Đề tài Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện hiệp định thương mại Việt - Mỹ

Việc phân tích cơ cấu TTTC được tiến hành dựa trên cơ sở kỳ hạn thanh toán của chứng khoán. Theo cách phân loại này, Thị trường tài chính bao gồm Thị trường tiền tệ và Thị trường vốn. Ngoài ra, cơ cấu TTTC còn có thể phân ra thêm 1 loại nữa là thị trường ngoại tệ hay còn gọi là thị trường ngoại hối. Tại Việt Nam, thị trường này còn ở dạng sơ khai và được đặt trong Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng- tức là một thành phần của Thị trường tiền tệ. Nhưng ở hầu hết các nước phát triển mà Mỹ là một điền hình thì thị trường này hoạt động như một bộ phận TTTC tương đối độc lập. Do đó việc nghiên cứu riêng thị trường ngoại hối là rất cần thiết.

doc97 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện hiệp định thương mại Việt - Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bị kỹ càng về mọi mặt trước khi bước vào cuộc chạy đua với đối thủ mạnh hơn là các ngân hàng và nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ. Như vậy, điều cần làm là: - Đề nghị Chính phủ xem lại chủ trương xử lý nợ quá hạn hiện nay như khoanh, giãn, xoá nợ. Việc khoanh giãn, xoá nợ nhằm giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, nếu không xử lý nguồn cho ngân hàng sẽ chuyển khó khăn của doanh nghiệp sang cho ngân hàng gánh chịu, nếu xử lý cho ngân hàng tức là lại tăng sự bao cấp của Nhà nước. Mặt khác việc xử lý khoanh, giãn, xoá nợ như hiện nay vô tình đã quay lại cơ chế xin cho trước đây và tạo ra những kẽ hở trong quản lý. Chính phủ cần có những biện pháp kiên quyết hơn đối với những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ không có khả năng trả nợ ngân hàng, mạnh dạn áp dụng các biện pháp giải thể, phá sản để thu hồi nợ vay ngân hàng, trường hợp cần thiết phải duy trì doanh nghiệp thì doanh nghiệp thương lượng với ngân hàng để được miễn giảm lãi vay, nếu Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp thì dùng các biện pháp hỗ trợ khác nhằm giảm bớt sự can thiệp mang tính hành chính vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và của ngân hàng. Việc khoanh, xoá nợ chỉ nên áp dụng trong trường hợp bị thiệt hại diện rộng do thiên tai vượt quá khả năng của doanh nghiệp, ngân hàng nhưng cần phải xử lý nguồn tương ứng cho ngân hàng khi khoanh, xoá nợ cho dân, cho doanh nghiệp. - Chấm dứt việc dùng vốn tín dụng của các NHTM quốc doanh để ưu đãi hoặc hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước. Để làm được điều này, Chính phủ cần thành lập Ngân hàng chính sách để chuyên cấp tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp Nhà nước, hoặc dùng Ngân sách Nhà nước để hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp có khó khăn và cần thiết được Nhà nước hỗ trợ (hiện nay Quỹ hỗ trợ phát triển đã ra đời, trong một vài năm tới, sau khi Quỹ đã ổn định về tổ chức và hoạt động, có thể phát triển thành ngân hàng chính sách, chuyển các loại hình tín dụng ưu đãi của Nhà nước cho Quỹ thực hiện như: cho vay tín dụng đầu tư, cho sinh viên vay, cho người nghèo vay, cho vay làm sàn nhà trên cọc, cho vay khắc phục hậu quả của thiên tai) 1.3. Tăng cường quy mô NHTM Hệ thống NHTM nước ta hiện nay có số lượng nhiều song tiềm lực tài chính của bản thân từng ngân hàng lại rất yếu, đặc biệt là các NHTM cổ phần kể cả Ngân hàng cổ phần đô thị và Ngân hàng cổ phần nông thôn. Do vậy, một trong những giải pháp để lành mạnh hoá hệ thống NHTM là việc sử dụng các giải pháp sáp nhập, mua lại và hợp nhất các Ngân hàng. Đây là tất yếu khách quan bên cạnh việc củng cố chất lượng tổ chức điều hành và hoạt động của bản thân từng Ngân hàng. Việc hợp nhất giữa các Ngân hàng sẽ tạo ra các Ngân hàng mạnh hơn rất nhiều về tiềm lực tài chính, giải quyết được nhiều những khó khăn trong hoạt động. Và điều quan trọng là tăng cường sức cạnh tranh và hợp tác với một quy mô lớn hơn rất nhiều, tạo ra một năng suất lao động cao và là động lực của tiến bộ xã hội. ở nước ta có thể cho phép hai hay nhiều NHTM cổ phần thuộc nhóm các NHTM cổ phần loại trung bình ưu tiên các NHTM cổ phần có địa dư hoạt động gần nhau hợp nhất với nhau để tạo ra một NHTM cổ phần lớn hơn. Việc hợp nhất này sẽ không gây ra sự xáo động nhiều trong hoạt động kể cả về khách hàng, nội dung hoạt động, phạm vi hoạt động. Về tổ chức, các cổ đông NHTM cổ phần cũ trở thành cổ đông NHTM cổ phần mới, sau khi sáp nhập sẽ có vốn điều lệ mới, việc sắp xếp bộ máy quản trị điều hành sẽ không khó khăn theo nguyên tắc góp vốn cổ phần. Tuy nhiên, cần xử lý tốt các vấn đề về đánh giá trị giá tài sản để xác định tỷ lệ góp vốn cổ phần và bên cạnh đó cần đánh giá lại mệnh giá cổ phiếu của các Ngân hàng cổ phần một cách chính xác. Bên cạnh hình thức hợp nhất các NHTM cổ phần, chúng ta hoàn toàn có thể cho phép các NHTM cổ phần lớn mua lại các NHTM cổ phần nhỏ hơn để hình thành nên NHTM cổ phần mới. Điều này chắc chắn sẽ làm cho NHTM cổ phần mới sẽ có thêm tiềm lực tài chính khoẻ hơn và hoạt động lành mạnh hơn. Với mức vốn tự có và tình hình hoạt động của mình thì NHTM cổ phần lớn sẽ có đủ điều kiện chi phối NHTM cổ phần nhỏ, mặt khác, về bộ máy quản trị và điều hành cũng sẽ không có gì phức tạp, bởi lẽ vẫn tuân theo quy luật và nguyên tắc của công ty cổ phần. Tuy nhiên, cần xem xét một cách cẩn thận việc định giá lại giá trị tài sản của các NHTM cổ phần, rà soát và đánh giá kỹ càng các khoản nợ đặc biệt là các khoản nợ quá hạn và có vấn đề của các NHTM. Bên cạnh đó, cần phải có quy chế định giá cổ phiếu của các NHTM nhỏ sao cho NHTM cổ phần lớn không thể ép giá làm cho giá cổ phiếu của NHTM cổ phần nhỏ xuống quá mức. Mặt khác, có thể cho phép NHTM quốc doanh mua lại vốn góp của NHTM cổ phần nhỏ. Đây là một giải pháp khả thi và tích cực giúp cho các NHTM cổ phần có điều kiện tồn tại và phát triển thành NHTM có quy mô lớn. Các NHTM quốc doanh đầu tư nhiều sẽ là những cổ đông lớn và theo thông lệ sẽ nắm quyền quản trị điều hành. 1.4. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có, phát triển mạnh các sản phẩm dịch vụ mới của các NHTM Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng đều hướng tới mục tiêu cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Như vậy, khách hàng đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của bất cứ một doanh nghiệp nào cũng như của bất cứ một ngân hàng nào. Ngay cả khi các nhà cung cấp dịch vụ tài chính- ngân hàng Hoa Kỳ tham gia cung cấp các dịch vụ trên TTTC Việt Nam, họ sẽ phát huy lợi thế của mình về trình độ và chất lượng cung cấp dịch vụ để ngày càng thu hút nhiều khách hàng từ đó không ngừng mở rộng thị phần tiến tới mục tiêu lũng đoạn thị trường. Mặc dù các NHTM Việt Nam có lợi thế “sân nhà”, tuy nhiên, để đảm bảo duy trì được số lượng những khách hàng truyền thống đồng thời không ngừng mở rộng số lượng các khách hàng mới thì hệ thống NHTM Việt Nam cần phải xây dựng cho mình một chiến lược cụ thể với nội dung cung cấp cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ tốt nhất nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Để làm được điều này thì mỗi một NHTM phải luôn hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có, phát triển mạnh các sản phẩm dịch vụ mới bởi việc này sẽ quyết định đến việc thu hút mở rộng khách hàng và đảm bảo sự tồn tại của các NHTM. Trước mắt các NHTM cần: * Hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có bằng cách: + Nghiên cứu chuyển hình thức sổ tiết kiệm sang tài khoản tiết kiệm. Bằng hình thức này có thể mở rộng diện người dân có tài khoản tại ngân hàng, tạo lập được thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng trong dân cư. + Với hình thức tiết kiệm không kỳ hạn do lãi suất thấp, có thể đưa ra hình thức khuyến mãi hấp dẫn người gửi như quay số trúng thưởng, tặng quà bằng hiện vật hay các chuyến du lịch nhằm thu hút người gửi. + Mở rộng hình thức tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm bằng VND đảm bảo theo vàng; tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm hưởng lãi bậc thang áp dụng các hình thức huy động trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi không ghi danh được tự do chuyển nhượng. + Cung ứng cho khách hàng một tập hợp tiện ích: đơn giản thủ tục, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, quan tâm đến sự biến động số dư tài khoản và tư vấn cho khách hàng sử dụng có hiệu quả số dư đó. * Phát triển mạnh các sản phẩm dịch vụ mới + Các NHTM cần nghiên cứu áp dụng nhiều hình thức huy động vốn đa dạng, phong phú về loại hình, lãi suất để giữ vững và phát triển thị phần, thị trường đã có; xâm nhập vào các lĩnh vực mới như tiết kiệm học đường, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm gửi một lần rút một lần, tiết kiệm có thưởng đồng thời mở rộng thêm đối tượng huy động vốn ở trường học, bệnh viện dân lập, công lập bằng các hình thức như: mở tài khoản thanh toán, tài khoản tiền gửi; phục vụ thanh toán chuyển tiền cho sinh viên, bệnh nhân mở hình thức tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm lĩnh lãi hàng tháng hoặc trả gốc hàng tháng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của sinh viên. + Đẩy mạnh các hoạt động sử dụng vốn như: cho vay chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, cho vay thấu chi, cho vay mua bán chứng khoán, cho thuê và bán tài sản trả góp, cho vay mua cổ phần. Chuyển hướng đầu tư đa dạng các sản phẩm nông nghiệp, ngành nghề, đẩy mạnh cho vay kinh tế trang trại, cho vay phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cho vay phát triển làng nghề truyền thống, cho vay đầu tư nuôi trồng khai thác thuỷ hải sản; cho vay vùng công nghiệp hoặc cây ăn quả tập trung, cho vay chuyển đổi giống cây trồng vật nuôi + Tăng cường phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng. Thu từ các hoạt động dịch vụ của các NHTM Việt Nam hiện nay nói chung rất thấp, khoảng từ 5- 10% trong tổng thu nhập (Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chỉ khoảng từ 2- 2,5%). Trong khi đó, tại các nước phát triển và một số nước đang phát triển, tỷ lệ này của nhiều ngân hàng đạt từ 20% trở lên. Ví dụ như: ANZ BANK AUSTRALIA đạt 30%; KOOKMIN BANK KOREA đạt 52,10%; AMERICAN EXPRESS đạt 39,87%; BANK OF CHINA đạt 77,80% Do vậy các NHTM Việt Nam cần phải quan tâm hơn nữa đến việc phát triển và đổi mới các hoạt động dịch vụ, trong đó một số dịch vụ cần được tích cực triển khai như: Dịch vụ quản lý và chi trả tiền lương cho cán bộ nhân viên của các doanh nghiệp lớn có số người lao động nhiều. Đây là dịch vụ đầy tiềm năng và hứa hẹn nhiều thành công, nó không chỉ đem lại thu nhập cho ngân hàng qua việc thu phí mà còn tạo điều kiện cho ngân hàng tăng số dư trong tài sản nợ để cho vay, đầu tư quay vòng vốn; dịch vụ thanh toán hộ tiêu dùng là một dịch vụ trong đó ngân hàng đứng ra thay mặt cho chủ tài khoản thực hiện thanh toán các khoản chi tiêu như: tiền điện, tiền điện thoại, tiền nước, tiền nhà Đây là dịch vụ có nhiều tiềm năng cần được triệt để khai thác, bởi lẽ hiện nay các khoản chi phí khác chiếm một khoản lớn trong tổng số thu nhập của mỗi cá nhân, gia đình, doanh nghiệp. Nếu các NHTM tích cực triển khai dịch vụ này thì chắc chắn hiệu quả kinh tế thu được sẽ rất khả quan; dịch vụ nạp và rút tiền tự động cũng cần được nâng cấp và phổ biến rộng rãi hơn nữa, cần phải khẩn trương trang bị thêm máy rút tiền tự động (ATM), nhất là tại những tụ điểm dân cư, thương mại, du lịch, sân bay Ngoài ra các ngân hàng cần phát triển và mở rộng các hoạt động dịch vụ khác như: thông tin, tư vấn; dịch vụ uỷ thác; dịch vụ bảo lãnh; dịch vụ bảo quản và ký gửi; dịch vụ chuyển tiền du học; dịch vụ cho thuê ngăn tủ sắt; đổi mới và hoàn thiện dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền nhanh Các NHTM phải cố gắng phấn đấu để đến năm 2010, thu từ dịch vụ chiếm từ 30- 40% trong tổng thu nhập của ngân hàng. Việc phát triển các dịch vụ ngân hàng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc từng bước nâng cao khả năng phục vụ và khai thác nhu cầu khách hàng, tạo điều kiện đa dạng hoá sản phẩm, đa năng hoá lĩnh vực kinh doanh, tạo cơ chế hoạt động linh hoạt, năng động, mềm dẻo nhằm giảm thấp rủi ro, nâng cao tính an toàn và hiệu quả của hoạt động dịch vụ. Hơn thế nữa những dịch vụ bổ sung không chỉ làm tăng thu nhập cho ngân hàng mà còn tạo ra sự chú ý, kích thích, hấp dẫn nâng cao hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng trên thị trường. 