vào hội nhập 88 1. Xu hướng phát triển thị trường bảo hiểm thế giới. 88 2. Xu hướng phát triển thị trường Việt Nam . 90 II. Các giải pháp vĩ mô phát triển thị trường BHVN 93 1. Đa dạng hoá sở hữu ngành bảo hiểm. . 94 2. Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản lý vốn đầu tư. 96 3. Sửa đổi, hoàn thiện môi trường pháp lý 97 III. Các giải pháp phát triển vi mô 100 1. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm 100 2. Những giải pháp và kiến nghị để phát triển BH hàng hóa XNK . 105 KẾT LUẬN

pdf112 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4044 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường bảo hiểm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đoàn vào khoảng 110 tỉ Đôla và thành lập tập đoàn gồm một số công ty bảo hiểm chủ yếu hoạt động ở Mỹ, như National Indemnity (được xếp hạng) với tổng doanh thu phí bảo hiểm hàng năm khoảng 955,5 triệu Đôla, thì có thể hình dung được quy mô các quá trình tập trung vốn và toàn cầu hóa đang diễn ra tích cực trên thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm thế giới. Cũng như trong lĩnh vực bảo hiểm trực tiếp, tập trung hóa sáp nhập và hợp nhất các doanh nghiệp tái bảo hiểm là nguyên nhân giảm số lượng công ty tái bảo hiểm. Ví dụ, ở Mỹ chỉ riêng trong thời gian 1985 - 1996, số công ty tái bảo hiểm đã giảm 25% (từ 97 công ty xuống còn 72 công ty). Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, quá trình sáp nhập hợp nhất như vậy vẫn còn tiếp diễn, đặc biệt mạnh là ở các doanh nghiệp tái bảo hiểm có doanh thu hàng năm khoảng 50-200 triệu Đôla Mỹ. [20] (Nguồn: Asia Ins . Review 23/07/2003) THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 90 Theo bản tin mới nhất của thị trường Lloyd's vào tháng 7/2003 ủy ban thị trường Lloyd's đã đánh giá 6 xu hướng chủ yếu trong thị trường bảo hiểm toàn cầu trong tương lai. - Sự toàn cầu hóa. - Sự hợp nhất giữa các nhà bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. - Thương phẩm hóa sản phẩm bảo hiểm. - Khách hàng ngày càng tinh vi hơn và việc giữ lại rủi ro phổ biến hơn. - Có nhiều yếu tố cạnh tranh mới. - Công nghệ phát triển nhanh chóng. Một trong 6 xu hướng lớn đó là xu hướng sáp nhập giữa các công ty bảo hiểm. Sáp nhập trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ hiện nay đã giúp các công ty tăng cường sức mạnh đang trở thành xu thế tất yếu hiện nay không chỉ trong lĩnh vực bảo hiểm. 2. Xu hướng phát triển thị trường Việt Nam Sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển chung của thế giới. Thế nhưng nó cũng có sự khác biệt nhất định do các điều kiện phát triển khác nhau. Với mức độ phát triển hiện tại: doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường Việt Nam khi kết thúc năm 2002 đạt 7.707 tỉ đồng, trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 3.062 tỉ đồng và doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt 4.645 tỉ đồng. Như vậy, trong vòng 8 năm từ 1995 đến 2002, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam tăng đến gần 6 lần. Còn doanh thu bảo hiểm nhân thọ từ 1 tỉ đồng năm 1996 đã tăng gấp vài ngàn lần. Những con số này chứng tỏ thị trường bảo hiểm tại Việt Nam đang rất có tiềm năng. Trong tương lai thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ thu hút mạnh mẽ đối tác nước ngoài, thị trường sôi động hơn. Hiện tại, thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng được đánh giá là bắt đầu cơ hội cho sự cạnh tranh. Theo ông Trương Mộc Lâm, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Hiệp hội bảo hiểm Việt THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 91 Nam thì sự ra đời của Công ty liên doanh bảo hiểm liên hiệp UIC, tiếp theo là Công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài Chinfon Manulife (nay là Manulife), Prudential và công ty 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ Allianz, công ty liên doanh bảo hiểm Việt - Úc, công ty liên doanh bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh - CMG và Groupama là một bước chuyển hết sức mạnh mẽ trong thị trường bảo hiểm Việt Nam ở cả hai lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Hiện tại Việt Nam có 18 công ty bảo hiểm được cấp phép, chưa kể 2 công ty môi giới bảo hiểm. Và nhìn vào giới kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam có thể thấy đủ các thành phần như 3 công ty bảo hiểm sở hữu Nhà nước, 3 công ty bảo hiểm cổ phần, 4 công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài, 7 công ty liên doanh trong đó có 4 công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Sự góp mặt của các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài và các doanh nghiệp bảo hiểm với một bên là các đối tác Việt Nam và một bên là các đối tác từ các quốc gia có nền tài chính và dịch vụ phát triển đã tạo cho thị trường Việt Nam một sắc thái mới, năng động hơn, cạnh tranh hơn và thúc đẩy hoạt động của các công ty bảo hiểm. Đôi lúc, sự cạnh tranh đã lên tới đỉnh cao và không khoan nhượng. Tuy nhiên, với cam kết của Việt Nam sau khi hội nhập với AFTA, sau khi ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và hòa nhập với kinh tế thế giới sau khi gia nhập WTO trong thời gian tới, thị trường bảo hiểm chắc chắn sẽ có những thay đổi mới. Theo đó, Việt Nam sẽ tiếp tục mở cửa thị trường bảo hiểm trong vòng vài năm tới đây và ngày càng có nhiều các công ty và tập đoàn bảo hiểm lớn của nước ngoài sẽ gia nhập thị trường này. Điều này dẫn tới việc các công ty và tập đoàn bảo hiểm trong nước sẽ phải đối mặt với cạnh tranh hết sức gay gắt. Thực sự thì cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ đã được nhìn thấy trong thị trường hiện tại, khi mà sự hội nhập đang đến từ từ. Điều này có thể nhìn thấy qua sự cạnh tranh rất gắt gao trong vấn đề giá phí bảo hiểm và dịch vụ khách hàng. Trong lĩnh vực THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 92 bảo hiểm phi nhân thọ, việc giảm giá phí bảo hiểm trong nhiều sản phẩm đã là một vấn đề nóng từ nhiều năm nay và khiến cho các nhà kinh doanh bảo hiểm phải đau đầu. Còn trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, cạnh tranh trong cung cấp các dịch vụ đang có vẻ nghiêng phần ưu thế về các công ty bảo hiểm nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài vốn có công nghệ tốt và rất chịu khó đầu tư vào việc tung ra các dịch vụ cũng như nâng cấp chất lượng dịch vụ. Song, có thể nhìn thấy sự cạnh tranh sẽ tăng lên rất mạnh mẽ khi hội nhập xảy ra vì khi có càng nhiều các nhà bảo hiểm lớn trên thế giới vào kinh doanh tại Việt Nam, họ sẽ dần giành được thế bình đẳng khi mà các lá chắn của sự bảo hộ từ Nhà nước với ngành bảo hiểm trong nước giảm bớt. Hơn nữa, họ mang theo vào Việt Nam một cung cách điều hành kinh doanh có hiệu quả hơn hẳn. Các công ty bảo hiểm Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh từ việc cung cấp ngày càng nhiều hơn các sản phẩm bảo hiểm khi có ngày càng nhiều các nhà bảo hiểm mới vào thị trường. Và những nhà bảo hiểm này có ưu thế trong việc chỉ cần đưa sản phẩm mà họ đã bán sẵn trong khu vực để bán tại Việt Nam sau khi có chỉnh sửa chút ít, thay vì phải mất nhiều thời gian thiết kế các sản phẩm mới. Đồng thời họ cũng sẵn sàng cung cấp hàng loạt các sản phẩm dịch vụ tài chính tổng hợp. Các nhà kinh doanh bảo hiểm có kinh nghiệm cũng có thể nhìn thấy sự thay đổi của thị trường từ khía cạnh những người mua bảo hiểm khi hội nhập kinh tế. Khác với những năm đầu làm quen với các khái niệm liên quan tới sản phẩm bảo hiểm và các dịch vụ kèm theo, các khách hàng sẽ ngày càng hiểu rõ và nhận thức được nhiều hơn nhu cầu bảo hiểm của chính họ. Những nhu cầu mới nảy sinh kèm theo các rủi ro mới. Trong khi đó, thị trường này cũng sẽ ghi nhận sự đua tranh quyết liệt của các công nghệ được đưa vào áp dụng trong kinh doanh bảo hiểm và sự gia tăng quảng bá cho các thương hiệu mới và cũ có mặt trên thị trường. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 93 Để cạnh tranh và phát triển trong hội nhập, các công ty bảo hiểm trong nước ở Việt Nam chắc chắn sẽ phải tìm tới việc liên kết, hợp nhất. Bởi vì chỉ có liên kết, hợp nhất với một chiến lược chắc chắn thì họ mới có thể giữ vững thị phần và phát triển tiếp tục. Đây là cách thức có vẻ hiệu quả hơn cả. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm việc các công ty tập trung vào việc tự gia tăng tài sản của bản thân họ sẽ cần quá nhiều thời gian, công sức và có vẻ không khả thi. Nếu đứng trên xu thế hợp nhất và liên kết, việc từ nhiều công ty bảo hiểm trong nước hiện nay, sau khi hợp nhất có thể thành hai công ty lớn, một công ty chuyên về bảo hiểm nhân thọ và một công ty chuyên về bảo hiểm phi nhân thọ là một trong những phương án đang được các cấp thẩm quyền bàn tính tới. Và hai công ty này cũng có thể được cổ phần hóa bằng cổ phần của các doanh nghiệp Nhà nước hay các tổng công ty lớn. Một số nước tại khu vực, ví như Malaysia đã làm điều này khi họ yêu cầu 56 công ty bảo hiểm trong nước sáp nhập lại thành 10 - 15 công ty bảo hiểm để đẩy mạnh sự tập trung hóa, có sức mạnh cạnh tranh trong hội nhập. Ngoài ra, việc các công ty bảo hiểm trong nước tiếp tục mở rộng liên kết với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng có mạng lưới khách hàng rộng khắp cũng sẽ là một hình thức đáng quan tâm. Và hơn bao giờ hết, để cạnh tranh trong hội nhập, các công ty bảo hiểm Việt Nam sẽ phải quan tâm tới việc cải thiện năng suất và hiệu quả, làm tốt công tác chuyên môn cũng như quảng bá mạnh mẽ thương hiệu của họ ra công chúng. Như vậy, sự mở cửa và hội nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam là tất yếu. Và để có thể mở cửa và hội nhập tốt chúng ta cần phải có chiến lược phát triển thích hợp, cải cách trong quản lý thị trường, hoàn thiện môi trường pháp lý và cả những nỗ lực thay đổi của chính các doanh nghiệp bảo hiểm.. II. CÁC GIẢI PHÁP VĨ MÔ CHO THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 94 Thị trường tài chính là một thị trường vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Nó quyết định rất lớn đến tốc độ tăng trưởng cũng như sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Trong đó thị trường bảo hiểm đang ngày càng có vai trò quan trọng. Mặt khác, để phát triển được thị trường bảo hiểm phải có sự nỗ lực từ nhiều phía: từ các công ty bảo hiểm, các nhà đầu tư, các cơ quan quản lý. Trong đó, các cơ quan quản lý và các chính sách phát triển vĩ mô đóng vai trò chủ đạo. Trong tình hình hiện nay, Nhà nước cần phải có những chiến lược phù hợp: bảo hộ ở một mức độ nhất định để có thể hội nhập và phát triển thị trường bảo hiểm. Đồng thời phải có chế độ quản lý giám sát chặt chẽ để đảm bảo cho thị trường ổn định và cạnh tranh lành mạnh. Các giải pháp vĩ mô bao gồm: 1. Đa dạng hoá sở hữu ngành bảo hiểm. Theo "Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010", việc phát triển và sắp xếp các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu phát triển các loại hình doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ theo hướng đa dạng hình thức sở hữu bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Các doanh nghiệp Nhà nước không được dùng vốn Nhà nước để thành lập doanh nghiệp bảo hiểm mới hoặc công ty cổ phần bảo hiểm mới mang tính chuyên ngành, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước hiện nay để nâng cao năng lực tài chính và năng lực hoạt động, giữ được thị phần lớn trên thị trường trong nước và tham gia thị trường bảo hiểm quốc tế. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) sẽ được xây dựng thành một tập đoàn tài chính đa năng hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, nhân thọ, đầu tư, chứng khoán. Trong đó hoạt động chủ yếu là kinh doanh bảo hiểm và là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước duy nhất. Bảo Việt sẽ tăng vốn điều lệ từ 586 tỉ đồng (hiện nay) lên mức 3.000 tỉ đồng (năm 2005) và 5.000 tỉ đồng (2010). THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 95 Các công ty bảo hiểm Nhà nước khác như công ty bảo hiểm Tp Hồ Chí Minh (Bảo Minh), công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare) và công ty bảo hiểm dầu khí (PVI) sẽ tiến hành cổ phần hóa. Bảo minh chuyển thành công ty bảo hiểm cổ phần có vốn Nhà nước chi phối, chuyên kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và thực hiện các loại hoạt động khác như: đầu tư vốn, dịch vụ tài chính, trong đó bảo hiểm là hoạt động kinh doanh chủ yếu. Công ty bảo hiểm dầu khí (PVI) 100% vốn Nhà nước, trực thuộc Tổng công ty dầu khí