Đề tài Thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Để khai thác nguồn nội lực, tiền vốn, tài nguyên, lao động, thị trường, công nghệ . chúng ta cần phải xây dựng được một cơ cấu đầu tư hợp lý. Đối với cơ cấu kinh tế khu vực và ngành sản xuất cần phát triển mạnh kinh tế nông thôn nhất là khu vực đồng băng bắc bộ và nam bộ. Phát triển các ngành công nghiệp nặng như xi măng, công nghệ hiện đại, vật liệu xây dựng, sản xuất cơ khí, lọc dầu. ở các tỉnh miền trung. Phần lớn khu vực này sản xuất nông nghiệp rất khó khăn, năng suất thấp, đất đai là rừng núi chỉ có thể thuận lợi cho phát triển công nghiệp. Các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh. nên điều chỉnh phát triển theo hướng các trung tâm thương mại hóa và dịch vụ. Bởi vì xét về lâu dài, việc thu hút đầu tư phát triển thương mại các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung vào các đô thị lớn là không có lợi cho nên kinh tế. Các đô thị lớn hiện có nên phát triển theo hướng các đô thị xanh đẹp có khả năng thu hút du lịch, kinh doanh thương mại, tài chính và những ngành hỗ trợ phát triển cơ cấu hạ tầng. Chúng ta phải có những ngành kinh doanh chủ đạo do lợi thế kinh tế tạo ra. Những ngành này phải do các nhà kinh doanh Việt Nam nắm giữ một cách chắc chắn là những ngành sản xuất mà các nhà kinh doanh trong nước đảm nhận được không cần đến sự đầu tư của nước ngoài như ngành: may mặc giầy da, ngành sản xuất trong nông nghiệp và chế biến xuất khẩu, ngành vật liệu xây dựng . nên tránh sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành nghề như hiện nay

doc94 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhật Bản vào Việt Nam trên hai khía cạnh. Thứ nhất, nó làm tăng lên sự cạnh tranh trong thu hút FDI của Nhật Bản giữa các quốc gia. Thứ hai sự phục hồi này thúc đẩy tăng cường hợp tác giao dịch làm ăn giữa các quốc gia, vì vậy làm tăng sức hấp dẫn của cả khu vực đối với các dòng FDI. Nếu Việt Nam có chiến lược cải thiện tốt môi trường đầu tư nâng cao lợi thế so sánh trong các yếu tố sản xuất, đảm bảo sự ổn định xã hội..... thì chắc chắn sẽ giành được sự chú ý cao của các nhà đầu tư trong đó có Nhật Bản. Cùng với sự cải thiện môi trường khu vực, sự gia tăng mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa, mà trong đó toàn cầu hóa kinh tế là trọng tâm sẽ là tác nhân thúc đẩy sự gia tăng lưu chuyển của các dòng vốn quốc tế. Chính vì vậy, khả năng thu nhận được FDI càng cao hơn trong tương lai, vấn đề đặt ra với Việt Nam là phải tranh thủ những điều kiện thuận lợi do toàn cầu hóa đưa lại, trong đó có vấn đề thu hút nguồn FDI. Đây chính là một trong những nội dung cơ bản trong chính sách kinh tế đối ngoại của ta. Về phía Nhật Bản thấy xuất hiện những dấu hiệu nói lên dòng FDI của Nhật Bản sẽ gia tăng trong những năm tới. Đó là sự phục hồi kinh tế đi liền với sự ổn định chính trị với đường lối đối ngoại hướng về Châu á. Nếu trong năm 97 và 98 nền kinh tế Nhật Bản rơi vào mức tăng trưởng âm đã làm ảnh hưởng đến khả năng đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản thì năm 99 nền kinh tế đã bắt đầu phục hồi, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 0,6% một năm. Sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản sẽ góp phần làm sống động môi trường kinh doanh khu vực, thúc đẩy các hoạt động trao đổi, đầu tư trong nội bộ khu vực. Đặc biệt với chính sách hướng về Châu á thì cùng với sự phát triển kinh tế Nhật Bản chắc chắn quan hệ kinh tế, trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào khu vực sẽ gia tăng hơn. Cùng với sự phục hồi kinh tế Nhật Bản, giá trị đồng Yên sau một đợt giảm giá, băt đầu từ tháng 10 năm 98 lên giá. Với sự gia tăng này, trong bối cảnh của nền kinh tế đang phục hồi mọi người đều dự đoán về đợt bùng nổ đầu tư mới ra nước ngoài. Nhìn nhận từ những chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam cũng cho thấy những tác động tích cực đến việc thu hút FDI. Mặc dù Việt Nam chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nhưng do chưa hội nhập sâu và hơn nữa do có sự điều tiết vĩ mô tốt, Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định kinh tế xã hội trong nhưng năm qua. Riêng năm 99 mức tăng GDP đạt 5%. Sản lượng nông nghiệp đạt 33,8 triệu tấn, tăng 2 triệu tấn so với năm 98 và là mức cao nhất từ trước tới nay. Sản xuất công nghiệp có mức tăng trưởng 10%..... kết quả sự phát triển kinh tế Việt Nam là cơ sở quan trọng tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài trong đó có Nhật Bản. Công cuộc đổi mới của Việt Nam vẫn được tiếp tục đẩy mạnh. Cùng với cải cách kinh tế, Việt Nam đã triển khai các biện pháp nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị, tăng cường đấu tranh chống tham nhũng..... Như vậy chúng ta có cơ sở để hy vọng mức gia tăng đầu tư của Nhật Bản vào khu vực cũng như vào Việt Nam. Nhưng để đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam gia tăng ở mức độ cao thì điều đó phụ thuộc vào sự cải thiện môi trường đầu tư của ta là chủ yếu. Trong một thế giới mà các nước đang gia sức cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư cho phát triển thì nơi nào, khu vực nào có môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi và đồng vốn có khả năng sinh lời cao thì nơi đó sẽ trở thành điểm tụ hội của các dòng vốn quốc tế. II. phương hướng phát triển đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam 1. Mục tiêu của hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài Mục tiêu xuyên suốt đặt ra cho họat động đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian tới là tranh thủ vốn một cách có chủ động, có chọn lọc, có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội cho một quy hoạch tổng thể cho định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta, góp phần tạo ra một số năng lực công nghệ. Đồng thời với việc chỉ đạo thực hiện tốt các dự án đã được cấp giấy phép, cần nâng cao chất lượng đầu tư trong nước lên một tầm cao mới. Mặt khác, để nhịp độ tăng GDP là 7,5% với cơ cấu vốn đầu tư giai đoạn 2000 – 2005 là: vốn đầu tư trong nước khoảng 35 tỷ USD trong đó vốn ngân sách Nhà nước khoảng 14 tỷ USD. Vốn FDI trên 9 tỷ USD. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA trên 9 tỷ USD, các nguồn vốn nước ngoài khác khoảng 5 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tập trung vào các lĩnh vực sau: - Dầu khí là lĩnh vực trọng tâm thu hút FDI. Mục tiêu của ta là phát triển các mỏ có trữ lượng lớn như: Đại Hùng, Thanh Long, các mỏ của BP, AEDC, PEDCO,...... để cùng với mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng đưa sản lượng dầu khí khai thác lên 30 – 40 triệu tấn/ năm. Xây dựng công trình dẫn khí vào bờ để cung cấp cho hóa lỏng, nhà máy điện, sản xuất phân đạm. - Sản xuất 11 khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao ( chủ yếu trong ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng ) với số vốn đầu tư thực hiện là 2 tỷ USD. Xây dựng hàng trăm xí nghiệp tạo ra khoảng 200-300 nghìn chỗ làm việc, thu hút được kim ngạch xuất khẩu hàng năm khoảng 3 tỷ USD. - Xây dựng cơ sở hạ tầng, chủ yếu thực hiện các dự án về xây dựng đường ( Thành Phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu....), cầu ( TP HCM, Hải Phòng ..... ), nhà ga, sân bay, hải cảng, điện khí hóa đường sắt, xây dựng nhà máy điện, phát triển hệ thống thông tin .... qua hình thức BOT - Phát triển các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ như các ngành điện tử, vật liệu xây dựng, dêt, sợi, giấy, thực phẩm..... Thị trường đầu tư trên thế giới diễn biến phức tạp, sự cạnh tranh giữa các nước trong thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài ngày càng gay gắt, nhưng do nhiều yếu tố Việt Nam vẫn đứng trước những khả năng to lớn thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhất là sau khi nước ta gia nhập ASEAN, ký hiệp định hợp tác kinh tế với liên minh Châu âu, chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) và nhất là có sự bình thường hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam . Tuy nhiên, các khả năng đó có thể biến thành hiện thực đến mức nào là do tùy thuộc vào 4 yếu tố có tính chất quyết định : + Tình hình chính trị xã hội ổn định + Tình hình kinh tế trong nước không ngừng được cải thiện + Quan hệ chính trị đối ngoại được mở rộng, tạo thế chính trị vững vàng của ta trên trường quốc tế. + Luật pháp, chính sách được hoàn thiện, tổ chức quản lý được cải tiến nhằm tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, đươnbg đầu thắng lợi với cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Cho đến nay, ba yếu tố đầu đã có cơ sở để phát huy tác dụng tích cực. Còn yếu tố sau về cơ bản đang có sức hấp dẫn nhưng cung chưa phải là hoàn thiện còn bộc lộ một số mặt yếu kém. 2. Định hướng về đầu tư Nhật Bản Với tiềm lực lớn và mạnh, Nhật Bản đầu tư vào hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên khi xem xét cơ cấu ngành FDI của Nhật Bản vào Việt Nam ta thấy rằng giai đoạn đầu, Nhật Bản quan tâm nhiều đến các dự án về khai thác tài nguyên thiên nhiên và các dự án phát triển dịch vụ. Nữa sau những năm 90 phần lớn đầu tư của Nhật Bản lại chuyển sang lĩnh vực công nghiệp ( 2/3 số dự án và hơn 2/3 số vốn đầu tư ) trong đó có khá nhiều dự án tập trung vào các ngành công nghiệp mũi nhọn mà Việt Nam đang chú trọng phát triển như công nghiệp điện tử, vật liệu xây dựng, sản xuất ô tô xe máy.... Điều naỳ phản ánh thế mạnh về trình độ phát triển công nghiệp cao của Nhật Bản mà nó cũng rất phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Vì vậy để tận dụng thế mạnh đó, thời gian trước mắt chúng ta nên định hướng phát triển đầu tư của Nhật Bản vào các ngành công nghiệp. Bên cạnh đó, kêu gọi đầu tư của Nhật Bản vào các ngành công nghiệp, đầu tư của Nhật Bản theo hình thức 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh để sản xuất những mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản ( quần áo giấy dép...... và một số sản phẩm thực phẩm chế biến ) Tình hình đầu tư của Nhật Bản trong thời gian qua cùng những phương hướng, mục tiêu và nhu cầu vốn đặt ra đối với đất nước chúng ta có thể đặt niềm tin vào việc sẽ thu hút được nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường hơn nữa những tác động tích cực của nó tới phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra đối với một số nước đang phát triển như Việt Nam là phải phát huy được các điều kiện, thế mạnh của mình, tìm ra giải pháp khắc phục những khó khăn, trở ngại của đất nước từ đó tìm ra con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất để đưa đất nước đi lên bắt kịp với thế giới. III. các giải pháp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 1. Những giải pháp cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam 1.1 Cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư Môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu chính trị, kinh tế, xã hội có liên quan tác động tới hoạt động đầu tư và đảm bảo khả năng sinh lợi của vốn đầu tư nước ngoài. Sở dĩ phải phân tích các yếu tố của môi trường đầu tư nước ngoài là để nêu ra những hạn chế yếu kém về hệ thống pháp luật của Việt Nam, đã cản trở việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nói chung và của Nhật Bản nói riêng; bên cạnh đó những tồn tại yếu kém của hệ thống pháp luật sẽ làm giảm đi hiệu quả kinh tế xã hội. Qua đó để đưa ra những phương pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Hơn thế nữa trong điều kiện hiện nay, khi sự cạnh tranh quốc tế và khu vực trong việc thu hút đầu tư nước ngoài đang diễn ra mạnh mẽ, thì cải thiện môi trường đầu tư là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, vô cùng quan trọng đối với nước ta. Chúng ta không phủ nhận những tiềm năng nổi bật trong công tác xây dựng và ban hành những pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, qua thử nghiệm thực tiễn đã bộc lộ không ít những sai sót và hạn chế như: hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và cụ thể thực hiện pháp luật còn tuỳ tiện, gây nhiều khó khăn phức tạp cho chủ đầu tư. Nhiều văn bản pháp lý ban hành chậm, nội dung của một số điều khoản trong văn bản pháp lý ban hành chậm, nội dung của một số điều khoản trong văn bản pháp lý còn chồng chéo chưa thống nhất, thậm chí còn một số chỗ mâu thuẫn. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được đánh giá là một trong những bộ luật “thông thoáng” và “hấp dẫn” các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng còn nhiều vấn đề quy định trong bộ luật chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế với những điều kiện của một nền kinh tế thị trường và mở cửa ra bên ngoài, cụ thể là những vấn đề sau: * Cho phép thành lập liên doanh và hoạt động trong nhiều lĩnh vực thay vì chỉ hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. * Mở rộng thêm điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên tham gia liên doanh. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức pháp luật của công ty liên doanh là một công ty TNHH, chứ không phải là công ty cổ phần. Do đó, thiếu tự do trong việc chuyển nhượng vốn góp trong các công ty liên doanh, có thể gây ảnh hưởng xấu tới tâm lý của nhà đầu tư nước ngoài và làm kìm hãm đầu tư. Việc cần có sự cho phép trước của cơ quan cấp phép đầu tư để bán toàn bộ hay một phần vốn góp của mình để hạn chế khả năng vay, và như vậy cũng chính là tăng đầu tư. Để tránh trở ngại của pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài thực hiện việc đầu tư của mình thông qua một công ty trung gian do mình lập ra thường là tại một nước có chế độ đánh thuế thấp, điều này gây thất thu thuế đối với Việt Nam. Để khắc phục tình trạnh này, có thể quyết định việc chuyển nhượng vốn giữa các đối tác nước ngoài sẽ không cần phải có giấy phép của cơ quan cấp giấy phép đầu tư, mà chỉ cần khai báo với cơ quan này và nếu sau một ngày không có ý kiến phản hồi thì mặc nhiên được coi như việc chuyển nhượng được chấp nhận. * Cải cách thủ tục hành chính Việt Nam mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, do vậy hệ thống pháp luật chưa đầy đủ và thiếu tính đồng bộ, phong cách làm việc quan liêu cửa quyền, các thủ tục rườm rà làm phiền hà cho các doanh nghiệp trong nước và các công ty nước ngoài. Vấn đề này gây bất bình trong gíơi doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nước ngoài đang kinh doanh tại Việt Nam. Công việc cải cách thủ tục hành chính không thể thực hiện triệt để trong thời gian ngắn. Những mục tiêu trước mắt để thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam và Nhật Bản là tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá của mình sang thị trường Nhật Bản và thu hút nhiều vốn FDI của các công ty Nhật Bản. Nhà nước Việt Nam cần đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính nhất là xét duyệt, cấp giấy phép đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam luôn được sửa đổi để tạo nên sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng trên thực tế, môi trường đầu tư của Việt Nam đang mất dần đi những ưu thế mà nguyên nhân theo các nhà đầu tư kinh doanh nước ngoài thì đó chính là những thủ tục hành chính rườm rà, luật pháp không đồng bộ và tệ nạn tham nhũng. Đây cũng là lý do tại sao lượng vốn đầu tư vào Việt Nam có xu hướng giảm và có tốc độ tăng trưởng đang chững lại. Về lâu dài, việc cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam cũng cần thực hiện một cách khẩn trương để tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế đất nước và tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế quốc tế: Hệ thống thủ tục giấy trong giao dịch càng được thay đổi theo hướng tinh giảm, giảm bớt tình trạng nhiều cửa trong giao dịch và có quá nhiều giấy tờ trong xử lý các vụ việc, tình trạng thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết các công việc cũng cần có sự chấn chỉnh hợp lý nhất là chuyển từ cơ chế “xin – cho” sang cơ chế “đăng ký trong môi trường hoạt động kinh doanh” Các doanh nghiệp nước ngoài nói chung và Nhật Bản nói riêng vốn kinh doanh theo pháp luật nên cần có hệ thống pháp luật đồng bộ để điều chỉnh, họ rất thông hiểu luật quốc gia cũng như luật quốc tế nên tình trạnh thiếu luật và luật không đồng bộ ở Việt Nam trước hết sẽ có hại cho các doanh nghiệp Việt Nam khi quan hệ với các công ty nước ngoài * Vấn đề chuyển đổi ngoại tệ Theo quy định hiện hành, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể đổi Việt Nam ra ngoại tệ khi được giấy phép của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Không phải bất kỳ trường hợp nào ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng cho phép chuyển đổi ngoại tệ mà chỉ những dự án sản xuất thay thế nhập khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng. Tình trạnh này đã gây khó khăn vì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần phải có khả năng đảm bảo việc cung ứng cho xí nghiệp từ nước ngoài cần phải có khả năng đảm bảo việc cung cấp cho xí nghiệp từ nước ngoài và chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư. Quan tâm đến các nhà đầu tư Nhật Bản là họ được phép bán sản phẩm, dịch vụ tại thị trường Việt Nam bằng ngoại tệ, hoặc cho phép chung tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mua ngoại tệ này dùng để nhập khẩu nguyên liệu hay để chuyển lợi nhuận về nước. 1.2 Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư. * Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư thông qua biện pháp thuế Trung tâm hệ thống khuyến khích đầu tư là chính sách thuế. Những khuyến khích về thuế là điều hấp dẫn nhất đối với nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam đã công bố miễm giảm thuế cho việc nhập khẩu các thiết bị nhập khẩu lần đầu hình thành tài sản cố định cho các dự án đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực khách sạn và du lịch, bất động sản và phát triển dịch vụ tài chính. Năm 2000 luật đầu tư nước ngoài đã được bổ sung thêm một số chính sách ưu đãi là miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư trong nước chưa sản xuất được; giảm thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Những thay đổi về thuế trong luật đầu tư nước ngoài đã được đánh giá là sự hào phóng cao nhất của chính phủ Việt Nam từ trước đến nay. Chính phủ quyết định miễn thuế lợi tức 8 năm thay vì 4 năm trước đây cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Các dự án thuộc ngành công nghiệp cơ khí luyện kim và hóa chất cơ bản được miễn thuế 2 năm đầu, giảm 50% thuế lợi tức cho 3 năm tiếp theo. Hơn thế nữa nếu dự án sử dụng công nghệ hiện đại và khai thác nguyên liệu trong nước thì được khuyến khích 3 năm đầu miễn thuế và giảm 15% thuế lợi tức của 2 năm tiếp theo. Đặc biệt tại kỳ họp thứ 7 quốc hội khóa 10 vừa qua. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật dầu khí đã được thông qua với những ưu đãi mới nhằm thu hút đầu tư nước ngoài đẩy nhanh tiến độ tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí : thuế thu nhập doanh nghiệp là 32% đối với các dự án khuyến khích đầu tư được xem xét miễn 2 năm , giảm 50% trong cả hai năm tiếp theo; các bên có thể thoả thuận mức thu hồi chi phí thăm dò, phát triển mỏ và khai thác dầu khí tới 50% đến 70% sản lượng dầu khí khai thác hàng năm cho tới khi thu hồi song ..... Những sự điều chỉnh này không chỉ mang lại những thay đổi tích cực trong tình hình đầu tư Nhật Bản mà còn thể hiện sự phù hợp với cơ cấu nền kinh tế thị trường. Ngoài những chính sách về thuế nêu trên, các biện pháp bảo đảm đầu tư của chính phủ cho các nhà đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng, trong đó có các biện pháp bảo đảm về quyền sở hữu công nghiệp, quyền được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài ..... Trong năm 2000 vừa qua chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực giảm tiền thuê đất cho phép điều chỉnh mục tiêu, dãn tiến độ dự án, giảm cước phí một số loại dịch vụ .....Nhiều khó khăn vướng mắc của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong quá trình triển khai dư án quan trọng, áp dụng luật nước ngoài .... đã được giải quyết về cơ bản . Điều đó sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn vào thị trường Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực, chính sách về thuế trong