1.5. Phát triển và mở rộng mạng lưới ngân hàng Để tận dụng triệt để lợi thế “sân nhà” của mình trước khi các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ tham gia vào TTTC Việt Nam sau khi lộ trình 9 năm kết thúc thì các NHTM Việt Nam cần tranh thủ đẩy mạnh công tác phát triển và mở rộng mạng lưới ngân hàng vì thực tế đã chứng tỏ rằng phương tiện có hiệu quả nhất để tăng khối lượng khách hàng là thành lập nhiều điểm bán hàng nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ đến với khách hàng thuận lợi, mau chóng. ở các nước tiên tiến hiện nay bình quân có khoảng 1000 ngân hàng trên một triệu dân trong khi ở Việt Nam bình quân chỉ có khoảng 55 ngân hàng trên một triệu dân. Như vậy các NHTM trước mắt cần: * Mở rộng, hoàn thiện mạng lưới các chi nhánh - Hoàn thiện và phát triển các chi nhánh cấp 2, cấp 3 tại các tụ điểm dân cư, trường học, thị xã, thị trấn, các khu công nghiệp Đây là việc làm hết sức cần thiết để xây dựng hệ thống mạng lưới chi nhánh ngân hàng tiếp cận gần dân, nhằm tạo thói quen cho người dân đến giao dịch trực tiếp tại các điểm giao dịch của NHTM. - Mở thêm các chi nhánh phục vụ tại các doanh nghiệp lớn: các chi nhánh này có chức năng huy động vốn, được thanh toán toàn hệ thống, cho vay, kinh doanh ngoại tệ * Tăng cường mạng lưới giao dịch tự động, thanh toán thẻ, máy ATM, Home Banking Tuy nhiên điều này đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn, trước mắt chỉ nên trang bị tại những nơi sản xuất lưu thông hàng hoá phát triển, mật độ dân cư lớn và trình độ dân trí cao. * Thường xuyên đào tạo và đào tạo lại cán bộ, bao gồm các kiến thức về kinh tế thị trường, về nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, ngoại ngữ, tin học, giao tiếp ứng xử Việc đào tạo nâng cao trình độ, kiến thức đối với cán bộ sẽ cho phép lựa chọn kênh phân phối, địa điểm phân phối hợp lý nhất bởi vì không ai khác, chính họ là người nắm được tình hình, diễn biến thực tế trên thị trường, biết phân tích để đưa ra các chính sách phân phối hợp lý, có hiệu quả nhất. 1.6. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ Để thực hiện tốt các cam kết trong HĐTMVM thì việc cải tổ và đổi mới hệ thống ngân hàng là rất cần thiết. Nhưng để đảm bảo hoạt động của các ngân hàng đạt hiệu quả cao, TTTT diễn biến ổn định thì còn phụ thuộc rất nhiều vào việc điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước. Việc điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước có hợp lý hay không, điều này sẽ quyết định trực tiếp sự thành công của tiến trình hội nhập quốc tế TTTC Việt Nam nói chung và TTTT nói riêng. Như vậy, để đẩy mạnh công tác hoàn thiện chính sách tiền tệ thì biện pháp cần làm là: Hoàn thiện và xây dựng cơ sở pháp chế hoàn chỉnh làm nền tảng cho hoạt động ngân hàng, giám sát và quản lý có hiệu quả hệ thống ngân hàng. Xây dựng được một hệ thống ngân hàng hiệu quả có uy tín và độ an toàn cao. Tăng cường sử dụng các công cụ gián tiếp, như các công cụ thị trường mở, công cụ tái cấp vốn để tác động lên thị trường tín dụng và nền kinh tế. Tiếp tục hoàn chỉnh thị trường liên ngân hàng để tiến tới hình thành một lãi suất thị trường phản ánh trung thực hơn cung cầu vốn trong xã hội, tự do hoá các kênh lưu thông vốn trên nền tảng pháp luật đầy đủ. Có chính sách lãi suất và cơ cấu lãi suất hợp lý, từng bước thị trường hoá hoàn toàn vấn đề lãi suất. Cải thiện và nâng cao hiệu quả, chất lượng của hệ thống thanh toán, trong đó chú trọng các phương pháp thanh toán hiện đại. Về chính sách tiền tệ trong giai đoạn tới, cần tiếp tục kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Hiện nay còn có những tranh luận xung quanh câu trả lời mức lạm phát bao nhiêu là vừa. Việc đưa ra một mức cụ thể là rất khó. Tuy nhiên vấn đề kiểm soát lạm phát liên quan mật thiết đến các mục tiêu: tăng trưởng ổn định nền kinh tế, ổn định sức mua đồng tiền và huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển. Cả ba mục tiêu trên đều dựa trên một điều kiện tiền đề là mức lạm phát thấp. Mức lạm phát một con số được kiểm soát một cách chủ động luôn luôn là mục tiêu quan trọng số một của những nước kinh tế thị trường thành công. 1.7. Các giải pháp nhằm đảm bảo an toàn hệ thống Để tạo một môi trường an toàn ổn định cho hoạt động của các NHTM thì Nhà nước cũng như NHNN với vai trò là công cụ quản lý vĩ mô mọi hoạt động của hệ thống ngân hàng cần có những chính sách và quy định cụ thể. Sau đây là một số giải pháp nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng mà em nghĩ là trước mắt có thể áp dụng được. Cụ thể là: Ban hành hệ thống cơ chế, quy chế mới phù hợp với nội dung quy định của luật ngân hàng, tạo hành lang đảm bảo an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. Những ngân hàng không duy trì được các tỷ lệ đảm bảo an toàn theo quy định phải chịu sự kiểm soát đặc biệt của NHNN, nhưng đồng thời có giải pháp để trở lại hoạt động bình thường tránh tác động xấu tới tâm lý dân cư. Tiến hành phân tích, đánh giá chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng trên cơ sở tính toán, phân tích các chỉ tiêu an toàn hoạt động quy định tại Luật các tổ chức tín dụng. Thực hiện tốt cơ chế trích, lập dự phòng rủi ro trong hoạt động tín dụng nhằm phản ánh đúng kết quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, xử lý các khoản nợ tổn thất của các tổ chức tín dụng, tránh tình trạng để nợ khoanh nợ đọng lâu ngày, gây nguy cơ mất an toàn của toàn hệ thống. Thực hiện các quy định về đảm bảo nghĩa vụ trả nợ vay của khách hàng cho các NHTM thông qua các biện pháp: Cầm cố, thế chấp tài sản; Cầm cố thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay; Ký quỹ; Bảo lãnh của bên thứ ba. 1.8. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng Một ngân hàng hoạt động có hiệu quả có nghĩa là hoạt động của ngân hàng đó mang lại mức lợi nhuận cao nhưng phải đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của Nhà nước về hoạt động ngân hàng. Như vậy, bản thân mỗi ngân hàng phải xây dựng cho mình một bộ phận chuyên trách về công tác kiểm tra, giám sát, đồng thời các cơ quan chức năng cũng có nhiệm vụ tăng cường thanh tra, kiểm soát để đảm bảo hoạt động của các ngân hàng diễn ra theo đúng nguyên tắc do Nhà nước ban hành nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động ngân hàng, từ đó ngày càng phát huy năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam so với các ngân hàng nước ngoài trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của TTTC quốc gia. Để làm tốt được việc này thì mỗi NHTM cũng như cơ quan chức năng cần: - Tổ chức tốt thanh tra kiểm soát trong nội bộ từng ngân hàng, tăng cường năng lực bộ phận làm công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ và coi trọng đúng mức vai trò của công tác này. NHNN cần ban hành quy chế về kiểm tra, giám sát và kiểm toán nội bộ và kiểm tra việc thực hiện quy chế này. - Đối với việc thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng: Hiện nay đang tồn tại 3 cơ quan có vai trò trong việc giám sát ngân hàng: + Thanh tra NHNN chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát mọi hoạt động của các ngân hàng trực thuộc NHNN. + Thanh tra tài chính kiểm tra, giám sát việc chấp hành chế độ tài chính của các ngân hàng. + Thanh tra Nhà nước kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật nói chung. Tuy nhiên, việc kiểm tra, giám sát thường xuyên hoạt động của NHTM do thanh tra NHNN đảm nhận. Do Thanh tra ngân hàng là một bộ phận thuộc NHNN nên tính độc lập bị hạn chế. Để tăng cường năng lực của bộ máy thanh tra ngân hàng, đảm bảo tính khách quan của công tác kiểm tra, giám sát, đề nghị tách Thanh tra ngân hàng ra khỏi NHNN hình thành một tổ chức riêng trực thuộc Bộ tài chính hoặc trực thuộc Chính phủ. - NHNN cần xây dựng quy chế kiểm tra giám sát các NHTM, áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá ngân hàng theo thông lệ quốc tế trong việc thanh tra giám sát ngân hàng, chẳng hạn hệ thống chỉ tiêu CAMEL (Capital, Asset, Management, Equity, Liquidity). - Để đảm bảo tính pháp lý và tính hiệu quả, đề nghị Chính phủ ban hành cơ chế phối hợp giữa Bộ tài chính và NHNN trong việc giám sát hoạt động ngân hàng theo luật pháp (đặc biệt là phối hợp về thông tin, báo cáo số liệu). - Củng cố và hoàn thiện bộ máy giám sát hoạt động tài chính ngân hàng của Bộ tài chính đủ mạnh để thống nhất quản lý hoạt động tài chính của cả hệ thống ngân hàng. 1.9. Nâng cao chất lượng đội ngũ ngân hàng Một vấn đề mấu chốt mang tính chất quyết định sự thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của thị trường tài chính Việt Nam là công tác đào tạo và xây dựng một đội hình cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tiếp cận nhanh với kiến thức quản lý mới, công nghệ mới, dịch vụ mới, đảm bảo quản lý và điều hành hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính đang dần được đổi mới và lành mạnh hoá. Tuy vậy, đội ngũ nhân lực hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng của Việt Nam hiện nay vừa thiếu về số lượng vừa kém về chất lượng, chưa hiểu và nắm bắt kịp với xu thế phát triển của hệ thống ngân hàng hiện đại trên thế giới. Điều này một phần là do công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ chưa được triển khai đồng bộ và còn thiếu một chương trình cụ thể. Để xử lý vấn đề này thì những công việc cần làm là: - Trước mắt cần tiến hành chọn lọc những cán bộ có đủ kiến thức và phẩm chất cần thiết đáp ứng những yêu cầu của công tác quản lý và điều hành hệ thống tài chính quốc gia, tập trung đào tạo các nghiệp vụ mới, kiến thức mới, công nghệ mới và kỹ năng quản lý một ngân hàng hiện đại. - Về lâu dài cần có tiêu chí và chuẩn mực cụ thể về các chức danh công việc, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đào tạo và tuyển dụng theo yêu cầu của từng loại chức danh. Đây là biện pháp có hiệu quả nhất nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và sử dụng nhân lực, hạn chế việc tuyển dụng không đúng yêu cầu hoặc tăng biên chế không cần thiết. 2. Đối với thị trường ngoại hối Bước sang thế kỷ 21, điều không thể đảo ngược đó là xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên mạnh mẽ; tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính diễn ra với cường độ và quy mô chưa từng có. Sự hội nhập quốc tế của kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trường mở là nhu cầu khách quan có tính quy luật tất yếu. Với vai trò như là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới bên ngoài, thì việc phát triển và hoàn thiện TTNH Việt Nam theo hướng toàn diện, hiện đại phù hợp với trình độ và chuẩn mực quốc tế là cần thiết. Trong những năm qua, TTNH Việt Nam đã có những bước phát triển đáng ghi nhận như chính sách quản lý ngoại hối đã được hoàn thiện căn bản phù hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở, bước đầu đã đưa một số các giao dịch kinh doanh ngoại hối vào cuộc sống như giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn Tuy nhiên, TTNH Việt Nam còn non trẻ và sơ khai về trình độ, quy mô hoạt động cũng như kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh. Hơn nữa, giữa TTNH Việt Nam và TTNH quốc tế có một khoảng cách xa về tổ chức, quy mô, nghiệp vụ và kỹ năng giao dịch. Để rút ngắn khoảng cách và tiến tới hoà nhập với thị trường ngoại hối quốc tế, đồng thời đáp ứng tốt các cam kết trong HĐTMVM về TTNH, em xin nêu ra dưới đây một số giải pháp nhằm phát triển và hoàn thiện TTNH Việt Nam trong tiến trình hội nhập 2.1. Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá Chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi theo xu hướng thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước của ta hiện nay là khá hoàn chỉnh, tuy nhiên vẫn có một vấn đề lớn cần phải bàn, đó là việc xác định mức tỷ giá hợp lý, phù hợp với động thái kinh tế vĩ mô, giải quyết tốt quan hệ xuất, nhập khẩu trong chiến lược phát triển kinh tế nhanh bền vững và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm vừa qua, đồng Việt Nam lên giá so với USD đã gây rất nhiều tranh luận và bản thân NHNN cũng đã có những lúng túng nhất định trong chính sách tỷ giá. Đối với TTNH Việt Nam, tốt nhất nên xây dựng một cơ chế điều hành tỷ giá theo xu hướng linh hoạt hơn, tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung, cầu ngoại tệ trên thị trường. Muốn vậy cần phải có các giải pháp sau: - Khuyến khích các NHTM phát huy vai trò kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, làm thế nào để các NHTM khi thừa ngoại tệ thì tất yếu phải chào bán, khi thiếu ngoại tệ thì tất yếu phải chào mua, không để ngoại hối đóng băng mà luôn vận động để sinh lời, khi đó khối lượng giao dịch trên thị trường ngày càng lớn thì tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng sẽ phản ánh cung cầu ngoại tệ trên thị trường. - Cần nới rộng biên độ dao động tỷ giá, không nên để mức dao động hẹp như trước là +0,1%, nay là ±0,25% mặc dù với mức 0,25% đã là rộng so với 0,1% nhưng cũng vẫn là một biên độ, dễ dẫn đến tỷ giá vận động một chiều, gây căng thẳng cung cầu ngoại tệ. - Không nên quy định tỷ giá gắn với USD dẫn đến tâm lý ưa chuộng USD mà ít quan tâm đến các ngoại tệ khác. Sắp tới Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa với các nước khu vực, với khối EU thì tỷ giá giữa VND với ngoại tệ khác sẽ bị bất lợi hơn nhiều. Vì vậy, cần đưa ra chính sách tỷ giá, trạng thái ngoại hối không phân biệt, không hướng dẫn, để thị trường lựa chọn tỷ giá với các loại ngoại tệ trong khu vực phù hợp với giao dịch thương mại và dịch vụ 2.2.Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Như chúng ta đã biết, nhân tố tỷ giá đóng vai trò quyết định trong việc phát triển TTNH hoạt động hiệu quả. Tỷ giá là giá cả ngoại tệ được hình thành theo quan hệ cung cầu trên TTNH, bao gồm tỷ giá bán buôn và tỷ giá bán lẻ. Tỷ giá bán buôn được hình thành trên TTNTLNH, còn tỷ giá bán lẻ được hình thành trên cơ sở tỷ giá bán buôn cộng với phí bán lẻ của ngân hàng. Đối với những nước có TTNH phát triển, tỷ giá liên ngân hàng luôn là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho quan hệ cung cầu ngoại tệ của cả nền kinh tế. Còn đối với Việt Nam, do trình độ TTNH còn sơ khai, ngoài yếu tố tỷ giá, còn bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố can thiệp hành chính, do đó tỷ giá giao dịch bình quân trên TTNTLNH chưa thể là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho cả nền kinh tế. Như vậy, để có một TTNTLNH hoạt động hiệu quả, đảm bảo tỷ giá trên thị trường này phản ánh trung thực cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế thì: - Việc can thiệp của NHNN cần phải diễn ra kịp thời với quy mô thích hợp, có như vậy thì thị trường hoạt động mới thông suốt. Một khi NHNN không tiến hành can thiệp hoặc can thiệp diễn ra chậm hoặc quy mô can thiệp không thích hợp sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè ngóng đợi, khiến cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. Điều cần lưu ý rằng, sự can thiệp của NHNN ảnh hưởng lên TTNH lớn hơn nhiều so với quy mô can thiệp của chính nó. Như vậy, chỉ cần một động thái khôn ngoan thích hợp của NHNN cũng đủ để thị trường tiếp tục hoạt động thông suốt và hiệu quả. - Tiến hành thiết lập TTNTLNH theo mô hình tổ chức kép, bao gồm TTNTLNH trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới. - Mở rộng số lượng thành viên, tạo ra môi trường và điều kiện để các thành viên tham gia thị trường tích cực, tránh tình trạng giao dịch trên thị trường diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng chuyên đi bán, số khác thì chuyên đi mua, như trong thời gian vừa qua. 2.3. Nâng cao vai trò của NHNN trên thị trường ngoại hối Với vai trò là NHTƯ, NHNN tham gia TTNTLNH với tư cách vừa là thành viên vừa là người tổ chức, quản lý điều hành hoạt động của thị trường này. Do TTNH Việt Nam còn sơ khai, có độ thanh khoản thấp, tỷ giá kém linh hoạt và chưa thực sự trở thành công cụ điều tiết cung cầu ngoại tệ, cho nên sự can thiệp của NHNN trên TTNH đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ, nhằm bôi trơn và giúp cho TTNH hoạt động thông suốt. NHNN cũng đồng thời thực hiện chức năng người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Nhưng, trên thực tế, do dự trữ ngoại tệ của NHNN mỏng, không ổn định, lại qua nhiều tầng nấc quản lý, do đó, NHNN chưa thể làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng trên TTNTLNH, nên tình trạng căng thẳng về ngoại tệ thường xảy ra. Như vậy, để NHNN thực hiện tốt vai trò trên TTNTLNH cần: - Hướng tới một tỷ giá thị trường cân bằng, nhằm biến tỷ giá thành công cụ chủ yếu và hữu hiệu trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ trên TTNH. - Tăng cường dự trữ ngoại tệ vào NHNN, đảm bảo mức dự trữ cần thiết tối thiểu (3-6 tuần nhập khẩu), nhằm tạo đủ nguồn để NHNN can thiệp kịp thời, đủ liều lượng thông qua các biện pháp thị trường, giúp cho hoạt động của TTNH được ổn định và thông suốt. - Tập trung dự trữ ngoại hối nhà nước về một đầu mối là NHNN. 2.4. Hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ Theo các cam kết giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ trong HĐTMVM thì khi tham gia vào TTNH Việt Nam, các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ sẽ tiến hành cung cấp tất cả các loại hình nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối như Spot, Swap, Forward, Option, Future cho khách hàng. Với một trình độ quản lý, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm hoạt động lâu năm về lĩnh vực ngoại hối, chắc chắn các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ sẽ gây sức ép cho các chủ thể đang hoạt động trên TTNH Việt Nam. Hơn nữa do TTNH Việt Nam mới ở dạng sơ khai và còn kém phát triển nên những quy định của Nhà nước về các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ vẫn chứa đựng khá nhiều hạn chế, gây ra một số khó khăn nhất định cho các chủ thể trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên TTNH, khiến cho TTNH Việt Nam thời gian vừa qua diễn biến thất thường và kém hiệu quả. Để cải thiện được tình trạng này nhằm từng bước phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam theo hướng phù hợp với xu thế phát triển của TTNH quốc tế đồng thời đáp ứng các yêu cầu được đặt ra trong HĐTMVM thì công tác hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Về nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi Như chúng ta đã biết mục đích chính của việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn và hoán đổi là phòng chống rủi ro tỷ giá, bởi vì trong cơ chế thị trường, tỷ giá là đại lượng nhạy cảm với nhiều biến số, do đó biến động khôn lường. Hay nói cách khác, nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi chỉ có thể phát triển theo đúng nghĩa của nó khi tỷ giá được thay đổi theo quan hệ cung cầu trên TTNH. Rõ ràng là, với chính sách tỷ giá cố định trong một biên độ hẹp sẽ không tạo ra môi trường để phát triển các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi. Điều này nói lên rằng, định hướng trong chính sách tỷ giá của NHNN cần phải tăng dần hàm lượng các biến số thị trường trong việc xác định tỷ giá, có như vậy tỷ giá mới phản ánh thực chất quan hệ cung cầu trên TTNH. Để thúc đẩy nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi, trước mắt nên cho phép các ngân hàng thực hiện các hợp đồng với các kỳ hạn linh hoạt mà không bị khống chế như quy định trong Quyết định số 1198/2001/QĐ- NHNN, ngày 18/09/2001 của Thống đốc NHNN. Bên cạnh đó, từng bước nới rộng tỷ lệ % gia tăng cho phép để các ngân hàng có thể yết giá cạnh tranh tạo cho thị trường có độ thanh khoản cao hơn và sôi động hơn. Tuy nhiên, về lâu dài thì biện pháp quy định tỷ lệ % gia tăng cho phép cũng cần được dỡ bỏ. Về nghiệp vụ quyền chọn Tại Việt Nam nghiệp vụ quyền chọn đã được đưa vào thực hiện thí điểm ở một số ngân hàng từ giữa tháng 2/2003 nhưng mới chỉ giới hạn ở nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ nên chúng ta chưa thể đánh giá được hiệu quả của nghiệp vụ này. Nhưng vì nghiệp vụ quyền chọn rất phức tạp về mặt nội dung nghiệp vụ, do đó cần triển khai từng bước, từ đơn giản đến phức tạp, cụ thể là: - Trước tiên, chỉ thực hiện quyền chọn giữa VND và USD. Sau khi thị trường đã quen thì có thể mở rộng quyền chọn giữa VND và các ngoại tệ khác. Khi TTNH Việt Nam phát triển đạt tới trình độ quốc tế thì mới tiến hành quyền chọn giữa ngoại tệ/ngoại tệ. - Chỉ nên áp dụng quyền chọn kiểu châu Âu, nghĩa là việc thực hiện quyền chọn chỉ xảy ra tại thời điểm hợp đồng đáo hạn. Vì hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ cho phép tiến hành thực hiện quyền chọn tại bất cứ thời điểm nào trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng, do