Đề tài Thị trường ngoại hối Việt Nam

Đây là điều kiện cơ bản và hết sức quan trọng, vì các nhà quản lý và kinh doanh hối đoái là tác nhân chủ yếu có chức năng tạo lập thị trường hối đoái. Hiện tại ta đang có những thuận lợi cơ bản đó là sự ủng hộ của Chính phủ về sự cần thiết của thị trường hối đoái. Tuy nhiên, điểm yếu ở đây là trình độ nhận thức và sự hiểu biết của con người về thị trường hối đoái còn thấp, chỉ có một số người hiểu biết về lĩnh vực này nhưng chưa sâu. Nhà nước, ngành ngân hàng cần phát triển nhân lực theo hướng:  Bổ xung thêm cán bộ lao động trẻ có chất lượng. Việc bố trí cán bộ phải đúng năng lực, sở trường và thu nhập của cán bộ phải thích đáng phù hợp với sự đóng góp của người lao động.  Về đào tạo cán bộ: Với yêu cầu phát triển nghiệp vụ và công nghệ theo hướng hiện đại hoá, việc đào tạo cán bộ trong thời gian tới là đào tạo lại đội ngũ cán bộ đang có, bồi dưỡng kịp thời những kiến thức mới cho cán bộ quản lý.  Đa dạng hoá hình thức đào tạo, nội dung đào tạo cần phải được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế như: kiến thức về kinh tế, quản lý nhà nước, nghiệp vụ mới và tiếp xúc với tin học, công nghệ ngân hàng đối với cán bộ ngân hàng và đối với những người ngoài ngành nhằm giúp cho mọi đối tượng hiểu biết hơn về ngành ngân hàng.

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2012 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường ngoại hối Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã nghiên cứu, tìm hiểu đề tài "Thị trường ngoại hối Việt Nam" Xin chân thành cảm ơn cô giáo đã hướng dẫn chúng em hoàn thành bài thảo luận này. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI I. Tổng quan về thị trường ngoại hối 1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thị trường ngoại hối a. Khái niệm Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại tệ thông qua quan hệ cung cầu. Việc trao đổi bao gồm việc mua một đồng tiền này và đồng thời bán một đồng tiền khác. Như vậy, các đồng tiền được trao đổi từng cặp với nhau. Ví dụ: USD/DEM Ở các nước phát triển các quan hệ cung cầu ngoại hối đều tập trung ở thị trường ngoại hối. Trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân hàng, thông qua thị trường liên hàng mọi giao dịch mua bán ngoại hối có thể tiến hành trực tiếp với nhau. Quá trình hình thành thị trường ngoại hối đã hình thành hai hệ thống tổ chức khác nhau. Hệ thống hối đoái Anh – Mỹ và hệ thống hối đoái châu Âu. Theo hệ thống Anh – Mỹ thì thị trường hối đoái có tính chất biểu tượng, chỉ giao dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số ngân hàng và người môi giới qua các phương tiện thông tin hiện đại, tức là loại thị trường không qua quầy. Quan hệ này có thể là trực tiếp, có thể là gián tiếp qua điện thoại. Thị trường ngoại hối thực chất không phải là một địa điểm cụ thể, tức không phải là một văn phòng nơi mọi người ngồi lại với nhau mà đó là một mạng lưới thông tin liên lạc ngân hàng nối mạng điện tử với nhau, liên kết với người môi giới ngoại hối. Theo hệ thống Châu Âu lục địa (không bao gồm nước Anh) thì thị trường hối đoái có địa điểm giao dịch nhất định và các giao dịch diễn ra hàng ngày, những người mua bán ngoại hối đến đó để giao dịch và ký hợp đồng, nhưng chủ yếu qua điện thoại, fax.... Các thị trường ngoại hối lớn trên thế giới gồm có: London, NewYork, Tokyo, singapore, Hongkong, Franfurt...với doanh số hàng ngày rất lớn. b. Đặc điểm của thị trường ngoại hối Thị trường ngoại hối mang tính quốc tế: Thị trường ngoại hối mang tính quốc tế do chênh lệch mức giờ của từng khu vực, thị trường hoạt động gần như liên tục trừ ngày nghỉ truyền thống. Về mặt lý thuyết, từ khi đóng cửa các thị trường Châu Âu, giao dịch có thể được tiến hành ở NewYork, Tokyo. Phạm vi hoạt động của thị trường ngoại hối không chỉ dừng lại ở một quốc gia mà mở rộng trên phạm vi quốc tế nhằm phục vụ cho các nhu cầu mua bán, giao dịch về ngoại tệ. Sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc tạo điều kiện thực hiện các cuộc đàm thoại thế giới nhanh chóng và tức thời với toàn bộ thị trường hối đoái đang mở cửa, dẫn đến việc quốc tế hóa việc yết giá nói riêng và hoạt động của thị trường ngoại hối nói chung. Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục Thị trường hối đoái hoạt động liên tục suốt ngày đêm 24 giờ/ ngày trên các khu vực khác nhau của thế giới. Không có địa điểm cụ thể. Các giao dịch mua bán được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như: telex, điện thoại, máy vi tính Trong bất cứ giao dịch ngoại hối nào thì ít nhất có một đồng tiền đóng vai trò làm ngoại tệ. Ngôn ngữ sử dụng trên thị trường rất ngắn gọn, mang nhiều quy ước nghiệp vụ rất khó hiểu với người thường. Doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối rất lớn. Giá cả hàng hóa của thị trường ngoại hối chính là tỷ giá hối đoái được hình thành một cách hợp lý, linh hoạt dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Do đó, thị trường hối đoái rất nhạy cảm không chỉ với các chỉ số kinh tế như tổng sản phẩm xã hội, mức tăng sản xuất, tỷ lệ lạm phát, sự biến động của lãi suất mà còn chịu sự tác động của các sự kiện chính trị – xã hội như: biểu tình, thiên tai, chiến tranh... c. Hàng hóa của thị trường hối đoái Hàng hóa được mua bán trên thị trường hối đoái là ngoại hối. Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng để thanh toán giữa các quốc gia. Tùy theo quan niệm của Luật quản lý ngoại hối của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối không giống nhau. Về cơ bản, ngoại hối gồm 5 loại sau: - Ngoại tệ là tiền của nước khác lưu thông trong một nước. Ngoại tệ bao gồm: ngoại tệ tiền mặt và ngoại tệ tín dụng. Ngoại tệ trong khi lưu thông thanh toán quốc tế tồn tại dưới các hình thức của các phương tiện lưu thông tín dụng. Ví dụ séc, hối phiếu, điện chuyển tiền và thư chuyển tiền. Các phương tiện thanh toán này thể hiện chủ yếu các quan hệ giữa các ngân hàng. Các ngân hàng chuyển chúng cho các ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài. Nghiệp vụ thanh toán thực hiện bằng cách chuyển một số tiền từ tài khoản của ngân hàng ủy thác vào tài khoản của ngân hàng nhận ủy thác. Sau đó số tiền này được ghi vào tài khoản của người hưởng lợi quy định trên các phương tiện thanh toán đó. Ngoại tệ tín dụng là các phương tiện không có giá trị nội tại mà chỉ là dấu hiệu của tiền tệ. Các ngoại tệ tín dụng là kết quả của hợp đồng mua bán hàng hóa và nghiệp vụ của các ngân hàng tạo ra. - Các phương tiện thanh toán quốc tế ghi bằng ngoại tệ: hối phiếu, lệnh phiếu, thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, thẻ tín dụng, thư tín dụng ngân hàng. - Các chứng khoán có giá trị bằng ngoại tệ: cổ phiếu, trái phiếu công ty, công trái quốc gia, trái phiếu kho bạc. - Vàng, bạc, kim cương, ngọc trai, đá quý...