Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm:
Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động.
Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
38 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2396 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút FDI ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rường chung, tạo điều kiện thuận lợi để TNCS di chuyển địa điểm sản xuất, phân phối giữa các nước thành viên, thúc đẩy lưu chuyển FDI.
Xu hướng đối thoại giữa các nước cũng có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự lưu chuyển của các dòng vốn FDI trên thế giới. Nếu xu hướng đối thoại phát triển, sẽ mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nước tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư hợp tác quốc tế. Ngược lại, nếu xu thế các nước là đối đầu, hợp tác kinh tế quốc tế sẽ giảm và điều này làm giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tóm lại trong dòng vận động của mình, FDI sẽ tìm đến những quốc gia có nền kinh tế, chính trị - xã hội ổn định, hệ thống pháp luật đầu tư đầy đủ, cởi mở, chính sách đầu tư nước ngoài thông thoáng, cơ sở hạ tầng chuẩn bị tốt, lao động có trình độ và sức khỏe, thị trường tiêu thụ rộng lớn, nền hành chính hữu hiệu và các dự án kinh doanh hiệu quả….Cùng với một môi trường quốc tế thuận lợi sẽ làm cho việc thu hút FDI có hiệu quả hơn nhiều
V. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước.
1. Kinh nghiệm Trung Quốc.
- Thống nhất môi trường pháp lý giữa đầu tư trong nước và ngoài nước.
Bài học kinh nghiệm từ thực tế Trung Quốc trong thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài cho thấy, cần tiến tới xây dựng mặt bằng pháp lý thống nhất cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phù hợp với thông lệ quốc tế. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện chính sách khá thông thoáng, thuận lợi mà trọng tâm là dành cho đầu tư nước ngoài một số ưu đãi với mức độ khác nhau để thu hút dòng vốn quan trọng này. Chính sách đó bao gồm hai nội dung cơ bản là: xoá bỏ một số rào cản của pháp luật hiện hành đối với đầu tư nước ngoài; và áp dụng các tiêu chuẩn đối xử thuận lợi trên cơ sở đàm phán.
- Thực hiện các chính sách và biện pháp hiệu quả trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Kết hợp chính sách ưu đãi thuế và cải cách thủ tục hành chính để thu hút đầu tư nước ngoài, tiến tới thu hút đầu tư nước ngoài qua lợi thế về nhân lực, hạ tầng cơ sở, công nghệ và chi phí giao dịch. Thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài ở các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp với từng địa bàn; chú trọng xúc tiến đầu tư trực tiếp đối với từng dự án, từng nhà đầu tư có tiềm năng. Đối với một số dự án lơn, quan trọng, cần chuẩn bị kỹ dự án, lựa chọn đàm phán trực tiếp với các tập đoàn có tiềm lực về tài chính, công nghệ. Ngân sách Nhà nước cần dành một khoản kinh phí phù hợp cho công tác xúc tiến đầu tư.
2. Kinh nghiệm ấn Độ.
- Chiến lược thu hút FDI của các công ty xuyên quốc gia.
Trước đây, ấn Độ được coi là quốc gia thuộc thế giới thứ ba và dựa vào chính sách độc quyền sáng chế lỏng lẻo để rập mẫu các hàng hoá phương Tây, khiến các TNC thường không tập trung nhiều ở ấn Độ. Tuy nhiên, hiện nay, ấn Độ đang có những thay đổi trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai ở một số ngành nghề, đặc biệt là những ngành đang rất phát triển như ô tô, dược phẩm và sản phẩm phần mềm nên các TNC đã bắt đầu đẩy mạnh đầu tư vào ấn Độ. Để tạo ra sự khác biệt về lợi thế cạnh tranh với các nước châu á khác, đặc biệt là Trung Quốc, vốn có nhiều lợi thế về lao động dồi dào và rẻ, ấn Độ không chọn tài nguyên hay lao động giản đơn mà sử dụng tri thức là “chất xúc tác”, chọn dịch vụ làm thế mạnh để phát triển kinh tế. ấn Độ tập trung vào công nghệ thông tin, dịch vụ văn phòng, tài chính ngân hàng, nghiên cứu và chế tác dược phẩm – những lĩnh vực mũi nhọn. Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của ấn Độ trong năm 2004 lên đến 17,2 tỷ USD, tăng 35% so với năm trước. Để có thể thực hiện được định hướng đó, ấn Độ đã áp dụng một chính sách giáo dục thích hợp với nhu cầu thời đại. Hàng năm, ấn Độ đào tạo được khoảng hơn 3 triệu cử nhân, trong số đó nhiều người có trình độ chuyên môn cao về kỹ thuật, kinh doanh hay y học. Số trường kỹ thuật tính đến năm 2004 đã lên tới khoảng 1.600 trường. Nhờ lợi thế về tiếng Anh, lao động ấn Độ tiếp thu rất nhanh các ngành khoa học phương Tây, thích ứng nhanh với những đòi hỏi mới trong lĩnh vực công nghệ thông tin và điện tử. Hiện nay, một số công ty tin học của ấn Độ dẫn đầu thế giới về phần mềm cũng như dịch vụ khai thác.