Việt Nam sẽ chuyển thành cổ đông của Bảo Minh. Phần vốn Nhà nước của PVI sẽ là cổ phần của Tổng công ty dầu khí Việt Nam trong Bảo Minh. Hiện nay, số vốn điều lệ của Bảo Minh là 67 tỉ đồng. Trong 2 năm 2003 - 2004, Nhà nước sẽ có cơ chế để bổ sung vốn điều lệ cho Bảo Minh đủ 70 tỉ đồng, theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời, đánh giá lại giá trị tài sản và vốn của Bảo Minh để xác định vốn của Bảo Minh trước khi thực hiện cổ phần hóa. Bảo Minh phát hành cổ phiếu mới (trị giá tối thiểu 500 tỉ đồng) để tăng vốn điều lệ và mở rộng cho các tổng công ty Nhà nước có nhu cầu tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Trường hợp cả hai nguồn vốn này chưa đủ 1.100 tỉ đồng trong giai đoạn 2005 đến 2010, Bảo Minh sẽ bổ sung vốn điều lệ còn thiếu từ các nguồn: lợi nhuận để lại, chuyển nguồn vốn dự phòng dao động lớn, các quỹ dự trữ tự nguyện bổ sung vào vốn điều lệ hoặc tiếp tục phát hành thêm cổ phiếu mới. Giống như Bảo Minh, Vinare cũng chuyển thành công ty cổ phần, do vốn Nhà nước chi phối, hoạt động chuyên lĩnh vực tái bảo hiểm duy nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đến năm 2010, Vinare có đủ năng lực tài chính, năng lực kinh doanh để tham gia thị trường tái bảo hiểm quốc tế. Đến năm 2005, Vinare đủ sức giữ vai trò điều tiết thị trường tái bảo hiểm Việt Nam. Không cho phép thành lập thêm doanh nghiệp tái bảo hiểm. Nhà nước, không đầu tư vốn để thành lập thêm doanh nghiệp bảo hiểm tái bảo hiểm 100% vốn Nhà nước. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 96 Việc cổ phần hóa Vinare sẽ được tiến hành theo hướng: vốn của Vinare (vốn Nhà nước) giữ cổ phần chi phối với sự tham gia góp vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường nhằm nâng cao mức giữ lại để hạn chế việc chuyển phí tái bảo hiểm ra nước ngoài, duy trì sự an toàn và ổn định của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Củng cố công ty bảo hiểm liên doanh Samsung Vina trực thuộc Vinare góp vốn thành lập các công ty đầu tư, góp vốn vào các dự án lớn, phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án phục vụ yêu cầu sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, số vốn điều lệ của Vinare là 40,5 tỉ đồng. Trong 2 năm 2003 - 2004. Nhà nước có cơ chế để bổ sung vốn điều lệ cho đủ 70 tỉ đồng, theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm. Vinare phát hành cổ phiếu mới (trị giá tối thiểu 200 tỉ đồng) để hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Như vậy, vốn điều lệ của Vinare sẽ bao gồm phần vốn sau khi đánh giá lại giá trị và vốn cổ phần mới phát hành. Trường hợp cả hai nguồn vốn này chưa đủ 500 tỉ đồng, trong giai đoạn 2005 đến 2010 Vinare sẽ bổ sung số vốn điều lệ còn thiếu từ các nguồn: lợi nhuận để lại, chuyển nguồn vốn dự phòng dao động lớn, các quỹ dự trữ tự nguyện bổ sung vào vốn điều lệ hoặc tiếp tục phát hành thêm cổ phiếu mới. 2. Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản lý vốn đầu tư. Một trong những giải pháp lớn nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển ngành bảo hiểm đến năm 2010 là việc sử dụng tối đa, có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo đó, các giải pháp sẽ thực hiện bao gồm, cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản lý vốn đầu tư theo quy định của pháp luật để tạo cầu nối giữa các nguồn vốn ngắn hạn và nhu cầu vốn dài hạn trên thị trường. Khuyến khích các hình thức đầu tư dài hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng phí bảo hiểm thu THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 97 được đầu tư tại Việt Nam được hưởng chế độ đầu tư bình đẳng như các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Các doanh nghiệp được phép phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu và tham gia thị trường chứng khoán, đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng. Bảo hiểm là một tổ chức trung gian tài chính lớn của nền kinh tế, có chức năng huy động các nguồn vốn và cung ứng vốn trung, dài hạn cho đầu tư phát triển. Trên thế giới, các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là người cung cấp chính nguồn vốn cho các quỹ đầu tư trên thị trường vốn. Do công cụ đầu tư chủ yếu của quỹ đầu tư là chứng khoán, các quỹ đầu tư có chức năng thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán và tạo ra tính thanh khoản của thị trường này. Sự hình thành các quỹ đầu tư độc lập của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tạo thành trung tâm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư nhỏ thành nguồn vốn lớn, ổn định. Chính vì vậy, quỹ đầu tư được coi là chiếc cầu nối tốt nhất giữa các nguồn vốn ngắn hạn và nhu cầu vốn dài hạn trên thị trường chứng khoán. Tính đến năm 2002, tổng số nguồn đầu tư là 6.700 tỉ đồng, theo dự kiến đến năm 2010, tổng số nguồn vốn đầu tư đạt 90.000 tỉ đồng. Như vậy, quỹ đầu tư bảo hiểm có vai trò rất lớn trong giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam khi mà các dự án, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đang cần vốn còn các nhà đầu tư chưa quen với việc đầu tư. Các doanh nghiệp có đủ điều kiện về vốn, quy mô dự phòng lớn và khả năng đầu tư dài hạn sẽ được xem xét cho phép thành lập quỹ đầu tư theo các quy định của pháp luật. Để các doanh nghiệp bảo hiểm tăng mạnh tỉ trọng đầu tư vào thị trường vốn thì ngoài giải pháp chuyển dịch cơ cấu theo hướng nâng tỉ trọng các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ dài hạn, Nhà nước cũng cần phải có các chính sách đồng bộ cho việc phát triển thị trường vốn trong nước. 3. Sửa đổi, hoàn thiện môi trường pháp lý THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 98 Có thể thấy hệ thống pháp luật về bảo hiểm của Việt Nam cho đến tháng 6/2001 khá đồ sộ, nhưng nếu xét về số lượng các văn bản được ban hành lại rất phân tán. Mỗi bộ luật, luật chuyên ngành lại đề cập tới một vấn đề trong khi các vấn đề đó hoàn toàn có thể đưa vào trong Luật kinh doanh bảo hiểm. Sự phân tán còn thể hiện ở các văn bản hướng dẫn. Các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật kinh doanh bảo hiểm không hướng dẫn thực hiện các quy định về bảo hiểm hàng hải mà để các hướng dẫn thực hiện, Bộ luật Hàng hải hướng dẫn luôn các quy định về bảo hiểm mà Bộ luật đề