được dùng làm tiền. - Tiền của Việt Nam dưới các hình thức sau: tiền của Việt Nam ở nước ngoài mọi hình thức khi quay lại Việt Nam, tiền Việt Nam là lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tiền Việt Nam có nguồn gốc ngoại tệ khác. Như vậy, ngoại hối là những phương tiện thanh toán thể hiện dưới dạng ngoại tệ hoặc các khoản phải thu, phải đòi bằng ngoại tệ kể cả vàng theo tiêu chuẩn quốc tế. 2. Các thành phần tham gia thị trường ngoại hối Các bên tham gia trên thị trường ngoại hối là các ngân hàng thương mại cỡ lớn, người môi giới ngoại hối, ngân hàng trung ương và các công ty và nhà đầu tư. Ngoài ra, còn có các định chế tài chính khác như: các quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm và cả cá nhân có vốn. Khu vực chính yếu trong thị trường hối đoái là thị trường liên ngân hàng. Ở đó các ngân hàng có thể giao dịch trực tiếp với nhau hoặc thông qua các nhà môi giới. a. Các ngân hàng thương mại Các ngân hàng thương mại có ảnh hưởng lớn đến sự vận động của thị trường ngoại hối. Họ kinh doanh trên danh nghĩa thay mặt cho khách hàng hay cho chính bản thân. Ngân hàng tiến hành giao dịch ngoại hối với hai mục đích: Thực hiện kinh doanh cho chính mình và cho khách hàng. . Giao dịch kinh doanh cho chính mình. . Cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Chẳng hạn, ngân hàng sẽ cung cấp dịch vụ bảo hiểm vốn cho các doanh nghiệp trước sự biến động của tỷ giá. Mặt khác, đây là một nghiệp vụ để ngân hàng tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tận dụng thời cơ “Mua rẻ – bán đắt”. Các ngân hàng thương mại áp dụng hai loại tỷ giá. Loại tỷ giá bán buôn áp dụng trên thị trường liên ngân hàng và tỷ giá bán lẻ áp dụng đối với các giao dịch có doanh số nhỏ của khách hàng. Kết quả của hoạt động này là ngân hàng thu phí. Các ngân hàng thương mại là hạt nhân của thị trường hối đoái, giữ vai trò quan trọng trên thị trường hối đoái. Các ngân hàng thương mại lớn có các chi nhánh, đại lý ở nước ngoài, họ kinh doanh ngoại hối là chủ yếu, còn các ngân hàng khác đóng vai trò phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh dưới sự chỉ đạo của các ngân hàng thương mại lớn. Các ngân hàng này có nhiệm vụ điều chỉnh mức dự trữ của từng loại ngoại tệ khác nhau. Các ngân hàng thương mại chủ yếu là mua đi bán lại các loại ngoại tệ hoặc là các giao dịch có tính chất đầu cơ. b. Các ngân hàng trung ương Với tư cách là người canh giữ hệ thống tiền tệ – Ngân hàng và người chủ của dự trữ ngoại hối quốc gia, các Ngân hàng trung ương đôi khi là thành phần cơ bản trên thị trường hối đoái thông qua hành vi can thiệp trên thị trường. Các ngân hàng trung ương vẫn thường xuyên can thiệp vào thị trường ngoại hối với hai tư cách: .* Ngân hàng trung ương thực hiện việc mua bán ngoại tệ để cân bằng hoạt động của khách hàng của mình chủ yếu là các ngân hàng thương mại. .* Giám sát hoạt động của thị trường trong khuôn khổ quy định của luật pháp. Sự can thiệp của ngân hàng trung ương nhằm để giúp nâng giá hoặc giảm giá đồng tiền bản tệ khi nó ở mức có thể làm tổn hại đến chính sách tiền tệ của quốc gia hoặc để triệt tiêu hiện tượng đầu cơ trên thị trường. c. Các cá nhân hay các nhà kinh doanh (khách hàng mua bán lẻ) Nhóm thành viên này bao gồm những công dân trong và ngoài nước có nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để phục vụ cho hoạt động đầu tư, cho vay, đi công tác hay đi du lịch ở nước ngoài hoặc khi nhận được các khoản lợi tức đầu tư hay chuyển tiền. d. Các nhà môi giới ngoại hối Người môi giới thực hiện các lệnh mua bán ngoại hối theo yêu cầu của khách hàng và hưởng phí. Các nhà môi giới nắm vững tỷ giá của nhiều thị trường. Vì vậy, tại các trung tâm tài chính quốc tế thường có một số nhà môi giới ngoại hối giúp các ngân hàng thowng mại thực hiện lệnh mua và bán ngoại hối, từ đó cung cấp tỷ giá chào bán và tỷ giá chào mua cho khách hàng một cách nhanh nhất và ưu việt nhất và nhận một khoản phí môi giới. Có thể nói, các nhà môi giới là những trung gian giữa các ngân hàng và là trung gian giữa ngân hàng và khách hàng, qua đó góp phần tích cực vào hoạt động của thị trường bằng cách làm cho cung và cầu tiếp cận với nhau. e. Các doanh nghiệp Các doanh nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp này vừa là chủ thể có nhu cầu về ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng thương mại quốc tế, vừa là chủ thể cung ngoại tệ khi có các khoản thu về việc xuất khẩu hàng hóa dịch vụ...Các doanh nghiệp này được xem như là chủ thể hình thành nên khối lượng mua và bán ngoại hối lớn nhất trên thị trường ngoại hối. 3. Vai trò của thị trường ngoại hối - Cân đối các nhu cầu mua bán ngoại tệ Thị trường ngoại hối tạo ra cơ chế hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ phục vụ cho các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Thể hiện: Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục và mang tính toàn cầu nên đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của bất kỳ người mua, người bán nào đều có thể được đáp ứng ngay lập tức. Khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ, sự tham dự của các ngân hàng và các nhà đầu cơ đã góp phần giải quyết sự mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ, sự tham dự của các ngân hàng và các nhà đầu cơ đã góp phần giải quyết sự mất cân đối đó thông qua việc điều chỉnh tỷ giá cân bằng của thị trường hoặc thông qua đầu cơ ngoại tệ. Phòng chống rủi ro tỷ giá Ngày nay đa số các nước trên thế giới đều áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi nên tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động. Sự biến động của tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các chủ thể. Các công ty xuất nhập khẩu, công ty đa quốc gia và các cá nhân có nguồn thu, nguồn chi ngoại tệ trong tương lai chịu ảnh hưởng rủi ro rất lớn về sự biến động của tỷ giá hối đoái. Do vậy, các chủ thể này cần thiết phải áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế những rủi ro này. Thông qua các nghiệp vụ mua bán kỳ hạn, quyền chọn...của thị trường ngoại hối sẽ giúp cho các công ty, doanh nghiệp phòng ngừa được rủi ro. Tạo ra thu nhập cho người sở hữu ngoại tệ Các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là giao dịch cho chính mình. Các ngân hàng chủ yếu tiến hành các hoạt động kinh doanh chênh lệch giá (Acbít) giữa các thị trường để thu lời qua việc mua ở thị trường này giá rẻ hơn và bán lại ở thị trường kia giá