Chính những biện pháp trên, tổng số vốn FDI vào ấn Độ trong những năm gần đây liên tục tăng, đạt 4,3 tỷ USD năm 2003; 5,3 tỷ USD năm 2004 và 6,0 tỷ USD năm 2005 đạt tốc độ tăng trưởng là 12% năm. Đặc biệt đầu tư FDI vào ấn Độ chủ yếu từ các công ty xuyên quốc gia (TNC) lớn trên thế giới, đồng thời cũng là nguồn cung cấp FDI chính cho thế giới. Theo kết quả các cuộc điều tra hàng năm của Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD), trong hai năm trở lại đây, theo đánh giá của các TNC, ấn Độ là một địa điểm đầu tư lý tưởng nhất trên thế giới. Trên thực tế, các TNC đầu tư vào ấn Độ nhiều hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực. Tính đến năm 2005, hơn 100 trong số 500 công ty lớn nhất thế giới đã có mặt tại ấn Độ, trong khi con số này ở Trung Quốc là 33 công ty. Theo thống kê của Liên đoàn các phòng công nghiệp và thương mại của ấn Độ (FICCI), 70% các công ty đầu tư vào ấn Độ làm ăn có lãi và con số này đang không ngừng tăng lên. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến ấn Độ tin rằng trong tương lai, số TNC đầu tư vào ấn Độ sẽ tăng mạnh.
- Ưu tiên phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Khu vực tư nhân ấn Độ trong những năm qua phát triển nhanh là nhờ chính sách kinh tế mới của ấn Độ. Nội dung chính của chính sách này là giảm thiểu vai trò của công nghiệp quốc doanh từ 17 ngành xuống còn 8 ngành; khuyến khích đầu tư tư nhân vào các ngành sản xuất; ban hành các luật chống độc quyền và cho phép tư bản được di chuyển tự do, tư bản nước ngoài có thể làm chủ 51% vốn đầu tư. Đây là một đặc điểm rất khác của ấn Độ so với các nước đang phát triển khác trong khu vực châu á.
Ấn Độ đặc biệt chú trọng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Điều này được thể hiện rõ khi đầu tư trong nước của khu vự tư nhân tăng 16% năm 2001 – 2002; 17,3% năm 2002 – 2003 và 17,4% năm 2003 – 2004. Đa số các công ty lớn của ấn Độ là các công ty tư nhân và các công ty này đều có khả năng cạnh tranh với các công ty lớn của thế giới trong các lĩnh vực như dược phẩm, phần mềm... ấn Độ hiện đang được coi là “phòng thực nghiệm khoa học kỹ thuật cao của thế giới”. Trong số 200 công ty nhỏ tốt nhất trên thế giới theo bình chọn của tạp chí FORBES năm 203, ấn Độ có 13 công ty, trong khi đó Trung Quốc chỉ có 4 công ty (đều ở Hồng Kông).
3. Kinh nghiệm Thái Lan.
- Thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thái Lan nhấn mạnh đén 2 yếu tố then chốt là nguồn nhân lực và doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME). Chính phủ Thái Lan khẳng định đặt ưu tiên phát triển SME và hỗ trợ các doanh nghiệp này về công nghệ thông tin, tài chính và quản lý, đồng thời giúp tăng cường năng lực cạnh tranh của SME trong thương mại quốc tế, thâm nhập thị trường mới. Một số chuyên gia Mỹ và Nhật Bản được mời đến Thái Lan làm cố vấn. Thái Lan đã tham khảo các mô hình thành công của SME ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan.
Các doanh nghiệp SME hiện chiếm 90% tổng số nhà hoạt động kinh doanh trong nước của Thái Lan. Các doanh nghiệp này cần phải cải tiến hoạt động, bớt dựa vào nhà nước đồng thời hợp tác chặt chẽ với ngành giáo dục nhằm đào tạo người lao động có tay nghề phù hợp với yêu cầu của thị trường.