hoạt động đầu tư còn bộc lộ ở một số những hạn chế. Để giải quyết những hạn chế này, chúng ta cần thực hiện: * Nghiên cứu giảm thuế thu nhập cá nhân tương ứng với mức phổ biến trong khu vực, nâng mức thu nhập khởi điểm phải chịu thuế thu nhập với người lao động một cách hợp lý. * Xây dựng hệ thống pháp luật nhập khẩu theo hướng khuyến khích sản xuất phu tùng trong nước trên nguyên tắc thuế đánh vào linh kiện, chi tiết nhập khẩu và sản xuất. Lắp ráp phụ tùng cung cấp cho các doanh nghiệp lắp ráp phụ tùng cung cấp cho các doanh nghiệp lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh phải thấp hơn thuế đánh vào phụ tùng nhập khẩu để láp ráp đảm bảo người sản xuất trong nước có lợi. Xây dựng biểu thức thích hợp trên cơ sở xem xét quan hệ giữa hàng nhập khẩu nguyên chiếc và phụ tùng, giữa phụ tùng và linh kiện của phụ tùng, giữa linh kiện của hàng nguyên chiếc với linh kiện của phụ tùng. * Cần quy định lại thời gian miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu là 80 ngày. Đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế cho doanh nghiệp đảm bảo thời gian làm thủ tục hoàn thuế cho doanh nghiệp không quá 30 ngày kể từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được công văn xin hoàn thuế. Cho doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế theo luật mới đồng thời đảm bảo nguyên tắc không hồi tố nghĩa là những quy định của luật cũ có lợi hơn cho doanh nghiệp đã được cấp giấy phép trước ngày luật mới có hiệu lực thì doanh nghiệp đó được hưởng theo luật cũ. Nhìn chung trong thời gian qua, sự sửa đổi về giá thuê đất, thuế xuất nhập khẩu và các chính sách thuế khác đều thể hiện sự thích ứng nhanh tình hình cạnh tranh thu hút đầu tư và hội nhập vào kinh tế của vùng và thế giới. Tuy nhiên khi sửa đổi chúng ta cũng phải chú ý đến mức độ ưu đãi về thuế giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp, đặc biệt cần nghiên cứu chính sách ưu đãi có sức cạnh tranh cao để khuyến khích dự án đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực công nghệ cao, sản xuất cơ khí, điện tử, thiết bị viễn thông, cơ khí chế tạo; các dự án chế biến nông lâm thuỷ sản đầu tư vào nông thôn và các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn; xây dựng cơ chế hỗ trợ cần thiết để đáp ứng nhu cầu các ngành chế biến xuất khẩu.... Ngân hàng thế giới cho rằng, Việt Nam nên đơn giản cơ cấu mức thuế cùng với một biểu thức thống nhất hơn để dễ kiểm tra, dễ tăng thu cho ngân sách 1.3 Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư kết hợp với lựa chọn thẩm tra đối tác nước ngoài. Khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam nói riêng còn ở giai đoạn ban đầu, các chủ đầu tư còn đang tiếp tục thăm dò và lựa chọn; thì hoạt động xúc tiến đầu tư như chiếc cầu nối cuốn hút các công ty nước ngoài đến Việt Nam; giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện để họ nhanh chóng hợp tác. Khi mà hoạt động đầu tư đạt tới đỉnh cao và bão hoà thì lúc đó vai trò của xúc tiến đầu tư sẽ giảm đi, bởi vì khi đó môi trường đầu tư quá quen biết đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hoạt động đầu tư sẽ chuyển sang một trạng thái khác. Có thể nói xúc tiến đầu tư tác động trực tiếp hữu hiệu tới thu hút đầu tư nước ngoài, là công cụ để chuyển những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống các khuyến khích tác động đến các nhà đầu tư. Đồng thời cần phải xúc tiến đầu tư có quá nhiều cơ hội đầu tư mới, sự lựa chọn của các nhà đầu tư phải trên lượng thông tin kịp thời và chính xác trên cơ sở so sánh mức độ sinh lời và rủi ro. Vai trò của xúc tiến đầu tư sẽ là rất quan trọng. Hệ thống xúc tiến đầu tư như hiện nay sẽ trở nên quá tải, lạc hậu so với nhu cầu thực tế bởi vì đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn thiếu về thiết bị yếu kém về trình độ năng lực. Phần lớn họ đảm bảo được chức năng tư vấn môi giới, còn tư vấn tác nghiệp rất ít và yếu. Hệ thống xúc tiến còn thiếu đồng bộ, thống nhất và đã đến lúc phải tổ chức lại theo hướng: * Hoạch định một chiến lược xúc tiến đầu tư nhằm đáp ứng được nhu cầu và mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội. * Củng cố bộ phận xúc tiến đầu tư đủ mạnh về đội ngũ, mạnh mẽ về trình độ, năng lực theo hướng tập trung hoá cao độ chứ không phân tán, manh mún như hiện nay. * Tăng cường và có kế hoạch đưa các Bộ, viện, trường và các cơ quan làm công tác đối ngoại tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp các chương trình nghiên cứu nhằm tạo thế chủ động trong giao tiếp và sử lý các quan hệ với bên ngoài. Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý của nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư quốc tế để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật khuyến khích đầu tư. Trong năm 2000 vừa qua nhà nước ta đã ban hành một số giải pháp xúc tiến hoạt động đầu tư sau: * Phối hợp với các địa phương, bộ, ngành xây dựng trương trình vận động xúc tiến đầu tư trên cơ sở các quy hoạch, dự án thu hút vốn FDI. Tập trung các hoạt động xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... và một số nước châu âu. Hoàn chỉnh danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001 – 2010 kèm theo các thông tin cơ bản về dự án. * Phối hợp với các địa phương, bộ, ngành xây dựng các website giới thiệu về đầu tư nước ngoài. * Đề nghị nhà nước cho phép mở văn phòng xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm sử dụng kinh phí của nhà nước. 1.4 Tăng cường công tác quản lý dự án sau khi cấp phép Thời gian qua, các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam còn coi nhẹ việc quản lý các dự án. Nhưng qua thực tế sự thất bại của nhiều dự án, công tác này đã được coi trọng hơn. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần được khắc phục như: các vấn đề phát sinh trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được sử lý ( đơn do cơ quan quản lý không nắm được tình hình hoạt động của doanh nghiệp ) làm kéo dài tình trạng sản xuất đình trệ, làm xấu môi trường đầu tư, nhiều trường hợp được sử lý không đúng luật pháp mà thiên về biện pháp hành chính, một số cơ quan tự ý đề ra những quy định riêng về quản lý doanh nghiệp, giá bán điện .... trái với quy định chung của nhà nước làm cho các nhà đầu tư hoài nghi chính sách và luật pháp của ta. Trước tình hình trên, chúng ta cần phải rà soát lại các văn bản hiện có nhằm xác định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn và quan hệ công tác giữa các cơ quan nhà nước theo tinh thần vừa phát huy chức năng của các cơ quan vừa quản lý tập trung thống nhất, khắc phục hiện tượng chia cắt, phân tán, thực hiện nghiêm túc các quy định của chính phủ về hình thành, thẩm định và thực hiện dự án đầu tư nước ngoài. Trong toàn bộ chu trình của một dự án, khâu quản lý là khâu quan trọng nhất quyết định sự thành công của một dự án cụ thể và theo toàn bộ hoạt động hợp tác đối tác. Do vậy, phải đặc biệt coi trọng công tác quản lý dự án, nâng cao chất lượng của các cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền địa phương và những tổ chức cán bộ làm việc này giành sự quan tâm chỉ đạo để nắm chắc tình hình thực hiện theo sát diễn biến nhằm chủ động có biện pháp xử lý kịp thời. Đẩy mạnh việc kiểm tra định kỳ, kiên quyết xử lý kể cả rút giấy phép đối với các trường hợp dây dưa, không triển khai dự án theo quy định hiện hành. Phấn đấu nâng cao hơn tỷ lệ vốn thực hiện và lợi ích của ngân hàng, coi đó là một chỉ tiêu đánh giá của hoạt động đầu tư nước ngoài. 