Trải qua những thăng trầm của lịch sử, ngày nay thực tế đang chứng minh tính ưu việt và sức sống mãnh liệt của chế độ XHCN. Việc hàng loạt các quốc gia châu Mỹ la tinh vừa do phái tả giành phiếu áp đảo trong các cuộc bầu cử tự do lên cầm quyền, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của số đông dân chúng trong xã hội, đã chứng minh rất rõ sức sống và ảnh hưởng trường tồn của lý tưởng cộng sản. Hàng loạt những chính sách, những việc làm hướng thiện của nước Nga trong thời gian gần đây nhằm cải thiện đời sống, ổn định chính trị xã hội, được dân chúng ủng hộ đều mang sắc thái sinh động của thời kỳ Xô viết. Với tốc độ phát triển kinh tế và xã hội đến kinh ngạc của Trung Quốc, đưa một nước XHCN đông dân nhất thế giới lên hàng ngũ siêu cường và trở thành một cường quốc vũ trụ thứ 3 trên thế giới, đã chứng minh lý tưởng của Chủ nghĩa xã hội thực sự là kim chỉ nam, làm nảy sinh hàng loạt các mô hình. Trung Quốc vớt tư cách là một quốc gia XHCN đang phát triển, cơ sở lạc hậu, tình hình phức tạp, dân số đông đúc, cuối cùng trong vòng thời gian hơn 20 năm ngắn ngủi đó phát triển đến mức có thể nói là kỳ tích của thế giới. Kỳ tích này đã đóng góp nhiều kinh nghiệm thành công cho các nước đang phát triển với đà tăng thêm nhiều sức mạnh cho sự chấn hưng của phong trào XHCN. Đặc biệt, với Việt Nam, một nước mà theo cựu Tổng thống Mỹ Ních-xơn "Không có nước nào trong số bạn bè của Liên Xô ở thế giới thứ ba có thể sống nổi nếu không có viện trợ kinh tế ồ ạt hoặc viện trợ quân sự của Mát-xcơ-va" lại đang đổi mới một cách đầy hữu hiệu. Từ một đất nước kiệt quệ sau chiến tranh, được phương Tây nhìn nhận như những kẻ sống dựa dẫm, như cây tầm gửi sống trên lưng người khác, nay trở thành một trong những quốc gia đổi mới, phát triển năng động hàng đầu khu vực và châu Á. Chúng ta đổi mới trên tinh thần Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kiên định lý tưởng cộng sản, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thấm sâu và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lê Nin vào thực tiễn. Và vào thời điểm này, từ những kẻ hằn học, căm ghét chúng ta đến xương tủy mới không nhận ra, còn lại tất cả thế giới đều công nhận sự nghiệp đổi mới đất nước ở Việt Nam do Đảng cộng sản lãnh đạo đã đạt được những kỳ tích vang dội. Những thành công và những tồn tại, yếu kém mà chúng ta đang tuyên chiến, khắc phục, đang trở thành bài học quý giá cho nhiều quốc gia có chung hoàn cảnh.
Trong giai đoạn ngày nay những người cộng sản ở các nước thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ bộ mặt kẻ thù, đang ra sức tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi phục giá trị của CNXH để đưa đất nước trở lại con đường XHCN. Trong thời đại ngày nay : “ CNXH trên thế giới, từ những bài học thành công thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”
52 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thời đại ngày nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng sản chủ nghĩa từ các nước tư bản chủ nghĩa trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, đã có một số nước ‘bỏ qua’ một vài hình thái kinh tế - xã hội tiến lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, sự thật đó cũng nằm trong quy luật chung của lịch sử và trong thời đại hiện nay nó đang tiếp tục diễn ra. Sẽ có những nước tư bản chủ nghĩa ở trình độ phát triển trung bình và những nước chưa qua chủ nghĩa tư bản cũng có thể nổ ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Theo V.I.Lênin, đó là loại “đặc biệt” và loại “đặc biệt của đặc biệt”.
Hình thức “đặc biệt” đã được thực tiễn lịch sử chứng minh ở Nga và tất cả các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Hình thức “ đặc biệt của đặc biệt” cũng đã được chứng minh ở Việt Nam ( từ 1945 đến nay ), Trung Quốc ( từ 1949 đến nay ), Cuba ( từ 1059 đến nay ), Triều Tiên, Lào… Vì thế Đảng ta và Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng nghiên cứu về những điều kiện cơ bản để ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa theo hình thức “ đặc biệt của đặc biệt” – tức là từ những nước vốn là nông nghiệp lạc hậu dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đi lên chủ nghĩa xã hội . Tất nhiên phải có những điều kiện cơ bản sau đây:
Một là, nhân loại đã chuyển sang “giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản” – tức chủ nghĩa đế quốc đi xâm lược, đô hộ, áp bức bóc lột và khai thác thuộc địa; chiến tranh đế quốc chia lại thị trường thế giới… gây rất nhiều tai họa cho hàng trăm quốc gia, dân tộc bị áp bức – hầu hết là các nước nông nghiệp lạc hậu. Do đó xuất hiện những mâu thuẫn cơ bản và gay gắt của thời đại mới: 1/ Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; 2/ Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc xâm lược với các quốc gia dân tộc bị xâm lược và đô hộ; 3/ Mâu thuẫn giữa các nước tư bản – đế quốc với nhau; 4/ Ở hàng trăm nước nông nghiệp vẫn còn mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân; tư sản và nông dân. Chính ở những nước nông nghiệp này ( khi công nghiệp chưa phát triển , đội ngũ giai cấp công nhân và tư sản chưa hình thành đáng kể ) lại nổi lên mâu thuẫn chủ yếu là: giữa một bên là tư bản – đế quốc xâm lược gắn với bè lũ tay sai phong kiến, tư sản phản động với một bên là cả dân tộc gồm nông dân, công nhân ( nếu có ), trí thức, tiểu thương, tiểu chủ dân nghèo, phú nông, địa chủ yêu nước, tư sản dân tộc… bị áp bức, bị nô lệ, mất độc lập tự do.