V. Xu hướng vận động của FDI vào các nước đang phát triển
Tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển trên tổng số vốn FDI toàn thế giới có xu hướng giảm đi. Nếu như năm 1993 tỷ lệ này còn Là gần 1/3 thì năm 1999 giảm xuống chỉ còn chưa tới 23%. Mặc dù vậy thì khối lượng đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển thì vẫn tăng liên tục từ 73,4 tỷ USD vào năm 1993 lên tới 195,8 tỷ USD vào năm 1999 đồng thời tỷ lệ FDI trên GDP của các nước tiếp nhận cũng tăng từ gần 1% vào năm 1991 lên tới 2,5% vào năm 2000. Các nước đang phát triển đều đã và đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Nguồn vốn tích lũy trong nước hạn chế và lượng vốn nước ngoài giảm sút đã khiến các nước này rơi vào tình trạng khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ nước ngoài đồng thời thiếu vốn nghiêm trọng để đầu tư vào
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM
I. Khái quát chung về tình hình thu hút FDI của Việt Nam giai đoạn 98 – 00
1. Giai đoạn 1998 – 19990
Đánh dấu bằng việc Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào tháng 12/1987. Kết quả của việc làm này đã khuyến khích, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động FDI phát triển. Từ đây các hoạt động đầu tư đã được nhắm đến nhiều đối tượng các nhà đầu tư từ các nước phát triển chứ không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi các nước Xã Hội Chủ Nghĩa như giai đoạn trước. Trong giai đoạn khởi đầu này nguồn vốn FDI thu hút đạt 6,1 tỷ USD vốn dăng ký và vốn thực hiện chưa đáng kể vì các doanh nghiệp FDI phải hoàn thành thủ tục cần thiết ngay cả khi đã được cấp giấy phép đầu tư.
2. Giai đoạn 1991 – 1996
Giai đoạn này đánh dấu những nỗ lực tiếp theo của chính phủ Việt Nam trong tiến trình hoàn thiện dần luật đầu tư nước ngoài, luật này đã được sửa đổi vào các năm 1990, 1992 và 1996. Nội dung sửa đổi năm 1990 gồm ba vấn đề chính: cho phép thành phần kinh tế tư nhân được trực tiếp hợp tác với đối tác nước ngoài; mở rộng hợp tác kinh doanh từ hai bên thành ba bên và các doanh nghiệp sản xuất hàng thiết yếu thay thế nhập khẩu cũng được hưởng những ưu đãi tài chính như các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Năm 1996, Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi một cách toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam và xu thế hội nhập trên thế giới. So với trước đó Luật đã có những điểm tiến bộ hơn như sau:
- Cho phép mọi thành phần kinh tế được hợp tác đầu tư với các cá nhân, tổ chức nước ngoài.
- Bổ sung các hình thức đầu tư trược tiếp nước ngoài, chủ yếu là các hình thức hợp tác liên doanh với nhiều bên và liên doanh tiếp.
- Thời gian hoạt động của các dự án FDI do chính phủ quy định đối với từng dự án không quá 50 năm.
- Apsdụng chính sách thuế ưu đãi cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
- Bổ sung các chính sách đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và các dự án BOT, BTO, và BT với nhà đầu tư nước ngoài.
- Miễn giảm thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu chưa sản xuất được hoặc đối với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dụng nằm trong dây truyền công nghệ để tái tạo tài sản cố định cho các doanh nghiệp FDI.
Kết quả là trong giai đoạn này như biểu đồ 1 cho thấy FDI tăng trưởng liên tục và đạt kỷ lục vào các năm 1996, 1997 với số vốn đăng ký gần 16 tỷ USD và 6 tỷ vốn thực hiện
3. Giai đoạn 1998 – 2000
Giai đoạn này do cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á cùng với những bất cập và yếu kém trong môi trường đầu tư đã làm cho lượng vốn FDI vào Việt Nam giảm rõ rệt. Năm 1999 vốn FDI đăng ký giảm xuống chỉ còn 2,5 tỷ và số vốn thực hiện là 2,3 tỷ USD. Chính phủ đã phải có những điều chỉnh tạm thời để cải thiện môi trường đầu tư trong nước như giảm thuế và tiền thuế đất, giảm giá và phí một số loại hàng hóa và dịch vụ, điều chỉnh mục tiêu hoạt động của một vài dự án, bổ sung một số biện pháp khuyến khích đầu tư và đảm bảo đầu tư, xử lý linh hoạt các biện pháp chuyển đổi hình thức đầu tư. Tháng 6/2000 Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật sửa dổi, bổ sung một số điều luật của đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam năm 1996. Với mục tiêu là khắc phục những mặt hạn chế của pháp luật hiện hành về FDI, tiếp tục tạo dựng một môi trường đầu tư thông thoáng, ổn định, và có tính cạnh tranh cao hơn, đồng thời hướng đến sự rút ngắn khoảng cách giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhằm thống nhất một khung pháp luật về hoạt động đầu tư.