đó mang nặng tính đầu cơ nên chưa phù hợp với ta ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, khi thị trường đã phát triển ở trình độ cao thì cũng cần xem xét triển khai nghiệp vụ này. - Về mặt thời hạn hợp đồng: để có thể kiểm soát được và tránh tâm lý đầu cơ, thì thời hạn hợp đồng nên quy định ngắn từ 3 tháng trở xuống. Khi thị trường đã phát triển thì thời hạn hợp đồng do ngân hàng và khách hàng tự thoả thuận. - ở các thị trường phát triển, hợp đồng quyền chọn nhằm hai mục đích là phòng chống rủi ro tỷ giá và thực hiện hành vi đầu cơ. Đối với Việt Nam, do tính thanh khoản của TTNH chưa cao, do đó việc mua bán ngay một lượng ngoại tệ nhất định không phải lúc nào cũng thực hiện được, do vậy ngoài mục đích phòng chống rủi ro tỷ giá, thì thông qua hợp đồng quyền chọn phải bảo đảm cho khách hành quyền được mua ngoại tệ. Về nghiệp vụ tương lai Về ý nghĩa, giao dịch tương lai thực chất là một trò chơi cá cược, kích thích đầu cơ. Do đó, tác dụng của nó đối với nền kinh tế là hạn chế, cho nên chưa mở rộng nghiệp vụ này ở Việt Nam. 2.5. Đào tạo cán bộ và trang bị kỹ thuật hiện đại Do TTNH là một thị trường có tính cạnh tranh rất cao, độ thanh khoản lớn, do đó những thông tin về thị trường phải tức thời và đòi hỏi giảm thiểu thời gian giao dịch. Để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, thì việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng mạng thông tin hiện đại là điều kiện rất quan trọng bảo đảm cho hoạt động kinh doanh được thông suốt và hiệu quả. Mặt khác, thông tin thị trường, một khi được cập nhật lại có tác động thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Bởi vậy, phòng kinh doanh ngoại tệ cần được trang bị thiết bị hiện đại để tiếp nhận những thông tin sống trên thị trường, đồng thời để có thể giao dịch kinh doanh trực tiếp với TTNH quốc tế. Do nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ là loại hình kinh doanh mới mẻ đối với Việt Nam và tính chất nghiệp vụ lại phức tạp, do đó, công tác đào tạo và đào tạo lại phải được coi trọng đúng mức và phải được tiến hành thường xuyên; cần đào tạo cả về lý thuyết và thực hành, cả trong nước và ngoài nước, có như vậy cán bộ kinh doanh mới có điều kiện cảm nhận hết tính thị trường của nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối. 3. Đối với thị trường chứng khoán Như chúng ta đã biết, TTCK đóng một vai trò quan trọng trong việc huy động vốn dài hạn cho việc phát triển kinh tế. Một thị trường tài chính hoạt động ổn định, hiệu quả có nghĩa là bản thân mỗi TTTT, TTNH và TTCK cũng phải hoạt động có hiệu quả. Và việc tiến hành phát triển và hoàn thiện TTTC theo xu hướng ngày càng phù hợp với những diễn biến của nền kinh tế thị trường cũng như xu thế phát triển của nền tài chính quốc tế, đảm bảo tuân thủ đầy đủ theo các cam kết trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương như HĐTMVM, đồng nghĩa với việc chúng ta thực hiện lành mạnh hoá từng bộ phận cấu thành nên TTTC trong đó có TTCK. ở Việt Nam, TTCK mới ra đời và đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển tuy nhiên đã biểu hiện khá nhiều yếu kém và tồn tại. Một loạt vấn đề nổi lên như: sự biến động thất thường của chỉ số VN-Index, sự suy giảm hàng loạt giá các loại cổ phiếu được niêm yết trên TTGDCK, khối lượng chứng khoán giao dịch bình quân liên tục giảm và lòng tin của công chúng đầu tư vào hoạt động của thị trường đang ngày một suy giảm, đã và đang khiến cho các nhà hoạch định đường lối chiến lược phát triển TTCK Việt Nam không khỏi lúng túng. Như vậy, làm thế nào để phát triển TTCK Việt Nam, đảm bảo thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước đồng thời đây nhanh sự hội nhập TTTC quốc gia vào TTTC quốc tế, đang là một yêu cầu cấp thiết. Còn trong tình hình hiện nay, giúp thị trường ra khỏi giai đoạn suy giảm, bước vào giai đoạn ổn định, từ đó đưa thị trường dần phát triển một cách vững chắc là yêu cầu hàng đầu. Muốn vậy, thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau: 3.1. Khôi phục và nâng cao lòng tin của công chúng đầu tư Đây được coi là giải pháp ưu tiên hàng đầu bởi lẽ đầu tư và đặc biệt là đầu tư chứng khoán là dựa trên lòng tin vào sự phát triển, vào khả năng thu lợi trong tương lai. Nếu mất lòng tin của công chúng đầu tư thì TTCK Việt Nam không còn cơ hội phát triển. Điều này chỉ có thể giải quyết một cách cơ bản khi thông tin trên thị trường đáp ứng được yêu cầu hiệu quả, đảm bảo thông tin chính xác, kịp thời và công bằng. Công tác quản lý hoạt động công bố thông tin nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của tổ chức niêm yết phải được phân cấp triệt để cho TTGDCK. UBCKNN cần tổ chức những buổi đối thoại trực tiếp với công chúng đầu tư để nắm bắt kịp thời những ý kiến của nhà đầu tư, nguyện vọng của họ, trực tiếp giải đáp những ưu tư của họ về tương lai của thị trường. Tất cả phải trên quan điểm “nhà đầu tư chính là chủ thể quan trọng nhất của thị trường, lợi ích của họ là lợi ích đầu tiên cần được bảo vệ”. 3.2. Xây dựng một lộ trình rõ ràng trong công tác tăng cường số lượng và chất lượng của các chứng khoán được niêm yết trên TTGDCK Như chúng ta biết, mặc dù TTCK Việt Nam đã đi vào hoạt động được hơn 3 năm song các loại hàng hoá được kinh doanh trên Thị trường còn khá “đơn điệu”, mới chỉ dừng lại ở cổ phiếu của công ty cổ phần, trái phiếu của Chính phủ và trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư phát triển. Những loại hàng hoá khác được cam kết trong HĐTMVM như: trái phiếu công ty, séc, hối phiếu, ngoại hối; các sản phẩm tài chính phái sinh như hợp đồng giao dịch kỳ hạn, quyền chọn vẫn chưa được phép niêm yết và giao dịch tại TTGDCK. Như vậy, để thực hiện tốt các cam kết trong HĐTMVM về lĩnh vực chứng khoán thì công tác tăng cường số lượng và chất lượng của các chứng khoán được niêm yết trên TTGDCK đang ngày càng trở nên cấp thiết. Do vậy, những công việc cần làm trước mắt là: Trước hết, nhanh chóng đưa cổ phiếu của các công ty lớn, tiềm lực tài chính mạnh, có uy tín trên thương trường vào giao dịch trên thị trường tập trung là một nhu cầu cấp thiết. Các ngân hàng thương mại cổ phần, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổng công ty được tổ chức lại theo mô hình công ty mẹ- công ty con là những đối tượng cần được quan tâm hàng đầu. Nâng cao chất lượng các loại cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường tập trung thông qua nâng dần tiêu chuẩn niêm yết là một đòi hỏi khách quan. Tiêu chuẩn cần được quan tâm nâng lên đầu tiên là mức độ lợi nhuận trong một số năm đã qua; nên chăng cần có sự so sánh với vốn kinh doanh của doanh nghiệp