cập. Việc phân tán như vậy dẫn tới việc tra cứu, hệ thống hết sức khó khăn, đặc biệt khi cần trích dẫn tham chiếu. Đặc biệt có những quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm hoàn toàn trái ngược với thực tiễn kinh doanh và thực tiễn pháp luật về bảo hiểm, ví dụ: điều 572 Bộ luật Dân sự quy định: “Hợp đồng bảo hiểm tự nguyện là sự thỏa thuận giữa các bên về các điều kiện bảo hiểm và mức phí bảo hiểm”, trong khi hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng có tính chất chấp thuận. Điều khoản, điều kiện bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm hoặc là do Bộ Tài chính ban hành, hoặc là do doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo và trình Bộ Tài chính chấp thuận như quy định của điều 18 Nghị định 42/2001NĐ-CP ngày 1/8/2000. Hơn nữa, các văn bản pháp luật khác nhau sử dụng các định nghĩa, khái niệm hay từ vựng khác nhau để chỉ cùng một việc. Lại còn có những quy định pháp luật trái ngược nhau về nội dung. Ví dụ trong khi khoản 3 điều 203 quy định: “Đơn bảo hiểm có thể được cấp theo hình thức đơn bảo hiểm đích danh, đơn bảo hiểm theo lệnh hoặc đơn bảo hiểm vô danh” thì khoản 4 lại quy định phải có tên người được bảo hiểm hoặc có quyền lợi được bảo hiểm và điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm cũng quy định về nội dung của Hợp đồng bảo hiểm bao gồm “Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng”. Như vậy không thể có trường hợp đơn bảo hiểm vô danh như quy định của khoản 3 điều 203. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 99 Một số quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm không có hướng dẫn thi hành làm cho việc thực hiện hết sức khó khăn. Ví dụ như khi quy định nguyên tắc tham gia bảo hiểm tại Việt Nam, Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam” mà không có hướng dẫn nên tình trạng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam nhập CIF vẫn là phổ biến Sửa đổi các quy định pháp luật về bảo hiểm chưa chuẩn xác, không phù hợp với thực tiễn kinh doanh như điều 572 của Bộ luật dân sự, các quy định tại Bộ luật hàng hải đã nêu. Thống nhất sử dụng khái niệm và thuật ngữ trong bảo hiểm. Việc này không phải chỉ đơn thuần là làm trong sáng các thuật ngữ pháp lý mà còn tránh được các tranh chấp không cần thiết có thể phát sinh từ việc sử dụng các khái niệm và từ ngữ này. Ví dụ trong các điều khoản bảo hiểm nhân thọ mà Bộ Tài chính ban hành sử dụng thuật ngữ “giá trị giải ước” để chỉ khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người mua bảo hiểm sau khi hợp đồng bị hủy bỏ, nếu hợp đồng đã có hiệu lực trên 2 năm, nhưng pháp luật kinh doanh bảo hiểm lại sử dụng thuật ngữ giá trị hoàn lại để chỉ việc này (khoản 3 điều 35 Luật kinh doanh bảo hiểm). Bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến các khái niệm người thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, hiện nay kể cả nghị định 115/CP của Chính phủ lẫn quy tắc bảo hiểm xe cơ giới, các quy định của pháp luật dân sự đều không có quy định rõ ràng thống nhất về khái niệm này. Nhiều chủ xe cho rằng 2 xe cùng chủ được 2 lái xe khác nhau lại bị đâm va thì thiệt hại cũng phải được xem xét theo các quy định của quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, thiệt hại phải được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường vì theo quy định của điều 3 Nghị định 115/CP thì: “Chủ xe cơ giới là cá nhân, tổ chức có quyền sở hữu xe hay bất kỳ người nào được phép sử dụng xe cơ giới, kinh doanh vận chuyển hành khách bằng xe cơ giới”. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 100 Cần sớm ban hành các quy định pháp luật về bắt giữ tàu biển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm, các nhà quản lý, kinh doanh hàng hải tranh chấp, yêu cầu chủ tàu đã gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc làm ô nhiễm môi trường biển Việt Nam phải bồi thường. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới quy định khá chi tiết về vấn đề này. Ví dụ: Trung Quốc quy định 18 trường hợp có thể bắt giữ tàu. Pháp luật Cộng hòa Pháp coi con tàu là tài sản dùng để trả những khoản nợ liên quan đến con tàu đó. Hầu hết hệ thống luật lục địa và Anglô- Sắc xông đều có chung quan điểm này. Công ước Quốc tế về bắt giữ tàu biển (1999) coi việc bắt giữ tàu là một biện pháp quan trọng để giải quyết các khiếu nại hàng hải, trong khi đó Bộ luật hàng hải Việt Nam cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có bất kỳ một quy định nào về vấn đề này. Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm cần phải điều chỉnh luôn cả hoạt động bảo hiểm tiền gửi do tổ chức bảo hiểm tiền gửi của ngân hàng Nhà nước tiến hành. Như đã trình bày ở trên, hoạt động bảo hiểm tiền gửi cũng là một dịch vụ bảo hiểm thương mại nên không thể không bị điều chỉnh bởi pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. Việc quản lý bảo hiểm phải thống nhất về một mối, tránh việc thành lập các bộ máy cồng kềnh, chồng chéo kém hiệu quả. III. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VI MÔ 1. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cần có nhìn nhận về một thị trường cạnh tranh mới, đó là quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa đang chuyển biến ngày càng rõ nét, quyết định cho mình những chiến lược thích hợp chuẩn bị cho hội nhập với thị trường thế giới. Các công ty bảo hiểm không thể giữ mãi lối điều hành kinh doanh theo kiểu truyền thống để tồn tại trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, họ bắt buộc phải tái lập lại và nỗ lực trong việc xây dựng những hướng dẫn kinh doanh để theo đuổi kịp những nhân tố thay đổi sau: THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 101 Thứ nhất, Sự gia tăng cạnh tranh ngày càng lớn. Cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm theo xu hướng sẽ chủ yếu tập trung mạnh mẽ vào các yếu tố về giá và dịch vụ khách hàng, nó như là kết quả của mậu dịch tự do và tự do hóa trong ngành bảo hiểm. Những lực mới của sự cạnh tranh sẽ bị chi phối bởi sự hiện diện của những tổ chức kinh doanh bảo hiểm trên thế giới có phương pháp điều hành kinh doanh tốt nhất, cũng những nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác trong nước, chỉ những nhà cung cấp nào phù hợp nhất mới tồn tại được. Thứ hai, Sự hội tụ của những sản phẩm tài chính là xu hướng tất yếu. Để đáp ứng những yêu cầu tổng hợp khác nhau của khách hàng và những thay đổi về nhu cầu và đặc điểm của họ, xu hướng bắt buộc là theo đuổi sự hội tụ những sản phẩm tài chính. Xu hướng này là hướng dẫn bắt buộc đối với những công ty cung cấp dịch vụ tài chính cá biệt, đó là các công ty không thể tự cung cấp toàn bộ các loại dịch vụ tài chính bởi riêng họ, tạo nên những đồng minh hoặc có sự hợp nhất chung trong một tổ chức, nơi mà sẵn sàng cung cấp hàng loạt những sản phẩm dịch vụ tài chính tổng hợp. Thứ ba, Nhu cầu của khách hàng thay đổi. Khách hàng đang ngày càng am tường và nhận thức rõ về những nhu cầu bảo hiểm của chính họ. Tại một thời điểm khách hàng sẽ có sự phân biệt rõ ràng hơn cho mỗi nhu cầu, và am hiểu về rủi ro tài chính họ sẽ phải đối mặt. Thị trường dành cho những nhà bảo hiểm sẽ thay đổi với những khách hàng mới và nảy sinh nhiều loại rủi ro mới cũng như việc xã hội ngay càng trở nên giàu có và nhận thức càng rõ về nhu cầu cho những đảm bảo an toàn và bảo vệ tài chính. Thứ tư, Những thay đổi nhanh chóng trong lĩnh vực công nghệ đang chuyển đổi cách thức kinh doanh với những xu hướng đang được kỳ vọng và lớn mạnh không ngừng cách thức kinh doanh. Khả năng của một công ty bảo hiểm khi tiếp cận với công nghệ mới trong mọi lĩnh vực hoạt động sẽ đảm bảo cho công ty có đủ thế mạnh cạnh tranh với các đối thủ khác. Nó cũng có THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 102 nghĩa rằng nếu công ty nào bị chậm lại quá lâu với sự thay đổi không ngừng của công nghệ sẽ dẫn đến sự tụt hậu và bị loại bỏ. Để đối mặt với những thay đổi trong kinh doanh bảo hiểm, ngành bảo hiểm Việt Nam cần khẩn cấp lập kế hoạch cơ bản cho sự phát triển của mình thông qua hoàn thiện những nhiệm vụ sau: * Phát triển một hạt nhân then chốt trong những công ty bảo hiểm trong nước trở thành người dẫn đầu thị trường và có tác động mạnh tới thị trường, đáp ứng hết những nhu cầu bảo hiểm của thị trường trong nước. * Quan tâm để bảo hiểm là lĩnh vực quan trọng trong sự hợp nhất của hệ thống tài chính. * Đưa ra những sản phẩm mới, sản phẩm cải tiến để tăng khả năng xâm nhập vào thị trường mới. * Phát triển những kênh phân phối sản phẩm mới như thương mại điện tử, Marketing trực tiếp... đảm bảo chi phí và tăng hiệu quả phân phối sản phẩm tới tay khách hàng. * Cải tiến việc nâng cao chất lượng dịch vụ đối với chủ hợp đồng (khách hàng) thông qua việc đáp ứng và quan tâm tới mối quan hệ cộng đồng và áp dụng những công nghệ mới nhất trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng một cách hiệu quả. Còn đối với các công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm trong nước ngay lập tức phải xem xét, đánh giá lại và điều chỉnh những chiến lược kinh doanh của mình. Đặt ra nhu cầu gấp cho việc quyết định những kế hoạch hành động mang tính chiến lược mà có thể bao gồm: - Hợp nhất và mua lại. Hợp nhất và mua lại giữa các công ty, tập đoàn... là khá phổ biến, khi thị trường đã trưởng thành, đảm bảo cho việc tăng sức mạnh vị trí thị trường. Nhằm đảm bảo không bị loại bỏ, các công ty bảo hiểm trong nước tự phải hướng tới cạnh tranh thông qua việc cải thiện sức mạnh tài chính, khả năng áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, năng lực cạnh tranh bằng cách tìm đến nhau để có thể hợp nhất và mua lại. Ví dụ như ở Malaysia, đứng trước những thách thức của quá trình tự do hóa, tập trung hóa và nhu cầu sử dụng những THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 103 phương thức phân phối mới, ngân hàng trung ương nước này đã yêu cầu 56 công ty bảo hiểm trong nước sáp nhập lại thành 10 đến 15 công ty, việc sáp nhập này sẽ đẩy mạnh quá trình tập trung hóa nâng cao tính ổn định của ngành bảo hiểm. - Chiến lược liên kết: Để tạo thế mạnh cũng như đáp ứng những đòi hỏi về sự thành thạo bước vào môi trường cạnh tranh mới trong lĩnh vực tài chính một cách hiệu quả là tạo ra sự liên kết giữa những nhà bảo hiểm với nhau hay với các ngành dịch vụ khác, mối liên kết này được ví như sự "kết hôn", nhằm khai thác sự hiệp lực lẫn nhau. Một ví dụ điển hình và phổ biến đó là Ngân hàng bảo hiểm (bảo hiểm qua ngân hàng), mối liên kết này bao trùm lên cả các hoạt động ngân hàng và bảo hiểm. Nhằm đảm bảo đồng lúc những nhu cầu về tài chính và bảo hiểm của một khách hàng được đáp ứng trong cùng một tổ chức. Thông qua liên két mà những nhà bảo hiểm sẽ có cơ hội khai thác những kênh phân phối sản phẩm mới hiệu quả hơn cách thức truyền thống. - Cải thiện năng suất và hiệu quả hoạt động. Các chuẩn mực đối với các thực tế đang diễn ra trong những mặt đặc biệt quan trọng của nhiều hoạt động và quản lý sẽ thường xuyên được dẫn dắt điều chỉnh để áp dụng như là những tiêu chuẩn đối với các công ty bảo hiểm nhằm tăng cường thành quả của họ. Đồng thời sẽ phải có một sự chuyển đổi hệ thống, một sự thay đổi trong nhận thức để tái cấu trúc lại các quy trình hiện hữu theo đó nhằm cải thiện năng suất và hiệu quả hoạt động. - Đẩy mạnh việc phát triển kỹ thuật chuyên môn. Các doanh nghiệp bảo hiểm nên đẩy mạnh cải thiến kỹ thuật chuyên môn thông qua việc đào tạo kiến thức và kỹ năng hiệu quả cho lực lượng lao động của mình. Mỗi cá nhân phải được đào tạo những kỹ năng hỗn hợp với một khả năng hoàn thành cong việc ở mức cao nhất và luôn có quan điểm tích cực công việc, theo kịp với sự phát triển không ngừng của tiến bộ kỹ thuật. Các công ty bảo hiểm không thể thờ ơ với việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực ngay bây giờ, quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ chuyên viên cao cấp THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 104 luôn nhận thức được kiến thức, khoa học công nghệ là yếu tố của sự thành công. Nhìn nhận kỹ thuật chuyên môn là yếu tố cơ bản trong việc làm thỏa mãn những nhu cầu khác nhau và luôn thay đổi của khách hàng. Các công ty bảo hiểm phải coi việc theo đuổi áp dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ mới là đầu vào của hoạt động kinh doanh cũng giống như những khách hàng của công ty. - Khuyếch trương hình ảnh ra công chúng. Ngành bảo hiểm cần phải quảng bá tới công chúng về bảo hiểm và tầm quan trọng của nó trong cuộc sống của