II. Thực trạng thu hút FDI của Việt Nam trong những năm gần đây.
1. Thực trạng thu hút FDI của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2005.
a. Về quy mô và tốc độ thu hút.
Đây là thời kỳ phục hồi chậm chạp của hoạt động FDI tại Việt Nam. Vốn đăng ký (VĐK) năm 2001 bằng 123% so với năm 2000. Hai năm tiếp theo vốn tiếp tục giảm: năm 2002 VĐK chỉ bằng 88% so với năm 2001, năm 2003 chỉ bằng 96,6% so với năm 2002. Chỉ sang năm 2004 FDI mới thực sự bắt đầu phục hồi đạt hơn 4,2 tỷ USD nhưng vẫn chưa đạt được con số của năm 1998, và đến năm 2005, FDI tăng gần 40% đạt 5,9 tỷ USD nhưng vẫn chỉ xấp xỉ con số của năm 1997 ( đây là năm FDI chịu tác động rõ rệt của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực). Giai đoạn 2001 – 2005, cả nước đã thu hút khoảng gần 19,3 tỷ UDS vốn FDI mới, giảm 24% so với 25, 37 tỷ USD giai đoạn 1996- 2000. Trong đó vốn cấp mới chỉ bằng 60% giai đoạn 1996-2000, tăng vốn gấp 1,7 lần và vốn giải thể chỉ bằng 75% so với giai đoạn trước. V ốn còn hiệu lực tính chung cho cả thời kỳ 1988-2005 là 78,4% so với vốn đăng ký. Vốn thực hiện chiếm 66,6% tổng số vốn còn hiệu lực. Nếu tính chung cho cả vốn cấp mới và tăng vốn thì thời kỳ 2001-2005 chỉ hơn thời kỳ 1996-2000 có gần 3%( xem bảng 1). Riêng năm 2005, tổng số vốn dăng ký và cấp mới đã bằng 1/2 chỉ tiêu đề ra tại nghị định 09/2001/NĐ- CP, nhưng mới chỉ xấp xỉ năm 1997 và còn cách xa so với thời điểm năm 1996 là thời điểm đầu tư nước ta đạt đỉnh cao. Sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI năm 2005 tăng 21%, cao hơn mức tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước là 16,5%. Thành quả này có được chủ yếu là do thị trường xuất khẩu của một số sản phẩm công nghiệp được mở rộng, giá dầu thô tăng cao và có thêm nhiều doanh nghiệp FDI mới đi vào hoạt động. Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 2001-2005 gấp hơn 3 lần so voái thời kỳ 1996- 2000. Cũng trong giai đoạn này khu vực có FDI xuất siêu khoảng 5,8 tỷ USD ( riêng năm 2005 xuất siêu khoảng 2,8 tỷ USD ) trong giai đoạn 1996-2000 nhập siêu hơn 4,7 tỷ USD. Tỷ trọng đóng góp FDI vào GDP bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 14,36%, trong khi giai đoạn 1996-2000 bình quân chỉ đạt có 10,2%. Nộp ngân sách giai đoạn 2001- 2005 gấp 2,38 lần giai đoạn 1996- 2000 (xem bảng 1).
Riêng trong 2005, trên địa bàn cả nước có 922 dự án FDI mới được cấp giấy phép đầu tư với số vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 4 tỷ USD, tăng 24% số dự án và 61,2% vốn đầu tư so với năm trước. Đó là sự tăng trưởng đột biến trong việc thu hút FDI của Việt Nam kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực xảy ra.
b. Về cơ cấu đầu tư.
- Theo lĩnh vực.
Phần lớn các dự án FDI mới tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiếm tới gần 76% số dự án và 60,8% vốn đăng ký, tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ chiếm tới hơn 19,7% số dự án và hơn 31,7% vốn đăng ký cấp mới. Trong thời kỳ 1991-1995, lĩnh vực dịch vụ tỏ ra hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài nên đã chiếm tới hơn 43% tổng số vốn đăng ký, với nhiều dự án quy mô lớn xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê, nhà ở. Giai đoạn sau giảm xuống còn 22,4% do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Tiếp đến là nông lâm ngư nghiệp chiếm hơn 13% số dự án và gần 7,5% vốn đăng ký cấp mới, với số dự án còn hiệu lực là 789 và 3,775 tỷ USD.Trong đó đầu tư vào ngành nông lâm nghiệp chiếm hơn 85,5% số dự án với 91,7% vốn đăng ký, đầu tư vào thủy sản chỉ chiếm có 14,5% số dự án với hơn 8% vốn đăng ký ( xem bảng 2).