cao hơn. Không chỉ có các ngân hàng mà các công ty, doanh nghiệp và cá nhân cũng có thể thu lời thông qua hoạt động đầu cơ ngoại tệ. Ngoài ra, thị trường ngoại hối còn giúp các nhà đầu tư chuyển đổi ngoại tệ phục vụ cho việc đầu tư vào thị trường có mức lãi dự tính cao. II NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI 1. Thị trường tiền gửi: Là nơi gửi tiền giao dịch vay và cho vay các loại ngoại tệ với những thời hạn xác định kèm theo một khoản tiền gửi thể hiện qua lãi suất . Tại thị trường này các ngân hàng của họ tiến hành các giao dịch về ngân quỹ, tức là vay ngoại tệ thiếu và cho vay ngoại tệ thừa. a. Thị trường tiền gửi chính xác Trên thị trường thỏa mãn các nhu cầu vốn trong các hình thức vay- gửi các loại ngoại tệ khi có cung, cầu với bất kỳ khối lượng nào và mức thời gian từ 1 ngày đến 5 năm hoặc lâu hơn. Kỳ hạn chính xác: được ký cụ thể trong các hợp đồng giao dịch Kỳ hạn chính xác thể hiện thời hạn thanh tóan đúng hạn và đến hạn (trả trước hoặc trả sau đều chịu lãi phạt). Mức lãi phạt tùy thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng và nhu cầu vốn trên thị trường. Ở thị trường tiền gửi có hình thức vay vốn 1 ngày. Hình thức vay vốn 1 ngày nhằm thỏa mãn vốn kinh doanh của chủ thể kinh thế. Vay một ngày Ngày ký Ngày nhận Ngày trả Vay hôm nay, trả ngày mai J J J + 1 Vay ngày mai, trả ngày kia J J + 1 J + 2 Vay bất kỳ, trả kế tiếp J J + N JN + 1 b. Thị trường tiền gửi thông qua lãi suất Lãi suất được hiểu là giá phải trả hay nhận được từ các khoản đi vay hay đi gửi bằng ngoại tệ. Như vậy, các mức lãi suất này xác định chi phí hay thu nhập có liên quan đến việc sử dụng tiền (ngoại tệ) trong một thời gian nhất định Liên quan đến tiền và thời gian Xoay quanh quy luật cung cầu Lãi suất trên thị trường được tính trên cơ sở năm thương mại và thông báo dưới hình thức phân số. Ví dụ: Lãi GBP khác với 3 tháng USD (loại tiền) Lãi 3 tháng GBP khác lãi 1 tháng (thời gian) Lãi 3 tháng GBP: 9- 91/2 (tính trên cơ sở 365 ngày) Lãi 6 tháng USD: 61/4- 61/2 (tính trên cơ sở 360 ngày đối với các đồng tiền ngoài GBP) Con số đầu tiên là lãi suất mà ngân hàng sẵn sàng đi vay / huy động Con số thứ hai là lãi suất mà ngân hàng sẵn sàng cho vay, lãi suất chào. Vậy có thể rút ra quy tắc ứng dụng sau: + Khách hàng đi vay với lãi suất cao nhất (con số thứ 2) + Khách hàng cho vay với lãi suất thấp nhất (con số đầu tiên) - Trả đúng hạn, đến hạn + Trả trước hoặc trả sau đều chịu trả lãi + Mức phạt: Tùy thuộc vào mối quan hệ ngân hàng và khách hàng cũng như nhu cầu vổn trên thị trường Phạt chậm trả cao hơn lãi vay Phạt trả trước Công thức tính các khoản lãi phải trả: Trong đó: I: Lãi xác định phải trả C: Vốn giao dịch T: Mức lãi suất áp dụng N: Chính xác số ngày, kỳ hạn 360 là năm thương mại thông thường Thị trường tiền gửi mang tính quốc tế, hoạt động không ngừng và do quy luật cung cầu chi phối. Có nghĩa là thị trường có thể bị tác động bởi các sự kiện kinh tế, chính trị và tâm lý ... thậm chí với mức độ lớn hơn thị trường giao ngay vì phần lớn các nước phát triển đều sử dụng công cụ lãi suất để tác động đến một loạt các chỉ số kinh tế và đặc biệt là tác động đến quan hệ giữa các đồng tiền với nhau. Chính vì vậy mà chính sách biến động lãi suất do Mỹ thi hành tác động đến tỷ giá của đồng Đôla Mỹ và các đồng tiền khác nhau, vì thông qua ảnh hưởng tới việc chu chuyển vốn làm biến động cung và cầu, mà lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn phụ thuộc rất lớn vào quan hệ cung cầu, buộc các lãi suất này cũng phải thay đổi. 2. Thị trường mua bán ngoại tệ giao ngay Thị trường này bao gồm thị trường thỏa thuận tùy ý và thị trường giao dịch theo phiên ấn định. - Về địa điểm và thời gian + Thị trường thỏa thuận tùy ý không có địa điểm cụ thể, thời gia 24/24 h + Thị trường theo phiên giao dịch tại phòng lớn. - Về tỷ giá: + Thỏa thuận tùy ý; Mỗi giao dịch hay mỗi hợp đồng áp dụng một tỷ giá và tỷ giá này không công bố + Theo phiên ấn định: Tỷ giá do người tổ chức phiên đưa ra - Ngày giá trị: + Ngày thỏa thuận tùy ý tuân thủ nguyên tắc J+2 đối với tất cả hợp đồng ký vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày. +chỉ áp dụng J+2 đối với tất cả các hợp đồng (lệnh mua bán đưa ra ) ký trước 12giờ của ngày tổ chức theo phiên. III. CÁC NGHIỆP VỤ TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI 1. Giao dịch giao ngay Khái niệm Giao dịch giao ngay là việc mua bán một số lượng ngoại tệ được thực hiện giữa hai bên theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày cam kết mua bán. Các giao dịch giao ngay được thực hiện giữa ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng, giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa các tổ chức tín dụng với các tổ chức khác và cá nhân. Trong đó, ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung tâm trong việc tạo thị trường nhằm mục đích kinh doanh của mình hoặc phục vụ cho khách hàng. Các điều kiện của giao dịch Trong giao dịch giao ngay, thỏa thuận giao dịch giữa hai bên thường bao gồm một số điều kiện mua bán như: tỷ giá mua bán, số lượng giao dịch, địa điểm chuyển tiền đến, chuyển tiền đi vào ngày thanh toán...Sau khi cam kết giao dịch, các bên có thể xác nhận lại bằng văn bản koặc ký kết hợp đồng chi tiết. Thông thường việc giao dịch được hoàn tất bằng thỏa thuận qua điện thoại là có tính pháp lý. Ngày giá trị - Ngày giá trị là khoảng thời gian thực hiện việc chuyển tiền đến các tài khoản có liên quan. Đó là ngày mà các khoản ngoại hối phải được trả cho các bên tham gia giao dịch. Ngày giá trị còn được gọi là ngày thanh toán. - Có các ngày giá trị sau : T+0 : Thanh toán trong ngày T+1 : Sau một ngày làm việc T+2 : Sau hai ngày làm việc Phương tiện giao dịch Giao dịch giao ngay được thực hiện qua các phương tiện giao dịch như : telex, điện thoại, hệ thống mạng vi tính hoặc có thể tiếp nhận trên thị trường tập trung. Hai bên thỏa thuận với nhau các điều kiện mua bán và sau đó xác nhận lại bằng văn bản. Tỷ giá giao ngay + là tỷ giá được thỏa thuận từ ngày hôm nay nhưng việc thực hiện thoanh toán xảy ra vào ngày làm việc thứ hai sau ngày ký kết hợp đồng. + Các ngoại tệ được mua bán lẫn nhau thông qua việc niêm yết tỷ giá hay cơ chế tỷ giá chéo. Trong giao dịch liên ngân hàng thì tỷ giá giao ngay được niêm yết theo Kiểu Mỹ : Số lượng(giá cả) đo la Mỹ cho một đồng ngoại tệ Kiểu Châu Âu: Số lượng ngoại tệ so với một Đôla Mỹ. + Khi đổi kiểu yết giá từ trực tiếp sang gián tiếp hay từ kiểu Mỹ sang kiểu Châu Âu, thứ tự tỷ giá mua bán phải thay dổi ngược lại. Giá mua kiểu Mỹ đổi thành giá bán kiểu Châu Âu và ngược lại. Chú ý: Trong giao dịch giao ngay, tỷ giá giao dịch ngân hang đưa ra luôn thay đổi tùy theo tình hình thực tế về cung cầu trên thị trường.Giao dịch được thực hiện theo tỷ giá do ngân hàng niêm yết tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thảo thuận. Ở Việt Nam, tỷ giá giao ngay trên thị trường ngoại hối chính thức được xác định theo quan hệ cung cầu về ngoại tệ nằm trong giới hạn quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam căn cứ vào tình hình cụ thế trong từng thời kỳ để quy định giới hạn này cho phù hợp. Chi phí giao dịch Các ngân hàng thương mại không thu phí mà thu lời từ sự chênh lệch gữia giá bán và giá mua. Công thức xác định: Chênh lệch = Tỷ giá bán – Tỷ giá Tỷ giá bán 2. Giao dịch mua bán có kỳ hạn Khái niệm Giao dịch ngoại hối có kỳ hạn là một giao dịch trong đó hai bên sẽ cam kết mua bán với nhau một lượng ngoại tệ theo một tỷ giá xác định tại một thời điểm sau đó hay sau một thời hạn xác định kể từ ngày ký kết giao dịch. Trong giao dịch kỳ hạn, mọi điều kiện mua bán được ký kết vào ngày giao dịch, việc giao nhận tiền chỉ được thực hiện vào ngày giá trị đã thỏa thuận trên cơ sở kỳ hạn mua bán. Giao dịch hối đoái kỳ hạn có thể được thực hiện trên thị trường tập trung hoặc không tập trung qua các phương tiện giao dịch như điện thoại, mạng máy tính... Ỏ Việt Nam, chỉ có các ngân hàng thương mại đủ điều kiện mới được phép giao dịch có kỳ hạn với một số khách hàng vàcác tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế là pháp nhân Việt Nam. Các giao dịch phải được ký kết hợp đồng chi tiết nếu không giao dịch qua mạng máy tính. Ngày giá trị kỳ hạn Trong giao dịch có kỳ hạn, ngày giá trị được xác định sau một thời gian nhất định (thời hạn của giao dịch) kể từ ngày giá trị giao ngay của giao dịch giao ngay cùng thời điểm giao dịch. Để xác định ngày giá trị có kỳ hạn, đầu tiên phải xác định ngày giá trị giao dịch giao ngay có hiệu lực thích hợp, sau đó cộng với thời hạn tương ứng của giao dịch. Hay Ngày giá trị = Ngày giá trị giao ngay + thời hạn tương ứng của giao dịch (1,2,3,6,9,12 tháng). Chú ý Nếu ngày giá trị có kỳ hạn rơi vào ngày nghỉ thì ngày giá trị có kỳ hạn có hiệu lực sẽ được gia hạn lùi vào ngày làm việc liền sau. Trong trường hợp thời hạn của giao dịch là chẵn tháng, nếu việc gia hạn ngày giá trị có hiệu lực rơi vào tháng sau thì phải tính ngược trơ lại cho đến khi xác định được ngày giá trị có hiệu lực đầu tiên. * Tỷ giá có kỳ hạn Tỷ giá kỳ hạn là tỷ giá đựoc thỏa thuận ngay từ hôm nay để làm cơ sở cho việc trao đổi tiền tệ tại một ngày xác định xa hơn ngày giá trị giao ngay. Tỷ giá có kỳ hạn do các Ngân hàng niêm yết có thể theo hai cách: Yết giá trực tiếp hoặc yết giá gián tiếp. Trên thị trường các yết giá kiểu Swap được sử dụng phổ biến. Theo phương pháp này, ngân hàng sẽ yết tỷ giá giao ngay và mức swap. Mức swap là chênh lệch tỷ giá hối đoái giữa tỷ giá có kỳ hạn và tỷ giá giao ngay hay còn gọi là điểm kỳ hạn. Vì tỷ giá bao gồm hai loại là tỷ giá bán và tỷ giá mua nên về nguyên tắc, mức swap được yết theo điểm gồm mức swap mua và mức swap bán. Số viết trước là mức swap mua và số viết sau là mức swap bán. Swap = swap mua /swap bán Tỷ giá có kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay Chú ý Nếu trong mức swap, mức swap mua nhỏ hơn mức swap bán thì: Tỷ giá có kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay – mức swap Nếu trong mức swap, mức swap mua lớn hơn mức swap bán thì: Tỷ giá có kỳ hạn = tỷ giá giao ngay + mức swap 3. Giao dịch tương lai *Khái niệm Hợp đồng tương lai là một thỏa thuận giữa hai đối tác được mua bán một số lượng đồng tiền định sẵn vào thời điểm ký kết hợp đồng và ngày giao hàng được ấn định sẵn trong tương lai được thực hiện tại Sở giao dịch. Thực chất của giao dịch sau chính là giao dịch có kỳ hạn nhưng được chuẩn hóa về: Loại ngoại tệ giao dịch, giá trị hợp đồng giao dịch và thời hạn giao dịch. * Đặc điểm của hợp đồng tương lai Đặc điểm nổi bật của hợp đồng tương lai là tính tiêu chuẩn cao. Các điều khoản được tiêu chuẩn hóa cao trong hợp đồng giao sau là: tên hàng, số lượng (độ lớn của hợp đồng), thời gian giao hàng và địa điểm giao hàng. + Loại ngoại tệ giao dịch: Tại sở giao dịch Chicago-CME, các ngoại tệ được giao dịch là: CAD, EUR, JPY, GBP, AUD và CHF. + Khối lượngngoại tệ giao dịch: được quy định với từng loại đồng tiền. Chẳng hạn, Hợp đồng Yên Nhật là 12.500.00, với AUD là 100.000... + Ngày thanh toán cụ thể trong tương lai: Ngày thứ 4 của tuần thứ ba của các tháng 3,6,9,12. + Địa điểm giao dịch: Việc giao dịch được diễn ra trên sàn giao dịch theo nguyên tắc đấu giá. Các thành viên tham gia giao dịch phải là thành viên cả Sở giao dịch. Những người tham gia vào thị trường này đều phải đóng 1 khoản ký quỹ, trả chi phí giao dịch tại công ty môi giới và sau đó khoản này được ký gửi tại công ty thanh toán bù trừ. + Nếu trong quá trình công ty thanh toán bù trừ điều chỉnh theo thị trường làm cho khoản ký quỹ của người mua và người bán tiền tệ giao sau xuống một mức nào đó thì họ phải đóng bổ sung. Việc thanh toán được thực hiện thông qua công ty thanh toán bù trừ của sở giao dịch. Tính hoa hồng trên từng thương vụ mua bán. Khách hàng có thể kết thúc hợp đồng vào bất kỳ lúc nào trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng bằng cách ký một hợp đồng khác ngược lại với hợp đồng đang có 4. Nghiệp vụ quyền chọn Quyền lựa chọn là công cụ tài chính mang lại cho người sở hữu nó có quyền mua hoặc bán (nhưng không bắt buộc phải thực hiện) một số lượng ngoại tệ nhất định với giá đã được thỏa thuận trước trong một khoảng thời gian hoặc một ngày ấn định trong tương lai. Quyền lựa chọn bao gồm quyền chọn mua và quyền chọn bán. + Quyền chọn mua: cho phép người sở hữu nó có quyền (nhưng không bắt buộc) mua một số lượng ngoại tệ theo mức giá và trong thời gian xác định trước + Quyền chọn bán: Cho phép người mua quyền chọn bán một lượng ngoại tệ nhất địnhtheo giá thực hiện vào ngày giao hàng. * Nội dung của quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán Hình thức lựa chọn: Kiểu Mỹ hay kiểu Châu Âu. + Kiểu Châu Âu chỉ được thực hiện vào ngày đáo hạn. + Kiểu Mỹ có thể thực hiện bất kỳ lúc nào trước ngày đáo hạn - Số lượng ngoại tệ mua bán . Giá thực hiện: giá mua hay giá bán ngoại tệ khi người mua quyền lựa chọn thực hiện quyền. Thời hạn hợp đồng (thời gian đán hạn) Lệ phí quyền lựa chọn (Option Price) Đây chính là khoản lãi của người mua quyền chọn Nhân tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn Tỷ giá giao ngay - Tỷ giá thưch hiện Thời gian thực hiện Sự biến động của tỷ giá Nghiệp vụ hoán đổi Hoán đổi là giao dịch giữa hai đối tác trong việc trao đổi các luồng tiền tương lai tính trên cơ sở khác nhau. Có hai loại hoán đổi là hoán đổi lãi suất và hoán đổi tiền tệ. Swap lãi suất * Khái niệm Là nghiệp vụ qua đó hai bên tham gia trao đổi với nhau những chi phí tài chính về các khoản nợ tương ứng của mỗi bên, tức là trao đổi giữa hai bên đối với lãi phải trả và khoản lãi thu của một đồng tiền tính trên một lượng tiền gốc ngầm định thỏa thuận. - Giao dịch trao đổi khoản lãi trả gọi là hoán đổi nợ. Giao dịch trao đổi khoản lãi thu gọi là hoán đổi tải sản. * Các loại hoán đổi lãi suất - Hoán đổi Coupon: Hoán đổi lãi tính trên cơ sở lãi suất cố định cho lãi tính trên cơ sở lãi suất thả nổi. Ví dụ: Lãi suất cố định 12% với lãi suất thả nổi trên cơ sở lãi suất Libor 6 tháng. Hoán đổi cơ bản: Hoán đổi lãi thả nổi tính toán trên cơ sở khác nhau với nhau. Ví dụ: Lãi suất thả nổi trên cơ sở lãi suất Libor 6 tháng với lãi suất thả nổi trên cơ sở trái phiếu ngắn hạn của Mỹ. * Lợi ích của hoán đổi lãi suất Giảm chi phí vay Tiếp cận vay ở thị trường nghiêm ngặt Giao dịch hoán đổi lãi suất có thể được sử dụng để những người vay Phòng ngừa rủi ro. Swap tiền tệ * Định nghĩa Hoán đổi ngoại tệ là giao dịch hoán đổi trong đó bên A trao đổi vốn gốc và tính lãi trên cơ sở lãi suất cố định trên một đồng tiền với vốn gốc và tính lãi trên cơ sở lãi suất cũng cố định nhưng của một đồng tiền khác. * Các bước thực hiện Trao đổi vốn gốc ban đầu Trao đổi lãi trên cơ sở giá trị gốc của từng đồng tiền Trao đổi gốc ngược lại * Tác động của hoán đổi ngoại tệ Giúp người vay giảm chi phí vay trên những thị trường khó tiếp cận. Giúp người vay thâm nhập và vay trên thị trường vốn nước ngoài với chi phí thấp. 5. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ a Nghiệp vụ khách hàng Trong nghiệp vụ này ngân hàng là người tạo thị trường, xác định và niêm yết tỷ giá. Khi nhận được lệnh của khách hàng, ngân hàng sẽ bù trừ các lệnh. Phần chênh lệch cuối cùng, ngân hàng sẽ tìm các xử lý sao cho có lợi nhất. b. Nghiệp vụ Acbít Là nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ dựa trên sự chênh lệch giá giữa các thị trường khác nhau để thu lợi. Nghiệp vụ Acbít xuất hiện lần đầu tiên trên thị ttrường giao ngay bằng cách mua ở thị trường giá thấp và bán ở thị trường giá cao do đó ngân hàng có thể thu lợi từ sự chênh lệch tỷ giá. - Điều kiện để thực hiện + Phải có vốn lớn + Phải có mạng lưới đại lý rộng khắp + Hệ thống thông tin hiện đại đảm bảo đảm bảo thông tin nhanh, chính xác, kịp thời + Phải có đội ngũ cán bộ giỏi, có trình độ am hiểu thị trường. - Phân laọi Acbit Acbít hai điểm: được thể hiện khi có sự chênh lểch rõ ràng về tỷ giá của hai đồng tiền giữa hai điểm khác nhau. Acbít ba điểm : Nhìn bề ngoài chưa thấy được sự khác nhau trong tỷ giá giữa các thị trường nhưng có thể nhìn thấy sự chênh lệch tỷ gía thông qua tỷ giá chéo. CHƯƠNG II SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM 1. Quá trình hình thành thị trường ngoại hối Việt Nam Từ năm 1989, công cuộc Đổi mới được đẩy mạnh hơn với chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát triển một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; công cuộc Đổi mới cũng được tiến hành đồng thời với việc phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa, hợp tác và hội nhập, phù hợp với xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ. Nhằm bôi trơn và thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, đặc biệt là hoạt động XNK, thì việc hình thành và đưa vào hoạt động thị trường ngoại hối ở Việt Nam là cần thiết. Quá trình hình thành và phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam có thể tóm tắt như sau: 1.1. Giai đoạn trước năm 1991 Đặc trưng của giai đoạn trước 1991 là Việt Nam phát triển kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại thương và ngoại hối. Với cơ chế kinh tế như vậy, đã triệt tiêu môi trường và mọi điều kiện để hình thành và phát triển thị trường nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng. Trước yêu cầu đổi mới, ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 53/HĐBT về việc tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm: Ngân hàng Nhà nước và hệ thống Ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước là Ngân hàng Trung ương thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, ban hành chính sách tiền tệ, tín dụng và ngân hàng; hệ thống NHTM thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng; trong đó, chỉ có duy nhất Ngân hàng Ngoại Thương được phép hoạt động và kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế và mở tài khoản ở nước ngoài; các ngân hàng khác chỉ được hoạt động trong nước. Như vậy, cho đến thời điểm sau khi có Nghị định 53/HĐBT, thì một thị trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam vẫn chưa được hình thành. Nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước, góp phần mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hóa với nước ngoài, ngày 18/10/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 161/HĐBT về "Điều lệ quản lý ngoại hối". Một trong những điểm mới về quản lý và kinh doanh ngoại hối theo tinh thần 161 là: "Nhà nước XHCNVN thông qua NHNN thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều được thực hiện theo quy định của NHNN. NH Ngoại thương là cơ quan được phép kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra, các ngân hàng chuyên doanh khác, các ngân hàng liên doanh với nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được NHNN VN cho phép. Như vậy, có thể nói lần đầu tiên ở Việt Nam thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối đã được dỡ bỏ. Từ nay, các NHTM nói chung muốn kinh doanh ngoại hối có thể làm thủ tục để NHNN cấp phép. Đây được xem như sự khởi đầu tạo ra môi trường và điều kiện cho hoạt động của thị trường ngoại hối có tổ chức, hình thành một sân chơi chứa đựng yếu tố cạnh tranh của thị trường. Trong thực tế, trước yêu cầu phát triển các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, NHNN đã lần lượt cấp giấp phép kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế…cho hầu hết các NHTM hoạt động ở Việt Nam. 1.2. Giai đoạn từ 1991 đến nay Cho dù có những bước chuyển biến, nhưng ở Việt Nam vẫn thiếu vắng một thị trường ngoại hối có tổ chức để chắp nối cung cầu ngại tệ và tạo cơ sở xác định tỷ giá chính thức một cách khách quan sát với quan hệ cung cầu trên thị trường, thúc đẩy hoạt động XNK, đầu tư nước ngoài và thu hút nguồn lực ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng. Một thực tế không thể phủ nhận trong giai đoạn đó trên thị trường Việt Nam, tỷ giá chính thức tách rời quá xa so với tỷ giá trên