1.5 Hoàn thiện bổ sung công tác xây dựng quy hoạch và ban hành các loại danh mục đầu tư Hiện nay, số lượng dự án đầu tư vào Việt Nam khá nhiều, nhiều lĩnh vực đã đạt được sự cân bằng giữa cung và cầu, nhiều loại dự án có quy mô đầu tư lớn hơn hoặc có lợi nhuận cao như sản xuất bia, xi măng, lắp ráp ô tô xe máy, văn phòng cho thuê, khách sạn, sản xuất đường..... đã bão hoà. Do đó vấn đề quy hoạch theo ngành và lãnh thổ, cơ cấu kinh tế và mục tiêu của từng dự án phải được đặt lên hàng đầu để làm thế nào vẫn thu hút được vốn đầu tư từ nước ngoài nhưng phải hướng họ đầu tư vào các vùng, các dự án trọng điểm. Trước mắt, khẩn trương hoàn thành các quy hoạch các khu công nghiệp, các sản phẩm quan trọng các vật liệu xây dựng ..... Trên cơ sở đó xác định những dự án trong nước tự đầu tư hoặc vay vốn để đầu tư, những dự án có thể kêu gọi đầu tư nước ngoài theo ngành và lãnh thổ cũng như xác định yêu cầu tương ứng về công nghệ thiết bị..... Để đáp ứng nhu cầu bức xúc của hoạt động đầu tư nước ngoài, các ngành cần hoàn chỉnh thêm một bước quy hoạch phối hợp với thành phố, địa phương xây dựng quy hoạch trên địa bàn đặc biệt quy hoạch phát triển các khu công nghiệp. Nhằm thu hút được vốn đầu tư với hiệu quả lớn, khắc phục tình trạng yếu kém về cơ sở hạ tầng trừ một số dự án đặc thù như khai thác chế biến khoáng sản, các dự án chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu, các dự án đầu tư vào miền núi, Tây Nguyên, duyên hải miền trung .... các dự án còn lại cần được thu hút vào các khu vực đầu tư tập trung, các khu công nghiệp, giảm bớt tỷ lệ dự án đầu tư phân tán. Hướng dẫn các công ty tập đoàn lớn đầu tư vào các khu trung tâm đó. Đặc biệt và trước hết là vùng kinh tế trọng điểm cần phải sớm hoàn thành quy hoạch như đã nói ở trên. Như vậy, thực hiện quy hoạch và định hướng thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam làm tốt sẽ giúp chúng ta xác định được ngành nào, vùng nào cần được ưu tiên phát triển để từ đó xây dựng một danh mục đầu tư hợp lý. 1.6 Huy động vốn trong nước để tăng cường hợp tác với nước ngoài, xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý Nhận thức được vốn đầu tư trong nước đóng vai trò quyết định, còn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng nên việc huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển được coi là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách vĩ mô của nhà nước. Với chính sách kinh tế nhiều thành phần, thời gian qua ta đã thu được kết quả đáng kể trên lĩnh vực này, huy động được khối lượng vốn ngày càng tăng đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư ngày càng lớn. Trong bối cảnh đó, việc huy động vốn trong nước để tăng cường khả năng hợp tác với nước ngoài cũng được quan tâm ngay từ những năm đầu thực hiện đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, do eo hẹp về khả năng tài chính của bản thân doanh nghiệp trong nước cũng như do khó khăn chung về nguồn vốn của đất nước, khả năng hợp tác với nước ngoài để thành lập các doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh còn nhiều hạn chế. Do có khó khăn về vốn, dẫn đến tình trạng nhiều lĩnh vực, nhiều dự án tuy có tỷ suất lợi nhuận cao, rủi ro ít nhưng tỷ trọng góp vốn của bên Việt Nam rất thấp do đó lợi nhuận được chia thấp, nhiều trường hợp buộc phải chấp nhận để bên nước ngoài đầu tư 100% vốn của họ. Những năm gần đây, tình hình có cải thiện hơn đã xuất hiện một số dự án có tham gia cùng một lúc của nhiều bên Việt Nam làm tăng tỷ trọng góp vốn chung của bên Việt Nam. Để góp phần khắc phục tình trạng trên, nhằm nâng cao chất lượng đầu tư của bên Việt Nam cần nghiên cứu các biện pháp sau: * Đối với các dự án thông thường, không đòi hỏi cao về chuyên môn nghiệp vụ cần huy động nhiều tổ chức Việt Nam cùng tham gia liên doanh. * Đối với những dự án quan trọng, đòi hỏi tính chuyên ngành cao đối tác Việt Nam dứt khoát là những tổ chức chuyên ngành, những tổng công ty mạnh. Trong trường hợp cần thiết có thể huy động các tổ chức Việt Nam khác nhưng tổ chức chuyên ngành phải nắm rõ vai trò chủ động. * Thành lập các quỹ đầu tư trong nước cũng như cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài được hoạt động ở Việt Nam để cấp vốn cho bên trong và ngoài nước tham gia liên doanh. Để thành lập quỹ hỗ trợ cho vay vốn điều lệ của doanh nghiệp Việt Nam, bên cạnh nguồn vốn tự có và một phần huy động của các ngân hàng cần phải có nguồn vốn hỗ trợ chính sách khác của nhà nước ( như nguồn ngân sách, nguồn tài trợ quốc tế....) ngoài ra để giúp các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tích luỹ, tích tụ, tập trung giảm vốn nhanh hơn cần có các chính sách ưu đãi như giảm thuế doanh thu, thúê lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, áp dụng mức lãi xuất ưu đãi đối với một số liên doanh mới hình thành có tỷ xuất lợi nhuận thấp hoặc áp dụng khoa học tiến bộ cao, công nghệ cao tạo nhiều việc làm. Để khai thác nguồn nội lực, tiền vốn, tài nguyên, lao động, thị trường, công nghệ ..... chúng ta cần phải xây dựng được một cơ cấu đầu tư hợp lý. Đối với cơ cấu kinh tế khu vực và ngành sản xuất cần phát triển mạnh kinh tế nông thôn nhất là khu vực đồng băng bắc bộ và nam bộ. Phát triển các ngành công nghiệp nặng như xi măng, công nghệ hiện đại, vật liệu xây dựng, sản xuất cơ khí, lọc dầu..... ở các tỉnh miền trung. Phần lớn khu vực này sản xuất nông nghiệp rất khó khăn, năng suất thấp, đất đai là rừng núi chỉ có thể thuận lợi cho phát triển công nghiệp. Các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh.... nên điều chỉnh phát triển theo hướng các trung tâm thương mại hóa và dịch vụ. Bởi vì xét về lâu dài, việc thu hút đầu tư phát triển thương mại các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung vào các đô thị lớn là không có lợi cho nên kinh tế. Các đô thị lớn hiện có nên phát triển theo hướng các đô thị xanh đẹp có khả năng thu hút du lịch, kinh doanh thương mại, tài chính và những ngành hỗ trợ phát triển cơ cấu hạ tầng. Chúng ta phải có những ngành kinh doanh chủ đạo do lợi thế kinh tế tạo ra. Những ngành này phải do các nhà kinh doanh Việt Nam nắm giữ một cách chắc chắn là những ngành sản xuất mà các nhà kinh doanh trong nước đảm nhận được không cần đến sự đầu tư của nước ngoài như ngành: may mặc giầy da, ngành sản xuất trong nông nghiệp và chế biến xuất khẩu, ngành vật liệu xây dựng ..... nên tránh sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành nghề như hiện nay 1.7 Xây dựng và phát triển hệ thống tài chính ngân hàng Hiện nay, ở Việt Nam hệ thống ngân hàng trong nước và nước ngoài. Việc cải tổ hệ thống ngân hàng là một cách tích cực và triệt để theo phương hướng phân biệt chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng. Nhà nước với chức năng kinh doanh tín dụng tiền tệ của các ngân hàng thương mại, gồm cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh sẽ góp phần tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư được thuận lợi. Tuy nhiên, ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nên cần lựa chọn trọng đối tượng và đề phòng trường hợp mở cửa làm lũng đoạn nền kinh tế đất nước. Cần có chính sách tài chính phù hợp để tránh tình trạng tái lạm phát ở mức có thể chấp nhận được. Cần thành lập các công ty cổ phần, công ty tài chính để huy động vốn góp ban đầu cũng như để mua lại phần vốn của bên nước ngoài. Loại công ty này tạo vốn cho các nhà đầu tư và giúp họ giải quyết các vấn đề tài chính trong liên doanh cũng như trong thẩm định các dự án đầu tư. Liên quan đến công cụ hỗ trợ vốn cho đầu tư, ngoài ngân hàng thương mại cần đổi mới tổ chức va hoạt động của công ty bảo hiểm nhà nước. Nhanh chóng xây dựng thị trường vốn đặc biệt là thị trường chứng khoán. thị trường vốn có vai trò đảm bảo nguồn vốn có luân chuyển lâu dài và vững chắc tạo điều kiện cho các biện pháp khuyến khích đầu tư mang tính ổn định lâu dài và phát triển bền vững. Trong năm 2000 việc thực hiện luật ngân hàng theo hướng đảm bảo cho ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế tặng thêm nhiều thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Một số loại hình tín dụng phi ngân hàng đã được mở thêm để đa dạng hoá chủng loại như công ty tài chính nước ngoài, công ty cho thuê tài chính; phạm vị hoạt động của ngân hàng nước ngoài từng bước được nới lỏng; một số giao dịch vãng lai và một phần của giao dịch vốn được tự do hoá. 1.8 Đẩy mạnh cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt nhằm góp phần nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam. Vấn đề cơ sở hạ tầng xã hội nghèo nàn của Việt Nam là vấn đề nổi cộm trong môi trường đầu tư. Có thể nói tình trạng yếu kém của cơ sở hạ tầng là nhân tố kìm hãm tốc độ, tính ổn và chất lượng tăng trưởng kinh tế của đất nước nói chung và ảnh hưởng tới khả năng thu hút vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam nói riêng. Các nước Singapore, Đài Loan rất chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng nên họ thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhanh tróng với khối lượng lớn. Bất kỳ nhà đầu tư nước ngoài nào khi đầu tư sang nước khác cũng đều phải quan tâm đến những vấn đề như điện nước, đường giao thông, phương tiện liên lạc..... bởi đó là những yếu tố hàng đầu không thể thiếu được để đảm bảo cho công việc kinh doanh của họ đạt thuận lợi. Trong phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ chú ý vào phần cứng như xây dựng đường xá, kho tàng bến bãi, thông tin liên lạc... mà phải chú ý cả phần cơ sở hạ tầng phần mềm, trong đó đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân lực. Để giải quyết vấn đề trên, một trong những hướng khắc phục trước mắt của ta nên tập trung vào xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp trọng điểm. Trong điều kiện hạ tầng xã hội còn yếu, lại chưa đều giữa các vùng trong toàn quốc, thì cần có quy hoạch phù hợp về phát triển ngành, lĩnh vực. Không cứ nhất thiết tất cả các tỉnh tất cả các tỉnh có đầu tư nước ngoài, phải có nhà máy xi măng hay sắt thép ở tỉnh mình. Cần dựa trên cơ sở thế mạnh của từng tỉnh. Vùng mà kêu gọi đầu tư nước ngoài nói chung, của Nhật Bản nói riêng. Cần tạo ra sự bình đẳng trong tiếp nhận các dịch vụ cho sản xuất cũng như cho đời sống sinh hoạt giữa các công ty trong và ngoài nước, giữa người Việt Nam và người nước ngoài. Trong điều kiện dịch vụ kém chúng ta lại thi hành chính sách giá phân biệt và quá cao với người nước ngoài quả là bất hợp lý, không những không khuyến khích được các hoạt động kinh doanh sản xuất mà cả hoạt động du lịch cũng bị hạn chế. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam nhưng nó kém hấp dẫn các nhà đầu tư. Do đó để khắc phục tình trạng này , chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau: * Việt Nam phải xây dựng các dự án khả thi và tính toán cụ thể đến mức mà các chủ đầu tư thấy có thể bỏ vốn được. * Có chính sách ưu đãi thoả đáng theo hướng coi trọng việc xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện phát triển kinh tế chứ không phải chỉ tính thu ngân sách đơn thuần là từ công trình. Khuyến khích đầu tư xây dựng theo hình thức BOT. * Gắn cơ sở hạ tầng với kinh doanh và bất động sản. * Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng với các dự án khai thác tài nguyên với các chính sách ưu đãi nhà đầu tư khai thác sử dụng, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 1.9 Đào tạo và phát triển lực lượng lao động Một trong những mục tiêu thu hút đầu tư của Việt Nam là công nghệ kỹ thuật tiến tiến. Để tiếp thu được những khoa học kỹ thuật mới này phải có một đội ngũ cán bộ, kỹ sư và công nhân lành nghề; mặt khác trong quá trình làm việc hợp tác với nước ngoài, đội ngũ lao động này sẽ học hỏi được những kinh nghiệm quý giá, nâng cao sự hiểu biết và có điều kiện tìm tòi sáng tạo hơn. Nhưng đây là khâu yếu nhất của ta trong hoạt động đầu tư. Xét trên khía cạnh trình độ nguồn nhân lực, chất lượng lao động của Việt Nam chưa cao, điều này có thể thấy được thông qua chỉ số phát triển nguồn nhân lực HDI, là chỉ số được thiết lập dựa trên các thông số về tuổi thọ bình quân, trình độ học vấn, số năm đi học, tri thức và thu nhập quốc dân tính trên đầu người. Với tất cả những hạn chế trên đã được phân tích ở trên, trước hết chúng ta phải có sự đào tạo chính quy ban đầu, không những công nhân, kỹ sư mà cả các cán bộ quản lý vì hoạt động đầu tư ngày gia tăng cả về quy mô và tính phức tạp. Đội ngũ ngũ này vừa phải được đào tạo trang kiến thức về kinh tế, chính trị để bắt kịp yêu cầu của thời đại, vừa phải tinh thông về nghiệp vụ, vừa phải vững vàng về bản chất. Đồng thời đào tạo đội ngũ chuyên gia luật thương mại và kinh doanh quốc tế, phát triển các công ty tư vấn luật nước ngoài tại Việt Nam. Khi nói đến vấn đề lao động, chúng