mọi người dân. Một sự gia tăng về nhận thức và am hiểu bảo hiểm của công chúng sẽ xóa bỏ nhiều sự hiểu không đúng và những mong đợi ảo tưởng về ngành bảo hiểm và mở đường cho việc phát triển thị trường lớn hơn về sau. Đồng thời nó sẽ rất quan trọng để đảm bảo cung cấp cho khách hàng những thông tin cập nhật. Nó đặt ra việc sẵn sàng làm thỏa mãn dịch vụ sau bán hàng. Các công ty bảo hiểm phải luôn tỏ ra cảm thông và nhạy bén đối với những khách hàng mà họ đang gặp các vấn đề vướng mắc khi họ đưa ra khiếu nại hoặc tìm kiếm sự bồi thường, bằng việc cung cấp những nhân viên có đủ năng lực, giỏi kỹ thuật và có đầy đủ sự cảm thông để giải quyết chia sẻ khó khăn với khách hàng. Những nỗ lực tận tâm trong phục vụ khách hàng phải được quan tâm sẽ là cách để xóa bỏ tình trạng quan liêu, cửa quyền khi giải quyết vấn đề của khách hàng, chiếm được lòng tin của khách hàng, giữ uy tín của ngành bảo hiểm nói chung và vị trí thị trường của mỗi công ty bảo hiểm nói riêng. Trong khi các công ty bảo hiểm trong nước còn yếu cả về vốn và công nghệ, họ phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh là các tổ chức bảo hiểm nước ngoài mạnh hơn về vốn và kinh nghiệm thì những chuẩn bị của ngành bảo hiểm Việt Nam là rất cần thiết để đẩy nhanh quá trình hội nhập với thị trường bảo hiểm các nước trong khu vực cũng như các tổ chức thương mại quốc tế. Các công ty bảo hiểm Việt Nam cần phải củng cố đầu tư cho phát THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 105 triển quy mô, công nghệ kinh doanh bảo hiểm: kỹ thuật nghiên cứu nghiệp vụ, nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp... 2. Những giải pháp và kiến nghị để phát triển bảo hiểm hàng hóa XNK Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng được xác định có vai trò hết sức quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm, hướng mục tiêu phục vụ cho sự phát triển thị trường nội địa, cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu giai đoạn 1991 - 2000 đạt trung bình khoảng 29%/năm. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu có sự chuyển biến theo hướng tích cực, tăng tỉ trọng máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất, giảm dần tỉ trọng hàng tiêu dùng. Có thể nói, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo việc làm cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước hợp tác kinh tế và đầu tư vào Việt Nam. Hoạt động xuất nhập khẩu từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thế nhưng tỉ lệ bảo hiểm cho hàng hóa XNK của chúng ta vẫn còn rất thấp. Đó là do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, Hoạt động XNK của nước ta chủ yếu áp dụng phương thức xuất khẩu theo điều kiện giao hàng FOB và nhập khẩu theo điều kiện giao hàng CIF. Với các phương thức XNK trên đã hạn chế khả năng ký kết hợp đồng bảo hiểm của các công ty bảo hiểm Việt Nam. Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế hóa bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng. Điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao hàng THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 106 CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu. Như vậy, đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tùy ý thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các công ty của nước mình. Các công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn. Hai là, Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn hạn chế, chưa mang tầm quốc tế. Ngoại trừ Bảo Việt thành lập năm 1965 có vốn lớn, các công ty bảo hiểm khác đều vừa mới được thành lập sau Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, với mức vốn kinh doanh chưa tới 80 tỉ đồng, trong khi đó, nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài ra đời cách đây hàng trăm năm, vốn kinh doanh hàng tỉ Đôla Mỹ. Thêm vào đó, trình độ cán bộ làm công tác bảo hiểm nói chung còn bất cập so với đòi hỏi của của thị trường còn non yếu so với mặt bằng thế giới. Theo đánh giá khách quan, các nhà XNK nước ngoài chưa thực sự yên tâm khi mua bảo hiểm của Việt Nam và điều này làm giảm sức thuyết phục khi các nhà đàm phán ngoại thương yêu cầu đối tác nước ngoài trao cho ta quyền mua bảo hiểm. Ba là: Các nhà XNK Việt Nam đã quen với tập quán thương mại xuất khẩu theo điều kiện FOB, nhập khẩu theo điều kiện CIF: Việc thay đổi tập quán cũ nay khó thực hiện trong một sớm một chiều. Tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định với phương thức giao hàng như trên, phía Việt Nam sẽ tránh được nghĩa vụ thuê tàu và mua bảo hiểm, đôi khi công việc này khó thực hiện do phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đối tác nước ngoài trong bối cảnh năng lực hoạt động của các công ty bảo hiểm và đội tàu biển Việt Nam còn hạn chế. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 107 Cần phải nâng cao tỉ trọng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước. Ở tầm vĩ mô, nâng cao tỉ trọng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước có tác dụng góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc gia. Với hoạt động xuất khẩu theo điều kiện CIF, hàng hóa được chuyên chở bằng tàu trong nước và được công ty bảo hiểm trong nước bảo hiểm sẽ tạo nguồn thu ngoại tệ và chi phí vận tải và phí bảo hiểm về thực chất được tính vào giá hàng và do phía nước ngoài trả. Nhập khẩu theo điều kiện FOB có tác dụng giảm chi ngoại tệ, trong trường hợp này chúng ta chỉ phải chi ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, mà không phải chi tiền nhập dịch vụ vận tải đường biển và dịch vụ bảo hiểm của nước ngoài như trước đây. Số ngoại tệ chi cho mỗi hợp đồng ngoại thương giảm sẽ cải thiện tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài trong nhiều năm như hiện nay của nước ta. Đối với các công ty XNK nếu đơn bảo hiểm được ký kết với các công ty bảo hiểm Việt Nam, công ty XNK tránh được những phiền phức về thủ tục pháp lý, ngôn ngữ, địa lý... có thể sẽ gặp phải khi sự cố bảo hiểm xảy ra. Trong trường hợp công ty bảo hiểm Việt Nam không đủ năng lực bảo hiểm, phía Việt Nam vẫn có lợi do chúng ta có điều kiện lựa chọn công ty bảo hiểm uy tín bảo hiểm cho hàng hóa của mình, đồng thời lựa chọn các điều khoản bảo hiểm phù hợp với tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của