qua các năm. Chỉ tiêu này phản ánh tương đối toàn diện tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh, khả năng tổ chức nguồn vốn của công ty trên thương trường. Sẵn sàng loại bỏ những cổ phiếu, trái phiếu không đáp ứng được tiêu chuẩn niêm yết ra khỏi thị trường. Cơ chế đào thải là động lực mạnh mẽ buộc các công ty phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao trách nhiệm trước các cổ đông, các nhà đầu tư. 3.3. Những giải pháp thu hút đầu tư vào TTCK * Miễn giảm thuế, phí, lệ phí đối với các nhà đầu tư có tổ chức trong và ngoài nước, các công ty chứng khoán Để TTCK thực sự là kênh huy động vốn cần đẩy mạnh quy mô giao dịch, tăng cầu thông qua việc thu hút các nhà đầu tư lớn, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức trong nước và nước ngoài. Trong thời gian vừa qua, trên TTCK Việt Nam hầu như vắng bóng các nhà đầu tư lớn có tổ chức, điều đó phần nào gây nên sự kém hấp dẫn và tình trạng ảm đạm của thị trường. Vai trò của các nhà đầu tư có tổ chức đối với TTCK là rất lớn, họ góp phần bình ổn thị trường, tạo sự sôi động của TTCK Có lẽ hiện nay các nhà đầu tư lớn có tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài không đầu tư vào Việt Nam là do chưa có nhiều chính sách ưu đãi về thuế, còn nhiều vướng mắc về Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Do vậy, nhằm thu hút các nhà đầu tư, kích cầu cho TTCK Việt Nam trước hết cần: + Bổ sung ngành đầu tư chứng khoán vào danh mục A- danh mục ngành nghề thuộc các lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư theo Nghị định 51/1999/NĐ- CP và Nghị định 35/2002/NĐ- CP của Chính phủ. Mức ưu đãi có thể theo một trong hai phương án sau: 1, Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động mua bán cổ phiếu 4 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong thời gian tối đa tiếp theo; 2, Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho 2 năm tiếp theo. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư cổ phiếu là 25% theo Nghị định 51/1999/NĐ- CP và Nghị định 35/2002/NĐ- CP. Hiện nay, mặc dù Chính phủ và Bộ Tài chính đã có các chính sách ưu đãi đối với hoạt động đầu tư chứng khoán, như đối với các tổ chức trong nước thực hiện theo Quyết định số 39/2000/QĐ- TTg ngày 27/03/2000 của Thủ tướng Chính phủ, đối với pháp nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh chứng khoán thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định tại Thông tư số 169/TT- BTC, mới đây nhất là Quyết định số 36/2003/QĐ- TTg 36/2003/QĐ- TTg ngày 11/03/2003 về việc ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng với tình trạng cầu chứng khoán giảm trong khi các nhà đầu tư lại tích luỹ tiền đầu tư vào bất động sản, vàng bạc thì giải pháp miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ góp phần thu hút được một số lượng lớn các nhà đầu tư có tổ chức vào lĩnh vực mới mẻ này. + Điều chỉnh Điều 2 về thuế GTGT, Quyết định số 39/2000/QĐ- TTg ngày 27/03/2000 của Chính phủ về quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán, gia hạn thêm việc miễn thuế GTGT đối với các công ty chứng khoán tới năm 2005 nhằm khuyến khích các tổ chức trong và ngoài nước tham gia vào TTCK. Bên cạnh đó cũng nên điều chỉnh kịp thời việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các công ty chứng khoán góp phần hoàn thành mục tiêu chiến lược phát triển TTCK từ nay đến năm 2010; đạt từ 30- 35 công ty chứng khoán hoạt động trên TTCK Việt Nam. + Bổ sung khoản 1, Điều 3 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam về lĩnh vực được ưu đãi đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có tổ chức vào TTCK Việt Nam, góp phần tăng thêm tính cạnh tranh cho thị trường này. * Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá các tập đoàn kinh tế mạnh, cho phép các ngân hàng thương mại cổ phần tham gia TTCK Đối với các nhà đầu tư chứng khoán đơn lẻ thì việc đầu tư chứng khoán phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tâm lý, chính vì vậy để tăng tính hấp dẫn của chứng khoán cần thiết phải cổ phần hoá một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, các tổng công ty, tập đoàn kinh tế mạnh. Nhà nước nên giữ lại một số doanh nghiệp chủ chốt trong nền kinh tế, còn lại tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có tiềm năng lớn trong các ngành, lĩnh vực kinh tế như: bưu chính viễn thông, hàng dệt may, sản xuất ô tô, tập đoàn xây dựng Chỉ có sự xuất hiện của các doanh nghiệp mạnh, doanh nghiệp mũi nhọn của Việt Nam trên TTCK thì khi đó mới kích thích được các nhà đầu tư quan tâm hơn tới thị trường và quan hệ cung cầu mới sôi động, chỉ số VN- Index mới phản ánh được thực chất sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, các NHTM cổ phần tham gia TTCK là rất có ý nghĩa. Đây là đối tượng được công chúng, các nhà đầu tư rất quan tâm. Ngoài ra các NHTM cổ phần tham gia TTCK sẽ thu hút một lượng vốn đầu tư đáng kể trong dân chúng, làm cho các nhà đầu tư quan tâm hơn tới thị trường còn mới mẻ này. Vì vậy, Chính phủ cũng như NHNN cần cho phép các NHTM cổ phần tham gia TTCK để cải thiện, tăng chủng loại và nâng cao chất lượng của chứng khoán trên sàn giao dịch, thu hút các nhà đầu tư. * Tăng cường khuyến khích các nhà đầu tư chiến lược (có vốn, công nghệ, trình độ quản lý, thị trường tiêu thụ) tham gia tích cực vào TTCK, nhằm đổi mới phát triển doanh nghiệp niêm yết bằng các biện pháp: + Kêu gọi các nhà đầu tư chiến lược tham gia thị trường và hoạt động theo đúng Luật Doanh nghiệp, không nên thành kiến và loại bỏ những quan niệm như “tư nhân nắm quyền”, “thôn tính”, “người ngoài doanh nghiệp vào lãnh đạo” + Đối với những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước nên xem xét việc bán hết, hoặc bán bớt cổ phần nhà nước như quy định tại điều 32 của Nghị định số 64/NĐ- CP ngày 19/06/2002 của Chính phủ. Đặc biệt, đối với những DNNN độc lập đã được cổ phần hoá (trực thuộc UBND tỉnh, bộ), thì cần cơ cấu lại phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Việc cơ cấu này nhằm đảm bảo thu hút chất xám từ bên ngoài, thu hút các nhà đầu tư chiến lược tham gia quản lý doanh nghiệp và không nên để tình trạng công chức nhà nước tham gia quản lý doanh nghiệp có quyền quyết định trong doanh nghiệp. Việc cơ cấu lại cổ phần nhà nước sẽ bảo đảm phương thức quản trị chuyên nghiệp hơn, dân chủ hơn. + Thúc đẩy sự ra đời của các công ty quản lý quỹ đầu tư và quỹ đầu tư chứng khoán. Về phía Nhà nước, nên có cơ chế sử dụng một phần tiền bán cổ phần doanh nghiệp nhà nước để góp phần vào các quỹ đầu tư chứng khoán. Nhà nước cần coi đây là các khoản vốn mồi nhằm thúc đẩy sự ra đời của nhiều quỹ đầu tư chứng khoán. 