Hai là, có tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của hệ tư tưởng giai cấp công nhân ( chủ nghĩa Mác – Lênin ), đặc biệt là những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức… làm thức tỉnh nhiều dân tộc, dấy lên phong trào yêu nước, giành độc lập dân tộc. Từ đó tất yếu hình thành các đảng chính trị lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm hệ tư tưởng để lãnh đạo các dân tộc giành lại quyền độc lập, tự do và đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh, với tư cách Ủy viên quốc tế cộng sản, lãnh tụ của dân tộc Việt Nam đã có rất nhiều cống hiến về lý luận và thực tiễn trong vấn đề này, chẳng những có ý nghía đối với Việt Nam, mà còn đối với hàng trăm nước bị nô lệ, phụ thuộc chủ nghĩa đế quốc. Trong những cống hiến đó, có vấn đề khái quát về các nhân tố hình thành đảng Mác-Lênin ở các nước nông nghiệp thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Theo Người, Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đó là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo những luận điểm rất cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và hoàn cảnh các dân tộc thuộc địa ở nhiều nước nông nghiệp. Từ đó, Hồ Chí Minh hình thành tư tưởng nổi tiếng thế giới, mang tính quy luật là: “ muốn giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản” ; “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” ; “ Không có gì quý hơn độc lập , tự do”…
Tính quy luật đặc thù về “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội” ( ở những nước nông nghiệp, chưa qua tư bản chủ nghĩa ) cũng nằm trong quy luật chung là “ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới”, bắt đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga ( 1917 ) – tức là trong thời đại ngày nay, thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, nước Nga chuyển sang chế độ mới, Cộng hòa xã hội Xô Viết, kéo theo một loạt các nước Đông Âu cũng theo chế độ chủ nghĩa xã hội . Sau đó, nhiều thuộc địa ở các khu vực khác cũng tiến hành cách mạng và xây dựng chế độ đặc biệt này như Việt Nam, Lào…. Đến nay, thế giới đã có 2 thái cực: hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và hệ thống các nước tư bản.
II. Chế độ xã hội chủ nghĩa đi vào thực tiễn ở Liên Xô
Liên Xô là một quốc gia chiếm phần lớn châu Âu và châu Á, tồn tại từ 30 tháng 12 năm 1922 cho đến khi chính thức tan rã và sụp đổ vào ngày 25 tháng 12 năm 1991. Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản. Là nước lớn nhất thế giới, sự xuất hiện của nhà nước Liên Xô xã hội chủ nghĩa đã ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình lịch sử của thế giới. Trong thế kỷ 20, sau khi Liên Xô xuất hiện, mọi sự kiện lớn của thế giới – nhiều hay ít – đều có dấu ấn và chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Liên Xô trở thành một siêu cường kinh tế đối chọi lại với hệ thống TBCN do Mỹ cầm đầu. Sự tồn tại của Liên Xô là minh chứng rõ ràng nhất về việc biến CNXH từ lí luận trở thành thực tiễn.
Liên Xô rất tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật cho thời đại xã hội chủ nghĩa. Năm 1972, so với năm 1922 – 50 năm sau khi thành lập Liên Bang Cộng Hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết, sản lượng công nghiệp tăng 321 lần, thu nhập quốc dân tăng 112 lần và chỉ cần 4 ngày sản xuất là đủ để đạt sản lượng của năm 1913, năm cao nhất của Đế quốc Nga cũ.
Trong những thập niên 50, 60 và nửa đầu thập niên 70, Liên Xô là cường quốc công nghiệp đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ. Tới giữa thập niên 70, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp trên toàn thế giới. Trong khoảng thời gian (1951 – 1975), mức tăng trưởng công nghiệp hàng năm là 9.6%. Một số ngành có sản lượng cao vào bậc nhất như dầu mỏ, than, quặng sắt... Liên Xô đi đầu trong một số ngành công nghiệp mới như công nghiệp vũ trụ, công nghiệp điện nguyên tử.
Liên Xô đạt được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật: Năm 1937 là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo của trái đất, năm 1961 lần đầu tiên đưa người ra ngoài vũ trụ. Đầu những năm 70, Liên Xô đã đạt thế cân bằng quân sự cũng như hạt nhân với Mỹ và Châu Âu.
Liên Xô xây dựng những nền móng của quan hệ XHCN. Liên Xô là nước đầu tiên xây dựng các nông trang tập thể và nông trường XHCN. Đến năm 1931, các nông trang tập thể và nông trường này đã chiếm 2/3 diện tích trồng trọt và gần 53% tổng số nông hộ trên toàn quốc. Liên Xô tiến hành xoá bỏ các quan hệ tàn dư của chế độ phong kiến và tư bản bằng cách tiến hành công hữu hoá các nông trang và tài sản của các phú nông, các nhà máy của tư sản… Nhà nước sử dụng cơ chế tập trung bao cấp, xoá bỏ quan hệ người bóc lột người.
Với đường lối XHCN, kể từ khi ra đời Liên Xô đã luôn luôn là cái gai trong mắt các nước TBCN. Khi Thế chiến thứ 2 bùng nổ, Liên Xô là nước đi đầu trong việc tấn công tiêu diệt phe phát xít, xoá bỏ chế độ phát xít phản động. Từ sau hội nghị Ianta, trật tự thế giới hai cực được hình thành, trong đó một bên là Mỹ và các nước Phương Tây đi theo TBCN, và một bên là Liên Xô cùng với hệ thống XHCN. Liên Xô trở thành siêu cường và đối chọi với Mỹ trên nhiều mặt. Cùng thời gian đó, hệ thống XHCN đã phát triển rộng khắp ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mĩ La tinh và Châu Phi. Sự vươn lên nhanh chóng của Liên Xô cùng với việc hệ thống XHCN biến thành qui mô quốc tế là minh chứng cho thấy những dấu hiệu đầu tiên của việc biến CNXH từ lí luận trở thành thực tiễn, của sự xuất hiện một hình thái kinh tế - xã hội mới hoàn toàn đối chọi với CNTB, đó là hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Năm 1991, Liên Xô tan rã, đánh dấu một thời kì CNXH đi vào giai đoạn suy thoái. Sự tan rã của Liên Xô là kết quả của một loạt yếu tố: Sự chủ quan, nóng vội tiến lên CNXH đã dẫn đến một loạt chính sách sai lầm, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc dân chủ, không nhận thức các qui luật khách quan dẫn đến kìm hãm nền kinh tế; sự chống phá từ bên ngoài và sự rạn nứt từ bên trong nội bộ Đảng Cộng sản… Sự sụp đổ của Liên Xô không chứng minh sự kết thúc của CNXH. Ngược lại, nó đưa ra những bài học quí giá về con đường đi lên CNXH. Sự thành công của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam và Trung Quốc sau các chính sách đổi mới là minh chứng cho điều đó.
2.Nguyên nhân thứ hai: Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục xuyên suốt của sự vận động lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười là đấu tranh xóa bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa, thiết lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
Xét trên bình diện toàn thế giới, Cách mạng Tháng Mười Nga đã “mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới” Theo quan điểm của Lênin, nội dung của thời đại mới này là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, đồng thời thiết lập những cơ sở của xã hội mới là xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đây là một quá trình lịch sử lâu dài,xuyên suốt, bắt đầu từ nước Nga, sau đó là nhiều nước khác trên thế giới.
Lịch sử sẽ không thể nào xóa bỏ được sự kiện Cách mạng Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga năm 1917 – một cuộc cách mạng “đã làm rung chuyển thế giới”, đã phá tung một khâu yếu nhất của sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa, mở đầu cho một thời đại mới. Chắc chắn mọi người đều phải thừa nhận là Cách mạng Tháng Mười đã phá vỡ một mảng của thế giới tư bản chủ nghĩa, đã mở ra thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân, làm cho hệ thống thuộc địa kiểu cũ bị thủ tiêu, tạo điều kiện cho hàng trăm quốc gia dân tộc vốn là thuộc địa và phụ thuộc giành được quyền độc lập.
Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội hơn 70 năm ở Liên Xô và mấy chục năm ở các nước xã hội chủ nghĩa khác, đặc biệt là gần 20 năm đổi mới ở Việt Nam, trên 20 năm cải cách ở Trung Quốc…đã khẳng định ý nghĩa to lớn của một thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nó đã trở thành khát vọng của hàng trăm triệu con người trên trái đất.
Giai đoạn hiện nay là giai đoạn chủ nghĩa xã hội thế giới đang lâm vào thoái trào. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ, nhiều Đảng Cộng sản và công nhân bị chia rẽ, ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội bị giảm sút nghiêm trọng. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Chủ nghĩa tư bản hiện đại lợi dụng sự sụp đổ ấy, ra sức tiến công chủ nghĩa xã hội thế giới và chủ nghĩa Mác – Lênin bằng nhiều thủ đoạn thâm độc mới hòng xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, nhằm xác lập sự thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản đối với thế giới hiện đại.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau, đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô không có nghĩa là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một học thuyết cách mạng và khoa học duy nhất có thể vạch đường cho sự giải phóng hoàn toàn và triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người, xây dựng một xã hội phồn vinh, công bằng, văn minh là xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sự sụp đổ ấy cũng không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, bởi vì vẫn đang tồn tại một số nước xã hội chủ nghĩa với số dân trên một tỷ người. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây là Liên Xô và Đông Âu, các lực lượng xã hội chủ nghĩa đang dần dần phục hồi tiếp tục cuộc đấu tranh, ở một số nơi đang từng bước lấy lại được sự ủng hộ của nhân dân. Cũng chính ở các nước này, càng ngày càng có nhiều người thấy rõ mình bị lừa dối, bị phản bội, đời sống ngày càng khó khăn, càng thấy luyến tiếc chể độ xã hội chủ nghĩa trước kia và càng tham gia tích cực hơn vào cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nươc không phải là một tất yếu do việc xác định nội dung thời đại không đúng. Sự sụp đổ này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân Đảng Cộng sản phạm sai lầm về đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Như vậy, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới đang ở một khúc quanh lịch sử, một bước thụt lùi lớn, nhưng rõ ràng cũng đang củng cố lại lực lượng của mình để từng bước phục hồi và tiến lên.
Đối với hàng loạt nước dân tộc chủ nghĩa, đây cũng chính là thời kỳ khẳng định mạnh mẽ ý thức độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc gắn với hòa bình dân chủ, phát triển xã hội, bảo vệ môi sinh, chống bất bình đẳng giữa các nước phát triển và những nước chậm phát triển. Đây cũng là thời kỳ mà phong trào công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản phát triển ngày càng không thể chấp nhận những bất công, những tệ nạn, những tội ác, những suy đồi do chủ nghĩa tư bản đương đại gây ra.
Dù cho thời kỳ hiện nay có những đảo lộn rất lớn, nhưng những đảo lộn ấy không hề làm thay đổi tính chất và nội dung của một thời đại có tính lịch sử toàn thế giới đã đươc mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 như Lênin vạch ra, cũng như Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân đã khẳng định năm 1957 và 1960. Bởi vì, thời đại xuất hiện từ những điều kiện vật chất khách quan, trên cơ sở mâu thuẫn giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng phát triển xét trên quy mô toàn thế giới.
Phân tích mâu thuẫn này của chủ nghĩa tư bản, thông qua những biến đổi về kinh tế và chính trị ngay từ thời Mác, Mác đã chỉ ra lôgic khách quan dẫn tới sự tự phủ định của chính chủ nghĩa tư bản và những tín hiệu của thời đại mới.
Đến thời Lênin, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản thế giới đã phát triển lên một trình độ sâu sắc hơn. Phân tích tình hình xã hội hóa sản xuất cao của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã chỉ ra cơ sở vật chất chủ yếu cho sự ra đời không thể tránh khỏi của chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra những động lực cách mạng của sự chuyển biến sang thời đại mới cùng lực lượng vật chất thi hành sự chuyển biến đó. Cùng với sự thức tỉnh của châu Á và bước đầu của cuộc đấu tranh giành chính quyền của giai cấp vô sản tiên tiến ở châu Âu, Lênin kết luận thời đại mới đã bắt đầu.
Từ những điều trình bày trên đây, có thể nhận định về thời đại hiện nay như sau:
Thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, là thời đại đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất – kỹ thuật ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội.
Trước kia chúng ta thường quan niệm giản đơn về thời đại quá độ này, nhưng thực tiễn đã uốn nắn lại những sai lệch đó. Quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình lịch sử lâu dài. Nếu chủ nghĩa xã hội không phải là một khuôn mẫu được định sẵn và bắt hiện thực phải khuôn theo mà là phong trào thực tiễn của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức bóc lột đấu tranh để tự giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa, thì cũng chỉ có phong trào thực tiễn ấy mới trả lời được về độ dài ngắn của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Vai trò quyết định thuộc về các Đảng của giai cấp công nhân – Đảng mácxít – lêninnít – người lãnh đạo cuộc đấu tranh cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong thời đại này.
Tóm lại, mặc dù trong những năm qua, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng bản chất thời đại không hề thay đổi. Loài người vẫn ở trong quá trình quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.
3. Nguyên nhân thứ ba: Từ sau cách mạng tháng 10 Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới
Để hiểu rõ hơn sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp công nhân. Chính C.Mác và Ăngghen đã chỉ rõ” Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”
Đến nay thì quan điểm về công nhân của Mác và Ăngghen vẫn còn nguyên giá trị, trở thành cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao
Sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, không còn ở địa vị giai cấp bị bóc lột nữa, mà nó trở thành giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động.
Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi phong trào cộng sản và công nhân toàn thế giới chính là” Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản”. Bản tuyên ngôn đã khẳng định nguyên tắc có ý nghĩa chiến lược của người cộng sản là: Chiến đấu cho mục đích trước mắt của giai cấp vô sản, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào
“Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”, là khẩu hiệu chiến đấu công khai tuyên bố quá trình quốc tế của phong trào vô sản.
