Đề tài Thị trường của doanh nghiệp thương mại, biện phát phát triển thị trường

Trên cơ sở điều tra nghiên cứu của thị trường, doanh nghiệp thương mại quốc doanh tiến hành lựa chọn sản phẩm thích ứng với nhu cầu thị trường. Đây là nội dung quan trọng nhất quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh, vì trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp thương mại quốc doanh muốn tồn tại và phát triển thì phải sử dụng nguồn vốn bên trong (vốn chủ sở hữu) và bên ngoài(vốn đi vay, viện trợ) để kinh doanh một cách hiệu quả. Những nhà quản lý doanh nghiệp thương mại quốc doanh cần phải biết rằng sản xuất kinh doanh các loại hàng hoá dựa trên cái mà thị trường cần chứ không phải dựa trên cái mà doanh nghiệp sẵn có. Muốn vậy các doanh nghiệp thương mại quốc doanh cần phải tiến hành đổi mới cơ cấu(như cổ phần hoá, phương thức kinh doanh) sao cho sản phẩm làm ra phải thích ứng được với thị trường cả về số lượng, chất lượng, giá cả và thời gian mà thị trường đòi hỏi.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường của doanh nghiệp thương mại, biện phát phát triển thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể cung cầp và làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Như vậy đối với Danh Nghiệp Thương Mại, thị trường cuả nó cũng bao gôm các chức năng và đặc điểm trên. 2- Phân Loại Thị Trường Của Doanh Nghiệp 2.1. Căn cứ vào công dụng của hàng hoá mà doanh nghiệp sản xuất. a) Thị trường hàng tư liệu sản xuất. Đó là những sản phẩm dùng để sản xuất, thuộc về hàng tư liệu sản xuất có: các loại máy móc, thiết bị như máy tiện. Phay bào… các nguyên vật liệu, các laọi hoá chất, các laọi dụng cụ, phụ tùng… Người ta còn gọi thị trường hàng tư liệu sản xuất là thị trường yếu tố “ đầu vào ” của các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh. b) Thị Trường hàng tư liệu tiêu dùng. Đó là những sản phẩm dùng để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của con người. Ví dụ: lương thực, quần áo, giầy dép, thuốc chữa bệnh… các sản phẩm này ngày càng nhiều theo đà pháp triển của sản xuất và nhu cầu đa dạng, nhiều vẻ của con người. 2.2. Căn cứ vào nguồn gốc sản xuất ra hàng hoá. a) Thị trường hàng công nghiệp( chiếm 35% GDP) Thị trường công nghiệp ban gồm sản phẩm hàng hoá do các xí nghiệp công nghiệp khai thác, chế biến sản xuất ra. Công nghiệp khai thác tạo ra sản phẩm là nguyên liệu. Nguyên liệu trải qua một vài công đoạn chế biến thì thành vật liệu. Do đó các loại hàng này thường có tính kỹ thuật cao, trung bình hoặc thông thường, có đặc tính cư, lý, hoá học và trạng thái khác nhau. b) Trị trường hàng nông nghiệp( bao gồm cả nông, lâm, hải sản chiếm 23%GDP). Đây là thị trường hàng hoá có nguồn gốc từ sinh vật( động vật, thực vật). Những sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp mới thu hoạch, mới sơ chế(chưa qua công nghệ chế biến) Vídụ: như thu thọc gạo, ngô, khoai… cá,lợn. Gà, vịt. Các loại hàng này dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài, khóbảo quản được lâu. 2.3. Căn cứ vào nơi sản xuất. a) Hàng sản xuất trong nước. Hàng sản xuất trong nước là do các doanh nghiệp trong nước tỏ sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trong nước đến mức độ nào đó để đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Các loại hàng này cũng phải hướng theo tiêu chuẩn quốc tế vừa thoả mãn tiêu dùng trong nước vừa có khả năng xuất khẩu. Không có một quốc gia nào trên thế giới lại hoàn toàn dùng hàng trong nước. Ngược lại hàng sản xuất trong nước chất lượng kém thì việc sử dụng nguồn lực để sản xuất hàng hoá đó là lãng phí và không thể đứng vững trên thị trường trong nước khi có hàng ngoại nhập vào. Công nghiệp hoà và hiện đại hoá đất nước thực chất là pháp triển sản xuất hàng trong nước. Có như vậy mới chủ động, tạo nhiều công ăn việc làm. đất nước phát triển và mới có hàng hoá để trao đổi với nước ngoài. b) Hàng nhập ngoại Hàng nhập ngoại cần thiết phải nhập từ nước ngoài vào do nguồn hàng trong nước chưa sản xuất đủ hoặc do kỹ thuật công nghệ, chưa thể sản xuất được. Nhập ngoại hàng hoá ( kể cả kỹ thuật, công nghệ tiên tiến) là một yếu tố không thể thiếu được và là một tác nhân kích thích cho sản xuất tiến lên. Trên thế giới ngày nay không có một quố gia nào lại không có ngoại thương, không có xuất nhập hàng hoá. Xuất nhập khẩu hàng hoá là lợi dụng được ưu thế tương đối và tuyệt đối của mỗi quốc gia và là yếu tố cho cả hai bên có quan hệ xuất nhập khẩu. Ngoài ba cách phân loại trên về thị trường hàng hoá người ta còn phân loại theo mã hàng, theo địa điểm.(Không gian, thời gian) theo trạng thái mặt hàng, theo tính chất kỹ thuật;( thị trường khác hàng của doanh nghiệp thương mại được phân chia thành 5 dạng sau:). Thị trường tiêu dùng: Những cá nhân và hộ gia đình mua hàng hoá và dịch vụ để sử dụng cá nhân. Thị trường các nhà sản xuất: Tổ chức mua hàng và dịch vụ để sử dụng chúng trong quá trình sản xuất, Hàng hoá và dịch vụ dùng trong quá trình sản xuất còn gọi là tư liệu sản xuất. Thị trường các nhà buôn bán trung gian: Tổ chức mẫu hàng hoá và dịch vụ sau đó bán lại để kiếm lợi nhuận, đây thường là những doanh nghiệp thương mại. Thị trường các cơ quan nhà nước: Mua hàng hoá dịch vụ để sử dụng lĩnh vực công cộng hoặc thực hiện việc chuyển giao hàng hoá cho các đối tượng cần nó. Thị trường các khách hàng quốc tế: bao gồm những cá nhân và tổ chức mua hàng ở nước ngoài. 2.5. Thị Trường với các doang nghiệp thương mại. + Doanh nghiệp thương mại tham gia vào các thị trường sau: Thị trường hàng hoá Thị trường sức lao động Thị trường vốn. Thị trường tiền tệ. Thị trường dịch vụ. II. Các yếu tố thị trường của doanh nghiệp thương mại. 1- Cầu của doanh nghiệp thương mại. Cầu của doanh nghiệp thương mại là số lượng hàng hoá hay dịch vụ mà doanh nghiệp thương mại có khả năng sẵn sàng mua ở các mức giá khách nhau trong một thời gian nhất định ( tất cả các yếu tố khác không thay đổi). Cầu thị trường của doanh nghiệp thương mại là tổng số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ được mua ở các nước giá khác trong khoảng thời gian đã cho. Cầu thị trường của Doanh nghiệp thương mại là tổng hợp các cầu của từng Doanh Nghiệp thương mại lại với nhau Luật cầu: Số lượng hàng hoá dịch vụ được cầu trong khỏng thời gian đã cho tăng lên khi giá của hàng hoá đó hoặc dịch vụ đó giảm xuống Lượng cầu phụ thuộc vào những yếu tố sau: + Thu nhập của người tiêu dùng + Giá cả của các loại hàng hoá liên quan +Dân số +Thị hiếu +Kỳ vọng 2. Cung của Doanh nghiệp thương mại. Cung : là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà Doanh Nghiệp thương mại có khả ngăng và sẵn sàng bán ở các mức giá khacs nhau trong một thời gian nhất định (các yếu tố khác không đổi). Lượng cung của Doanh Nghiệp thương mại: Là lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà Doanh Nghiệp sằn sàng và có khả năng bán ở mức giá đã cho trong một thời gian nhất định. Luật cung: Số lượng hàng hoá được cung trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá của nó tăng lên (các yếu tố khác không thay đổi) Lượng cung của Doanh Nghiệp thương mại cũng bị phụ thuộc vào các yếu tố + Công nghệ + Giá của các yếu tố sản xuất(đầu vào) + Chính sách thuế + Số lượng Doanh Nghiệp sản xuất +Các kỳ vọng 3. Giá cả thị trường Sự tương tác giữa cung và cầu hàng hoá, dịch vụ tạo nên giá cả bình quân (giá cân bằng) của hàng hoá đó trên thị trường. Đặc điểm quan trọng của mức giá cân bằng này là nó không xác định được từng Doanh Nghiệp riêng lẻ mà được hình thành bởi tổng thể các Doanh Nghiệp. Đây chính là quy định giá khách quan theo “bàn tay vô hình” của cơ chế thị trường 4. Dung lượng của thị trường. “Dung lượng của thị trường” là hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong một thế giới quan nhất định (thường là nghiên cứu dung lượng thị trường Doanh Nghiệp cần xác định nhu cầu thật của khách hàng cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của như cầu trong từng thời điểm. 5. Các quy luật của thị trường Xét cả một quá trình tổng thể, thị trường vận động không phải là hỗn loạn, ngẫu nhiên mà vận động có qui luật . Những qui luật đó là: a) Quy luật giá trị: Đây là quy luật kinh tế của kinh tế hàng hoá. Khi nào còn sản xuất và lưu thông hàng hoá thì quy luật giá trị còn phát huy tác dụng. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá phải dựa vào cơ sở giá trị lao động của Xã Hội cần thiết trung bình để sản xuất và lưu thông hàng hoá và trao đổi ngang giá. Việc tính toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết bởi đòi hỏi của thị trường của Xã Hội là với nguồn lực có hạn phải sản xuất được bao nhiêu của cải vật chất cho Xã Hội nhất, hay là chi phí lao động Xã Hội cho một đơn vị sản phẩm là ít nhất với điều kiện chất lượng sản phẩm cao. Người sản xuất hoặc kinh doanh nào có chi phí lao động Xã Hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn trung bình thì người đó có lưọi, ngược lại người nào có chi phí cao thì khi trao đổi sẽ không thu được giá trị đã bỏ ra, không có lưọi nhuận và phải thu hẹp sản xuât hoặc kinh doanh. Đây là yêu cầu khắt khe buộc các Doanh Nghiệp phải tích kiệm chi phí, không ngừng cải tiến kỹ thuật công nghệ, đổi mới sản phẩm, đỏi mới kinh doanh – dịch vụ để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng b) Quy luật cung cầu Cung cầu hàng hoá dịch vụ không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà thường xuyên tác động qua lại với nhau trên cùng một thời gian cụ thể. Trong thị trường quan hệ cung cầu là quan hệ bản chất thường xuyên được lặp đi lặp lại, khi tăng, khi giảm tạo thành quy luật thị trường . Như trên đã nghiên cứu; khi cung cầu gặp nhau giá thị trường được xác định (Eo). ở mức giá đó cung cầu ăn khớp với nhau. Tuy nhiên mức giá Eo lại không đứng yên, nó luôn luôn giao động trước sự tác động của lực cung, lực cầu trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu giá sẽ hạ xuống và ngược lại. Sự thay đổi trên là so hàng loạt các nguyên nhân trức tiếp và gián tiếp tác động đến cầu, đến cung ; cũng như kì vọng của người sản xuất, người kinh doanh và của cả khách hàng. c) Quy luật cạnh tranh: Trong nền kinh tế có nhiều người mua, người bán với lợi ích kinh tế khác nhau thì việc cạnh tranh giữa họ tạo nên sự vận động vủa thị trường và trật tự của thị trường. Có thể nói “cạnh tranh trong nền kình tế là một cuộc chạy đua không đích cuối cùng”. Cạnh tranh trong nền kinh tế là một cuộc thi đấu không phải với một đối thủ mà là nhiều đối thủ. Nó làm cho Doanh Nghiệp phải tính toán kỹ lưỡng đồng thời phải có chiến lược kinh doanh. Đây cũng là yếu tố tích cực để phát triển Doanh Nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cho nên Doanh Nghiệp không thể lẩn tránh cạnh tranh mà phải chấp nhận cạnh tranh đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng vũ khĩ cạnh tranh hữu hiệu. III- Các nhân tố tác động đến thị trường của Doanh Nghiệp thương mại Cùng với sự nghiệp nghiên cứu dung lượng thị trường các Doanh Nghiệp phải nắm bắt được tình hình Kinh Doanh mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh của mình và đặc biệt các điều kiện về chính trị, thương mại, tạo quán buôn bán từng khu vực để có thể hoà nhập với thị trường nhanh chóng có hiệu quả tác động của nhiều nhân tố bên trong những giai đoạn nhất định làm cho dung lượng thị trường thay đổi thường xuyên. ta có thể chia ra thành 3 loại nhân tố căn cứ vào thời gian ảnh hưởng của nó 1. Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ. Đó là sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa và tính chất thời vụ trong sản xuất, sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá thế giới. Sự ảnh hưởng này có thể trên phạm vi thế giới, khu vực. Và Doanh nghiệp thương mại phải lưu ý phân tích sự biến động đó. Nhân tố thời vụ ảnh hưởng tới thị trường hàng hoá của Doanh Nghiệp trong khâu sản xuất và phân phối lưu thông, tiêu dùng so đặc điểm sản xuất lưu thông của từng Doanh Nghiệp khác nhau nên sự tác động của các nhân tố này rất đa dạng với các mức độ khác nhau. 2. Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài : Đó là nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của thị trường bao gồm những tiến bộ khoa học kỹ thuật các biện pháp chính sách của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoàn, thị hiếu, tập quán người tiêu dùng, ảnh hưởng của khả năng sản xuất hàng thay thế. 3. Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời. Các nhân tố này thường là hiện tượng đầu cơ, tích trữ gây ra những đột biến về cung cầu, các yếu tố tư nhân như thiên tai, bão lụt hạn hán, động đất… Các yếu tố về chính trị – Xã hội như đình công, biểu tình… Khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố đến các Doanh Nghiệp Thương Mại ta cần phải thấy được nhóm nhân tố tác động chủ yếu trong từng thời kỳ dể cả trước kia, hiện nay và xu hướng tiếp theo. Nắm vững các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường trong từng thời kỳ có ý nghĩa rất quan trong trong hoạt động kinh doanh hàng hoá, giúp ch các ông chủ Doanh Nghiệp Thương Mại cân nhắc để ra các quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất Phần II Phân tích thực trạng thị trường DNTM nhà nước quốc doanh I. Sự hình thành và phát triển thị trường của DNTMQD 1. Thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Xét về phương diện lịch sử các hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá xuất hiện trước cả khi có sản xuất hàng hoá. Điều này không phaỉ chỉ có ý nghĩa lý luận mà tính thực tiễn cũng rất cao. Từ một nền kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc chuyển sang sản xuất hàng hoá có thể thực hiện bằng 2 con đường Con đường lịch sử tự nhiên, tức là quá trình tự chuyển biến trong nội bộ các vùng- Quá trình trao đổi xuất hiện khi có sản phẩm thừa so với nhu cầu. Sự trao đổi lặp đi lặp lại làm thay đổi phương thức sản xuất và biến thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá. Theo con đường này các quốc gia phát triển trước đây và nhiều cước lạc hậu hiện nay đã phải trải qua 3 – 4 trăm năm Con đường thứ hai ngắn hơn rất nhiều. Đó là quá trình thực hiện tự so lưu thông hàng hoá, phá bỏ sự ngăn cấm trao đổi, mua bán hàng hoá giữa các vùng, chủ động tạo ra thị trường cả ở những nơi chưa có sản xuất hàng hoá, chấn hưng quan hệ hàng hoá, tiền tệ … Các quốc gia công nghiệp mới đã đi theo con đường này và chỉ với thời gian 15 – 20 năm đã thay đổi căn bản bộ mặt nền kinh tế. Thực tiễn ở nước ta cũng đã chứng minh tính ưu việt của con đường đi này. Khi cách mạng tháng 8/1945 thành công nước ta giành được độc lập ; chủ động hướng nền kinh tế theo cơ chế tập trung để phục vụ chiến tranh thương mại đã trở thành ddiều kiện tồn tại và phát triển của mốt Doanh Nghiệp, mỗi vùng kinh tế Do sự phát triển của phân công lao động XH trong nền kinh tế quốc dân nước ta hình thành hai loại Doanh Nghiệp hoạt động thương mại dịch vụ. Một là : Doanh Nghiệp Thương Mại là một bộ phận của Doanh Nghiệp sản xuất, do sản xuất chi phối và tổ chức. Những Doanh Nghiệp này thường đượng hình thành và áp dụng với những sản phẩm mà Doanh Nghiệp sản xuất có khối lượng lớn trên thị trường, đáp ứng được yêu cầu, hiểu biết sâu về thị trường. Người sản xuất tổ chức mạng lưới bán hàng của mình. Hai là: Doanh Nghiệp Thương Mại độc lập tương đối với người sản xuất. Đây là sự phân công lao động Xã Hội giữa người sản xuất và người lưu thông. Doanh Nghiệp mua bán hàng hoá của những người sản xuất hàng háo nhỏ hoặc của người sản xuất chưa chi phối được thị trường, chưa thiết lập được mạng lưới bán hàng trực tiếp. Loại Doanh Nghiệp này bao gồm cả mua bán ở trong nước và xuất nhập khẩu hàng hoá. Sau đây sẽ phân tích những nét chủ yếu nhất về lịch sử hình thành, phát triển của hệ thống doanh nghiệp thương mại dịch vụ nhà nước trong nền kinh tế quốc dân nước ta hiện nay -Khi trở lại xâm lược chính phủ cộng hoà non trẻ đã tổ chức hệ thống cung cấp sản phẩm và điều kiện cho cuộc kháng chiến lâu dài và đời sống của nhân dân lực lượng này đã có đóng góp to lớn vào cuộc thắng lợi của cuộc kháng chiến chống pháp. Từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Bắc đã thực thi cơ chế quản lý kinh tế tập trung cao độ để huy động sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thị trường XH và hệ thống bảo đảm vật tư, hàng tiêu dùng cho sản xuất, đời sống của đân cư chịu sự chi phối bởi kế hoạch tập trung của nhà nước. - Năm 1954 cùng với việc không phục và phát triển các ngành kinh tế khác Đảng và chính phủ chủ trương chấn chỉnh thương nghiệp, tài chính tiền tệ thống nhất thị trường, giá cả của hai vùng (vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm) Trong thời kỳ trước đấu tranh với nạn đầu cơ của tư bản tư nhân và xây dựng nền móng của thương nghiệp XHCN Tăng cường thương nghiệp nhà nước. Làm cho thương nghiệp quốc doanh phát huy tốt đối với đời sống nhân dân và với sản xuất. Do có chủ trương đúng đắn nên cuộc đấu tranh “ai thắng ai” trên thị trường mặc dù diễn ra rất phức tạp nhưng đến những năm 1959 – 1960 về cơ bản thương nghiệp XHCN đã kiểm soát được khâu bán buôn và chi phối được khâu lưới thương nghiệp XHCN gồm ba cấp: Các tổng công ty, ngành hàng (Cấp I), các công ty thương nghiệp cấp I và công ty hợp tác xã mua bán cấp III sau thời kỳ cải tạo phát triển kinh tế, miền Bắc bắt tay vào thực hiện những nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ thời kỳ 1960 – 1975 về công tác nội thương, ngoại thương, thị trường giá cả, là nội dung của nghị quyết 10 (khoá 3) của trung ương Đảng. tại hội nghị này Ban chấp hành Trung Ương Đảng đã phân tích toàn diện về hiện trạng phát triển kinh tế XH về hoạt động nội thương, ngoại thương, thị trường giá cả của cả nước. Từ đó đề ra đường lối phát triển các mục tiêu, phương hướng cho cả một thời kỳ dài. Về sự phát triển và xải tạo thương nghiệp nghị quýết nêu rõ “Cần phải tiếp tục củng cố và mở rộng Thị trường XHCN thống nhất không ngương tăng cường lực lượng của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, tổ chức và quản lý tốt chợ nông thôn, phát huy mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của nó, tiếp tục cải tạo thương nghiệp nhỏ chuyển phần lớn tiểu thương nghiệp sang sản xuất, tiếp tục cải tạo những người tư sản thực sự thành người lao động, kiên quyết ngăn ngừa và bài trừ tệ đầu cơ tích trữ …Ngăn chặn các nhân tố tự phát tư bản chủ nghĩa thủ tiêu triệt để các tàn tích của lề thói kinh doanh tư nhân tư bản chủ nghĩa”. Chủ trương xây dựng thị trường thống nhất toàn miền Bắc chịu sự tổ chức và quản lý tập trung của nhà nước, cá thị trường địa phương là bổ sung và phục tùng thị trường toàn miền bắc. chủ trương xây dựng hệ thống giá hoàn chỉnh và Tư liệu tiêu dùng, cả giới thu mua, bán buôn, bản lẻ đã được cụ thể hoá và thực hiệ trong thực tiễn “Thị trường có tổ chức ” đã thấy trị tuyệt đối cả về qui mô và ngành hàng. qua 15 năm (1960 –1973 ) Thương nghiệp quốc soanh đã có bước phát triển mạnh mẽ, có sức chi phối lớn và giữ và trò chủ đạo trên thị trường (Xem biểu đồ) Biểu đồ 1: Năm CNVC bình quân trong danh sách (nghìn người) Cửa hàng bán lẻ (triệu đồng) Tổng chi giá hàng hoá thu mua trong nước Tổng mức bán lẻ (triệu đồng) Chỉ số giá bán lẻ (năm trước = 100) 1955 1960 1961 1965 1966 1969 1970 1971 1972 1973 1974 1975 11.7 70.4 74.8 87.00 105.7 114.9 118.6 114.4 116.1 119.0 124.2 130.5 511 1897 1897 5148 5936 5809 5776 5826 6197 5874 61124 6404 156.4 983.0 899.4 1547.3 1462.9 1644.3 1738.0 2020.7 2036.6 2080.1 2322.2 2429.8 122.1 739.6 919.8 1609.0 1099.3 2264.4 2360.0 2637.2 2397.3 2689.2 2730.9 3086.2 98.9 98.7 100.7 200.8 100.4 98.9 100.0 100.5 100.9 Qua biểu đồ trên ta thấy được tốc độ phát triển khá cao của các chỉ tiêu chủ yếu của thương nghiệp quốc doanh so với năm 1955 đến năm 1975 số cán bộ công nhân viên trong ngành thương nghiệp quốc doanh gấp 11,2 lần, số cửa hàng bán lẻ 23,3 lần. Năm 1975 so với năm 1960 cán bộ công nhân viên thương nghiệp tăng gáp 1,8 lần, cửa hàng bán lẻ 3,3 lần, tổng trị giá hàng hoá thu mua trong nước tăng 2,4 lần tổng mức bán lẻ 4,2 lần. Hệ thống bảo đảm vật tư và hàng hoá tiêu dùng cho sản phẩm và đời sống của dân cư giai đoạn này đã góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ở miền Bắc và thống nhất đất nước. Đã có những đóng góp lớn trong tổng sản phẩm Xã Hội và thu nhập quốc dân Đến năm 1973 cả nước độc lập thống nhất. Mạng lưới bảo đảm các yếu tố sản xuất và nhu cầu đời sống của nhân dân trên cơ sở sự hình thành và phát triển của hệ thống thương nghiệp giai đoạn trước thương nghiệp quốc dân có bước phát triển mạnh mẽ, thể hiện sự chi phối lớn và giữ vai trò chủ đạo trên thị trường. Song với cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấo đã gây ra những hậu quả nặng lề trong lĩnh vực thương nghiệp. Nó đã biến quá trình boả đảm các yếu tố sản xuất và đời sống dân cư vốn là quá trình kinh tế trở thành phí kinh tế. Thực hiện sản phẩm hàng hoá mà thực chất là chế độ phân phối và trao đổi hiện vật. Nó đã biến các đơn vị thương nghiệp thành kho cấp phát theo lệnh của nhà nước , làm cho đơn vị tiêu dùng thành nơi tiêu tốn các nguồn vật chất của nhà nước. Mua bán chỉ là động tác “giả vờ” nơi diễn ra các quan hệ mua bán không phải là các tổ chức kinh tế mà lại là ở “chợ hàng- uỷ ban kế hoạch các cấp…” Điều đó đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm pháp phi mã. 2. Cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước. Từ năm 1986 nền kinh tế nước ta đã có những biến chuyển cơ bản. Điều có ý nghĩa quan trọng và quyết định là đổi mới về tư duy kinh tế, cơ chế và chủ trương chính sách về kinh tế. Nó đã được khẳng định trong đạo hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 và tiếp tục hoàn thiện nâng cao ở đại hội 7 Đảng Cộng Sản VN, tư tưởng quan trọng là xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nhà nước đổi mới chung của nền kinh tế và đổi mới trong lĩnh vực Kinh doanh thương mại đã làm thay đổi cơ bản tổ chức hoạt động của hệ thống các Doanh Nghiệp Thương Mại. Các Doanh Nghiệp Thương Mại dịch vụ nhà nước giai đoạn này thực sự phải đối mặt với những vấn đề kinh tế hóc búa. II. Thực trạng của Doanh Nghiệp Thương Mại Quốc Doanh 1. Thực trạng của thương nghiệp Quốc Doanh thời kỳ 1955-1975 Như đã nói trong phần “sự hình thành và phát triển của Doanh Nghiệp Thương Mại Quốc Dân”, cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, chính phủ đã tổ chức hệ thống cung cấp sản phẩm các điều kiện cho nhân dân và cuộc kháng chiến lâu dài. Chính vì vậy mà nền kinh tế Việt Nam đã dần dần hình thành một hệ thống kinh tế mang tính chất đặc thủ của các nước trên thế giới – mục đích chính là phục vụ cho cuộc kháng chiến và phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Vì vậy trong thời kỳ 1955-1973, đất nước chia làm hai miền. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo xây dựng nền kinh tế. Hai chiếm nhiệm vụ chiếm lược có quan hệ biện chứng với nhau là; kháng chiến chống mỹ cứu nước là nhiệm vụ số một hàng đầu, xây dựng và phát triển xã hội ở miền Bắc và là nhân tố thứ hai để quyết định sự thắng lợi của cách mạng trên cả nước. Trong thời kỳ này thương nghiệp nhà nước được tăng cường, bắt đầu phát huy tối đa đời sống nhân dần và sản xuất. Năm 1939-1960, về cơ bản thương nghiệp Xã Hội Chủ Nghĩa đã kiểm soát được khau bán lẻ tỷ trọng của các thành phàan kinh tế trong tổng mức buôn bán, bán lẻ của thời kỳ này được thể hiện qua bảng sau: Biểu đồ 2 Năm Chi tiêu 1960 1961 1962 1965 1967 I. Tổng Mức Buôn Bán 100,0 100,0 100,0 1- Thương Nghiệp Quốc Doanh 93,6 92,7 83,1 2- Thương Nghiệp Tư Nhân 6,4 7,3 18,7 II. Tổng Mức Buôn Bán 100 100,0 100,0 1- thương Nghiệp Quốc Dân 50,7 59,9 81,8 2- Thương Nghiệp Hợp Tác Xã 23,1 21,4 84,6 83,8 3- Thương Nghiệp Tư Bản Nhà Nước Và Hợp tác Xã 16,8 10,9 10,7 4. Thương Nghiệp Tư Doanh 9,4 7,8 7,5 15,4 16,4 Tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong tổng mức bán buôn, bàn lẻ giai đoạn 1960-1967. Biểu 2 cho ta thấy thị trường bán buôn thương nghiệp quốc doanh đã chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường. ở thị trường bán lẻ đã có sự phân chia tương đối đồng đều giữa thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp ngoài quốc doanh. Nghiên cứu về hành vi của thương nghiệp quốc doanh ta thấy: Thương nghiệp quốc doanh đã tăng cường thu mua nông sản phẩm, mặt khác đã tận dụng nguyên liệu nằm trong tay, mở rộng gia công, nắm nguồn hàng công nghệ phẩm. Do đó thương nghiệp quốc doanh đã tăng tổng mức bán buôn lên 309 lần, từ năm 1955 đến năm 1957. Tỷ trọng bán buôn của thương nghiệp quốc dân năm 1955 chiếm 28,1 % , năm 1975 chiếm 52,6%. Tổng mức bán lẻ của thương nghiệp quốc dân cũng được mở rộng một cách đáng kể: Tỷ trọng của nó chiếm trong tổng mức bán lẻ của thương nghiệp thuần tuý năm 1955 là 19,8%, năm 1957 là 52,8%. Xét về cơ cấu của thương nghiệp quốc doanh cũng phát triển mạnh: Năm 1955 mới có 4 tổng công ty chuyên doanh, năm 1957 đã có 10 tổng công ty chuyên doanh. Tổng số cửa hàng thu mua, bán buôn và bản lẻ năm 1955 là 474 cửa hàng, năm 1957 đã tăng lên 906 cửa hàng. Vậy trong thời kỳ này thương nghiệp quốc dân phát triển nhanh chóng đã phục vụ đắc lực cho sự nghiệp khôi phục kinh tế và có tác dụng trong việc thực hiện chính sách sử dụng hanj chế bước đầu cải tạo công thương tư nhân và chính sách bình ổn vật giá, quản lý thị trường, đấu tranh chống đầu cơ của nhà nước. ở góc độ ngoại thương, nhà nước thi hành chính sách độc quyền xuất, nhập khẩu thương nghiệp Quốc Dân đã nắm được nguyên liệu, dựa vào đó mở rộng gia công, nắm được nguồn hàng công nghiệp. Với những biện pháp này, thương nghiệp Quốc Doanh (TNQD) đã phát triển mạnh mẽ trung bình việc bán buôn cũng như bán lẻ. “mức bán đến năm 1960 đã chiếm 93,5%, tổng mức bán buôn của TNQD và hợp tác xã mua bán, 75,6% tổng mức bán lẻ của thương nghiệp thuần tuý”. Trong thời kỳ kế hoạch 3 năm (1958-1960), TNQD đã mở rộng. Tổng số của hàng bán lẻ của TNQD đã có 906 năm 1957 thì đến năm 1960 đã tăng lên 1345 cửa hàng (trong đó có 571 cửa hàng ở thành thị). Các trạm thu mua: năm 1957 có 51 trạm, năm 1957 tới năm 1957 không có một cửa hàng nào, đến năm 1939 đã có 79 cửa hàng. mạng lưới TNQD được mở rộng khắp nơi, ở thành phố và nông thôn, ở miền núi, miền biển, ở các khu công nghiệp và