công ty. Hơn nữa, tập quán thương mại quốc tế chỉ yêu cầu bên xuất khẩu mua bảo hiểm ở mức độ tối thiểu. Nhà nhập khẩu muốn an toàn hơn cho tài sản của mình phải ký các hợp đồng bổ sung. Như thế, suy cho cùng công ty nhập khẩu Việt Nam vẫn phải mua bảo hiểm trong trường hợp nhập khâu CIF. Công ty sẽ chủ động hơn nếu giành được quyền mua bảo hiểm thông qua hợp đồng nhập khẩu FOB hoặc C&F. Kim ngạch hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước tăng có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển. Theo nguyên lý số đông, lượng khách hàng tham gia càng lớn công ty bảo hiểm càng có điều kiện phân chia rủi ro giữa các đối tượng bảo hiểm, tránh cho công ty trước THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 108 những tổn thất lớn ảnh hưởng không tốt đến tình hình tài chính công ty. Và điều này càng có ý nghĩa hơn khi mà tỉ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK nước ta trong những năm qua luôn ở mức cao, khoảng 65- 70%. Mức bồi thường này đặt công ty bảo hiểm trước những nguy cơ tiềm ẩn không lường trước được. Tóm lại, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt nền kinh tế nước ta trước những thời cơ mới và thách thức mới. Trong bối cảnh đó, ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải nói riêng cần chủ động hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm, tăng cường tiềm lực tài chính... để hội nhập thành công và cạnh tranh có hiệu quả với các công ty bảo hiểm nước ngoài, tạo cơ sở nâng cao tỉ trọng kim ngạch hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước. Để nâng cao tỉ trọng hàng hóa XNK được bảo hiểm trong nước trước tiên cần có sự cố gắng nỗ lực của chính các công ty bảo hiểm. Trong những năm qua, ngành bảo hiểm Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong việc khai thác khách hàng mới. Chất lượng phục vụ được nâng lên rõ rệt. Ngoài việc cung cấp sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chủ động tăng cường tiếp cận khách hàng để tư vấn kỹ thuật chuyên môn, giúp khách hàng lựa chọn rủi ro tham gia bảo hiểm cho phù hợp và đạt hiệu quả. Tuy vậy, trong thời gian tới, ngành bảo hiểm Việt Nam cần không ngừng hơn nữa nâng cao năng lực bảo hiểm lên ngang tầm quốc tế. Phải có chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ tinh thông kỹ thuật nghiệp vụ, hiểu luật pháp quốc gia, quốc tế, có nghệ thuật giao tiếp, ứng xử trước khách hàng; phải đa dạng hóa sản phẩm, khai thác triệt để thị trường trong nước; phải có chiến lược nâng cao năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm để các công ty bảo hiểm Việt Nam có khả năng ký các hợp đồng bảo hiểm cho những tài sản có giá trị lớn, đối với các công ty bảo hiểm nhỏ cần mạnh bạo sáp nhập lại thành các công ty lớn, Nhà nước cần tăng cường cung cấp vốn cho công ty Bảo Việt để nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty này với các công ty THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 109 bảo hiểm nước ngoài, tạo uy tín với các công ty XNK nước ngoài khi họ ký hợp đồng bảo hiểm với ta. Nhà nước cần có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích các công ty XNK ký kết hợp đồng theo điều kiện xuất khẩu CIF, nhập khẩu FOB hoặc C&F như: giảm thuế XNK cho chủ hàng nào tham gia bảo hiểm tại Việt Nam, hoặc giảm thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng, giảm thủ tục hải quan, hoặc chủ hàng được giao hạn ngạch XNK cao hơn so với những chủ hàng không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam... Như trên đã phân tích, điều kiện giao hàng có tác dụng chủ yếu đến phân định trách nhiệm giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại, còn ý nghĩa kinh tế không rõ ràng. Với các chính sách ưu đãi trên, các công ty XNK sẽ chủ động hơn trong đàm phán ký kết, thực hiện phương thức xuất khẩu theo điều kiện CIF, nhập khẩu theo điều kiện FOB hoặc C&F tạo cơ sở nâng cao tỉ trọng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước, đồng thời thúc đẩy ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển. Đối với các công ty XNK cần nhanh chóng thay đổi tập quán thương mại cũ. Chuyển dần từ phương thức xuất khẩu FOB, nhập khẩu CIF sang xuất khẩu theo điều kiện FOB. Điều này xét về toàn cục có lợi cho nền Kinh tế quốc dân do đã tạo cơ hội cho ngành bảo hiểm hàng hải và ngành vận tải biển phát triển. Và chính sự phát triển của hai ngành này có tác động ngược trở lại góp phần mở rộng không ngừng hoạt động kinh tế đối ngoại. Sự phối kết hợp hỗ trợ nhau cùng phát triển của ba lĩnh vực XNK, bảo hiểm hàng hải, và vận tải đường biển có ý nghĩa quan trọng. Sẽ là rất khó cho hoạt động XNK nếu ngành bảo hiểm và vận tải biển kém phát triển, và ngành bảo hiểm và vận tải biển cũng không thể phát triển mạnh được trong điều kiện kim ngạch XNK thấp. Tóm lại, để phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm tới, các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay sẽ phải thay đổi rất nhiều về các cách tiếp cận khách hàng, khai thác sản phẩm và các chiến lược marketing bởi lẽ các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước còn yếu kém về rất nhiều mặt nghiệp vụ kinh doanh lẫn tiềm lực tài chính. Nhưng hơn hết, Nhà nước cần phải kết hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để có thể có những giải pháp điều chỉnh về quản lý các quỹ đầu tư, luật cạnh tranh v.v.. thì thị trường bảo hiẻm Việt Nam mới có thể đứng vững trong hội nhập Quốc tế. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 110 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chương I: Khái quát chung về thị trường bảo hiểm .................................. 1 I. Sự ra đời và phát triển của bảo hiềm................................................... 1 l. Nguồn gốc ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm thế giới. .............. 1 1.l. Dự trữ thuần túy. .............................................................................. 1 1.2. Cho vay nặng lãi.............................................................................. 2 1.3. Thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên. .......... 2 2. Sự phát tiền của ngành bảo hiểm thế giới. .......................................... 