Cũng trong bản tuyên ngôn, Mác đã chỉ rõ những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
-Do địa vị kinh tế xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội, xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
-Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, giai cấp công nhân đoàn kết và tổ chức lại thành lực lượng xã hội hùng mạnh, chống lại áp bức, bóc lột
-Địa vị kinh tế-xã hội không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc. Đó là khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt được mục tiêu cách mạng. Đó là khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản
Hiểu rõ sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân luôn là một lực lượng chính trị - xã hội luôn đi tiên phong trong cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình, bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động, vì sự phát triển tiến bộ của xã hội. Trước những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình, các đảng cộng sản, công nhân (ĐCS, CN) khắp thế giới đang nỗ lực hành động, cố gắng tìm những hình thức, phương pháp hoạt động mới thích ứng với thời cuộc, không ngừng nâng cao vị thế, vai trò, ảnh hưởng của mình trong đời sống chính trị đất nước. Hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế được thể hiện ở một số phương diện chủ yếu sau:
a. Tại các nước xã hội chủ nghĩa: Với tư cách cầm quyền, các đảng cộng sản đang tập trung trí tuệ, sức lực lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, cải cách toàn diện đất nước, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; tăng cường tiềm năng kinh tế, quốc phòng, không ngừng mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá, hội nhập sâu hơn với thế giới, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Năm 2004, các nước XHCN tiếp tục duy trì sự ổn định chính trị - xã hội, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (Trung Quốc đạt 9%, Việt Nam đạt 7,6% trong khi mức bình quân của thế giới là 4%). Phần lớn các đảng cộng sản cầm quyền tích cực tham gia và có đóng góp quan trọng cho các hoạt động chung của phong trào cộng sản quốc tế thông qua việc tham dự, đóng góp ý kiến, khẳng định quan điểm về các vấn đề cấp bách của thế giới và của bản thân phong trào tại các hội nghị, hội thảo, gặp mặt khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, các ĐCS cầm quyền duy trì gặp gỡ, hội đàm cấp cao để thảo luận, thống nhất ý kiến về những vấn đề quan hệ song phương và quốc tế nhằm tăng cường, củng cố quan hệ giữa các đảng, các nhà nước và nhân dân các quốc gia; trực tiếp trao đổi ý kiến, quan điểm về các vấn đề lý luận, chia sẻ kinh nghiệm thực tế lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH. Bên cạnh các hoạt động nêu trên, một số đảng, như ĐCS Trung Quốc đã tổ chức thành công Hội nghị quốc tế thu hút sự tham gia của đại biểu hàng chục đảng chính trị từ mọi khu vực trên thế giới. Các ĐCS cầm quyền tiếp tục củng cố vị thế, vai trò lãnh đạo của mình đối với sự nghiệp xây dựng CNXH, có những đóng góp tích cực cho hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế.
b.Tại các nước tư bản phát triển: Phần lớn các ĐCS, CN đều tiến hành đại hội thường kỳ, đánh giá lại quá trình hoạt động, đấu tranh trong những năm đầu thiên niên kỷ mới, xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động cho những năm tiếp theo.
Tháng 1-2004, ĐCS Nhật Bản đã tiến hành Đại hội lần thứ XXIII, thông qua Cương lĩnh sửa đổi, tiếp tục khẳng định ĐCS là đội tiền phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nhật Bản hiện nay. Đảng lấy Chủ nghĩa xã hội khoa học làm nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận cho hoạt động và tổ chức của mình. Mục tiêu chiến lược của Đảng là xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội XHCN và xã hội CSCN trên đất nước Nhật. Những bổ sung mới chủ yếu liên quan đến việc đánh giá tình hình nước Nhật và tình hình thế giới những thập niên đầu thế kỷ XXI, về quá trình toàn cầu hoá, cuộc đấu tranh thiết lập trật tự thế giới mới, sách lược, chiến lược hành động của Đảng trong tình hình mới.
Từ ngày 29-1 đến ngày 1-2-2004, ĐCS Ca-na-đa tổ chức Đại hội lần thứ IV. Đại hội ghi nhận những chuyển biến tích cực của Đảng trong thập niên 90 thế kỷ XX. Trái với những tuyên bố của các thế lực thù địch, chống cộng về cái gọi là "sự kết thúc kỷ nguyên của những người cộng sản", ĐCS Ca-na-đa đã giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh pháp lý, khẳng định tư cách của một đảng chính trị hợp pháp, có quyền tham gia tranh cử độc lập, phục hồi được sự hiện diện ở Quê-béc và các vùng khác trên lãnh thổ Ca-na-đa, tiếp tục xuất bản và phát hành báo, tạp chí của Đảng bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Những người cộng sản đã thực sự trở thành một lực lượng có vai trò ngày càng tăng trong hàng loạt các phong trào đấu tranh của quần chúng ở khắp mọi miền đất nước.
Tại châu Âu, một loạt đảng tiến hành đại hội. Ngày 17-1-2004, tại Luân Đôn, ĐCS Anh đã tổ chức đại hội bất thường. Tháng 2-2004, Đảng của những người cộng sản I-ta-li-a tiến hành Đại hội lần thứ III; ĐCS Na Uy tiến hành Đại hội lần thứ XXV. Ngày 15 và 16-5-2004, ĐCS Phần Lan tiến hành đại hội thường kỳ. Ngày 15 và 16-6-2004 những người cộng sản Séc tiến hành đại hội thường niên. Tại Bồ Đào Nha, tháng 11-2004 các đảng viên cộng sản đã tổ chức Đại hội lần thứ XVII
Với tư cách một tổ chức kế thừa sự nghiệp của ĐCS Liên Xô, thực thi sứ mệnh phối hợp hoạt động của tất cả các lực lượng cộng sản trên lãnh thổ Liên Xô trước đây, Hội nghị Hội đồng Trung ương ĐCS Liên bang Nga tháng 4-2004 đã xác định các nội dung: Tăng cường công tác thanh niên. Các ĐCS thành viên cần lãnh đạo, hướng dẫn các tổ chức Đoàn TNCS xây dựng kế hoạch cụ thể, sát thực tế với mục tiêu tăng số lượng ứng cử viên trẻ tuổi đại diện cho Đoàn TNCS trong các cuộc bầu cử vào cơ quan chính quyền các cấp ở nước mình; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng các đảng viên trẻ, mạnh dạn trao cho họ vị trí lãnh đạo tổ chức đảng các cấp. Chuẩn bị tổ chức kỷ niệm 60 năm Ngày chiến thắng phát xít của nhân dân Xô Viết trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại một cách long trọng và thiết thực. Triển khai nhiệm vụ chính trị này, các cấp uỷ trực thuộc các ĐCS thành viên tập trung đấu tranh vạch rõ âm mưu của những thế lực phản động xuyên tạc lịch sử nhằm bôi nhọ Hồng quân Liên Xô, bôi nhọ ĐCS và Nhà nước Liên Xô từ đó hạ thấp, đi tới phủ nhận cống hiến vĩ đại của các dân tộc Xô viết trong việc đánh bại chủ nghĩa phát xít. Hệ thống cơ quan ngôn luận của các ĐCS thành viên đẩy mạnh công tác tuyên truyền làm cho đông đảo nhân dân thấy rõ nguyên nhân đích thực dẫn đến thắng lợi của các dân tộc Xô viết trong chiến tranh. Tăng cường hoạt động trong và ngoài nghị trường, đấu tranh bảo vệ quyền lợi, các chế độ ưu đãi cho các cựu chiến binh, cho những người có công với nước.