ta phải nói đến vấn đề tiền lương và vấn đề của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên thực tế đã có rất nhiều xung đột giữa người lao động với chủ đầu tư về vấn đề trên. Do đó, vai trò kiểm soát của các tổ chức nhà nước hết sức quan trọng. Nhìn chung có một số giả pháp sau: + Nhà nước nên áp dụng mức lương trung bình thay cho mức lương tối thiểu về lâu dài và có lợi cho đa số người lao động. + Các điều kiện về lao động, bảo hiểm, y tế phải thực hiện đầy đủ còn các vấn đề bãi công xa thải công nhân.... phải được quy định rõ ràng trong các văn bản. + Nhà nước nên điều tiết thị trường lao động để tránh tình trạng chảy máu chất xám. + Khuyến khích ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo như miễm giảm học phí, gửi đi đào tạo tại nước ngoài, ưu tiên việc làm và trả lương cao cho những người có trình độ ở tất cả các cấp học, đồng thời đào tạo cần phải được triển khai thực hiện một cách khẩn trương, tích cực, có hiệu quả. Việc biến lợi thế cấp thấp thành lợi thế cấp cao thông qua việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong lĩnh vực đào tạo, cũng như phát triển trình độ khoa học công nghệ, từ sử dụng, cải tạo đến hoàn thiện và nghiên cứu phát triển là việc làm có tính cấp bách vừa có tính lâu dài, đòi hỏi thời gian. Tuy nhiên, việc bắt đầu ngay từ bây giờ là điều cần làm đối với Việt Nam. 1.10 Đẩy mạnh quá trình đổi mới phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Nhằm gia tăng sức hút với nhà đầu tư nước ngoài cùng với những vấn đề cơ bản nêu trên liên quan trực tiếp đến đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải tiếp tục đổi mới, cải cách kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động của nền kinh tế Việt Nam. Sự phát triển kinh tế của Việt Nam, chính là sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Việc phát triển kinh tế không chỉ tạo ra cơ hội đầu tư mà còn tăng thu nhập mở rộng nhu cầu. Điều này rất có ý nghĩa đối với nhà đầu tư nước ngoài nhằm vào sản xuất phục vụ thị trường nội địa Việt Nam. Vừa là nguyên nhân thúc đẩy vừa là kết quả của quá trình đổi mới phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đầu 2000 này cần được xúc tiến mạnh hơn. Việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN, việc đàm phán tiến tới gia nhập WTO.... sẽ là những tác động rất quan trọng cho việc tăng đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không hội nhập thì không những không thu hút được đầu tư nước ngoài mà nền kinh tế cũng khó có thể phát triển. Đất nước sẽ tụt hậu so với thế giới, đó là nguy cơ lớn nhất và cũng là lý do thúc đẩy quá trình hội nhập mở cửa, qua đó thu hút đầu tư nước ngoài, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển nền kinh tế nước nhà. 2. Những giải pháp cụ thể đối với Nhật Bản 2.1 Khuyến khích hình thức kinh doanh dưới dạng 100% vốn đầu tư của Nhật Bản Cần có các giải pháp cụ thể khuyến khích phát triển hình thức kinh doanh FDI dưới dạng 100% vốn và đầu tư qua công ty nhánh của Nhật Bản. Các giải pháp cụ thể là : miễm thuế xuất nhập khẩu đối với máy móc thiết bị và nguyên liệu phục vụ cho các loại hình doanh nghiệp hoặc công ty này. Xét miễm giảm thuế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của họ trong thời gian đầu ( có thể từ một đến 3 năm đầu ). Tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý và thủ tục hành chính đối với loại hình đầu tư này. Sở dĩ để xuất giải pháp như vậy mà không phải là khuyến khích hình thức liên doanh hay hình thức kinh doanh trực tiếp ở nước ngoài của Nhật Bản tại Việt Nam. Bởi vì, như chúng ta đã biết từ trước tới nay, hình thức liên doanh vẫn là hình thức chủ yếu trong hoạt động FDI của Nhật Bản vào Việt Nam. Tuy hình thức này có lợi là chúng ta có thể tiếp thu công nghệ kỹ thuật và bí quyết quản lý trực tiếp thông qua quá trình sản xuất với các chuyên gia Nhật Bản, nhưng về thực chất những công nghệ trong liên doanh mà chuyển sang Việt Nam chưa thực sự là những công nghệ tiên tiến, hơn nữa trong hình thức liên doanh này, để có được công nghệ và bí quyết quản lý, chúng ta phải bỏ chi phí dưới dạng góp vốn liên doanh ( bởi vì vốn góp phần lớn là vốn vay, chúng ta phải chịu lãi suất, một hình thức chi phí xét về bản chất ). Thực tế đã chứng minh rằng, tác dụng có ý nghĩa nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển là sự tràn công nghệ từ các công ty đa quốc gia sang các công ty trong nước, và các công ty này thu được nhiều lợi nhuận từ sự tràn này mà không phải mất phí tổn nào cả. Các công ty đa quốc gia thường chuyển giao toàn bộ công nghệ của nó nếu như đó là công ty 100% vốn của họ hoặc chi nhánh của nó tại nước tiếp nhận đầu tư. Sự tràn công nghệ sang các công ty nội địa được thực hiện thông qua các quan hệ mua bán sản phẩm quan trọng nhất là sự tràn trong từng ngành sản xuất bằng cách trao đổi học hỏi kinh nghiệm, trình diễn và giới thiệu sản phẩm công nghệ, quá trình cạnh tranh trên thị trường. Có thể khẳng định rằng đầu tư qua chi nhánh của nước ngoài hay công ty 100% vốn nước ngoài thì có thể nhận được các công nghệ cao, còn liên doanh thì hầu như không. Vậy về lâu dài, khuyến khích phát triển hình thức trên là hoàn toàn có lợi hơn. Dĩ nhiên, sự phát triển của hai hình thức này có thể gây ra rất nhiều khó khăn và dẫn đến nguy cơ phá sản của nhiều doanh nghiệp trong nước. Song sự phá sản tốt hay xấu? Một cách tích cực điều này có nghĩa là trong nền kinh tế sẽ chỉ chấp nhận sự tồn tại của các công ty mạnh và làm ăn có hiệu quả. 2.2 Điều chỉnh một cách hợp lý cơ cấu FDI của Nhật Bản vào các ngành sản xuất Trên cơ sở nguyên tắc đầu tư theo ngành vào từng khu vực của Nhật Bản đặc biệt nhấn mạnh vào ngành nghề chế tạo và xây dựng, đã đặt ra vấn đề tương đối cấp thiết là phải có những giải pháp cả ở tầm vi mô và vĩ mô nhằm củng cố cải thiện và phát triển ngành công nghiệp chế tạo, tăng tính hấp dẫn của nó đối với FDI của Nhật Bản. Thực tế cho thấy, dòng vốn FDI hết sức năng động, các lợi thế so sánh của các nước trong khu vực là gần như ngang băng nhau, sự phát triển công nghiệp chế tạo ở một số nước trong khu vực cũng gần như tương đương và chính vì vậy rất có thể chỉ vì một nguyên nhân nào đó ( cho dù là không lớn ) có ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực đối với tính hấp dẫn cho hoạt động FDI ở lĩnh vực này sẽ làm các nguồn FDI dự định đầu tư vào Việt Nam sẽ đổi hướng sang Philipin, Mianma hoặc Bruney. Chúng ta đang trong quá trình thực hiện mục tiêu chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp chế tạo chính là nòng cốt để thực hiện chiến lược này. Thực trạng FDI của Nhật Bản thời gian qua cho thấy, tuy tỷ lệ vốn FDI của Nhật Bản vào lĩnh vực chế tạo là lớn nhất nhưng vẫn chỉ chủ yếu tập trung vào những ngành công