3 2.1. Các thị trường bảo hiểm Châu Âu. .................................................. 3 2.2. Tình hình thị trường bảo hiểm toàn cầu. .......................................... 7 II. Khái niệm và đặc điểm của thị trường bảo hiểm. ................................ 9 1. Các khái niệm cơ bản về bảo hiểm - tái bảo hiểm. .............................. 9 2. Thị trường bảo hiểm ......................................................................... 13 2.l - Khái niệm về thị trường bảo hiểm ................................................. 13 2.2. Các yếu tố cấu thành nên thị trường bảo hiểm. .............................. 14 2.3. Những đặc trưng cơ bản của thị trường bảo hiểm ......................... 20 3. Các loại bảo hiểm ............................................................................. 25 3.l - Bảo hiểm xã hội ............................................................................ 25 3.2. Bảo hiểm thương mại .................................................................... 26 II. Vai trò của thị trường bảo hiểm ......................................................... 28 1. Vai trò của thị trường bảo hiểm trong nền kinh tế ............................ 28 1.1 Tạo ra một nguồn vốn lớn bằng phí bảo hiểm và tập trung vào một số đầu mối để đầu tư vào những lĩnh vực khác để phát tnển nền kinh tế quốc dân. .................................................................................... 28 1.2. Bổ sung vào ngân sách của Nhà nước bằng lãi bảo hiểm. .............. 28 1.3. Tăng thu và giảm chi cho cán cân thanh toán quốc gia. ................. 29 1.4. Thị trường Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế nhanh chóng hơn. ........................................................................... 29 1.5. Thị trường Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện, bảo toàn vốn vay của các ngân hàng thương mại một cách thuận lợi. ............................... 30 1.6. Thị trường bảo hiểm có lợi cho sự phát triển và củng cố nền kinh tế hàng hóa ở nông thôn. .................................................................... 31 1.7. Thị trường bảo hiểm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc họp tác kinh tế, kĩ thuật, thương mại với nước ngoài và cho việc thu hút đầu tư của nước ngoài. .......................................................................... 31 1.8. Thị trường Bảo hiểm có thể tăng cường đề phòng, hạn chế tai nạn rủi ro, giảm bớt tổn thất của cải của xã hội. .................................... 32 THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 111 2. Vai trò của thị trường bảo hiểm đối với các thị trường khác. ............ 32 IV. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển một số TT trên thế giới .......... 34 l. Thị trường bảo hiểm Anh .................................................................. 34 2. Các thị trường bảo hiểm Châu á. ...................................................... 36 Chương II: Tình hình TTBH Việt Nam trong những năm qua ................. 39 I. Đánh giá tình hình phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam ............ 39 1. Thị trường bảo hiểm nhân thọ. ......................................................... 44 2. Một số tin tức chính tình hình TTBH trên thế giới năm nay. ............ 65 II. Mô hình tổ chức thị trường bảo hiểm. ............................................... 67 1. Theo vai trò trong thị trường bảo hiểm. ............................................ 67 2. Theo tính chất sở hữu. ...................................................................... 70 III. Môi trường pháp lý đối với hoạt động của Thị trường bảo hiểm. .... 73 1. Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm giai đoạn trước năm 1993 .............................................................................. 73 1.1. Một số đặc điểm của thị trường BHVN trước năm 1993............... 73 1.2. Các văn bản pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. ............. 74 1.3. Những tồn tại về môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong giai đoạn này. ............................................................... 76 2. Thực trạng môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm từ năm 1993 đến trước khi Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời .............. 80 2.1. Một số đặc điểm của TTBH Việt Nam trong giai đoạn này. .......... 80 2.2. Các văn bản pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm và nội dung chủ yếu .................................................................................. 81 2.3. Những vấn đề còn tồn tại về môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong giai đoạn này. .............................................. 84 3. Sự ra đời Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam. ................................ 85 4. Một số nhận xét chung về luật kinh doanh bảo hiểm ....................... 86 Chương III. Bảo hiểm Việt Nam trước thềm hội nhập và giải pháp đẩy mạnh sự phát triển của TTBH Việt Nam đến 2010 .................................. 88 I. Bảo hiểm Việt Nam vào hội nhập ........................................................ 88 1. Xu hướng phát triển thị trường bảo hiểm thế giới. ............................ 88 2. Xu hướng phát triển thị trường Việt Nam ......................................... 90 II. Các giải pháp vĩ mô phát triển thị trường BHVN .............................. 93 1. Đa dạng hoá sở hữu ngành bảo hiểm. ............................................... 94 2. Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản lý vốn đầu tư. ............................................................ 96 3. Sửa đổi, hoàn thiện môi trường pháp lý ............................................ 97 III. Các giải pháp phát triển vi mô ........................................................ 100 1. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm................................................ 100 2. Những giải pháp và kiến nghị để phát triển BH hàng hóa XNK ..... 105 KẾT LUẬN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Lê Thị Hương Lan - Nhật 1 - K38F SVDTU.net SVDTU.net 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_bh_huong_lan_825.pdf
Tài liệu liên quan