thị trường tự do. Đầu năm 1991 là thời điểm căng thẳng nhất về sự đột biến giá vàng và USD trên thị trường. Đứng trước tình hình đó, Thống đốc NHNN đã ra Quyết định 107 - NH/QĐ, ngày 16/8/1991 ban hành quy chế hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ; trên cơ sở đó, hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã được thành lập và đi vào hoạt động tại TPHCM và Hà Nội. Mục đích hoạt động của hai Trung tâm này là: Thiết lập thị trường ngoại tệ chính thức giao dịch giữa Ngân hàng và các đơn vị kinh tế. Đánh giá và đo lường cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Quyết định tỷ giá chính thức hợp lý giữa USD và VND Chuẩn bị những điều kiện căn bản ban đầu cho việc hình thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh ở Việt Nam. Thông qua Trung tâm giao dịch ngoại tệ, NHNN từng bước bổ sung Quỹ dự trữ ngoại tệ tập trung của Nhà nước để can thiệp vào thị trường ngoại hối trong cả nước. Như vậy có thể nói, năm 1991 là năm đánh dấu mốc lịch sử về việc hình thành nền móng một thị trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam.Việc thành lập hai Trung tâm là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống Ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự theo hướng thị trường. Hai trung tâm này là tiền thân của thị trường ngoại hối Việt Nam ngày nay. Tham gia thị trường là các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư và phát triển được phép kinh doanh ngoại tệ, các đơn vị được phép kinh doanh XNK trực tiếp với nước ngoài, các tổ chức, đơn vị được phép kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ (kể cả Tổng công ty kinh doanh vàng bạc đá quý ở một số thành phố lớn được phép xuất nhập khẩu vàng bạc đá quý), và NHNN tham gia với tư cách là người tổ chức và kiểm soát thị trường. Thông qua hoạt động mua bán tại hai trung tâm, với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá cho phù hợp với tín hiệu thị trường và hướng nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế. Từ khi hai trung tâm ra đời thì tỷ giá chính thức của VND được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại các phiên giao dịch ở hai trung tâm, do đó tỷ giá đã phản ánh trung thực hơn về quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường tự do. Từ đây, có thể nói thị trường ngoại hối có tổ chức đã từng bước nắm vai trò chủ đạo, chi phối và khống chế được thị trường tự do. Số lượng thành viên tham gia hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã tăng dần kể từ ngày thành lập. Nếu năm 1991, tại Tp. HCM có 12 thành viên thì năm 1993 có 128 thành viên. Tại Hà Nội, từ 28 thành viên vào năm 1991 đã tăng lên 117 thành viên vào năm 1993. Tháng 10/1994, khi thị trường ngoại tệ đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, xét trên phạm vi và cơ cấu tổ chức hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ không còn phù hợp. Số lượng Ngân hàng tham gia giao dịch tăng nhanh, phạm vi và cường độ giao dịch càng ngày càng phát triển và mở rộng. Trước tình hình đó, NHNN đã cho phép Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng ra đời thay thế hoạt động hai Trung tâm giao dịch. Ngày 20/9/1994, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định số 203/QĐ-NH9 về việc thành lập và Quy chế tổ chức hoạt động của Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng nhằm xây dựng một thị trường có tổ chức về giao dịch ngoại tệ giữa các Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ, giữa các thành viên với NHNN và tạo cơ sở hình thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh. Ngoài ra, thông qua Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng, NHNN có thể can thiệp một cách hữu hiệu vào thị trường nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Sau nhiều năm hoạt động, Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đất nước. Hoạt động của thị trường sôi động hơn, đa dạng hơn các loại ngoại tệ. Chính vì vậy mà Quy chế hoạt động của Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng theo Quyết định 203/NHQĐ ngày 20/9/1994 không còn phù hợp nữa. Quyết định này đã được thay thế bằng Quyết định số 101/1999/QĐ-NHNN13 ngày 26/3/1999 của Thống đốc NHNN. Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành nhằm hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên của thị trường. NHNN tham gia thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Tham gia Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng là các Hội sở chính của các tổ chức tín dụng, đó là các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng TMCP, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, Ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài hoạt động tại Việt Nam (gọi tắt là các tổ chức tín dụng thành viên) và NHNN TW. Các công ty xuất nhập khẩu không phải là thành viên của thị trường nhưng khi họ có nhu cầu mua bán ngoại tệ thì giao dịch với các tổ chức tín dụng. Đồng tiền quy định sử dụng trong giao dịch: các giao dịch trên thị trường ngoại tệ với VND và giữa ngoại tệ với ngoại tệ, được NHNN cho phép trong từng thời kỳ giao dịch. Tổng Giám đốc, Giám đốc các tổ chức tín dụng là thành viên của thị trường được phép quy định các loại ngoại tệ thuộc đối tượng kinh doanh của đơn vị mình trong khuôn khổ các ngoại tệ được NHNN cho phép. Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng làm việc tất cả các ngày trong tuần theo biểu thời gian như sau: sáng từ 8h đến 11h, chiều từ 13h30 đến 15h30. Các loại giao dịch trên Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng gồm có: giao dịch giao ngay (Spot), giao dịch kỳ hạn (Forward) và giao dịch hoán đổi (Swap). Yết giá trên Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng bao gồm cả yết giá bán và giá mua. Tỷ giá giao dịch giữa các thành viên được xác định trên cơ sở cung cầu về ngoại tệ trong phạm vi quy định về tỷ giá và biên độ giao dịch của Thống đốc NHNN. Đối với những ngoại tệ khác (không phải là USD) với VND, các thành viên được tính tỷ giá chéo trên cơ sở tỷ giá USD với VND và tỷ giá USD với các ngoại tệ khác trên thị trường quốc tế vào ngày giao dịch. Tỷ giá giao dịch giữa các ngoại tệ với nhau do Tổng Giám đốc (Giám đốc) tổ chức tín dụng thành viên quyết định trên cơ sở tỷ giá thị trường quốc tế tại ngày giao dịch. Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng có quy mô lớn hơn và mang tính thị trường khách quan, linh hoạt hơn, tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành của NHNN cũng ngày càng sát với thực tế hơn. Đồng thời qua Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng, NHNN có thể nắm bắt được tình hình cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế và điều tiết kịp thời tỷ giá hối đoái trong từng thời kỳ. Cũng qua hoạt động của Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng, NHNN đã nắm bắt được tín hiệu thị trường của tỷ giá hối đoái, sử dụng tỷ giá bình quân trên Thị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng hàng ngày và biên độ quy định tỷ giá cho các Ngân hàng thương mại làm công cụ hỗ trợ can thiệp điều hòa và hướng tỷ giá thị trường theo hướng mục tiêu của chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ. Thực tế, tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh ngày một linh hoạt, theo sát thực tế và biên độ giao dịch cho các Ngân hàng thương mại đã thay đổi liên tục. 2. Thực trạng về thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay Đánh giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, sau 15 năm hoạt động, thị trường ngoại hối của Việt Nam vẫn thuộc loại kém phát triển, ngay cả khi so với các nước trong khu vực, kể cả quy mô và chiều sâu. Đó là do chất lượng quản lý không cao, thiếu thống nhất, các quy định lỏng lẻo, tạo điều kiện cho những hành vi vi phạm về quản lý. Phổ biến tình trạng niêm yết giá cả bằng ngoại tệ, thanh toán, mua bán ngoại tệ bất hợp pháp vẫn còn diễn ra phổ biện, các nguồn thu bằng ngoại tệ vẫn còn phân tán trong nhân dân, doanh nghiệp hoặc một số quỹ ngoại tệ khác, chưa được thu hút vào hệ thống ngân hàng, không giúp nâng cao được tính chuyển đổi của đồng Việt Nam và chống Đôla hoá trong nền kinh tế. Những vấn đề hết sức quan trọng của kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập sâu và rộng như tỷ giá, thị trường ngoại hối, quản lý dự trữ mới chỉ được xác lập ở các nguyên tắc cơ bản mà chưa được điều chỉnh rõ ràng về các giao dịch. Quan trọng hơn, thị trường vẫn chưa thực sự theo hướng mở cửa, cho phép các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được tham gia thị trường ngoại tệ, đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ kinh doanh ngoại hối đơn giản hoá các thủ tục cấp phép,... Theo ông Lê Đức Thuý, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong những năm qua, các giao dịch về ngoại hối diễn ra ngày càng đa dạng, phức tạp cả về quy mô và chiều sâu. Trong khi đó, vấn đề quản lý ngoại hối ở Việt Nam đang thể hiện một số bất cập lớn. Đối với các giao dịch vãng lai, về cơ bản, Việt Nam đã tự do hoá việc chuyển đổi ngoại tế và thanh toán đối với hầu hết các giao dịch loại này, nhưng các quy định về hồ sơ, chứng từ trên thực tế còn rườm rà, khó triển khai, chưa đáp ứng yêu cầu đơn giản hoá. Các giao dịch hiện đại áp dụng gần đây như thanh toán điện tử, thanh toán thẻ thậm chí chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể nên gây ra khó khăn cho doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại. Trong khi đó, đối với các giao dịch vốn, văn bản điều chỉnh cao nhất về vấn đề này là Nghị định số 63/NĐ-CP của Chính phủ đã ban hành được 7 năm, chỉ nêu chung chung về việc cho vay, thu hồi nợ nước ngoài được thực hiện theo quy định riêng của pháp luật và cho đến nay cũng chưa có văn bản nào quy định về cho vay, thu hồi nợ nước ngoài của doanh nghiệp. Tương tự, hoạt động đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư gián tiếp của Việt Nam ra nước ngoài cũng không có cơ sở pháp lý đủ mạnh để thực thi, và thực tế là các nhà đầu tư gián tiếp ra nước ngoài phải “lách” bằng cách thông qua việc mua các trái phiếu, giấy tờ có giá phát hành ở nước ngoài hay Ngân hàng Nhà nước đầu tư từ nguồn dự trữ ngoại hối. Theo các chuyên gia tài chính, sự thiếu đồng bộ và những bất cập kể trên của cơ chế đang tạo ra sức ép lớn cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Trước hết, vấn đề ngoại hối đang là nội dung đàm phán quan trọng hàng đầu trong việc gia nhập các tổ chức hợp tác quốc tế phục vụ cho quá trình hội nhập. Đơn cử, việc được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) chấp nhận tuân thủ Điều khoản VIII Điều lệ Quỹ về tự do hoá các giao dịch vãng lai sẽ là điều kiện quan trọng nhất cho việc Việt Nam được kết nạp vào WTO. Đã đến lúc Việt Nam cần xây dựng một cơ chế pháp lý- thiết chế theo hướng khẳng định các biện pháp đảm bảo an toàn thông qua việc cho phép cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp phong toả việc chuyển tiền hoặc tài sản của cá nhân, tổ chức có liên quan đến các lĩnh vực như khủng bố, rửa tiền bất hợp pháp. Mặt khác, cần có quy định tương đối thông thoáng về thị trường ngoại hối với đối tượng tham gia thị trường và các công cụ của thị trường. Tiếp theo, tiến tới từng bước nới lỏng các giao dịch vốn bằng việc nhấn mạnh đến việc quản lý và giám sát các luồng vốn ngoại tệ vào ra thông qua hệ thống ngân hàng được phép, thông qua các tài khoản ngoại tệ mở tại ngân hàng được phép áp dụng cho từng loại hình giao dịch vốn. Quy định rõ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoai đối với lợi nhuận, nguồn thu hợp pháp, quyền được chuyển đổi ra ngoại tệ để chuyển về nước. Các luồng vốn đầu tư ra nước ngoài cũng cần được lựa chọn mở rộng từng bước theo thứ tự đầu tư trực tiếp đến đầu tư gián tiếp để áp dụng các biện pháp quản lý phù hợp. Một vấn đề quan trọng khác là hoạt động vay, trả nợ nước ngoài và cho vay thu hồi nợ nước ngoài cần được thống nhất quản lý theo từng nhóm đối tượng, áp dụng các cơ chế kiểm soát thông qua cấp phép, quy định tổng hạn mức, đăng ký,... Đồng thời, Việt Nam cần thể hiện rõ lập trường kiên định và các biện pháp cụ thể trong việc từng bước hạn chế, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn hiện tượng đô la hoá, hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. Một cơ chế tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của Nhà nước cũng là điều cần hướng tới trong thị trường ngoại hối theo hướng mở cửa, chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM 1. Giải pháp về đổi mới chính sách quản lý ngoại hối. Trong thời gian qua, các biện pháp tăng cường quản lý ngoại hối của nhà nước đã phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên, các văn bản về quản lý ngoại hối cần được bổ xung sữa đổi cho phù hợp với điều kiện thực tại của thị trường ngoại hối. Đồng thời cần thiết phải ban hành các quy chế, văn bản liên quan trực tiếp tới các quan hệ trên thị trường này. Việc xây dựng, soạn thảo và ban hành các quy chế, luật sát với điều kiện thực tế là rất khó khăn, nhưng việc tổ chức thực hiện chúng một cách nghiêm túc có hiệu quả còn khó khăn hơn nhiều, nhất là trong lĩnh vực ngoại hối. Do đó, cần phải tăng cường công tác đào tạo tuyên truyền, nâng cao trình độ và ý thức tuân thủ pháp luật cho các đơn vị kinh tế nói chung và cho các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại nói riêng. Việc tổ chức thi hành pháp luật phải đi đôi với việc giám sát, kiểm tra việc chấp hành luật và định kỳ phải tiến hành sơ kết, tổng kết nhằm đánh giá tình hình thực hiện để từ đó có căn cứ xác thực để bổ xung hoàn thiện các quy định, quy chế, cũng như công tác tổ chức thực hiện. Có như vậy, mới nâng cao hiệu lực của hệ thống pháp chế, đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh ngoại hối diễn ra an toàn, thuận tiện. Hiện nay, việc sử dụng ngoại tệ tiền mặt còn chiếm tỷ lệ cao trong tổng phương tiện thanh toán. Chính sách ngoại hối cần phải xử lý hài hoà các yêu cầu, thu hẹp dần phạm vi hoạt động của ngoại tệ, nâng cao vị trí đồng bản tệ, kiểm soát được hầu hết các nguồn ngoại tệ chu chuyển trên thị trường tự do. Chính sách quản lý ngoại hối phải hướng tới mục tiêu chủ yếu là bảo vệ đồng bản tệ, từng bước thu hẹp tình trạng đô la hoá hiện nay. Tạo tiền đề để trong tương lai đồng Việt Nam có một vị trí nhất định trên thị trường quốc tế. 2. Giải pháp nâng cao hiệu quả can thiệp của Ngân hàng Nhà nước. Giải pháp này nhằm điều tiết quan hệ cung cầu ngoại hối, thông qua đó tác động đến tỷ giá giữa đồng bản tệ và ngoại tệ trên thị trường hối đoái Việt Nam. Trong thời gian tới, mục tiêu của chúng ta là phát triển và hoàn thiện thị trường hối đoái trong nước trên cơ sở mở rộng các giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hiện nay. Do đó hoàn thiện các biện pháp can thiệp của ngân hàng nhà nước là một vấn đề cần giải quyết: Sử dụng hiệu quả công cụ lãi suất cho vay qua đêm (overnight), lãi suất chiết khấu: Đây là một công cụ có tính hiệu quả khá cao trong khi thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN. Nó tác động trực tiếp đến việc mở rộng hay thu hẹp tổng khối lượng tiền trong lưu thông, từ đó tác động đến vấn đề tỉ giá của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ khác tiền, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển hay kiềm chế lạm phát. Quỹ điều hoà ngoại tệ: phải xây dựng một quỹ điều hoà ngoại tệ đủ mạnh để có thể can thiệp thị trường hối đoái khi cần thiết. Trong thời gian qua, mặc dù quỹ điều hoà của nước ta còn ít so với các nước phát triển, nhưng ngân hàng nhà nước đã sử dụng số vốn nhỏ bé này để can thiệp vào thị trường, góp phần ổn định sức mua của đồng bản tệ. Nhưng sự phát triển của nền kinh tế ngày càng lớn mạnh, càng phát triển thì càng nhiều vấn đề phức tạp xẩy ra, trong khi đó quỹ điều hoà vẫn dẫm chân tại chỗ sẽ không đáp ứng được những yêu cầu của nền kinh tế. Do đó cần thiết phải mở rộng quỹ điều hoà ngoại tệ, ban hành quy chế quản lý và sử dụng chặt chẽ hơn cùng với việc đa dạng hoá các nghiệp vụ thị trường mở trong thời gian tới. Đặc biệt là khi chúng ta theo đuổi mực tiêu khá tham vọng là phấn đấu đưa đồng tiền Việt Nam thành đồng tiền tự do chuyển đổi, nhưng cần phải lưu ý đến cơ cấu từng loại ngoại tệ trong dự trữ ngoại tệ của đất nước theo từng thời kỳ và tuỳ theo xu hướng đối nội của từng loại ngoại tệ trên thị trường quốc tế. 3. Giải pháp về mở rộng thị trường vốn một cách hợp lý Đối với những nước đang phát triển, nhu cầu vốn là vấn đề quan trọng vì vậy vấn đề thu hút vốn trong nước và nước ngoài là cần thiết. Nhưng cần vốn với khối lượng bao nhiêu, thời gian bao lâu là vấn đề riêng của mỗi nước, không thể áp dụng một cách máy móc. Tự do hoá thị trường vốn sẽ thu hút được một khối lượng vốn lớn từ nước ngoài nhưng cũng thúc đẩy nạn đầu cơ tiền tệ, khi nền kinh tế gặp khó khăn sẽ dẫn tới khủng hoảng tài chính. Việt Nam đang cần vốn cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước, việc phỏt triển thị trường chứng khoán là cần thiết. Xác định mức độ mở cửa thị trường vốn là cần thiết song phải duy trì hợp lý giữa vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ bên ngoài vào đầu tư. 4. Giải pháp về đào tạo con người. Đây là điều kiện cơ bản và hết sức quan trọng, vì các nhà quản lý và kinh doanh hối đoái là tác nhân chủ yếu có chức năng tạo lập thị trường hối đoái. Hiện tại ta đang có những thuận lợi cơ bản đó là sự ủng hộ của chính phủ về sự cần thiết của thị trường hối đoái. Tuy nhiên, điểm yếu ở đây là trình độ nhận thức và sự hiểu biết của con người về thị trường hối đoái còn thấp, chỉ có một số người hiểu biết về lĩnh vực này nhưng chưa sâu. Nhà nước, ngành ngân hàng cần phát triển nhân lực theo hướng: Bổ xung thêm cán bộ lao động trẻ có chất lượng. Việc bố trí cán bộ phải đúng năng lực, sở trường và thu nhập của cán bộ phải thích đáng phù hợp với sự đóng góp của người lao động. Về đào tạo cán bộ: Với yêu cầu phát triển nghiệp vụ và công nghệ theo hướng hiện đại hoá, việc đào tạo cán bộ trong thời gian tới là đào tạo lại đội ngũ cán bộ đang có, bồi dưỡng kịp thời những kiến thức mới cho cán bộ quản lý. Đa dạng hoá hình thức đào tạo, nội dung đào tạo cần phải được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế như: kiến thức về kinh tế, quản lý nhà nước, nghiệp vụ mới và tiếp xúc với tin học, công nghệ ngân hàng đối với cán bộ ngân hàng và đối với những người ngoài ngành nhằm giúp cho mọi đối tượng hiểu biết hơn về ngành ngân hàng. KẾT LUẬN Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách ngoại hối đóng vai trò rất quan trọng, làm sao để vừa tranh thủ được các nguồn vốn quốc tế, thúc đẩy hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch, kiều hối, nhưng lại phải đảm bảo được chủ quyền của đồng Việt Nam, thực hiện được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Trong thời gian qua, chính sách ngoại hối đã có những thay đổi quan trọng, một số quy định đã thông thoáng hơn, mở ra nhiều nghiệp vụ mới. Những quyết định và thông tư về quản lý ngoại hối được ban hành trong thời gian qua đã và đang góp phần tích cực vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ ổn định tỷ giá hối đoái và giá vàng, kiềm chế lạm phát, khuyến khích các hoạt động đầu tư và thu hút các nguồn kiều hối lớn. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa chính sách quản lý ngoại hối với các chính sách quản lý vĩ mô khác đã có, nhưng chưa hài hoà. Mặc dù Chính phủ đã quan tâm đến tính đồng bộ trong việc ban hành các chính sách quản lý vĩ mô. Tuy nhiên, trong một số thời kỳ nhất định, các chính sách này còn thể hiện nhiều điều bất cập. Trên đây là một số vấn đề về tình hình ngoại hối ở Việt Nam. Vì thời gian và kiến thức có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được thầy, cô giáo và các bạn bổ sung, góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26193.doc
Tài liệu liên quan