các công trường , các khu vực lao động. Trình độ chuyên môn hoá của TNQD cũng được nâng cao thêm một bước. Năm 1957 hệ thống TNQD thuộc bộ thương nghiệp có hàng chuyên dạy. chế độ phân cấp quản lý cũng bắt đầu được thực hiện từ năm 1988 hệ thống tổ chức của TNQD được phân thành các công ty cấp I (thuộc trung tâm quản lý làm nhiệm vụ tổ chức các nguồn hàng, bán buôn với loại hàng quan trọng). Các công ty cấp II (thuộc địa phương quản lý, nhiệm vụ chủ yếu là bán buôn trong phạm ci địa phương). Đây chính là cơ sở hình thành nên các Doanh Nghiệp Thương Mại Quốc doanh sau này. Là thời kỳ này phát triển kinh tế, miền Bắc bắt tay vào nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ thời kỳ 1960 – 1973 về công tác nội thương, ngoại thương, thị trường, giá cả là một nội dung của nghị quyết 10 (khoá III) của Trung Ương Đảng. Tại hội nghị này Đảng đã phân tích toàn diện về kinh tế – Xã hội … và khẳng định “Trong 10 năm qua, nền ngoại thương của ta đã không ngừng phát triển và có nhiều chuyển biến quan trọng ”. Khi hoà bình lập lại, nhà nước thực hiện chế độ thống nhất đất nước, quản lý nội thương ngoại thương, tiếp nhận sự viện trợ của các nước ngoài. Tuy vậy thời kỳ này nền kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế lạc hậu, lệ thuộc nhiều vào nguồn nguyên nhiên liệu,…ở bên ngoài. Nếu không có hoạt động thương mại, đặc biệt là nhập khẩu thì hệ thống công nghệ bị tê liệt hoàn toàn . 2. Thực trạng Doanh Nghiệp Quốc Doanh thời kỳ 1986 đến nay Khi hoà bình lập lại, hoạt động thương mại có những thuận lợi mới, đồng thời có những khó khăn mới. Sau đây sẽ trình bày diễn biến của Doanh Nghiệp Quốc Doanh từ năm 1986 đến nay Theo số liệu thống kê đến cuối năm 1987 cả nước có 12.080 doanh nghiệp nhà nước với số vốn đầu tư tương ứng khoảng 10 tỷ USD. Trong đó DN công nghiệp chiếm 49,3% tổng số vốn. Xây dựng 90% nông nghiệp 8,1%; lâm nghiệp 1,2%; giao thông vận tải 14,8%, thương nghiệp 11,67% các ngành khác 5,3% hàng năm thành phần kinh tế nhà nước đã tạo ra khoảng 33 – 40 % GDP và 23 – 30% thu nhập quốc dân, đóng góp vào ngân sách từ 60 –80% tổng số thu của ngân sách. Lực lượng kinh tế nhà nước nắm giữ toàn bộ các ngành công nghiệp nặng then chốt như: năng lượng luyện kim, khai thác tài nguyên và khoáng sản, xi măng cơ khí, hoá chất, kỹ thuật điện tử, phân bón thuốc trừ sâu và công nghiệp quốc phòng, trong sản xuất hàng tiều dùng Doanh Nghiệp nhà nước cũng chiếm tỷ trọng tuyệt đối hoặc phần lớn ỏ những sản phẩm chủ yếu: 100% thuốc chữa bệnh, gần 100% hàng dệt kim, 85% giấy viết, 75% vải mặc, 60% xà phòng và 70% xe đạp hoàn chỉnh trong kinh tế thị trường hoạt động thương mại là nội dung công việc quan trọng nhất của Doanh Nghiệp. Do vậy lực lượng này sẽ có sức chi phối lớn trên thị trường. Mạng lưới kinh doanh của Doanh Nghiệp sản xuất bố trí trên các vùng lãnh thổ đã có sức cạnh tranh cao và hiệu quả. Riêng ngành thương nghiệp tính đến giữa năm 1991 thương nghiệp Quốc Dân có gần 1000 đơn vị kinh doanh bao gồm 90 tổng công ty, công ty trung ương, 315 công ty, liên hiệp công ty cấp tỉnh, thành phố và 576 công ty quận huyện. Lực lượng lao động trong khu vực thương nghiệp Quốc Dân giai đoạn 1986 – 1988 biến động khá lớn. Năm 1985 là 446,7 ngàn người, năm 1986 là 382,9 ngàn người năm 1987 là 483 ngàn, năm 1988là 473,8 ngàn. nhà nước năm tiếp theo do chuyển đổi mô hình quản lý và cấu trúc lại cho thích hợp với cơ chế thị trường đã có sự biến động rất lứon về lực lượng lao động từ 456 ngàn người năm 1989 giảm xuống còn khoảng hơn 380 ngàn người năm 1992. do qui mô TNQD giai đoạn trước, giai đoạn này đã giảm đi đáng kể hiệu quả hoạt động của thương nghiệp quốc dân trong giai đoạn này ngày càng thực chất hơn. sự chi phối và góp phần bình ổn thị trường Xã Hội trong thời gian qua đã khẳng định vị trí TNQD trong cơ chế thị trường * Khâu bán lẻ tỷ trọng của TNQD có xu hướng giảm sút năm 1985 tỷ trọng của TNQD trên tổng mức bán lẻ thị trường xã hội là 40,2%, năm 1986 giảm xuống 39,8% năm 1987 là 41%, năm 1988 là 40,4% năm 1991 giảm xuống còn 25%. ở một số mặt hàng thiếu yếu mức đáp ứng yêu cầu của TNQD như sau: Xăng dầu 42%, dầu hoả 41%, kim khí 16%, hoá chất 30-50%, săm lốp ô tô 40%, đường 7%, giấy viết 27%, vải 9% * Về hiệu qủa sử dụng vốn trong thương nghiệp quốc doanh cũng nói lên nhiều vấn đề cần quan tâm. Tổng số vốn hoạt động của TNQD đến cuối năm 1990 có gần 1-800 tỷ đồng trong đó có tới 90% nằm trong tay các Doanh nghiệp thương nghiệp trung ương, các doanh nghiệp thương nghiệp địa phương chỉ chiếm 10% vốn. Hiệu quả sử dụng còn thấy do hàng hoá dự trữ cao. Tổn thất nhiều trong quá trình kinh doanh, bộ máy cồng kềnh,quản lý kém. Tốc độ vòng quay vốn chỉ đạt 1-4 vòng/năm. tình trạng nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau khá phổ biến, cộng nợ giữa các doanh nghiệp lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Một số đơn vị do bị chiếm dụng vốn quá lớn mà thiếu vốn và hoạt động giảm sút ghê gớm. Kết quả điều tra ở ba thành phố lớn cho thấy 38% số DNTM do trung ương quản lý có lãi, 32% hoà vốn,10% bị thua lỗ. Các công ty địa phương tương ứng là 67%, 15% và 18%. Trước tình hình đó Đảng và nhà nước đã đổi mới cơ chế quản lý sắp xếp lại Doanh nghiệp nhà nước nói chung và Doanh Nghiệp Thương Mại nhà nước nói riêng. Tại Đại Hội lần thứ VI của Đảng, đã được tiến hành liên tục từ tháng 12/1986 đến nay. Trong quá trình đổi mới Doanh nghiệp nhà nước nhất là cổ phần hoá (CPH) đã bốc lộ một số hạn chế như: 1- Tiến trình diễn ra chậm chạp thể hiện qua sổ Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá còn thấp so với mục tiêu Vốn điệu lệ hầu hết các Doanh nghiệp cổ phần hoá ở mức khiếm tốn 2- Nhiều qui định đã đưa đến hậu quả là hạn chế kênh huy động vốn thông qua cổ phần hoá như khống chế một cá nhân không ssược mua cổ phần quá 5- 10%, một pháp nhân không được mua cổ phần qua 10- 20% Công tác cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Bộ thương mại thực sự chuyển động và đẩy mạnh kể từ khi chính phủ ban hành nghị định 44/1998/nghị định chính phủ ngày 29/6/1998 về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần Bộ thương mại đã đề ra nhiều biện pháp để triển khai nhanh quá trình CPH. Qua số liệu báo cáo kết sản xuất kinh doanh sau CPH; Trên thực tế tính đến tháng 12\2001 Bộ Thương Mại đã chuyển được 19 doanh nghiệp nhà nước vào bộ phận thanh công ty cổ phần. Hầu hết các đơn vị sau khi CPH đều hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, doanh thu, lợi nhuận nộp ngân sách nhà nước, tích luỹ vốn và thu nhập của người lao động đều tăng so với trước khi CPH. Có thể lấy một vài ví dụ điển hình sau: Ví Dụ 1: Công ty cổ phần thiết bị thương mại: Doanh thu bình quân tăng 20%/ năm ; Nộp ngân sách nhà nước từ 698 triệu đồng trên năm 1999 lên 1.390 triệu trên năm 2001, lợi nhuận năm đầu tăng gấp 3, năm thứ 2 gấp đôi và năm thứ 3 tăng gấp 4 lần so với trước khi CPH. Thu nhập bình quân tăng từ 1,23 triệu đồng trên người trên tháng năm 1998 lên 2,196 triệu đồng trên người trên tháng trong năm 2001. Ví dụ 2: Công ty cổ phần vận tải đường thuỷ.