Bảng 1: FDI vào Việt Nam theo ngành, theo lĩnh vực (Giai đoạn 1988- 2005, chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
TT
Chuyên ngành
Số dự án
Tỷ trọng
Tổng VĐT
(1000 USD)
Tỷ trọng %
Vốn pháp định(1000 USD)
I
Công nghiệp
4 053
67,21
31 040 965
60, 84
13 355 301
- CN dầu khí
27
0,45
1 891 191
3,71
1 384 191
- CN nhẹ
1 693
28,08
8 470 890
16,6
3 757 445
- CN nặng
1 754
29,09
13 528 255
26,52
5 267 467
- CN thực phẩm
263
4,36
3 139 159
6,15
1 357 851
- Xây dựng
316
5,24
4 011 446
7,86
1 427 350
II
Nông , lâm nghiệp
789
13,08
3 774 878
7,4
1 427 350
- Nông- Lâm nghiệp
675
11,19
3 421 667
6,71
1 478 591
- Thủy sản
114
1,89
307 896
0,6
134 177
Dịch vụ
1 188
19,7
16 202 102
31,76
7 698 540
III
- GTVT- Bưu điện
166
2,75
2 924 439
5,73
2 317 916
- Khách sạn- Du lịch
164
2,72
2 864 768
5,62
1 247 338
-Tài chính-Ngân hàng
60
1,00
788 150
1,54
738 895
-Văn hóa-Y tế-Giaos dục
205
3,4
908 212
1,78
384 212
-XD khu đô thị mới
4
0,07
2 551 674
5,00
700 683
-XD văn phòng-căn hộ
112
1,86
3 936 781
7,72
1 375 208
-XDhạ tầngKCX-KCN
21
0,35
1 025 599
2, 01
387 519
-Dịch vụ khác
456
7,56
1 203 267
2,36
500 685
Tổng số
6 030
100
51 017 946
100
22 684 982
- Theo đối tác.
Tính đến hết 31/12/2005, đã có tới hơn 75 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam. Trong đó có 12 nước có vốn đầu tư trên 1 tỷ USD, và trong số 12 nước có 7 nước là thuộc Châu Á ( Đông Nam Á), đứng đầu là 4 nước Đài Loan, Sigapore, Nhật Bản, Hàn Quốc có số vốn đầu tư trên 3,7 tỷ trở lên. Đài Loan và Sigapore đứng đầu với số vốn đầu tư là trên 7,6 tỷ USD. Có thể chia các Quốc gia đầu tư vào Việt Nam thành 6 nhóm nước sau đây:
Nhóm 1: Các quốc gia có vốn đầu tư lớn hơn 1 tỷ USD 12 nước
Nhóm 2: Các quốc gia có vốn đầu tư từ 500 triệu đến dưới 1 tỷ USD: 6 nước
Nhóm 3: Các quốc gia có vốn đầu tư từ 100 triệu đến dưới 500 triệu USD: 9 nước
Nhóm 4: Các quốc gia có vốn đầu tư từ 10 triệu đến dưới 100 triệu USD: 26 nước
Nhóm 5: Các quốc gia có vốn đầu tư từ 1 triệu đến dưới 10 triệu USD: 14 nước
Nhóm 6: Các quốc gia có vốn đầu tư nhỏ hơn 1 triệu USD: 8 nước.
Trong đó ta thấy, số nước đầu tư lớn hơn 500 triệu USD chỉ có 18 nước chiếm 24% tổng số nước đã tham gia vào đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Gần 30% sô quốc gia chỉ đầu tư rè rặt dưới 100 triệu USD, trong đó có 8 nước chiếm gần 11% chỉ đầu tư thăm dò với số vố đăng ký nhỏ hơn 1 triệu USD. (Xem bảng 3).