c. Tại những quốc gia đang phát triển ở khu vực Á - Phi - Mỹ Latinh: Các ĐCS đẩy mạnh hoạt động, tích cực tham gia các phong trào đấu tranh của nhân dân lao động chống lại sự can thiệp, áp đặt của các thế lực đế quốc, tư bản độc quyền nước ngoài, chống lại các chính sách kinh tế tân tự do chủ nghĩa, chủ động tham gia các cuộc bầu cử chính quyền lập pháp và hành pháp. ở một số nước, như Vê-nê-zu-ê-la, Bra-xin, U-ru-guay, Ấn Độ, Nam Phi, các lực lượng cánh tả đã giành thắng lợi quan trọng trong các cuộc bầu cử, thậm chí ứng cử viên của ĐCS, CN đã trở thành nguyên thủ quốc gia.
d. Trên trường quốc tế: Các lực lượng cộng sản tích cực triển khai những hoạt động chung để trao đổi ý kiến về các vấn đề thời sự cấp bách, đồng thời nhằm phối hợp, tăng cường hợp tác trong cuộc đấu tranh chung; phát động, tổ chức, tham gia các phong trào phản đối chiến tranh, chống toàn cầu hoá TBCN.
Từ ngày 9 đến 11-1-2004 tại Chi-lê diễn ra Hội nghị quốc tế lần thứ III đại biểu các ĐCS, đảng cánh tả khu vực Mỹ Latinh và châu Âu. Các đại biểu tham dự Hội nghị thảo luận, trao đổi ý kiến, bày tỏ thái độ đối với chính sách gây chiến tranh, hoạt động quân sự can thiệp của các thế lực cầm quyền ở một số quốc gia tư bản phát triển Tây Âu, Bắc Mỹ. Hội nghị chỉ trích mạnh mẽ chính sách kinh tế tân tự do, toàn cầu hoá và tự do thương mại TBCN. Hội nghị công khai lên án chính sách thù địch của nhà cầm quyền Mỹ đối với Cu-ba, kêu gọi tăng cường đoàn kết với nhân dân Cu-ba, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Pa-le-xtin.
Nhân một năm ngày Liên quân Mỹ - Anh tấn công quân sự I-rắc, ngày 20-3-2004, dưới sự tổ chức, lãnh đạo của các ĐCS, CN hàng chục triệu người trên khắp thế giới đã xuống đường biểu tình, kịch liệt lên án hành động chiến tranh xâm lược I-rắc của Liên quân, yêu cầu Chính phủ Mỹ - Anh và các nước chủ chiến khác chấm dứt chiếm đóng I-rắc, nhanh chóng rút quân khỏi lãnh thổ I-rắc, trao trả quyền quản lý, điều hành đất nước cho nhân dân I-rắc với sự giúp đỡ của Liên hợp quốc.
Từ ngày 2 đến ngày 4-5-2004, tại thủ đô Brúc-xen, theo sáng kiến của Đảng Công nhân Bỉ, đại biểu của 60 đảng và tổ chức cộng sản, công nhân từ 45 quốc gia trên thế giới đã tiến hành Hội thảo quốc tế thường niên lần thứ XIII với chủ đề “Chiến lược và sách lược trong cuộc đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh thế giới mới do các thế lực đế quốc âm mưu phát động”; 67 đảng và tổ chức cộng sản, công nhân khác đã gửi tham luận, thư để bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về những vấn đề được thảo luận tại Hội nghị. Hội nghị thông qua Nghị quyết, ra Lời kêu gọi nhân dân yêu chuộng hoà bình và các lực lượng tiến bộ trên thế giới tăng cường đoàn kết, phối hợp hành động ngăn chặn nguy cơ bùng phát chiến tranh thế giới mới do các thế lực đế quốc hiếu chiến phát động.
Ngày 28-6-2004, tại I-xtam-bun, ĐCS Thổ Nhĩ Kỳ đã tổ chức Hội nghị quốc tế phản đối NATO với chủ đề “Sứ mệnh mới của NATO trong kịch bản của các thế lực đế quốc - làm thế nào để ngăn cản NATO?”. Tới dự Hội nghị có đại diện của 16 ĐCS, CN và tổ chức quốc tế, chủ yếu đến từ các nước thành viên NATO.
Trong ba ngày 8, 9 và 10-10-2004, đại biểu của các ĐCS, CN khắp nơi trên thế giới đã họp ở Aten, để thảo luận, trao đổi ý kiến về những vấn đề nóng bỏng của thế giới hiện nay. Đây là năm thứ bảy liên tục, ĐCS Hy Lạp đứng ra tổ chức hoạt động này. Chủ đề của cuộc gặp là "Ngăn chặn sự hiếu chiến của các thế lực đế quốc, hình thành mặt trận đấu tranh và đối lập”. Về dự hội nghị có đại biểu của 64 ĐCS, CN từ khắp mọi khu vực, châu lục; gần 30 ĐCS, CN khác đã gửi điện mừng và tham luận tới hội nghị. Hội nghị tuyên bố ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Cu-ba, CHDCND Triều Tiên, Pa-le-xtin và Mê-hi-cô. Đánh giá tình hình quốc tế thời gian qua, các đại biểu nhất trí rằng, bối cảnh thế giới hiện nay là vô cùng phức tạp, các thế lực đế quốc, hiếu chiến đang hành động một cách trắng trợn và ráo riết hơn, đe doạ nghiêm trọng hoà bình và an ninh quốc tế. Hội nghị vạch trần bản chất nguy hiểm của học thuyết "đánh đòn phủ đầu” và chiến dịch "tấn công phủ đầu” do Chính quyền Tổng thống Bus khởi xướng và thực hiện. Các đại biểu chỉ rõ, điều nguy hiểm hơn là dưới chiêu bài chống khủng bố, giờ đây chính quyền ở một số nước khác đang công khai cổ vũ và cam kết sẽ áp dụng học thuyết này. Các đại biểu đều bất bình khi không ít thế lực cầm quyền tại các quốc gia phát triển cố tình đồng nhất cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với hành động khủng bố. Hội nghị bày tỏ lo ngại sâu sắc về xu thế gia tăng chính sách chống cộng, sự trỗi dậy của các tư tưởng và hành động tôn giáo cực đoan, các lực lượng phát xít mới. Hội nghị nhấn mạnh cần phải đấu tranh chống lại các đạo luật, sắc lệnh, quy định mang màu sắc chống cộng, đề cao vai trò, ý nghĩa của phong trào phản đối chính sách hiếu chiến của các thế lực đế quốc.
Hội nghị cho rằng: Trên quy mô toàn cầu, cần mở rộng, tăng cường phối hợp hành động giữa các lực lượng cộng sản và phong trào đấu tranh của mọi tầng lớp nhân dân lao động nhằm hạn chế, ngăn chặn chính sách và hành động hiếu chiến của các thế lực cầm quyền ở các nước tư bản phát triển. Tăng cường đấu tranh ngăn chặn mọi hành động can thiệp của các thế lực bên ngoài vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền dưới bất cứ lý do nào. Ở cấp độ khu vực và châu lục, các ĐCS, CN cần tìm ra những hình thức hợp tác phù hợp, tăng cường gặp gỡ, trao đổi ý kiến, phối hợp hoạt động để có tiếng nói và hành động chung trước những vấn đề của khu vực, châu lục mình.
Mặc dù còn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, các ĐCS, CN, các tổ chức, lực lượng cánh tả tiến bộ khắp thế giới đã có nhiều hoạt động phong phú, tích cực tìm kiếm và triển khai những hình thức, phương pháp đấu tranh, tập hợp lực lượng mới phù hợp với tình hình, với tương quan lực lượng trên chính trường trong nước và quốc tế. Những thành tựu mà các nước XHCN đạt được dưới sự lãnh đạo của các ĐCS cộng với những nỗ lực to lớn, quyết tâm tìm kiếm, đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức, hoạt động để bắt kịp những thay đổi của tình hình trong và ngoài nước là bằng chứng sống động góp phần quan trọng thể hiện xu hướng phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng, củng cố vị thế của một lực lượng cách mạng, tiến bộ, tiên phong của thời đại
Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế. Với chính sách khai thác thuộc điạ của chủ nghĩa thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỉ này. Mặc dù còn ít về số lượng, trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò cách mạng ở nước ta
Lịch sử Việt Nam cũng chứng minh rằng, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời chưa được bao lâu, ngay cả khi nó chưa có Đảng mà đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chống bọn tư bản thực dân và được nhân dân ủng hộ. Cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn năm 1922 mà Nguyễn Ái Quốc coi đó mới chỉ là”do bản năng tự vệ của những người công nhân nhưng đã là dấu hiệu của thời đại. Năm 1928-1929 có nhiều cuộc bãi công với hàng nghìn ng ười tham gia, trong đó, tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của công nhân xi măng Hải Phòng, Nam Định…
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-LêNin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta vào đầu năm 1930 của thế kỉ XX. Đảng đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng n ước ta có một bước phát triển nhảy vọt về chất
Trong công cuộc xây dựng đất n ước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, đội ngũ công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và lao động trí óc hoạt động sản xuất. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà Nước ta, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công -nông- trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
Phương hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay là:”Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n ước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vứng vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình
Tóm lại, Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một trang sử mới trong thời đại của chúng ta ngày nay. Một trong những hệ qủa của nó là lực lượng cách mạng tiến bộ ngày càng phát triển, trở thành lực lượng tiên phong trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, hợp tác, tiến bộ và cùng phát triển của tất cả các dân tộc
4. Lí do thứ tư: Sau Cách mạng Tháng Mười, Cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù Cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều nước sau khi giành được độc lập đã đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Mười thành công đã cổ vũ và chỉ dẫn cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước con đường đấu tranh để tự giải phóng. Vì vậy, ngay trong những năm 1918-1923 đã bùng lên một cao trào cách mạng ở hầu hết các nước tư bản. Ngày 21/3/1919, nước Cộng hoà Xô Viết Hunggari ra đời. Cùng thời kì này một loạt Đảng Cộng sản ra đời: Đảng Cộng sản Pháp (1920), Đảng Cộng sản Anh (1920), Đảng Cộng sản Italia (1921), Đảng Cộng sản Mĩ (1919)…
Ở các nước thuộc địa, phong trào cách mạng càng lên cao hơn bao giờ hết. Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản Nga và chính quyền Nga Xô Viết, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước này đã gắn chặt với phạm trù cách mạng XHCN. Ngày 1/3/1912, Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ thành lập. Tháng 5/1924, nhân dân Mông Cổ xoá bỏ chế độ quân chủ, thành lập Cộng hoà nhân dân Mông Cổ, đi theo đường lối XHCN, bỏ qua TBCN. Cộng hoà nhân dân Mông Cổ là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trên thế giới.
Ngày 1/7/1921, Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập. Ngày 1/10/1949, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa chính thức được thành lập, đi theo con đường XHCN.
Năm 1930, Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong công cuộc đấu tranh giành độc lập của ba nước Đông Dương. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà ra đời dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 2/12/1975, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào được thành lập, đảng lãnh đạo Đảng nhân dân cách mạng Lào.
Trong những năm 1944-1945, khi Hồng quân truy quét phát xít Đức qua vùng Đông Âu, nhân dân và các nước Đông Âu đã nổi dậy, phối hợp với Hồng quân tiêu diệt phát xít, thành lập các chính quyền dân chủ nhân dân: Cộng hoà nhân dân Ba Lan (22/7/1944); Cộng hoà nhân dân Rumani (23/8/1944); Cộng hoà nhân dân Hunggari (4/4/1945); Cộng hoà Tiệp Khắc(9/5/1945); Cộng hoà Liên Bang Nam Tư (29/11/1945); Cộng hoà nhân dân Anbani (11/12/1945); Cộng hoà nhân dân Bungari(15/9/1946); Cộng hoà dân chủ Đức (7/10/1949). Về cơ bản, nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô, đến khoảng giữa năm 1948-1949, các nước Đông Âu đều hoàn thành Cách mạng dân chủ nhân dân và đi lên CNXH.
Cùng với khí thế cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN diễn ra trên toàn thế giới, các nước Châu Phi và Châu Mĩ La tinh cũng sôi sục đấu tranh chống lại bè lũ đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp… Hầu hết các nước này hiện nay đã giành được độc lập. Một số đi theo con đường CNXH, tiêu biểu nhất là Cu Ba…
Như vậy có thể thấy, từ sau Cách mạng Tháng Mười thế giới đã có những chuyển biến to lớn. Giai cấp vô sản được thức tỉnh, ý thức được vai trò của mình và tự đứng lên giải phóng cho mình, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: giải phóng dân tộc và tiến lên CNXH.
II. Những giai đoạn chính của thời đại ngày nay:
Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã mở đầu thời đại mới- thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại đấu tranh cho hoà bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là thời đại đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nhằm chuẩn bị những tiền đề vật chất chín muồi cho sự xuất hiện của chủ nghĩa xã hội.Có thể chia thời đại ngày nay của chúng ta bắt đầu từ cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 tới nay thành 4 giai đoạn như sau:
1. Giai đoạn 1: Từ sau cách mạng tháng 10 Nga (1917) tới kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ 2 năm 1945: đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội ra đời ở Liên Xô và Đông Âu.
Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi không chỉ mở ra cho riêng nước Nga mà còn cho cả lịch sử nhân loại một giai đoạn phát triển mới. Cuộc cách mạng tháng 10 Nga là cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử nhân loại đưa nhân dân lao động từ những người nô lệ làm thuê trở thành những người chủ đất nước.