nghiệp nhẹ như lắp ráp hàng điện tử dân dụng, các ngành dệt hoặc may. Trong lĩnh vực công nghiệp nặng, công nghệ kỹ thuật cao thì chỉ chiếm một khối lượng dự án rất khiêm tốn. Các giải pháp cụ thể là: Thứ nhất, ở tầm vĩ mô nhà nước nên có những chính sách riêng ưu đãi đối với lĩnh vực chế tạo về nguồn vốn, có thể cho vay với lãi suất thấp, hỗ trợ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng và trình độ cao. Mạnh dạn thực hiện việc cổ phần hóa hoặc tư nhân hoá các doanh nghiệp lớn thuộc lĩnh vực chế tạo trước đây thuộc sở hữu nhà nước nhưng làm ăn kém hiệu quả, để có thể huy động nguồn vốn tiềm năng trong nước. Cần phải dẹp bỏ tư tưởng cho răng những doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực này phải thuộc sở hữu của nhà nước. Việc giữ vai trò chủ đạo của nhà nước thể hiện qua công tác điều hành quản lý của chính phủ bằng các công cụ điều tiết vĩ mô như pháp luật. Đương lối chính sách.... và các giải pháp thích hợp can thiệp kịp thời chứ không phải trực tiếp nắm quền điều khiển các doanh nghiệp kiểu như vậy, nhất là trong trường hợp không có khả năng duy trì nguồn vốn để sản xuất. Thứ hai, ở tầm vĩ mô, các ngành các bộ chủ quản cũng như các doanh nghiệp phải có các biện pháp cụ thể thích hợp với từng ngành, từng doanh nghiệp như cải tổ cơ cấu, cải tiến phương thức làm việc và quản lý, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật trong khả năng bao gồm cả việc nâng cao tính hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Lợi điểm của chúng ta là: Việt Nam đang có nhu cầu cấp bách trong phát triển công nghiệp chế tạo. Trong khi Nhật Bản lại có thế mạnh và xu hướng nhấn mạnh đầu tư giữa hai nước sẽ là nền tảng tốt cho mong muốn tăng cường thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam. 2.3 Cải tiến tiếp nhận và tổ chức thực hiện các dự án FDI của Nhật Bản Đặc điểm của nhà đầu tư Nhật Bản là ban đầu thường đầu tư với những dự án quy mô nhỏ, rồi sau đó mới tăng lên thực hiện những dự án đầu tư có quy mô lớn hơn, mức độ tăng dần của quy mô các dự án ngoài hiệu quả kinh doanh của đối tác còn phụ thuộc nhiều vào độ tin cậy của đối tác Việt Nam. Các nhà đầu tư Việt Nam thường hết sức nghiêm túc, coi trọng chữ tín trong kinh doanh. Chính vị vậy để góp phần đưa Việt Nam lên vị trí hàng đầu trong con mắt của các nhà đầu tư Nhật Bản chúng ta nên có những giải pháp như trong công tác tiếp nhận và nghiên cứu tính khả thi của dự án phải xem xét một cách có hệ thống trên cơ sở đánh giá, tổng hợp các yếu tố ảnh hưởng, không nên vì chạy theo các dự án lớn,nhất là những dự án dưới hình thức liên doanh, vượt qua khả năng thực hiện của phía Việt Nam, đặc biệt là về vốn và điều hành quản lý dự án, lĩnh vực ta chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, sẽ dẫn đến không hoàn thành trách nhiệm, hiệu quả không tốt gây mất lòng tin đối với phía đối tác Nhật Bản. Gần đây, trong nền kinh tế Việt Nam, xu hướng các xí nghiệp vừa và nhỏ đầu tư ra nước ngoài ngày càng tăng lên. Do vậy, cần phải có những giải pháp trước mắt trong quan hệ đầu tư với Nhật Bản để tranh thủ những dự án nhỏ có tính khả thi, lợi ích lớn. Có giải pháp khuyến khích để tăng cường nguồn FDI của Nhật Bản bằng cách tăng số đầu tư của các công ty vừa và nhỏ của Việt Nam. Điều này không có nghĩa là chỉ tiếp nhận các dự án nhỏ mà không tiếp nhận các dự án lớn liên doanh với Nhật Bản cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước, hoặc huy động nguồn lực tổng hợp của nhiều đối tác Việt Nam. Các giải pháp về tiếp nhận đầu tư theo hướng đúng sẽ mang lại hiệu quả cao. Kết luận Tương lai cung như hiện tại , Nhật Bản , hơn bất cứ nước nào khác , vẫn giữ vị trí là bạn hàng số 1 ở Việt Nam .Đánh giá những thành công trong mối quan hệ kinh tế Việt- Nhật và xu hướng trong tương lai chúng ta có thể nói rằng hiện nay Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới – công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước- đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn. Việt Nam dự kiến sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 20 tỷ USD, trong đó Nhật Bản là một trong những nước chúng ta hy vọng có lượng vốn đầu tư lớn nhất. Tuy nhiên bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng ảnh hưởng của FDI vào từng nước là khác nhau, kể cả những mặt tích cực và những mặt tiêu cực. Nước ta hiện nay, qua một thời gian thực hiện luật đầu tư nước ngoài bên cạnh những thành tựu đạt được đáng khích lệ vẫn còn những vấn đề nảy sinh gây vướng mắc cho việc thu hút FDI của nước ngoài vào Việt Nam. FDI tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu ngành nghề và phân chia các khu vực lãnh thổ một cách cơ bản theo hướng phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những nơi được đầu tư thì kinh tế phát triển nhanh hơn, nhưng bên cạnh những mặt tích cực đó vẫn song song tồn tại những mặt trái của FDI. Mong muốn của cá nhân người viết bài này là chỉ ra được những tồn tại và từ đó có một vài giải pháp để đóng góp vào qúa trình thu hút FDI của Nhật Bản nói riêng và của nước ngoài nói chung có hiệu quả hơn. Góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Bài viết này được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ và hướng dấn tận tình của cô giáo Phạm Thị Thuê. Tuy nhiên, do không có điều kiện để nghiên cứu sâu hơn nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những nhận xét, những ý kiến đóng góp từ phía cô giáo và bạn đọc để những bài viết sau được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo đầu tư các số 2000, 2001 2. Con số và sự kiện 1+2 / 2001 3. 25 năm quan hệ Việt Nam Nhật Bản 1973 – 1998, NXB KHXH, Hà Nội 1999 4. Hướng dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 5. Nghị định thông tư 82/1999 TT – BTC 6. Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản đang phát triển – NXB KHXH HN – 1996 7. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, số 11 – 1995 : sự gia tăng vai trò của Nhật Bản trong khu vực Châu á và Thái Bình Dương. 8. Tạp chí Nhật Bản các số năm 2001. 9. Tạp chí thương mại 01/2001 10. Thời báo tài chính Việt Nam – số 6 12/01/2001 11. Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 62 ngày 04/08/2000 12. Tạp chí Tri thức thế giới, số 16 – 1999 13. Vụ đầu tư nước ngoài : Báo cáo tổng quan tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2001 14. Vụ đầu tư nước ngoài : Báo cáo tóm tắt hoạt động hợp tác giữa trung tâm ASEAN và Bộ kế hoạch và đầu tư 15. Vụ đầu tư nước ngoài : Tình hình chính sách thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, những mong muốn đối với nhà đầu tư Nhật Bản. 16. Vụ đầu tư nước ngoài : báo cáo tóm tắt tình hình đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0027.doc
Tài liệu liên quan