3.4. Hoàn chỉnh khung pháp lý cho hoạt động TTCK Để tạo cho TTCK có được môi trường hoạt động thuận lợi, có hiệu quả, vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý là phải nhanh chóng hoàn chỉnh khung pháp lý theo nguyên tắc bảo vệ nhà đầu tư, đưa ra các quy tắc, kỷ luật của thị trường và ngăn chặn những hành vi gian lận, những vẫn đảm bảo khuyến khích các thành viên tham gia thị trường. Luật pháp về chứng khoán và TTCK cần được thống nhất thành một hệ thống hoàn chỉnh. Thực tế hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về chứng khoán còn chưa hoàn chỉnh và có nhiều chồng chéo với các văn bản thuộc các lĩnh vực khác liên quan; vì vậy, chúng ta cần rà soát và điều chỉnh cho phù hợp. Mặc dù mới đây Nghị định 144/CP đã được ban hành vào ngày 28/11/2003 thay thế cho Nghị định 48/CP song vẫn rất cần phải nghiên cứu và ban hành Luật chứng khoán để thống nhất quản lý việc phát hành (kể cả việc phát hành không niêm yết và phát hành riêng lẻ) và niêm yết, giao dịch chứng khoán (giao dịch tại Sở và trên thị trường phi tập trung OTC) vào một đầu mối là UBCKNN. Các điều kiện phát hành, niêm yết và việc quản lý các thành viên thị trường cũng phải được quy định chặt chẽ hơn như nâng cao yêu cầu về vốn, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng đáp ứng nhu cầu chi trả nợ, năng lực điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp Đồng thời cũng cần sửa đổi bổ sung hai nhóm Luật riêng là: các chế định về công ty chứng khoán, quỹ đầu tư và các chế định liên quan đến nhà đầu tư. Một vấn đề khác cũng rất quan trọng đó là cần phải thiết lập một môi trường pháp lý chuẩn cho hoạt động kế toán- kiểm toán, thực hiện mục tiêu tiến tới sự công nhận của quốc tế về hệ thống kế toán- kiểm toán Việt Nam, để các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài) yên tâm và tin tưởng vào các thông tin tài chính được công bố làm cơ sở để đầu tư vào TTCK. Mục tiêu là chúng ta sẽ chuyển từ hình thức “quản lý theo chế độ xem xét chất lượng” sang phương thức “công bố thông tin đầy đủ” như nhiều thị trường tiên tiến đang thực hiện. 3.5. Một số giải pháp về hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật và bộ máy quản lý điều hành hoạt động thị trường Thứ nhất, hoàn thiện một bước cơ sở vật chất, kỹ thuật của thị trường bằng cách nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống giao dịch và giám sát thị trường của TTGDCK; tự động hoá một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Xây dựng TTGDCK Hà Nội cho giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cơ sở cho phát triển thị trường OTC. Thứ hai, sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy của UBCKNN, TTGDCK theo tinh thần Nghị định 30/2003/NĐ- CP ngày 1/4/2003 của Chính phủ nhằm nâng cao khả năng quản lý, điều hành, giám sát thị trường một cách linh hoạt, có hiệu quả. Tăng cường quản lý, giám sát thị trường thông qua việc tổ chức và hoàn thiện các hoạt động theo dõi, kiểm tra, thanh tra các hoạt động trên thị trường để kịp thời ban hành chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Kết luận T hị trường tài chính là một lĩnh vực rất nhạy cảm với các tin tức. Các thông tin về kim ngạch xuất nhập khẩu, tỷ lệ lạm phát, lượng cung ứng tiền tệ, mức thâm hụt ngân sách cũng như tin tức dự đoán về các biến động lớn về kinh tế chính trị trên quốc gia và thế giới đều có thể ảnh hưởng tới phản ứng của các thành viên trên Thị trường tài chính và làm giá cả chứng khoán, lãi suất, tỷ giá hối đoái biến động. Nói như thế để thấy được sự khó khăn phức tạp trong việc tổ chức và vận hành Thị trường tài chính lớn hơn nhiều so với các thiết chế tài chính khác. Việt Nam đang đi những bước đầu tiên trên con đường xây dựng và phát triển Thị trường tài chính theo mô hình của các nước công nghiệp, đáp ứng các yêu cầu được đặt ra trong quá trình hội nhập thị trường tài chính quốc tế cũng như các cam kết trong Hiệp định thương mại song phương và đa phương. Biết bao nhiêu trở ngại và khó khăn còn đang ở phía trước nhưng điều may mắn của chúng ta là chính những cam kết trong các Hiệp định song phương và đa phương về thương mại, đặc biệt là cam kết trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ về lĩnh vực tài chính sẽ là “kim chỉ nam”, là hướng đi cho Thị trường tài chính Việt Nam thực hiện thành công quá trình đổi mới và hoàn thiện để ngày càng phù hợp với xu thế phát triển chung của nền tài chính quốc tế. Tuy nhiên để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng giữ vai trò quản lý và điều tiết nền tài chính quốc gia và của cả chính chúng ta- những chủ nhân tương lai của đất nước, những thành phần tham gia và đóng góp vai trò không nhỏ trong Thị trường tài chính Việt Nam. Từ những vấn đề lý luận tổng quát về Thị trường tài chính, khoá luận đã phân tích cụ thể thực trạng thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề tồn tại cần giải quyết trong quá trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ để từ đó rút ra những giải pháp phát triển Thị trường tài chính Việt Nam trong thời gian tới trên cơ sở những những định hướng xây dựng một thị trường tài chính vững mạnh ở Việt Nam theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, đảm bảo tuân thủ theo đúng các chuẩn mực quốc tế về Thị trường tài chính. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Đình Tài- Sự hình thành và phát triển Thị trường tài chính của nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam- NXB chính trị quốc gia- 1999 2. Frederic S. Mishkin- Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính- 1992 3. Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường- Ngô Thị Cúc 4. PGS. NGƯT Đinh Xuân Trình- Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương- NXBGD trường ĐHNT- 1998 4. Báo đầu tư chứng khoán các số 173,181,183,190,199 5. Tạp chí tài chính các số 4,8,9/2003 6. Hiệp định giữa CHXHXN Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại- Thời cơ và thách thức- Phan Hữu Thủ- CAND 7. Nguyễn Văn Tiến- Thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế- 2001. 8. UBCKNN- Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động thị trường chứng khoán. 9. Văn kiện đại hội Đảng VIII- NXB chính trị quốc gia- 1996. 10. Thị trường Tài chính tiền tệ số 3/2003. 11. Tạp chí ngân hàng số 9,13/2003. 12. PGS.NGƯT Đinh Xuân Trình- PTS. Nguyễn Thị Quy- Giáo trình thị trường chứng khoán- NXBGD trường ĐHNT- 1998. 13. Báo cáo thường niên 2001,2002- Ngân hàng Nhà nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep.doc
  • docBia.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan