Đề tài Thị trường chứng khoán, giải pháp và định hướng nhằm phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Tóm lại thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc huy đọng và phân phối các nguồn vốn đầu tư hợp lý. Thông qua thị trường chứng khoán, các nguồn vốn trong nước và nước ngoài được tập trung sử dụng cho các dự án đầu tư, nhu cầu mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, Tuy nhiên, thời gian qua thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động vẫn còn tồn tại một số nhược điểm. Vấn đề đặt ra, là làm sao đó để hạn chế những nhược điểm, giúp cho thị trường hoạt động có hiệu quả và trở thành một kênh thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.

doc46 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường chứng khoán, giải pháp và định hướng nhằm phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nếu một lúc nào đó họ sẽ tăng giá để kiếm lợi cao. * Phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc về hoạt động của một đơn vị kinh tế. Điều này tạo hiệu quả xấu cho đơn vị kinh tế này, có thể đem tình trạng cổ phiếu được đưa ra bán ồ ạt làm giá trị cổ phiếu giảm đột ngột. Những người có ý đồ xấu có thể đứng ra mua các cổ phiếu đó để khống chế công ty và hưởng một số lãi đáng kể sau khi tin đồn đã được kiểm chứng. * Mua bán nội gián: một cá nhân nào đó lợi dụng thông tin của nội bộ trong một đơn vị kinh tế để mua, bán cổ phiếu của đơn vị đó có ảnh hưởng đến giá trị của cổ phiếu nếu thông tin đó được phổ biến rộng rãi. Mua bán nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại, vì người có nguồn thông tin từ bên trong sẽ có một lợi thế không hợp lý đối với nhà đầu tư bên ngoài để thu hút lợi về riêng cho mình hay tránh lỗ lãi và dĩ nhiên đi ngược lại nguyên tắc mọi nhà đầu tư đều phải có cơ hội như nhau. Mua bán nội gián được xem như vi phạm quyền lợi chung, vì lợi dụng nguồn thông tin từ bên trong, người mua bán thu được lợi nhuận hay tránh được lỗ và hậu quả sẽ do những người không có được nguồn thông tin đó gánh chịu. * Mua bán cổ phiếu ngoài TTCK. Nếu để việc mua bán này được tự do thực hiện sẽ gây hậu quả khó lường vì bộ phận quản lý không thể nào biết được việc nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của một đơn vị nào đó. Mọi sự mua bán bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác, thậm chí đưa đến việc khống chế hay thay thế cả lãnh đạo của đơn vị. Do đó hầu hết các TTCK đều qui định mọi sự mua bán cổ phần đã đăng ký với TTCK phải được thực hiện thông qua TTCK. Nếu không qui định như vậy thì mọi sự lạm dụng trong việc mua bán và chuyển nhượng có thể xảy ra có khả năng tạo ảnh hưởng xấu đối với các đơn vị kinh tế có liên quan. 3.6. Các đối tượng tham gia TTCK 3.6.1. Nhà phát hành Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là chính phủ, chính quyền địa phương, công ty hay các tổ chức tài chính. 3.6.2. Nhà đầu tư Nhà đầu tư có thể chia làm hai loại: Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. Các nhà đầu tư cá nhân Nhà đầu tư cá nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy, các nhà đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình. Các nhà đầu tư có tổ chức Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn và có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông qua các tổ chức này có ưu điểm là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua bán chứng khoán cho mình. 3.6.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán 3.6.3.1. Công ty chứng khoán Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành tư doanh, môi giới, quản lí danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán 3.6.3.2. Các ngân hàng thương mại Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán nhưng chỉ được trong giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. 3.6.4 . Các tổ chức có liên quan đến TTCK 3.6.4.1. Cơ quan quản lí nhà nước Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Cơ quan này có những tên gọi khác nhau tùy từng nước.Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB - Securities Investment Boart ), tại Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng khoán ( SEC - Securities And Exchange Comission ) hay ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán ( ESC - Exchange Surveillance Comission ) được thành lập vào năm 1992 và đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Finan cial Supervision Agency. Và ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996. 3.6.4.2. Sở giao dịch chứng khoán. Hiện nay trên thế giới có ba hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán (SGDCK): Thứ nhất: SGDCK được tổ chức dưới hình thức " câu lạc bộ mini " hay được tổ chức theo chế độ hội viên.Đây là hình thức tổ chức SGDCK có hình thức tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của SGDCK tự tổ chức và quản lý SGDCK theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước.Các thành viên của SGDCK bầu ra hội đồng quản trị để quản lý và hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành. Thứ hai: SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên. SGDCK tổ chức dưói hình thức này hoạt động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng khoán do chính phủ lập ra. Thứ ba: SGDCK được tổ chức dượi dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành SGDCK do Uỷ ban chứng khoán bổ nhiệm. Thành viên của SGDCK có thể là cá nhân hoặc các công ty chứng khoán ( còn gọi là công ty môi giới chứng khoán ). Để trở thành thành viên của một SGDCK, công ty phải được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động, phải có số vốn tối thiểu theo quy định và có những chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán, ngoài ra công ty còn phải thoả mãn yêu cầu của từng sở giao dịch riêng biệt. Một công ty chứng khoán có thể là thành viên của hai hay nhiều SGDCK, nhưng khi đã là thành viên của SGDCK( thị trường chứng khoán tập trung) thì không được là thành viên của thị trường phi tập trung (thị trường phi tập trung) và ngược lại. Để cho các giao dịch diễn ra công bằng, đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư, SGDCK có bộ phận chuyên theo dõi, giám sát các hoạt động giao dịch buôn bán chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao dịch như là gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch có giàn xếp trước. Bộ phận giám sát tiến hành theo dõi dưới hai hình thức là theo dõi thường hoặc theo dõi định kỳ. Khi phát hiện có vi phạm thì xử lý nhgiêm minh,nếu đặc biệt nghiêm trọng thì trình lên uỷ ban chứng khoán để điêù tra xử lý. 3.6.4.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số chức năng chính sau: - Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán. - Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về kinh doanh chứng khoán. - Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên. - Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong nghành chứng khoán. 3.6.4.4. Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ. 3.6.4.5. Các tổ chức đánh gia hệ số tín nhiệm Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên đưa ra các đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ số tín nhiệm. 3.7. Hoạt động của TTCK. 3.7.1. Các nghiệp vụ của thị trường chứng khoán 3.7.1.1. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán chính là việc mua đi bán lại các loại giấy tờ có giá để kiếm lời hoặc để chuyển vốn đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác hoặc hạn chế những thiệt hại cho từng công ty, từng cá nhân. Đối với các cá nhân, các công ty nhỏ không có đại diện của mình tại sở giao dịch chứng khoán, việc mua bán chứng khoán của họ đều phải thông qua các hãng môi giới và các ngân hàng. Khách hàng có thể sử dụng 3 loại lệnh đặt mua, đặt bán và yêu cầu các nhà môi giới, ngân hàng thực hiện sau: - Lệnh giới hạn: Theo lệnh này khách hàng đã ấn định sẵn giá cả của các giấy tờ tại một điểm hoặc trong một giới hạn khoảng nào đó. Khi bán hay mua khách hàng sử dụng lệnh giới hạn có nghĩa là họ có những thông tin khá rõ rệt các khoản chứng khoán mà họ quan tâm. Do đó họ không muốn bán với giá rẻ hơn và mua với giá đắt hơn. - Lệnh thị trường: Được sử dụng khi khách hàng không có những thông tin đầy đủ rõ rệt về giá cả các loại chứng khoán mà họ định mua hay định bán, do đó họ ra lệnh mua hay bán các chứng khoán theo giá thị trường. Để tránh những thiệt thòi khách hàng thường gắn hiệu lực của lệnh này trong một khoảng thời gian nhất định. - Lệnh dừng: Là lệnh được sử dụng khi người kinh doanh chứng khoán muốn bảo vệ nó lợi nhuận đã thu được về mặt danh nghĩa hoặc hạn chế thua lỗ trong trường hợp phán đoán của người kinh doanh không phù hợp với thị trường. Lệnh dừng có hai loại: - Lệnh dừng bán: Được sử dụng để bảo vệ số lợi nhuận của người kinh doanh khi họ phán đoán giá một loại chứng khoán nào đó có xu hướng tăng lên nhưng thực tế thì lại hạ xuống tới một mức nào đó. - Lệnh dừng mua: Được sử dụng để hạn chế thua lỗ trong trường hợp người kinh doanh thực hiện việc bán trước mua sau. Họ phán đoán giá một loại chứng khoán nào đó sẽ hạ xuống trong tương lai nhưng thực tế thì giá của nó thì lại tăng lên. Do đó họ thực hiện lệnh này để mua vào các chứng khoán mà họ đã bán đi khi giá của nó tăng lên đến một mức nào đó. 3.7.1.2. Nghiệp vụ phát hành chứng khoán. Nghiệp vụ phát hành chứng khoán thực chất là việc tập trung các vốn cung cấp cho khoản đầu tư công cộng hoặc cho các khoản đầu tư tại công ty. Nó có ý nghĩa vô cùng to lớn trong thời kỳ tiền công nghiệp, nó đã tạo ra những nguồn vốn lớn cho phép các nhà nước tư bản và các công ty mở rộng và phát triển nền sản xuất. Phát hành chứng khoán có thể được tiến hành theo hai phương pháp chính là: - Tự phát hành: Khi phát hành, tổ chức phát hành phải đảm nhiệm toàn bộ quá trình phát hành từ việc lựa chọn địa điểm, thời gian và mọi thủ tục theo quy định của phát luật. - Phát hành ngoại lai: Khi phát hành tổ chức phát hành phải đề nghị các tổ chức ngân hàng và tín dụng trợ giúp để thúc đẩy phát triển nhanh tốc độ phát hành và khả năng tập trung vốn của người phát hành. 3.7.1.3. Nghiệp vụ bảo quản và quản lý chứng khoán Nghiệp vụ bảo quản ra đời cùng với sự xuất hiện của nghề ngân hàng, đầu tiên là bảo quản tiền, kim loại, đá quý. Bắt đầu từ thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, việc bảo quản chứng khoán đã trở thành nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng. Hai phương pháp bảo quản chủ yếu là: - Bảo quản đóng: Ngân hàng nhận bảo quản các hộp, các gói được niêm phong kỹ lưỡng, ngân hàng không được biết nội dung bên trong và không được sử dụng vật bảo quản để kinh doanh. - Bảo quản mở: Được áp dụng phổ biến đối với các loại chứng khoán. Ngân hàng biết rõ nội dung tính chất của các loại chứng khoán của khách hàng gửi. Ngân hàng được sử dụng các loại chứng khoán đó để kinh doanh và phải có nghĩa vụ hoàn lại các chứng khoán cùng loại chứ không nhất thiết phải hoàn lại đúng các chứng khoán mà trước đó khách hàng đã gửi vào. 3.7.2. Nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán. 3.7.2.1. Nguyên tắc trung gian mua bán chứng khoán. Hoạt động mua bán chứng khoán không phải trực tiếp diễn ra giữa những người muốn mua và bán chứng khoán thực hiện mà do các nhà trung gian môi giới thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian căn bản cho tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc trung gian nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán là chứng khoán thực và thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Vì những nhà đầu tư không thể xét đoán một cách nhanh chóng và chính xác giá trị thực của từng loại chứng khoán và cũng không được chính xác xu hướng biến động của nó. Vì vậy nếu nhà môi giới có thái độ không khách quan trong hoạt động trung gian sẽ gây thiệt hại cho các chà đầu tư. 3.7.2.2 Nguyên tắc định giá của mua bán chứng khoán. Giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán do các nhà môi giới đưa ra. Mỗi nhà môi giới định giá mỗi loại chứng khoán tại từng thời điểm tuỳ theo sự xét đoán, kinh nghiệm và kỷ thuật dựa trên lượng cung cầu loại chứng khoán đó trên thị trường. 3.7.2.3 Nguyên tắc công khai của TTCK. Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá. Thông tin về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các công ty phát hành, số lượng chứng khoán và giá cả của từng loại chứng khoán đều được thông báo công khai trên thị trường. Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số lượng mua bán và giá cả thống nhất lập tức được thông báo ngay. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán chứng khoán. 3.8. Vai trò của thị trường chứng khoán. Sự tạo lập và phát triển TTCK có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường, cụ thể: 3.8.1. Khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư Trong kinh tế thị trường, vốn phải được huy động từ mọi tầng lớp nhân dân và nguồn vốn này thường rất phân tán nên cần phải có những định chế đặc biệt thực hiện để thu hút nguồn vốn này. Vai trò của ngân hàng là thu hút vốn và bảo vệ sự an toàn tiền ký gửi của cá nhân cũng như đơn vị và trong quá trình đó ngân hàng có thể sử dụng một tỷ lệ nhất định của tiền ký gửi để cho vay hay đầu tư vào các loại chứng khoán có tính thanh khoản cao. Ngân hàng hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận nhưng cũng phải đảm bảo mọi thanh toán của khách hàng. Cho nên phải cân nhắc giữa lợi nhuận và thanh khoản. Trong nền kinh tế thị trường hệ thống ngân hàng thương mại có chỗ dựa vững chắc là ngân hàng trung ương. Định chế cho vay sau cùng để bảo đảm thanh khoản cho các các ngân hàng. Đây là mối quan hệ truyền thống trong hệ thống ngân hàng để huy động và cấp tín dụng cho cá nhân hay đơn vị có nhu cầu. Với sự ra đời của thị trường chứng khoán, một hệ thống thứ hai khuyến khích tiết kiệm và đầu tư của dân chúng cũng như những định chế có khả năng huy động hay thu hút nguồn trên của dân chúng như: Quý hưu bổng, công ty bảo hiểm. Hoạt động của thị trường chứng khoán là thu hút nguồn vốn lớn cho cả khu vực tư cũng như khu vực công. Nguồn vốn này không phải do thị trường chứng khoán thu hút, nhưng chính nhờ có thị trường chứng khoán và hoạt động của nó, cá nhân và định chế tài chính mới đầu tư, vì người ta biết rằng thanh khoản có thể bảo đảm khi có nhu cầu. 3.8.2. TTCK phương tiện huy động vốn Trước đây khi thị trường chứng khoán chưa hình thành, các đơn vị kinh tế đều lệ thuộc vào ngân hàng để có vốn hoạt động nghĩa là phải đi vay với lãi suất biến đổi tuỳ theo thị trường. Ngày nay, tại hầu hết các nước, các đơn vị kinh tế cũng như nhà nước đã huy động vốn trực tiếp từ các nguồn tiết kiệm bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái phiếu. Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà trung gian. Các nhà môi giới, các nhà bảo hành cổ phiếu của một đơn vị kinh tế có thể phát hành bán rộng rãi trong công chúng để huy động vốn. Do đó được đảm bảo và được sử dụng lâu dài. Càng làm ăn có hiệu quả cổ phiếu càng có giá. Đơn vị kinh tế không phải lo lắng về thời gian hoàn trả như đi vay ngân hàng và cũng không phải bận tâm về giá trị cổ phiếu lên xuống. Về phía chính phủ trung ương hay địa phương cũng có thể huy động vốn bằng cách phát hành các loại chứng khoán như công khố phiếu hay tín phiếu kho bạc. Chính phủ cũng có thể sử dụng tập đoàn bảo lãnh phát hành hay thông qua ngân hàng trung ương. Các loại công khố phiếu của chính phủ là một loại công cụ phổ biến để huy động nguồn vốn cần thiết cho chỉ tiêu và đầu tư của chính phủ thay vì phải sử dụng biện pháp phát hành tiền tệ để dẫn đến lạm phát. Không có thị trường chứng khoán thì nhà nước vẫn phát hành được chứng khoán nhưng có thị trường chứng khoán thì nhà nước bán được một cách dẽ dàng hơn. Vì công khố phiếu của nhà nước cũng là một loại chứng khoán chuyển nhượng được khi cần tiền sở hữu chủ có thể đưa nó ra bán tại thị trường chứng khoán. Dân chúng thường thích các loại công trái quốc gia vì lãi suất ổn định và đảm bảo thu hồi vốn lúc đáo hạn. Nó phù hợp với nhà đầu tư không thích mạo hiểm, không chấp nhận rủi ro cao. 3.8.3. TTCK là công cụ giảm áp lực lạm phát. Ngân hàng trung ương với vai trò đều hoà lưu thông tiền tệ, khi xuất hiện hiện tượng lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ đưa ra bán các loại kỳ phiếu trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền đang lưu thông về. Với chính sách khuyến khích bằng lãi suất và bảo đảm chi trả, dân chúng sẽ sẵn sàng mua kỳ phiếu ngân hàng và từ đó sẽ làm giảm áp lực lạm phát. 3.8.4. TTCK có tổ chức sẽ cung cấp mọi thông tin cần thiết. Thị trường chứng khoán thu thập và phân tích các nguồn thông tin cần thiết như thành tích trong quá khứ của một đơn vị kinh tế, triển vọng trong tương lai của đơn vị đó cũng như sự đối chiếu với các loại chứng khoán khác. Nếu không có thị trường chứng khoán mỗi cá nhân phải tự tìm tòi các nguồn thông tin cần thiết và cũng không thể đầy đủ. Điều này sẽ hạn chế hoạt động của thị trường, hạn chế sự di chuyển nguồn vốn và tăng mức rủi ro, làm cho sự phân bố tài nguyên trong đầu tư kém hiệu quả. Trong một hệ thống không có thị trường chứng khoán, sự hình thành và kinh doanh chứng khoán sẽ rất tốn kém mà còn không có hiệu quả. Người phát hành có thể phải đi rao bán từng nhà, tìm từng khách hàng và thị trường. Như vậy sẽ không vượt ra ngoài một phạm vi hẹp, không thể đưa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. 3.8.5. TTCK đảm bảo tính thanh khoản. Thị trường sơ cấp đảm nhiệm việc phát hành cổ phiếu, chứng khoán mới trong khi đó thị trường thứ cấp là nơi mua bán các loại cổ phiếu hay chứng khoán đã phát hành. Việc mua bán cổ phiếu hay chứng khoán trên thị trường thứ cấp không tạo thêm nguồn vốn mới cho đơn vị kinh tế hay chính phủ mà chỉ đơn giản thay đổi quyền sở hữu đối với cổ phiếu hay chứng khoán. Thị trường thứ cấp có vai trò kinh tế quan trọng là bảo đảm tính thanh khoản của các loại công cụ tài chính, có nghĩa là cổ phiếu và chứng khoán có thể thông qua các trung gian, các nhà môi giới bán ra để thu tiền mặt đáp ứng nhu cầu cần thiết đối với cá nhân hay đơn vị. Chính sự đảm bảo này mà cá nhân hay các định chế tài chính sẵn sàng mua cổ phiếu hay chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Nếu không có phương tiện này, người ta sẽ rất e dè trong việc sử dụng những nguồn tiết kiệm hoặc dự phòng khi bất trắc. Tuy nhiên, chúng ta cần chú ý đến các điều tiên quyết để hiện kim hoá cổ phần hay chứng khoán. - Phương tiện dễ dàng và phí thực hiện thấp. Nếu mất nhiều và phí cao, cổ phiếu hay chứng khoán có tính thanh khoản thấp. - Nguồn vốn chính phải được bảo vệ, không chịu ảnh hưởng của sự biến động giá trị. Mọi biến động trên thị trường đều tạo ảnh hưởng trên giá trị của cổ phiếu hay chứng khoán, do đó đôi khi người muốn bán không bảo đảm được vốn chính (mệnh giá) của cổ phiếu. - Chứng khoán có thời gian thu hồi càng lâu, tính thanh khoản càng thấp. 3.8.6. TTCK thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Nhờ TTCK, các doanh nghiệp mới có thể phát hành, đem bán các cổ phiếu, trái phiếu của họ. Ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận các cổ phiếu, trái phiếu của những công ty đủ điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi… và dân chúng chỉ mua cổ phiếu của những công ty thành đạt. Với sự tự do lựa chọn của người mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu, không còn cách nào khác hơn là những nhà quản lý các doanh nghiệp phải tính toán, làm ăn đàng hoàng và có hiệu quả kinh tế. Hơn nữa, luật lệ của TTCK bắt buộc các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán phải công bố công khai các báo cáo cân đối tài chính, kết quả kinh doanh hàng quý, hàng năm trước dân chúng Qua đó dân chúng có cơ hội, nhận định, đánh giá được công ty. Việc mua bán cổ phiếu của công ty một cách tự do, khiến người có cổ phiếu trở thành sở hữu chủ của công ty, họ có thể kiểm soát công ty một cách dễ dàng qua các cơ quan quản lý công ty và nhận biết được khả năng hoạt động của công ty qua sự chấp nhận của thị trường chứng khoán. Từ đó thúc đẩy công ty làm ăn đàng hoàng hơn to đẹp hơn. 3.8.7. TTCK tạo thói quen về đầu tư Chúng ta biết rằng nguồn tiết kiệm tiềm tàng trong dân chúng rất lớn và hệ thống ngân hàng chưa thu hút được tiềm năng này. Hơn nữa, dân chúng cũng chưa phân biệt rõ thế nào là hùn vốn. Chúng ta đã thấy nhiều công ty cổ phần ra đời và nhiều cổ đông đã xem phần vốn của mình như một loại ký thác và đòi hỏi đơn vị phải đảm bảo một lãi suất tương đương cho phần hùn của mình không cần biết đơn vị làm ăn ra sao. TTCK, với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu, sẽ là một môi trường thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu và các loại chứng khoán cũng như mọi nghiệp vụ mua bán ở thị trường thứ cấp. Với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi người dân sẽ sử dụng nguồn tiết kiệm của mình để mua cổ phiếu hay chứng khoán với niềm tin về lợi nhuận hay tiền lãi bảo đảm. Dĩ nhiên là các nhà trung gian và môi giới phải làm tốt vai trò trung gian của mình để cho các nhà đâù tư riêng lẻ được thông tin đầy đủ về các đơn vị kinh tế đã hoặc đang chuẩn bị phát hành cổ phiếu. Nguồn tiết kiệm quan trọng này nếu không có TTCK sẽ tiếp tục nằm yên dưới dạng cất trữ không sinh lợi cho bản thân người tiết kiệm và cũng chẳng đóng góp gì cho quá trình phát triển kinh tế. TTCK chẳng những khuyến khích đầu tư mà còn là nơi tạo điều kiện thực hiện mọi sự mua bán dễ dàng khi cần thiết. Sự phát triển của thị trường sơ cấp càng trở nên hấp dẫn và tạo thói quen cho mọi người tham gia vào hoạt động của thị trường. 3.8.8. TTCK điều tiết việc phát hành cổ phiếu. Sự tồn tại và phát triển của TTCK hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự tham gia thị trường của các đơn vị kinh tế. Tuy nhiên, sự tham gia này phải có điều kiện và chỉ khi nào các điều kiện này được thoả mãn đầy đủ đơn vị mới có khả năng yết giá trên thị trường để tiến hành mua bán. TTCK có quyền tạm ngừng mua bán một loại cổ phiếu nào đó có vi phạm có thể đưa đến thiệt hại cho nhà đầu tư và chỉ cho phép yết giá trở lại khi mọi điều kiện cần thiết được áp dụng đầy đủ. Như vậy, vai trò quản lý của TTCK là đảm bảo sự an toàn cho các nhà đầu tư bằng cách xem xét, đánh giá các loại cổ phiếu trước khi cho phép đưa ra mua bán. Vai trò điều tiết của TTCK còn có thể hướng các đơn vị kinh tế đầu tư vào các ngành hay lãnh vực được khuyến khích cũng như thúc đẩy chương trình cổ phần hoá của nhà nước bằng cách phát hành cổ phiếu của những đơn vị đã được đánh giá tương đối chính xác. 3.8.9. TTCK nguồn thu hút vốn từ nước ngoài. Đầu tư vốn vào đâu để không bị mất vốn và có lời cao nhất là vấn đề các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm. Chính TTCK sẽ là nơi các nhà đầu tư nước ngoài theo dõi và nhận định hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. TTCK còn tạo môi trường thích hợp để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư một cách dễ dàng. Họ chỉ cần bỏ vốn vào TTCK để mua cổ phiếu hoặc cộng tác với các doanh nghiệp trong nước thành lập công ty cổ phần, rồi đem bán cổ phần trên thị trường. Như vậy thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK là một hình thức đầu tư rất hữu hiệu. Phần II: thị trường Chứng khoán ở việt nam 1. sự cần thiết của việc phát triển TTCK ở việt nam Để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầy đủ. Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn.Trong khi đó, quá trình CNH-HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18,6 tỷ USD; thời kỳ 1996-2000, để đạt được tố độ tăng trưởng 9-9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 tỷ lần, khoảng 40-45 tỷ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500-600 tỷ USD. Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn lực nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau: - Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài chính có chức năng phân bố nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính tiền tệ cấu thành nên tài chính quốc gia. - Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những nghành, doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả, thông qua sự định hướng của thị trường vốn. - Một thị trường chứng khoán hoạt động tốt sẽ cung cấp những dự báo chính xác về chu kỳ kinh doanh trong tương lai, giúp nhà nước hoạch định các chính sách thích hợp. - Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ dàng. 2. những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển TTCK ở Việt NAm 2.1. Thuận lợi Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có mọt hệ thống chính trị ổn định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đang phát triển với một tốc độ khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán. - Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã được thành lập. Đây là hạt nhân cơ bản, quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán. - Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của Đảng và nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho hoạt đọng sản xuất, tạo đều kiện cho sự phát triển thị trường chứng khoán. - Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn của nước ta trong thời kỳ tới rất cao như đã nói ở phần trên. Để đạt được mục tiêu tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu về vốn của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ 2001-2010 là 543,5 tỷ USD. - Nước ta là một nước đang phát triển, tài nguyên chưa được thăm dò và khai thác đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà lâu nay Việt Nam mới chú trọng khai thác theo hướng đầu tư trực tiếp (FDI) mà chưa chú trụng theo hướng đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán. - Trong vòng 12 năm qua, giá vàng liên tục sụt giảm và yếu tố tâm lý giữ vàng của nhân dân không còn như trước. Do vậy, ngời ta thường dùng tiền để gửi tiền tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu … 2.2. Khó khăn - Tuy nhiên, những thuận lợi đã có, những khó khăn vẫn còn nhiều, và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành TTCK ở Việt Nam. Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng "làm đồng nào xào đồng ấy " đang còn rất phổ biến trong dân và ngay trong cả một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và còn chứa đựng nhiều tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán đến nay vẫn chưâ được hoàn chỉnh. Một văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn dự thảo. Tình hình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước còn chậm, số lượng đã cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đặt ra. Các công ty cổ phần đã được thành lập còn quá ít và phần lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các "hàng hoá"cần thiết, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức, các công ty chứng khoán có uy tín hàng đầu thế giới, chúng ta đã ban hành đợc hai văn bản pháp quy quan trọng là Nghị định 48/1998/NĐ- cổ phiếu ngày 11/7/1998 và quyết định 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của TTCK, cũng như đào tạo được nhiều cán bộ dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm phục vụ cho sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, tuy nhiên lượng cán bộ đã được đào tạo vừa qua vẫn chưa đủ về số lượng và do chưa có thị trường chứng khoán nên chất lượng chư đủ kiểm chứng. Từ thực trạng và những thuận lợi trên đòi hỏi chúng ta cần phải chuẩn bị mội mặt chu đáo hơn nữa, tạo ra những điều kiện tiền đề thật hoàn chỉnh để sớm cho ra đời hoạt động của TTCK Việt Nam. Đây là đòi hỏi vô cùng bức xúc, khách quan cho công tác huy động nguồn lực vì vốn cho nền kinh tế đất nước, phục vụ cho chủ trương CGH-HĐH mà Đảng, nhà nước đã đề ra. 3. thực trạng TTCK ở việt nam 3.1. Thực trạng Sự ra đời ra đi vào hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/7/2000 đánh dấu một bước tiến trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt Nam. Do mới ra đời, nên quy mô thị trường còn bé, vài tác động đến nền kinh tế chưa lớn song nó đã cho phép các tổ chức và công chúng tham gia thị trường làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển lành mạnh và ổn định của thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Tính đến ngày 28/72001, trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 151 phiếu giao dịch với 14,2 triệu cổ phiếu và trên 5000 trái phiếu, đặt tổng giá trị giao dịch 727 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 90%. Thi trường cổ phiếu hoạt động sôi nổi thu hút được đông đảo nhà đầu tư quan tâm. Nếu như giá trị giao dịch thời kỳ đầu là 1 tỷ đồng/1phiếu thì trong thời gian gần đây giá trị giao dịch giao động trong khoảng 8 đến 15tỷ đồng/1phiếu. Trong phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000 có 2 cổ phiếu được giao dịch đó là cổ phiếu của công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) và cổ phiếu của công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông (SACOM). Tính đến ngày 28/7/2001, trên thị trường có 6 công ty niêm yết với tổng số cổ phiếu niêm yết là 33,8 triệu đạt giá trịi 338 tỷ đồng (theo giá trị sổ sách). Đến nay có 5 loại trái phiếu chính phủ và hai loại trái phiếu công ty được niêm yết và giao dịch với tổng khối lượng giao dịch tính đến ngày 28/7/2001 là 593.000 trái phiếu, trong đó giao dịch thoả thuận chiếm 87.5% và tổng giá trị giao dịch là 68,7 tỷ đồng. Về giá cả, thị trường có xu hướng tăng giá liên tục do mặt cân đối lớn về cung cầu. Giá các loại cổ phhiếu tăng nhiều lần so với phiên giao dịch đầu tiên, trong đó cao nhất là cổ phiếu Transimex tăng 7 lần và thấp nhất là cổ phiếu của Sacom tăng 4 lần. Chỉ số VN-Index lên đỉnh cao 571 điểm, cho đến ngày 28/7/2001 là 445,37 điểm. GIá của các trái phiếu ít có sự biến động. 3.2. Đánh giá tình hình TTCK sau hơn một năm đi vào hoạt động 3.2.1. Mặt được Lần đầy tiên một thị trường chứng khoán được ra và đi vào hoạt động, tuy quy mô còn nhỏ bé, vai trò tác động đối với nền kinh tế còn hạn chế, song hoạt động của TTCK đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc phát triển thị trường tài chính Việt Nam, thể hiện quyết tâm xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Từ khi hoạt động đến nay, thị trường hoạt động suôn sẻ công tác quản lý, tổ chức giao dịch đảm bảo an toàn, các hoạt động của thị trường đã đi vào nề nếp. Hoạt động của thị trường chứng khoán từng bước thu hút được sự quan tâm của đông đảo quần chúng đầu tư, sự hiểu biết, làm quen với hình thức đầu tư của quần chúng được tăng cường. Thông qua hoạt động của thị trường mà các công ty tham gia niêm yết tận dụng được lợi thế mà thị trường mang lại, vị thế và uy tín của công ty tăng lên. Hoạt độngcủa TTCK cũng đẵ góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. 3.2.2. Mặt hạn chế. Khối lượng hàng hoá niêm yết và giao dịch trên thị trường còn chưa nhiều, phạm vi hoạt động của thị trường còn hẹp, nên có sáu loại cổ phiếu được đăng ký lại. Trong khi đó nhu cần đầu tư cổ phiếu của công chúng lớn gây ra sự mất cân đối giữa cung và cầu. Nhiều doanh nghiệp chưa muốn tham gia niêm yết vì thực tế họ chưa có nhu cầu về vốn (một số còn được ngân sách cấp hoặc được vay ưu đãi), tâm lý còn ngại kiểm toán, công khai tài chính và công bố thông tin. Mặt khác, công ty chưa thấy hết lợi ích của việc tham gia niêm yết. Số lượng trái phiếu chính phủ đưa vào giao dịch thấp nguyên nhân chính là do lãi suất trái phiếu thấp hơn mặt bằng lãi suất hiện nay. Lãi suất ngân hàng từ 7%-8% trong một năm trong khi lãi suất trái phiếu chỉ 6,5-6,6%/năm nên không hấp dẫn người đầu tư. Các trái phiếu đều do các công ty bảo hiểm nắm giữ và không có nhu cầu bán lại vì các công ty này đang thừa vốn. Một số nhà đầu tư chưa biết nhiều về TTCK, chưa phân tích kỹ các yếu tố khi tham gia đầu tư nên có có xu hướng tìm mua và găm quỹ cổ phiếu. Điều này nhiều tác động làm thị trường quá nóng. Hoạt động công bố thông tin và công tác giám sát thị trường tuy đã đạt được một số kết quả nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thị trường. Công tác truyền phổ cập kiến thức cho công chúng hiểu rõ nguyên tắc, cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán, hiểu được lợi ích cũng như rủi ro khi tham gia thị trường chưa đáp ứng được yêu cầu. PHầN III: định hướng và một số GIảI PHáP cho ttck Việt Nam 1. một số giải pháp phát triển tTck ở Việt Nam Qua hơn một năm đi vào hoạt động của trung tâm GDCK Thành phố Hồ Chí Minh, cũng là một năm vừa vận hành thử nghiệm, vừa điều chỉnh khung pháp lý phù hợp với thực tiến thị trường, nhưng có thể đánh giá rằng thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước đi vào ổn định và phát triển. Tuy nhiên, không phải là không có những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và chỉnh sửa để thị trường chứng khoán hoạt động thực sự có hiệu quả, khắc phục được những hạn chế của thị trường, thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá, và thu hút sự quan tâm của những nhà đầu tư, hỗ trự tích cực các thành phần kinh tế. Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường, xuất phát từ những tổng kết thực tiến, bài viết xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam để thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng hoạt động có hiệu quả cho nền kinh tế Việt Nam. Nhóm các giải pháp nhằm tăng cung chứng khoán: - Ưu đãi thuế cho các công ty niêm yết để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thêm lợi nhuận trả cổ tức, hấp dẫn đầu tư. Cụ thể: đối với công ty phát hành lần đầu miễn 100% thuế doanh thu từ 3-5 năm, đối với công ty phát hành bổ sung giảm 50% thuế doanh thu từ 3-5 năm. - Cho phép doanh nghiệp khấu hao nhanh để có vốn, đầu tư mở rộng sản xuất. - Hạ thấp khung giá phí kiểm toán, miễn phí niêm yết trong vòng từ 3 - 5 năm nhằm giúp các công ty đã cổ phần hoá tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. Khẩn trương xây dựng thị trường chứng khoán phi tập trung (thị trường OTC) tạo môi trường giao dịch cho các cổ phiếu chưa đủ niêm yết. - Phát triển các tổ chức tài chính trung gian, các nhà môi giới tạo lập thị trường. - Đa dạng hoá các công cụ tài chính: + Ngoài trái phiếu chính phủ trái phiếu doanh nghiệp, có thể phát hành thêm trái phiếu chiết khấu được hưởng lãi trước, trái phiếu có lãi suất thả nổi các trái phiếu này chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của các nhà đầu tư vì nó bảo vệ quyền lợi của họ, trong trường hợp lãi suất thị trường bất ổn. + Khuyến khích các doanh nghiệp đã đủ điều kiện phát hành chứng khoán nên huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu chuyển đổi. Đây là loại trái phiếu rất được các nhà đầu tư ưa thích và phù hợp với điều kiện Việt Nam. + Đối với các tổ chức nước ngoài, cụ thể như các công ty liên doanh nước ngoài hiện nay chỉ hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Nhà nước nên có chính sách khuyến khích tại điều kiện cho các công ty này chuyển sang công ty cổ phần, nhằm làm phong phú hơn lượng cung hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Nhóm các giải pháp nhằm tăng cầu chứng khoán. - Uỷ ban chứng khoán nhà nước mà trực tiếp là trung tâm nghiên cứu khoa học và hội đồng bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán phải làm nhiệm vụ đi đầu trong công tác tuyên truyền, vận động giáo dục cho công chúng về lợi ích đầu tư vào chứng khoán, làm tăng sự hiểu biết và lòng tin của công chúng vào tính công bằng, tính thanh khoản của thị trường chứng khoán. - Tăng cường khả năng thanh tra giám sát bảo vệ nhà đầu tư: + Thanh tra giám sát thường xuyên các công ty chứng khoán và các tổ chức phát hành, có phương pháp thích hợp lựa chọn thanh tra giám sát để đánh giá các chính sách, quy trình nghiệp vụ liên quan tới đầu tư kinh doanh, cũng như đánh giá chất lượng tài sản có và dự phòng rủi ro. + Đặc biệt cần phải bồi dưỡng đội ngũ thanh tra giám sát khả năng phân tích tài chính, nghiệp vụ, kỹ năng thực hành và các phương pháp thực hiện thanh tra giám sát, có công cụ thu thập xem xét, phân tích báo các số liệu thống kê chứng khoán và giao dịch trên thị trường. + Thanh tra giám sát cần phải có một hệ thống thông tin tin học nhằm phục vụ cho công tác thanh tra giám sát. + Thanh tra giám sát đòi hỏi các công ty chứng khoán, tổ chức phát hành phải có hệ thống thông tin hiệu lực quản lý tốt nhằm giúp cho thanh tra giám sát kiểm tra tại chỗ hay từ xa nhằm phát hiện những khoản đầu tư không đúng với quy định của thị trường chứng khoán. - Các điều kiện ưu đãi cho người đầu tư: + Miễn giảm thuế cho người đầu tư cụ thể như sau: Ưu đãi thuế đối với các nhà đầu tư cá nhân khi tham gia kinh doanh chứng khoán: cần miễn thuế thu nhập cá nhân đối với những khoản lợi nhuận thu được từ kinh doanh chứng khoán. Ưu đãi thuế đối với các tổ chức có tổ chức: với những khoản chênh lệch mua bán, thu nhập từ cổ tức, lãi trái phiếu cần được miễn thuế trong thời gian 2-3 năm, nhằm khuyến khích các tổ chức tham gia vào đầu tư. Phí giao dịch trong giai đoạn đầu có thể không áp dụng hoặc áp dụng rất thấp đối với cá nhân và các tổ chức nhằm đẩy mạnh các giao dịch và tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán. Cụ thể: phí giao dịch cổ phiếu là 0,3%, phí giao dịch trái phiếu là 0,1%. + Đối với người đầu tư nước ngoài cần có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích người nước ngoài đầu tư vào TTCK Việt Nam. Đặc biệt là thuế lợi nhuận ra nước ngoài cho người định cư ở nước ngoài, cho người thường trú tại Việt Nam, người nước ngoài góp vốn mua cổ phần các doanh nghiệp Việt Nam. + Cần có mốt số quy định nới lỏng các điều kiện tham gia kinh doanh chứng khoán cho các nhà đầu tư nước ngoài, chẳng hạn như nâng tỷ kệ góp vốn để thành lập công ty chứng khoán liên doanh là 40%. + Ban hành các quy định về việc nắm giữ các chứng khoán cần linh động hơn. Hiện nay, theo nghị định 139 người nước ngoài nắm giữ tối đa20% lượng chứng khoán phát hành, nên áp dụng ở tỷ lệ 30% theo nghị định 44/cổ phiếu của chính phủ. Các giải pháp về công bố thông tin Công chúng sẽ không đầu tư vào một doanh nghiệp khi họ không biết gì về tình hình tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp đó. Do vậy, cần phải có giải pháp tạo cho các doanh nghiệp tiếp cận với việc công bố thông tin, công khai hoá tình hình tài chính là việc cần thiết, đặc biệt là đối với các công ty niêm yết nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công chúng đầu tư. Cụ thể như: + Thông tin thị trường phải đảm bảo nguyên tắc: đầy đủ, chính xác, kịp thời và bình đẳng theo đúng quy chế công bố thông tin do Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã ban hành. + Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin qua mạng Internet (xây dựng một trang chủ của thị trường giao dịch chứng khoán trên mạng Internet) - Phát hành các ấn phẩm chính thức (tạp chí, báo, bản tin tuần, bản tin hàng ngày ra thị trường trong và ngoài nước). - Thiết lập một hệ thống thông tin tự động. Với hệ thống này người dân có thể tiép cận và cập nhật thông tin 24/24. Về tiêu chuẩn kiểm toán: Các công ty kiểm toán muốn được chấp thuận là tổ chức kiểm toán các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về: thời gian hoạt động, vốn, kiểm toán viên, số lượng khách hàng hàng năm: - Về vốn: các công tổ chức kiểm toán trong nước phải có mức vốn điều lệ hoặc vốn chủ sở hữu quy định 2 tỷ đồng trở lên. Đối với nước ngoài phải có vốn diều lệ là 300.000 USD. - Kiểm toán viên: các công ty kiểm toán phải có đội ngũ kiểm toám được cấp giấy phép hành nghề kiểm toán tại Việt Nam từ 10 người trở lên. Đối với kiểm toán viên trong nước có ít nhất 2 năm kinh nghiệm, còn đối với kiểm toán viên nước ngoài có ít nhất kinh nghiệm là 5 năm. Ngoài ra phải thực hiện đúng theo pháp lệnh đúng theo kế toán và kiểm toán. Các giải pháp tổ chức bộ máy và cơ sở hạ tầng cho TTCK: Các giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực: Trước hết, cần chú trọng bồi dưỡng gấp rút đội ngũ cán bộ điều hành quản ký của Uỷ ban chứng khoán nhà nước, TTGDC. Đặc biệt là phải đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên giảng dạy về chứng khoán. Tiếp đó, là đội ngũ những người trực tiếp tham gia tác nghiệp tại TTGDCK- đào tạo theo hướng chuyên môn hóa. Đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của các nước về nghiệp vụ và kỹ thuật. Cuối cùng, là phổ cập kiến thức chứng khoán và thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp và dân chúng trên phạm vi cả nước. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật: Cần phải nâng cấp ngay hệ thống giao dịch hiện đại hơn phù hợp với yêu cầu phát triển kỹ thuật của thị trường. Khẩn trương nâng cấp và tu sửa cơ sở hạ tầng của TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và nâg cấp mở rộng hoạt động của trung tâm đào tạo cũng như cở hạ tầng. Môi trường pháp lý: Hiện nay chúng ta chỉ mới có Nghị dịnh Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Giai đoạn tới nên xây dựng và ban hành Pháp lệnh chứng khoán và thị trường chứng khoán. Có như vậy mới tạo được niềm tin của nhà đầu tư chứng khoán. Đồng thời cần bổ sung và hoàn thiện một số luật sau: Luật kế toán, kiểm toán; Luật dân sự ; luật hình sự; Luật đầu tư nước ngoài. Giải pháp giảm thiểu rủi ro trên thị trường chứng khoán: Rủi ro đối với người phát hành: Người phát hành phải nghiên cứu kỹ thị trường. Nên tham khảo ý kiến tư vấn của các công ty chứng khoán, công ty bảo lãnh phát hành để phát hành loại chứng khoán phù hợp với nhu cầu thị trường về loại chứng khoán, lãi suất, số lượng,… để đảm bảo thành công cho lần phát hành đầu tiên. Để hạn chế những tác động của sự biến động giá cả, các doanh nghiệp sau khi phát hành chứng khoán phải sử dụng tốt những khoản vốn thu được để phát triển doanh nghiệp. Rủi ro về phía chính phủ: Về phía chính phủ, khi phát hành trái phiếu cũng phải tính đến hai loại rủi ro trên. Để hạn chế các loại rủi ro này, chính phủ cần phát hành các loại chứng khoán phù hợp với nhu cầu công chúng về lãi suất và đảm bảo an toàn. Cũng như sau khi phát hành chứng khoán thì chức năng duy trị ổn định về kinh tế xã hội và chính trị sẽ tạo ra niềm tin và sự thành công của chính phủ trong việc huy động vốn và điều hành vĩ mô nền kinh tế. Rủi ro đối với công chúng đầu tư: Rủi ro nằm ngay trong chính hoạt động đầu tư. Để kiểm soát hay hạn chế rủi ro, người đầu tư phải tìm kiếm thông tin nhằm đánh giá và đặt niềm tin vào doanh nghiệp hay loại chứng khoán mà mình muốn mua. Mặt khác, vấn đề còn lại tuỳ thuộc vào trình độ, khả năng phân tích, sự nhạy bén cũng như khả năng thu thập thông tin, của từng người. nếu như người đầu tư nào không đủ trình độ đánh gía và phân tích thị trường thì hãy tìm cho mình một chuyên gia trung thực và có trình độ. Ngoài ra cần phải lập quỹ bảo hiểm chứng khoán để hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư. Giải pháp về hoàn thiện các tổ chức tài chính trung gian: Đối với công ty chứng khoán: - Thúc đẩy nhanh hình thành các công ty chứng khoán thuộc các ngân hàng thương mại. - Để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh chứng khoán và giữ cho thị trường được ổn định, hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi người đầu tư, đối với các công ty chứng khoán, các tổ chức tham gia kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ chấp hành quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán mà Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã ban hành. Đối với quỹ đầu tư: Hiện nay ta chưa có quỹ đầu tư chứng khoán, do vậy nên cần sớm hình thành các Quỹ đầu tư chứng khoán và hướng các Quỹ này hoạt động tuân thủ theo đúng quy chế tổ chức và hoạt động công ty quản lý Quỹ. 2. định hướng phát triển ttck ở Việt Nam Thị trường chứng khoán là một thị trường cao cấp có tác động rất lớn đến nền kinh tế của đất nước vì vậy quá trình thành lập thị trường chứng khoán phải rất thận trọng bên cạnh việc nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài chúng ta phải tiến hành phân tích đánh giá các điều kiện trong nước để xây dựng thành công thị trường chứng khoán. Định hướng xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam là tiếp tục cũng cố ổn định phát triển thị trường, nâng cao năng lực chất lượng, quy mô hoạt động của các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư chứng khoán, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư nhỏ, đặc biệt chú trọng việc quản lý giám sát, kiểm tra hoạt động trên thị trường đảm bảo hoạt động của thị trường minh bạch, bình đẳng, an toàn và hiệu quả. Thành lập và đưa vào hoạt động trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội tạo một thị trường chứng khoán đồng bộ, thống nhất trong cả nước. Đối với nước ta thị trường chứng khoán mới trong giai đoạn hình thành nên còn rất sơ khai. Để thị trường chứng khoán đi vào hoạt đọng ổn định và phát triển hiệu quả đối với nền kinh tế, chúng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn để tổ chức hình thức cũng như cơ chế hoạt động của sở giao dịch chứng khoán và các đơn vị liên quan cho hợp lý, phát huy hiệu quả. Từ tính chất phức tạp và tình hình điều kiện hiện nay tại Việt Nam, mô hình tổ chức thị trường chứng khoán trong thời gian đầu nên đơn giản để phù hợp với nền kinh tế, tài chính quản lý hiện tại. Có thể tổ chức một sở giao dịch chứng khoán bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Giai đoạn đầu chú trọng phát triển và hoàn thiện thị trường sơ cấp để phát hành cổ phiếu nhằm thu hút nguồn tiết từ dân chúng vào quá trình đầu tư động bộ từng bước hình thành thị trường sơ cấp tổ chức buôn bán và kinh doanh chứng khoán. Có thể tổ chức một sở giao dịch chứng khoán có hai sàn giao dịch. Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế -xã hội những năm tới của Việt Nam đã được nêu rõ trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX: "đưa nước ta khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để dến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại;nguồn lực con người năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường vững chắc, thể chế kinh tế thị trường XHCN được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trong quan hệ quốc tế được củng cố và nâng cao" Để thực hiện được các mục tiêu đó, vấn đề xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chiến lược phát triển thị trường tài chính nói riêng, trong đó có chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam những năm tới có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Trên cơ sở nghiên cứu xuất phát điểm của nền kinh tế đất nước, thực trạng hệ thống tài chính cũng như TTCK Việt Nam trong thời gian qua, và mục tiêu yêu cầu phát triển thị trường tài chính Việt Nam những năm tới, chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian tới tập trung vào những nội dung chính sau đây: - Phát triển thị trường chứng khoán tập trung theo mô hình từ Trung tâm Giao dịch chứng khoán lên Sở giao dịch chứng khoán. - Xây dựng thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC). - Phát triển hàng hoá (cổ phiếu, trái phiếu) cho thị trường chứng khoán. - Phát triển các định chế tài chính trung gian. - Chiến lược hội nhập quốc tế. - Đào tạo, nâng cao dân trí trong lĩnh vực thị trường chứng khoán. Để thực hiện chiến lược phát triển thị trường chứng khoán trong thời gian tới, UBCKNN cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban nghành trong việc xác định những giải pháp trên. Kết luận Tóm lại thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong việc huy đọng và phân phối các nguồn vốn đầu tư hợp lý. Thông qua thị trường chứng khoán, các nguồn vốn trong nước và nước ngoài được tập trung sử dụng cho các dự án đầu tư, nhu cầu mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế,… Tuy nhiên, thời gian qua thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động vẫn còn tồn tại một số nhược điểm. Vấn đề đặt ra, là làm sao đó để hạn chế những nhược điểm, giúp cho thị trường hoạt động có hiệu quả và trở thành một kênh thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Bên cạnh việc tạo cung cầu hàng hoá cho thị trường, hoàn thiện môi trường pháp lý, hệ thống công bố thông tin, cơ sở vật chất … còn đòi hỏi thị trường chứng khoán phải mang tính đại chúng một cách hết sức rộng rãi, phổ biến. Bởi vì, suy cho cùng thị trường chứng khoán ở Việt Nam sinh sau đẻ muộn, muốn tồn tại và phát triển đúng mục tiêu thì nó phải được người dân Việt Nam thừa nhận và nuôi dưỡng. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình thị trường chứng khoán: PGS. NGƯT: Đinh Xuân Trình PTS: Nguyễn Thị Quy. NXB Giáo dục -!998. 2. The Stock market – Thị trường chứng khoán: Tác giả Neilf Stapky. Người dịch: Nguyễn Thị ánh Tuyết – Trần Tô Tử. Nhà XB TPHCM – 1994. 3. Thị trường tài chính và Thị trường chứng khoán Dịch và biên soạn: PTS Ngô Hướng. NXB Mũi Cà Mau – 1995 4. Việt Nam với Thị trường chứng khoán Bùi Nguyên Hoàn. NXB Chính trị quốc gia – 1995. 5. Chứng khoán Việt Nam: số 5 tháng 5 – 2000, Số 7 tháng 7 – 2000. 6. Nghiên cứu kinh tế: 1/1995, 6/1995, 8/1995. 7. Tài chính: 9 – 1993, 17 – 1994, 11 –1996. 8. Tạp chí Ngân Hàng: Số 8, số 11-1993; Số 3, số 4-1994; Số 11, số 12-1995. 9. Thị trường Tài chính-Tiền tệ: số 12 (tháng 6-2000), số 15 (tháng 8 - 2000), số 17 (tháng 9 - 2000). 10. Thời báo Kinh tế Sài Gòn: số 17 – 1994, số 35 - 1994

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35147.doc
Tài liệu liên quan