Sau cách mạng tháng 10 Liên Xô bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã đạt được một số thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế và chính trị của xã hội. Thắng lợi của cách mạng đã tạo điều kiện để Liên Xô thực hiện các chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, tiến hành quốc hữu hóa ruộng đất, quốc hữu hóa đường sắt, hầm mỏ, ngoại thương, bưu điện, ngân hàng lớn và công nghiệp, thực hiện chính sách khôi phục lại nền kinh tế. Cuối năm 1918 ở Liên Xô xảy ra nội chiến. Trong thời kỳ này nhờ thực hiện chính sách "kinh tế cộng sản thời chiến" mà nhà nước Xô Viết mới có đủ lương thực để cung cấp cho quân đội và nhân dân đảm bảo đánh thắng thù trong giặc ngoài. Cuối năm 1920 nội chiến kết thúc, Liên Xô chuyển sang thời kỳ kiến thiết trong hoà bình. Trong giai đoạn này nhân dân Liên Xô thi hành chính sách kinh tế mới và đã tạo được điều kiện phát triển lực lượng sản xuất ở cả thành thị và nông thôn và trong một thời gian ngắn nhà nước Xô Viết đã khôi phục được nền kinh tế tiến một bước dài trong củng cố khối liên minh công nông.
Giai đoạn từ 1926 đến 1940 Liên Xô bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, bên cạnh những thành tựu đạt được từ những "kế hoạch 5 năm", chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã có những biểu hiện nóng vội gây nên những tổn thất nhất định và những yếu kém biểu hiện cả trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Thành tựu quan trọng nhất mà Liên Xô đã đạt được trong giai đoạn này là cuộc Cách mạng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đã đưa Liên Xô trở thành một nước công nghiệp đứng thứ 2 trên thế giới. Từ đó Liên Xô có điều kiện thực hiện chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên ngay những năm tiếp sau đó (1941 đến 1945) Liên Xô cũng phải bước vào thời kỳ chién tranh vệ quốc. Trong giai đoạn này nhân dân Liên Xô đã gặp nhiều khó khăn chưa từng thấy, tuy vậy sức mạnh của một chế độ xã hội mới mà ở đó con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, nhân dân lao động được làm chủ chính mình, làm chủ đất nước đã gây được niềm tin trong nhân dân. Chính điều đó đã góp phần đập tan âm mưu can thiệp của chủ nghĩa đế quốc
Như vậy, giai đoạn thứ nhất của thời đại ngày nay được mở đầu bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội mới như là kết quả tất yếu của thành quả cách mạng này và kết thúc giai đoạn này cũng là kết thúc cuộc chiến tranh thế lần thứ hai. Giai đoạn mở đầu này đã tạo ra những tiền đề tương đối thuận lợi để chủ nghĩa xã hội có thể phát triển thành hệ thống trên thế giới ở những giai đoạn sau.
2. Giai đoạn 2:
Giai đoạn từ năm 1945 tới đầu những năm 1970
Đây là giai đoạn chủ nghiã xã hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới
Sau Chiến tranh thế giơí 2, hàng loạt các nước xhcn ra đời, đặc biệt là nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa xuất hiện, với những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học kĩ thuật,…hệ thống trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ trên thế giới
Những thành tựu đó đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ., tiến bộ trong các nước tư bản chủ nghĩa , nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đòi độc lập dân tộc. Trong những năm 60 thế kỷ XX, khoảng 100 quốc gia giành được độc lập dân tộc với những mức độ khác nhau
Tuy nhiên, bên cạnh đó, phong trào công nhân và cộng sản đã có những bất hòa. Trong Di chúc của Hồ Chí Minh, Người viết:…tôi càng tự hào về sự lớn mạnh của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu ví sự bất hoà hiện nay giữa các Đảng anh em…”
3. Giai đoạn 3: Giai đoạn từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980.
Đây là giai đoạn mà hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào thời kì đen tối nhất.
Ở Đông Âu cũng như những nơi khác, nhiều nước xã hội chủ nghĩa không chú ý tới công tác xây dựng và củng cố sức mạnh của Đảng, tạo kẽ hở để nhiều kẻ phản động chui vào hàng ngũ của Đảng. Nhìn chung ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa trong thời kì này, bộ máy Nhà nước rơi vào lạc hậu, trì trệ bởi tệ quan liêu, cơ cấu tổ chức cồng kềnh, chính sách kinh tế không hợp lí, nóng vội, tư tưởng tả khuynh; nền kinh tế thì tập trung, bao cấp, trình độ khoa học công nghệ phát triển chưa cao, không khuyến khích được tính tính cực trong cá nhân, v.v... do đó không tạo được động lực thúc đẩy xã hội phát triển đi lên. Tóm lại, nguyên nhân cơ bản nhất là các nước này đã thực hiện một mô hình chủ nghĩa xã hội còn nhiều khuyết tật, có thể đồng ý với nhiều nhà nghiên cứu khi gọi đó là mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu và xơ cứng.
Những sai lầm trên kéo dài, ngăn cản sự phát triển kinh tế, xã hội trì trệ, và tất yếu dẫn đến những cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, chính trị ở nhiều nước, làm giảm sút niềm tin trong nhân dân và tạo cơ hội cho các thế lực thù địch trong ngoài phá hoại.
Tình thế đó đã buộc các nước trên phải tiến hành cải tổ lại bộ máy của Đảng và chính quyền. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là trong quá trình cải cách đổi mới, nhiều Đảng cộng sản đã mắc vào những sai lầm nguy hiểm, mang tính chất nguyên tắc. Do những sai lầm trong quá trình cải tổ, do bị phản bội, chế độ xã hội chủ nghĩa đã không đứng vững được trước sự tấn công, chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài bộ máy dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là một tổn thất vô cùng đau đớn của chủ nghĩa xã hội và của nhân loại. Đó là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội còn nhiều khuyết tật và sự thất bại của một đường lối cải tổ xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời còn là hệ quả tất yếu của sự nhận thức không đầy đủ và chính xác về chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong giai đoạn mới hình thành, chủ nghĩa xã hội còn non yếu, thì những khuyết tật, thậm chí sự thất bại cũng là điều dễ hiểu. Lịch sử một số nước tư bản chủ nghĩa ở châu Âu thế kỷ XVIII và XIX cũng đã xảy ra như vậy.
Những nước xã hội chủ nghĩa khác có sự cải cách và đổi mới thành công đã trụ vững và phát triển mạnh mẽ như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Lào. Điều này tiếp tục khẳng định chủ nghĩa xã hội vẫn tràn đầy sức sống, nếu trung thành và biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử đã thay đổi. Đồng thời, những bài học kinh nghiệm quý giá ở những năm 70, 80 của thế kỉ 20 sẽ giúp những nước này cảnh giác và tránh những sai lầm căn bản trong quá khứ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu để vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
4. Giai đoạn 4:
Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn từ đầu những năm 1990 đến nay
Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, dẫn tới bước thoái trào của phong trào Cộng sản quốc tế, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Nhiều đảng cộng sản và công nhân bị tan rã, nhiều đảng viên xin ra khỏi đảng. Sự sụp đổ của Liên Xô- quốc gia trụ cột của hệ thống XHCN khiến cho nhiều nước dân tộc chủ nghĩa đã định hướng lên CNXH mất chỗ dựa về vật chất và tinh thần đã bị các lực lượng phản động giành lại chính quyền đưa đất nước đi theo con đường khác. Ảnh hưởng của CNXH trên phạm vi toàn thế giới giảm đi nghiêm trọng.