( VI TACO): vốn nhà nước khi CPH là 13.688 triệu đồng đến năm 2001: 16.183 triệu đồng nộp ngân sách nhà nước105 và thu nhập bình quân của người lao dộng từ 1,3 triệu đồng trên người nay tăng lên 1,7 triệu đồng /người/tháng Ví Dụ 3: Công ty cổ phần cơ khí xăng dầu: vốn nhà nước từ 33,688 triệu đồng tại thời điểm CPH, đến 2001 là 35,026 triệu đồng, nộp ngân sách nhànước là 529 triệu đồng và 3.040 triệu đồng, lợi nhuận sau thuế là 1.384 triệu đồng và 3290 triệu đồng, thu nhập bình quân người lao dộng 1,7 triệu đồng/ người/ tháng và 1,9 triệu đồng/ người/ tháng. Tuy vậy công tác CPH của doanh nghiệp nhà nước ở bộ thương mại vẫn còn nhiều tồn tại như: + Cơ chế quản lý và điều hành ở các đơn vị CPH trong bộ thương mại chưa được chuyển đổ nhiều, chưa phát huy được ưu việt của laọi hình công ty- cổ phẩn. + Đa số các đơn vị CPH sau 3 năm hoạt động chưa thực hiện việc trao đổi mới công nghệ đầu tư vốn và phát triển sản xuất kinh doanh mới chỉ đầu tư vào tiét kiệm chi phí, giảm giá thành để tăng lợi nhuận. + Sự phối hợp trong chỉ đạo triển khai CPH giữa các cơ quan có liên quan tới các bộ phận trong doanh nghiệp thuộc bọ chưa ddồgn bộ kịp thời. Bộ chưa động bộ ,kịp thời… Từ bước tranh toàn cảnh trên của các doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi toàn quốc ta có thể đi tới những kết luận sau về thành phần kinh Tế này: III. Những kết luận rút ra qua sự phân tích thị trường của doanh nghiệp thương mại quốc dân. 1. Xuất phát từ vao trò của đạo của thương mại nhà nước trong lưu thông. ở nước ta hiện nay thương mại nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự định hướng của XHCN, thực chất là sự tổng hoà của: a>.Vai trò cực kỳ quan trọng của lĩnh vực lưu thông của thương mại mà nhà nước phải nắm lấy như là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất Xã Hội, là sự tiếp nối quá trình sản xuất trong lĩnh vực lưu thông; là việc đảm bảo sự thông suốt từ sản xuất đến phân phối và tiêu dùng b>. Vai trò ngày càng quan trọng của Thương Mại Nhà Nước với tư cách là một lực lượng vật chất của kinh tế nhà nước trong lĩnh vực lưu thông, đồng thời là một bộ phận hợp thành hữu cơ trong toàn bộ lưu lượng vật chất, sức mạnh tổng hợp của kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân 2. Xuất phát từ thực trọng của Doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động trên thị trường nước ta 2.1- Hoạt động thương mại của các doanh nghiệp nhà nước nói chung và trong lĩnh vực chuyên ngành thương mại nói riêng đang chi phối khâu bán buôn và có tỷ trọng đáng kể trong khâu bán lẻ đối với những mặt hàng quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế 2.2- Sau 3 năm chuyển đổi cấu trúc sang kinh tế thị trường một bộ phận các doanh nghiệp nhà nước đã thích ứng được với cơ chế thị trường, hoạt động có hiệu quả cao và khẳng định được vị trí của mình trên thị trường các Doanh nghiệp thương mại nhà nước đã có đóng góp lớn vào ngân sách vượt trối so với thành phần kinh tế khác. 2.3- Các Doanh nghiệp thương mại nhà nước ngoài việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh bình đẳng theo cơ chế thị trường như mọi doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác còn phải thực hiện trách nhiệm xã hội với một số lĩnh vực, một số hàng hoá, đảm bảo cho một số vùng mà tư nhân không làm. Chẳng hạn như dự trữ hàng hoá thiết yếu như thị trường dư thừa cũng như khi có biến động lớn, đảm bảo muối i ốt cho đồng bào dân tộc, thuốc chữa bệnh sốt rét năm 1992… Bên cạnh đó nổi lên một số vấn đề trong khu vực kinh tế quan trọng này cần phải giải quyết Năng suất, chất lượng, hiệu quả còn thấp, thương nghiệp quốc dân về số lượng khá đông nhưng chưa đủ mạnh để chi phối được thị trường có hiệu quả Phương thức kinh doanh chưa đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường đội nhậy cảm với các tín hiệu của thị trường còn yếu kém. Một bộ phận đáng kể các Doanh nghiệp thương mại nhà nước làm ăn thua lỗ, không có khả năng thanh toán đã bị phá sản nhưng không có khả năng thanh toán đã bị phá sản nhưng chưa giải thể đã gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế quốc dân Phần III Một số phương hướng và biện pháp phát triển thị trường của Doanh nghiệp thương mại quốc doanh I- Phương hướng phát triển Doanh nghiệp thương mại quốc doanh. Tổ chức và phát triển Doanh nghiệp thương mại nhà nước phải dựa trên những tư tưởng chủ đạo sau đây 1/ Lợi nhuận là mục tiêu và điều kiện tồn tại của doanh nghiệp. Hoạt động dựa trên những tư tưởng chủ đạo của người sản xuất. 2/ Nhiều thành phần kinh tế kinh doanh thương mại đa dạng hoá các loại hình tổ chức kinh doanh 3/ Thực hiện tự do trong kinh doanh cụ thể trong 3 mặt: tự do lựa chọn mặt hàng hoặc lĩnh vực kinh doanh, lựa chọn thị trường và tự do tham gia các liên minh. 4/ Nhà nước quản lý và điều tiết hệ thống kinh doanh bằng pháp luật, chính sách kinh tế, tổ chức này trên các công cụ khác với các Doanh nghiệp thương mại nhà nước hiện nay cần phải có sự đánh giá đối với các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh có hiệu quả cần củng cố và đầu tư. Tiếp tục khuyến khích phát triển theo lợi thế các doanh nghiệp Các Doanh nghiệp thương mại quốc dân đã và đang hoạt động trong nền kinh tế không thuộc diện giữ lại 100% vốn. Nhà nước cần có sự chuyển hình thức sở hữu thông qua 7 hình thức sau: Bán cổ phần cho những người lao động của doanh nghiệp. ậ đây nhà quản lý người lao động trong doanh nghiệp sẽ mua một số cổ phần của xí nghiệp đủ để kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp, cũng có thể bán cổ phần lớn những người lao động và quản lý ở doanh nghiệp. Bán cổ phần cho tư nhân. Thực hiện phương pháp này tức là nhà nước bán tất cả hay một phần số cổ phần của doanh nghiệp cho những người mua hay nhóm mua xác định trước như vậy Doanh nghiệp nhà nước sẽ chuyển thành công ty cổ phần. Bán cổ phần cho công chúng: Nhà nước công dân có khả năng đều đều có thể mua được cổ phần mà nhà nước bán. Tổ chức lại thành đơn vị nhỏ. Nhà nước tổ chức lại để trở thành đơn vị riêng biệt hoặc thành côngty mẹ và một số chi nhánh. Đầu tư tư nhân mới các Doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ có thể tăng thêm vốn cho các doanh nghiệp nhà nước bằng cách mở rộng cho tư nhân góp vốn. Bán tài sản nhà nước của xí nghiệp. Nội dung của nó là bán tài sản chứ không phải là bán cổ phần của các xí nghiệp có liên quan. Nhà nước có thể bán một cách trực tiệp trong một số trường hợp các tài sản không được bán mà được nhà nước đóng góp vốn vào các công ty mới được thành lập cùng với tư nhân. Cho thuê các hợp đồng quản lý. Cả cho thuê và quản lý theo cơ chế khoán đều là những hợp đồng theo đó các yếu tố quản lý công nghệ hay kỹ năng của khu vực kinh tế tư nhân được đem vào sử dụng có bồi hoàn ở các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian nhất định – ở đây không có sự chuyển đổi quyền sở hữu * * Về mục tiêu lâu dài các Doanh nghiệp thương mại nhà nước là phát triển các ngân hàng và lĩnh vực chu yếu sau đây. + Kinh doanh điện, than + Kinh doanh gỗ. + Kinh doanh xăng dầu + Kinh doanh kim khí + Kinh doanh lương thực + Kinh doanh thuốc chữa bệnh + Kinh doanh muối + Kinh doanh phân bón hoá học, thuốc trừ sâu + Kinh doanh vàng bạc, đá qúi, ngoại tệ + Kinh doanh các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các hàng hoá chiến lược thiết yếu, mạnh. ** Về mô hình Doanh nghiệp thương mại nhà nước gồm 3 dạng: + Loại 100% vốn nhà nước + Loại trên 50% vốn nhà nước + Loại doanh nghiệp mẹ nhà nước và các doanh nghiệp con của các thành phần kinh tế khác. II- Biện pháp phát triển thị trường của doanh nghiệp thương mại quốc doanh Phát triển thị trường phải được xem xét, đánh giá với mọi khía cạnh, mọi thành phần của thị trường của doanh nghiệp như đã nêu ở trên bao gồm: 1. Phát triển thị trường của Doanh nghiệp thương mại quốc doanh là đưa thêm ngày càng nhiều dạng hàng hoá, dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu thị hiếu muôn màu muôn vẻ của thị trường. Nhất là những sản phẩm mới sản phẩm có “hàm lượng kỹ thuật cao”. Cùng với sự phát triển của sản xuất, tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng có nhiều hàng hoá với tính năng tác dụng khác nhau ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Vì vậy phát triển sản phẩm mới. Lợi nhuận sẽ đổ về cho ai là người giới thiệu trước người khác những sản phẩm mới, những hàng hoá hữu ích có chất lượng cao. Đó cũng chính là phương thức kinh doanh có hiệu quả, phương thức chủ yếu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của doanh nghiệp. 2. Phát triển mở rộng thị trường khách hàng cả về số lượng, chất lượng Khách hàng là những cá nhân, nhóm người và các doanh nghiệp có nhu cầu và có khả năng thanh toán chưa được đáp ứng và mong muốn được thoả mãn về hàng hoá, dịch vụ theo quan điểm kinh doanh hiện đại là nhằm vào nhu cầu của những khách hàng, sắp xếp tiềm lực và mọi cố gắng của doanh nghiệp tạo ra sự thoả mãn đối với khách hàng. Thị trường của doanh nghiệp thường là tập hợp các quan hệ rất đa dạng khác nhau về lứa tuổi, giới tính, thu nhập, sở thích tiêu dùng …, nhưng có thể phân chia thành các nhóm khác. Mỗi nhóm có đặc trưng riêng phản ánh quá trình mua sắm của họ, có thể chia thành các loại: Căn cứ vào hành vi tiêu thụ ta có khách hàng là người tiêu dùng cuối cùng và những người tiêu thụ trung gian Căn cứ vào khối lượng hàng mua có thể chia thành khách hàng mua khối lượng lớn và khách hàng mua khóng lượng nhỏ. Căn cứ vào phạm vi địa lý có khách hàng trong nước và khách hàng ngoài nứơc. Căn cứ vào mối quan hệ của khách hàng voí doanh nghiệp với khách hàng truyền thống và khách hàng mới. Phát triển thị trường của Doanh nghiệp thương mại quốc doanh trên góc độ khách hàng cả về mặt số lượng lẫn chất lượng, phạm vi; không gian và địa điểm ; phát triển cả khách hàng bán buôn bán lẻ. a) Trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu cụ thể của khách hàng về số số lượng, chất lượng, quy cách, chủng loại, thời điểm cần hàng hoá, dịch vụ để đưa ra “ chiến lược sản phẩm” phù hợp với trạng thái môi trường kinh doanh, Trong thực tế có thể có các ciến lược sản phẩm sau: Các Sản Phẩm Các Thị Trường Sản phẩm hiện có Sản phẩm cải tiến Sản phẩm hoàn thiện Sản phẩm mới về hình thức Sản phẩm về nội dung Sản phẩm mới hoàn toàn + Thị trường hiện tại + Thị trường mới - Điều quan trọng của chiến lược sản phẩm phải bảo đảm trong bất cứ thời gian nào cũng phải có dạng sản phẩm mới, các dạng sản phẩm có “hàm lượng kỹ thuật cao” mang lại hiệu quả kinh tế lớn trong cơ cấu mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn vậy phải thực sự coi trọng yếu tố kỹ thuật và công nghệ là hướng độ phá để tạo lên sức bật mới trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là động lực cơ bản tạo ra lợi nhuận ổn định, lâu dài cho doanh nghiệp b) Phát triển và mở rộng các hoạt động dịch vụ như một phương tiện lôi kéo khách hàng đến với doanh nghiệp, một phương tiện cạnh tranh hữu hiệu nhất. Trên cơ sở phân chia khách hàng thành các nhóm khác thông qua phân đoạn thị trường để phân tích các nhân tố ảnh hưởng cả bên trong lẫn bên ngoài nhằm hướng mọi hoạt động của doanh nghiệp vào việc thoả mãn nhu cầu toàn bộ của khách hàng. c) Sử dụng đòn bẩy giá cả như một chính sách quan trọng để mở rộng thị trường trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Giá cả hàng hoá là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến doanh số và lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu định giá cao, hàng hoá sẽ khó bán. Còn định giá thấp có thể tăng được doanh số bán nhưng lợi nhuận sẽ thấp. Để phát triển của thị trường doanh nghiệp thương mại quốc dân cần sử dụng chính sách giá cả hướng vào thị trường. Tuỳ điều kiện cụ thể có thể áp dụng giá dẫn, giá tuân theo hoặc làm giá phân biệt… nghĩa là sách lược bạn hàng có tính chất cụ thể, đa dạng và linh hoạt. Muốn thành công trong kinh doanh bao giờ cũng phải căn cứ vào tình hình thay đổi của thị trường để điều chỉnh linh hoạt giá cả cho phù hợp. d). Mở rộng ảnh hưởng của doanh nghiệp trên thị trường về mặt địa lý trên các biện pháp: Lựa chọn kênh bán hàng hợp lý: Muốn mở rộng thị trường, giảm chi phí bán hàng quản lý được kênh bán cần căn cứ vào bản chất sản phẩm, tình hình thị trường, chiến lược phân phối và lý do thay đổi các kênh bán đang áp dụng để chọn kênh bán cho phù hợp thay đổi trên thị trường. Phát triển mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp: mạng lưới kinh doanh giữ vị trí quan trọng, là công cụ chủ yếu để các doanh nghiệp đưa sản phẩm hàng hoá của mình ra thị trường, bán được nhanh, nhiều hàng hoá nhất thực chất của tổ chức mạng lưới kinh doanh là tổ chức thị trường của doanh nghiệp nhằm đáp ứng cao nhất của thị trường của khách hàng trong khi phân bố mạng lưới cần chú ý đến yêu cầu thuận tiện cho hoạt động kinh doanh, gần nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ để giảm chi phí kinh doanh. Tính tới tình hình cạnh tranh và sự phát triển tương lai của khu vực phân bố. Ngoài ra ở những nơi tập trung nguồn hang, các thành phố lớn và đầu mối giao thông, nơi có nhu cầu lớn các doanh nghiệp có thể mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm, thành lập đại diện hoặc trung tâm giao dịch để phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. e) Thực hiện hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán hàng hình thức thông tin cho khách hàng để đánh thức nhu cầu tiêu thụ của họ, tăng giá trị sản phẩm bằng cách tạo ra hình ảnh đáng chú ý phân biệt với các hàng hoá, dịch vụ khác; nôi kéo những người sử dụng mới; Góp phần tăng lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua tăng doanh số bán hàng và giảm chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm, nâng cao uy tín và thế lực trên thương trường. Bí quyết đảm bảo sự thành công của quảng cáo là tạo ra tính độc đáo, sáng tạo và tăng hiệu quả của nó nhờ: + Xác định chính xác người nhận tin quảng cáo + Lựa chọn các đề tài quảng cáo cho phù hợp + Sử dụng phương pháp thu hút theo từng nội dung + Kết hợp lời nói, hình ảnh, màu sắc, âm thanh, nhạc điệu tạo ra không khí độc đáo hóm hỉnh để lôi quốn khách hàng Khi có sự cạnh tranh gay gắt với các nhà sản xuất, các sản phẩm giống nhau về chất lượng tính năng, giá cả; khối lượng bán phụ thuộc vào quen thuộc của khách hàng, và sự ưa thích các nhãn hiệu doanh nghiệp phải sử dụng các xúc tiến bán hàng như: Bán có thưởng, giảm giá, kỹ thuật các chò trơi, cuộc thi và sổ số; cho thử sản phẩm và các hình thức quà biếu. Để nâng cao hiệu quả của xúc tiến bàn hàng các lợi ích vật chất cho người mua ở mức độ “đủ tiếp” để kích thích ham muốn mua hàng đồng thời phải sử dụng kỹ thuật kết hợp với chương trình Marketting của doanh nghiệp. f) Muốn phát triển các doanh nghiệp, một phải nghiên cứu dự báo được sử dụng vận động của môi trường kinh doanh mặt khác phải huy động tốt các tiềm năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật để tận dụng mọi thời cơ hấp dẫn trong hoạt động kinh doanh. Hoạch định chiếm lược và phát triển thị trường của doanh nghiệp cần phải theo sát sự thay đổi nhu cầu của doanh nghiệp và thay đổi nhu cầu thị hiếu của khách hàng, tình hình cạnh tranh đánh giá hoạt động kinh doanh… đều phụ thuộc vào hệ thống thông tin mà doanh nghiệp có thể thu nhập khai thác được. Đây là nguồn tiềm năng quan trọng của thị trường vì vậy doanh nghiệp cần không ngừng hoàn thiện hệ thống thông tin. g) Không ngừng tạo dựng và nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Uy tín của doanh nghiệp là ảnh hưởng của doanh nghiệp trên thị trường (Thị trường ngành hàng đầu ra và thị trường ngành hàng đầu vào). Doanh nghiệp có uy tín là doanh nghiệp có vị trí cao, có hình ảnh đẹp trong con mắt và ấn tượng của người tiêu dùng. Tạo dựng và nâng cao uy tín của doanh nghiệp là quá trình lâu dài và khó khăn thông qua đảm bảo chất lượng hàng hoá kinh doanh, nghệ thuật bán hàng, tác phong bán hàng và quan hệ với khách hàng thông qua tuyên truyền quảng cáo và các quan hệ với công ty khác. h) Hoàn thiện bộ máy kinh doanh và đào tạo các nhà kinh doanh giỏi. Tổ chức bộ máy kinh doanh là phương tiện để thực hiện mục tiêu và chiến lược đã đề ra. Tổ chức bộ máy kinh doanh hợp lý tạo ra chất lượng hoạt động mới góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Gắn với tổ chức bộ máy con người, là yếu tố quyết định nhất của mọi yếu tố, chìa khoá dẫn đến thành công trong kinh doanh. Đó là những con người tài năng có trình độ khoa học kỹ thuật am hiểu nghiệp vụ kinh doanh, có kiến thức về kinh rế thị trường, có kỹ năng ứng sử và giải quyết các tình huống trong hoạt động kinh doanh. c. Kết luận Qua sự nghiên cứu về thị trường và thị trường của doanh nghiệp quốc doanh ta có thể đi đến những nhận xét sau: Triết lý kinh doanh của sản xuất hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra để bán thu lợi nhuận. Cho nên doanh nghiệp và doanh nghiệp thương mại quốc doanh phải giải đáp những vấn đề sau. + Đâu là thị trường có triển vọng đối với sản phẩm của doanh nghiệp quốc doanh? + Khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thương mại quốc doanh trên thị trường? + Doanh nghiệp cần sử lý những biện pháp gì có liên quan và có thể sử dụng những biện pháp nào để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ? + Những mặt hàng nào, thị trường nào có khả năng tiêu thụ với khối lượng lớn phù hợp với năng lực và đặc điểm của doanh nghiệp thương mại quốc doanh? + Với mức giá nào thì khả năng chấp nhận của thị trường là lớn nhất trong từng thời kỳ. + Yêu cầu chủ yếu của thị trường về mẫu mã, bao bì, phương thức thanh toán, dịch vụ… + Tổ chức mạng lưới tiêu thụ và phân phối sản phẩm. Trên cơ sở điều tra nghiên cứu của thị trường, doanh nghiệp thương mại quốc doanh tiến hành lựa chọn sản phẩm thích ứng với nhu cầu thị trường. Đây là nội dung quan trọng nhất quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh, vì trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp thương mại quốc doanh muốn tồn tại và phát triển thì phải sử dụng nguồn vốn bên trong (vốn chủ sở hữu) và bên ngoài(vốn đi vay, viện trợ) để kinh doanh một cách hiệu quả. Những nhà quản lý doanh nghiệp thương mại quốc doanh cần phải biết rằng sản xuất kinh doanh các loại hàng hoá dựa trên cái mà thị trường cần chứ không phải dựa trên cái mà doanh nghiệp sẵn có. Muốn vậy các doanh nghiệp thương mại quốc doanh cần phải tiến hành đổi mới cơ cấu(như cổ phần hoá, phương thức kinh doanh) sao cho sản phẩm làm ra phải thích ứng được với thị trường cả về số lượng, chất lượng, giá cả và thời gian mà thị trường đòi hỏi. Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp thương mại quốc doanh cần phải làm rõ những điểm mạnh điểm yếu, cơ hội và thách thức trong hiện tại cũng như tương lai. Tránh trong sự kinh doanh chồng chéo giữa các đơn vị trong doanh nghiệp thương mại quốc doanh và không linh hoạt(cập nhật) trong sự thay đổi của thị trường do tính ỳ của nền kinh tế tập chung bao cấp để lại. Có như vậy thì những doanh nghiệp thương mại quốc doanh mới thực hiện đúng vai trò của nó trong “kinh tế nhà nước” đồng thời trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35322.doc
Tài liệu liên quan