Nhân lúc này thì các thế lực phản động quốc tế đang dùng trăm phương ngàn kế để phê phán chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội với đầy đủ mọi lời lẽ hằn học, bôi nhọ, thóa mạ tính ưu việt và sức sống mãnh liệt không mục đích nào khác là nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác Lênin và phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH của các nước XHCN còn lại, nhằm xác lập sự thống trị tuyệt đối của CNTB. Một dạo, người ta nói xấu, xuyên tạc Liên Xô (trước đây) bằng cách hạ thấp vai trò chiến thắng phát-xít của Liên Xô, đề cao cá nhân một vị nguyên soái khác để tập trung hạ thấp uy tín của Đại nguyên soái Xta-lin. Họ tuyên truyền đến mức, vị thống soái vĩ đại nhất của Hồng quân và nhân dân Xô-viết trong cuộc chiến chống phát-xít và xây dựng CNXH ở Liên Xô bị coi như công ít tội nhiều, trở thành hình ảnh như một nhà độc tài tàn bạo.Ngay như một nghĩa cử cao cả của Việt Nam, tiến công vào sào huyệt của Pôn Pốt, để hy sinh xương máu, để giúp đất nước bạn chặn đứng họa diệt chủng, khiến cả thế giới tiến bộ ghi nhận, thì họ lại tìm đủ mọi cách để lật lọng, phỉ báng sự thật và cô lập chúng ta. Khi thì họ rêu rao rằng, Việt Nam xâm lược Campuchia. Đến khi ai cũng rõ thực chất về cuộc diệt chủng ghê tởm của chế độ Pôn Pốt, thì họ lại lu loa rằng, chế độ diệt chủng của Pôn Pốt cũng là bộ mặt của "chế độ cộng sản” Hay như gần đây, Các thế lực phản động trong nước và ngoài nước đã lợi dụng bà con ta ở Tây Nguyên để tuyên truyền, bôi xấu Đảng Cộng sản Việt Nam. Hay như bản báo cáo nhân quyền về các dân tộc trên thế giới hằng năm của Mĩ đã xuyên tạc một cách trắng trợn tình hình nhân quyền ở Việt Nam.
Lịch sử đã đặt ra những thử thách to lớn cho CNXH, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Để vượt qua những thử thách đó các nước XHCN phải tự đổi mới , phải khắc phục những yếu kém, nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, áp dụng khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại, phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, để nâng cao sức mạnh mọi mặt của đất nước. Đồng thời các nước XHCN phải đoàn kết,không ngừng đề cao ý thức, cảnh giác, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của các thế lực thù địch trên thé giới.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, ngày nay thực tế đang chứng minh tính ưu việt và sức sống mãnh liệt của chế độ XHCN. Việc hàng loạt các quốc gia châu Mỹ la tinh vừa do phái tả giành phiếu áp đảo trong các cuộc bầu cử tự do lên cầm quyền, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của số đông dân chúng trong xã hội, đã chứng minh rất rõ sức sống và ảnh hưởng trường tồn của lý tưởng cộng sản. Hàng loạt những chính sách, những việc làm hướng thiện của nước Nga trong thời gian gần đây nhằm cải thiện đời sống, ổn định chính trị xã hội, được dân chúng ủng hộ đều mang sắc thái sinh động của thời kỳ Xô viết. Với tốc độ phát triển kinh tế và xã hội đến kinh ngạc của Trung Quốc, đưa một nước XHCN đông dân nhất thế giới lên hàng ngũ siêu cường và trở thành một cường quốc vũ trụ thứ 3 trên thế giới, đã chứng minh lý tưởng của Chủ nghĩa xã hội thực sự là kim chỉ nam, làm nảy sinh hàng loạt các mô hình. Trung Quốc vớt tư cách là một quốc gia XHCN đang phát triển, cơ sở lạc hậu, tình hình phức tạp, dân số đông đúc, cuối cùng trong vòng thời gian hơn 20 năm ngắn ngủi đó phát triển đến mức có thể nói là kỳ tích của thế giới. Kỳ tích này đã đóng góp nhiều kinh nghiệm thành công cho các nước đang phát triển với đà tăng thêm nhiều sức mạnh cho sự chấn hưng của phong trào XHCN. Đặc biệt, với Việt Nam, một nước mà theo cựu Tổng thống Mỹ Ních-xơn "Không có nước nào trong số bạn bè của Liên Xô ở thế giới thứ ba có thể sống nổi nếu không có viện trợ kinh tế ồ ạt hoặc viện trợ quân sự của Mát-xcơ-va" lại đang đổi mới một cách đầy hữu hiệu. Từ một đất nước kiệt quệ sau chiến tranh, được phương Tây nhìn nhận như những kẻ sống dựa dẫm, như cây tầm gửi sống trên lưng người khác, nay trở thành một trong những quốc gia đổi mới, phát triển năng động hàng đầu khu vực và châu Á. Chúng ta đổi mới trên tinh thần Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kiên định lý tưởng cộng sản, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thấm sâu và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lê Nin vào thực tiễn. Và vào thời điểm này, từ những kẻ hằn học, căm ghét chúng ta đến xương tủy mới không nhận ra, còn lại tất cả thế giới đều công nhận sự nghiệp đổi mới đất nước ở Việt Nam do Đảng cộng sản lãnh đạo đã đạt được những kỳ tích vang dội. Những thành công và những tồn tại, yếu kém mà chúng ta đang tuyên chiến, khắc phục, đang trở thành bài học quý giá cho nhiều quốc gia có chung hoàn cảnh.
Trong giai đoạn ngày nay những người cộng sản ở các nước thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ bộ mặt kẻ thù, đang ra sức tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi phục giá trị của CNXH để đưa đất nước trở lại con đường XHCN. Trong thời đại ngày nay : “ CNXH trên thế giới, từ những bài học thành công thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”
Mục lục
Lời nói đầu 2
A. Khái niệm về thời đại và thời đại ngày nay 2
I.Quan niệm về thời đại và cơ sở phân chia thời đại lịch sử 2
II. Cơ sở phân chia thời đại lịch sử 3
B. Thời đại ngày nay và các giai đoạn chính của nó 18
I. Quan niệm về thời đại ngày nay 18
II. Tại sao lại chọn cách mạng tháng Mười là điểm mốc lịch sử để xác định thời đại ngày nay 20
III. Những giai đoạn chính của thời đại ngày nay 42
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLTH034.doc