Bảng 2: FDI vào Việt Nam theo đối tác đầu tư (Giai đoạn 1988- 2005, chỉ tính các dự án còn hiệu lực )
TT
Chuyên ngành
Số DA
Tỷ trọng
Tổng VĐT
(1000 USD)
Tỷ trọng
%
Vốn PĐ
(1000USD)
I
Công nghiệp
4 053
67,21
31 040 965
60, 84
13 355 301
- CN dầu khí
27
0,45
1 891 191
3,71
1 384 191
- CN nhẹ
1 693
28,08
8 470 890
16,6
3 757 445
-CN nặng
1 754
29,09
13 528 255
26,52
5 267 467
-CN thực phẩm
263
4,36
3 139 159
6,15
1 357 851
- Xây dựng
316
5,24
4 011 446
7,86
1 427 350
II
Nông, Lâm nghiệp
789
13,08
3 774 878
7,4
1 427 350
- Nông- Lâm nghiệp
675
11,19
3 421 667
6,71
1 478 591
-Thủy sản
114
1,89
307 896
0,6
134 177
Dịch vụ
1 188
19,7
16 202 102
31,76
7 698 540
- GTVT- Bưu điện
166
2,75
2 924 439
5,73
2 317 916
-Khách sạn-Du lịch
164
2,72
2 864 768
5,62
1 247 338
-Tài chính- Ngân hàng
60
1,00
788 150
1,54
738 895
- Văn hóa-Y tế-Giaos dục
205
3,4
908 212
1,78
384 212
Đầu tư của các nước G7 vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào cac lĩnh vực công nghiệp chiếm hơn 50% tổng vốn đăng ký. Trong đó dầu khí chiếm tới hơn 85%, công nghiệp chiếm hơn 53% và công nghiệp vật liệu xây dựng chiếm khoảng 70%.
Riêng năm 2005, Soama từ vị trí số 14 năm 2004 đã vươn lên vị trí thứ 2 trong đầu tư vào Việt Nam với số vốn đầu tư là 748,5 triệu USD, Luxembourg từ vị trí 24 năm 2004 đã vươn lên dẫn đầu trong đầu tư vào Việt Nam với số vốn đầu tư gần 770,5 triệu USD. Hàn Quốc tụt từ vị trí thứ 2 xuống vị trí thứ 3 với 227 dự án và 592 triệu USD vốn đăng ký, Nhật Bản tụt từ vị trí số 3 xuống vị trí thứ 4 với 107 dự án và 437 triệu USD vốn đăng ký và Hồng Kông tụt từ vị trí số 4 xuống vị trí thứ 5 với 41 dự án và hơn 407 triệu USD vốn đăng ký. Hoa Kỳ một đối tác tiềm năng đã chuyển từ vị trí thứ thứ 11 năm 2004 lên vị trí thứ 9 năm 2005 trong bảng xếp hạng với 56 dự án và 157 triệu USD.
Thực tế cho thấy Việt Nam thu hút được ít các TNCS tư vào trong nền kinh tế. Trong khi đó vốn FDI của thế giới chủ yếu là vốn của các TNCS. TNCS là đối tác cực kỳ quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước và thực hiện công nghiệp hóa hiện, đại hóa vì phần lớn kỹ thuật hiện đại, tiềm lực tài chính, quan hệ tài chính và mạng lưới rộng khắp toàn cầu của các nước TNCS thực sự mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia thu hút được FDI của các nước này.
- Theo địa phương.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã có mặt ở tất cả các địa phương trong cả nước, ở cả 65 tỉnh thành phố nhưng phân bboos không đều. FDI tập trung ở Thành Phố Hồ Chí Minh ( TP HCM ) và các tỉnh lân cận chiếm hơn một nửa vốn đăng ký của cả nước với 28,66 tỷ USD chiếm 56% vốn đăng ký ).
Hà Nội và các tỉnh lân cận chỉ chiếm chưa đầy 1/2 số lượng vốn ở khu vực phía Nam, với 13,42 tỷ USD chiếm 26,3 % vốn đăng ký.
Sự phân bố không đều vốn FDI chủ yếu là do nhân tố địa lý- tự nhiên quyết định. Những nơi có cảng biển, sân bay, hệ thống đường giao thông thuận tiện , điện nước và các dịch vụ phát triển tốt là những nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư.
Số dụ án và vốn dăng ký chủ yếu tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: TP HCM, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tầu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước, Long An đã chiếm tới 58.6% vốn đăng ký của cả nước.Vùng trọng điểm phía bắc chiếm 27,5% tổng vốn đăng ký của cả nước.
- Theo hình thức đầu tư.
Trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á thì hình thức doanh nghiệp liên doanh ( DNLD) được các nhà đầu tư nước ngoài ưa thích nên tỷ lệ các DNLD chiếm tỷ trọng cao so với các hình thức FDI khác. Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nổ ra thì ngày các nhiều các dự án DNLD chuyển đổi sang hình thức 100% vốn nước ngoài (VNN).
Tính đến hết năm 2004, các dự án đầu tư trực tiếp vào nước ta mới chỉ được phép đầu tư trong 4 hình thức được quy định trong luật đầu tư nước ngoài. Đến năm 2005, các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư trong 6 hình thức FDI, thêm hai hình thức nữa là công ty cổ phần FDI và công ty quản lý vốn.
Bảng 3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư 1988 - 2005 ( tính tới ngày 31/12/2005 – chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
TT
Hình thức đầu tư
Dự án
Vốn đầu tư
Tổng số DA
Tỷ trọng (%)
Tổng số vốn
Tỷ trọng (%)
1
100% VNN
4 504
74,7
26 041
51
2
DNLD
1 327
22,0
19 180
37,6
3
HĐHTKD
184
3,05
4 710
8,17
4
BOT
6
0,1
1 370
2,7
5
Công ty cổ phần
8
0,13
199
0,4
6
Công ty quản lý
1
0,02
55,5
0,11
Tổng số
6 030
100
51 017
100
( Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và Đầu Tư )
Qua bảng ta thấy :Tính đến hết năm 2005 hình thức này chiếm tới gần 75% số dự án và 51% vốn đăng ký. Hình thức DNLD chiếm 22% số dự án và 37,6% vốn đăng ký. Chỉ có khoảng 3% số dự án và 11,4% vốn đăng ký là thuộc về 3 hình thức đầu tư còn lại. Như vậy có thể thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài ưa thích đầu tư vào hình thức 100% VNN. Hình thức DNLD cũng không mấy được ưa chuộng vì tính phức tạp của hình thức này trong quản lý và điều hành. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy, quy mô các dự án 100% VNN thường là nhỏ đầu tư vào những ngành ít rủi ro. Trong khi đó các dự án liên doanh thường có quy mô lớn hơn và đầu tư trong những lĩnh vực mà nếu đầu tư 100% VNN không chắc chắn vì nhà đầu tư nước ngoài ít am hiểu lĩnh vực này hoặc ít am hiểu thị trường Việt Nam. Hình thức BOT được chính phủ ưu đãi nhiều hơn so với các hình thức FDI khác như không thu tiền thuê đất, thời hạn thực hiện dự án thường là dài nhưng có rất ít các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn, chủ yếu là do các doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến cung ứng đầu vào hoặc đầu ra mang tính chất cục bộ rất lớn. Đây là thực tế cần được nghiên cứu và có các giải pháp tháo gỡ kịp thời để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng hình thức BOT, hoàn thiện và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của quốc gia nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài mới và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Thực trạng thu hút FDI của Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2008.
Trong năm 2006, cả nước đã thu hút được trên 10,2 tỷ USD vốn đăng ký mới, tăng 57% so với năm trước và đạt mức cao nhất từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đến nay, vượt mức kỷ lục đã đạt được vào năm 1996 là 8,6 tỷ USD.Trong tổng vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đăng ký năm 2006 có gần 8 tỷ USD vốn đăng ký của hơn 800 dự án mới và hơn 2,2 tỷ USD vốn tăng thêm của 440 lượt dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Như vậy, cả vốn đăng ký của các dự án mới và vốn đầu tư mở rộng sản xuất đều tăng mạnh so với năm 2005, trong đó vốn đăng ký của các dự án mới tăng tới 77%.Cùng với việc gia tăng vốn đăng ký, vốn đầu tư thực hiện năm 2006 cũng đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm qua. Tiến độ giải ngân vốn ĐTNN trong năm 2006 được đẩy nhanh, nhất là đối với các dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất. Tổng vốn ĐTNN thực hiện trong cả năm ước đạt trên 4,1 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm trước.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đạt kết quả khả quan hơn mức dự báo. Trong năm qua, đã có thêm 250 doanh nghiệp có vốn ĐTNN đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần làm gia tăng năng lực sản xuất và xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đạt 29,4 tỷ USD, tăng 31,3% so với năm trước. Riêng doanh thu xuất khẩu (không kể dầu thô) của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đạt 14,5 tỷ USD, tăng 30,1% và nếu tính cả xuất khẩu dầu thô đạt 22,6 tỷ USD, chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn ĐTNN tăng 19,5%, cao hơn mức tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước.Với tốc độ tăng trưởng mạnh cả về sản xuất và xuất khẩu, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã đóng vai trò động lực thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta với mức tăng trưởng GDP trên 8,2% trong năm qua.
Chất lượng dự án chuyển biến tích cực. Trong danh mục các dự án ĐTNN được cấp phép trong năm 2006, đã xuất hiện nhiều dự án lớn của các tập đoàn xuyên quốc gia. Trong đó phải kể đến dự án đầu tư của tập đoàn Intel tại thành phố Hồ Chí Minh có tổng vốn đầu tư (kể cả tăng vốn) lên tới 1 tỷ USD; dự án sản xuất thép tại Bà Rịa - Vũng Tàu của tập đoàn Posco Hàn Quốc có tổng vốn đăng ký 1,126 tỷ USD; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tycoons Worldwide Steel (Việt Nam) với tổng vốn đầu tư 556 triệu USD xây dựng nhà máy cán thép tại Khu Kinh tế Dung Quất; Công ty Trách nhiệm hữu hạn điện tử Meiko với tổng vốn đầu tư 300 triệu USD,... chỉ tính riêng 10 dự án lớn nhất đã có tổng vốn đầu tư đăng ký lên đến gần 4 tỷ USD.
Cơ cấu đầu tư đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghiệp công nghệ cao. Ngoài dự án của tập đoàn Intel, năm 2006 đã xuất hiện và gia tăng các dự án đầu tư của các tập đoàn hàng đầu Nhật Bản như dự án sản xuất thiết bị y tế của tập đoàn Terumo, sản xuất máy fax, máy in laze của tập đoàn Brothers Industries; các dự án tăng vốn, xây dựng nhà máy mới của Công ty trách nhiệm hữu hạn Cannon Việt Nam, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Panasonic Việt Nam, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ritech Việt Nam,...
Cùng với sự xuất hiện các dự án nói trên, thứ bậc của các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể. Năm 2006 Hàn Quốc với một số dự án lớn, trong đó có dự án sản xuất thép của Posco, trở thành nước dẫn đầu về vốn đầu tư đăng ký tại Việt Nam so với vị trí thứ 4 trong năm 2005; Hoa Kỳ (kể cả đầu tư qua nước thứ 3) vươn lên đứng hàng thứ 2 và Nhật Bản đứng hàng thứ ba về vốn đăng ký. Tuy nhiên, xét về vốn đầu tư thực hiện, Nhật bản vẫn tiếp tục là nước đứng đầu.
Năm 2007, sau một năm gia nhập WTO thu hút đầu FDI đã có những bước phát triển vượt bậc với 20,3 tỷ USD vốn đăng ký của Việt Nam. Tính chung FDI năm 2007 so với năm 2006 thu hút tăng gần 70%, gần bằng tổng mức đầu tư nước ngoài của 5 năm 2001- 2005 và chiếm tới gần 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua.
Tính đến hết tháng 11/2007, vốn FDI thu hút đạt 15 tỷ USD, tăng 38,4% so với cùng kỳ và vượt kế hoạch đề ra (13 tỷ USD) và lượng vốn FDI thu hút của cả năm 2006 (10,2 tỷ USD). Trong số này có 1.283 dự án cấp mới với 13,4 tỷ USD (tăng 35,2% về số dự án và 67,3% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước) và 314 dự án xin tăng vốn, đạt 1,67 tỷ USD. Công nghiệp vẫn là nhóm ngành dẫn đầu về nguồn vốn đầu tư nước ngoài với trên 7,55 tỷ USD (chiếm 56,4 % tổng vốn FDI), tiếp sau là dịch vụ với 5,65 tỷ USD (42,2 % tổng vốn đầu tư đăng ký).
Dẫn đầu 50 quốc gia đầu tư vào Việt Nam là Hàn Quốc (3,68 tỷ USD, chiếm 28% tổng số vốn đăng ký), tiếp theo British Virgin Islands và Xingapo (tương ứng 3,5 tỷ USD và 1,55 tỷ USD chiếm 17,8% và 13,3%). Trong 50 địa phương thu hút được dự án FDI, dẫn đầu là Bà Rịa – Vũng Tàu (1,06 tỷ USD, chiếm 10,9% tổng vốn đăng ký), tiếp theo là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội (tương ứng là 1 tỷ USD và 0,9 tỷ USD chiếm 10% và 9,1%).
Năm 2007, FDI thu hút vào Việt Nam không những chỉ gia tăng về số lượng mà còn có những chuyển dịch tích cực về cơ cấu:
Số lượng dự án có quy mô lớn tăng. Trong tổng số dự án FDI tính đến tháng 10/2007, số dự án có quy mô lớn chiếm 55% (tăng 50% so với cùng kỳ). Quy mô trung bình của một dự án đạt 8,5 triệu USD/dự án (so với 6,7 triệu USD/dự án năm 2006).
Có sự chuyển dịch bước đầu địa bàn đầu tư. Trong danh sách các địa phương có dự án đầu tư lớn, đã xuất hiện thêm nhiều địa phương mới như Hà Nam, Hà Giang, Cao Bằng. Nhiều địa phương có sự bứt phá vươn lên những vị trí hàng đầu trong danh sách trong địa bàn có số vốn đầu tư lớn như Thừa Thiên Huế, Hậu Giang, Ninh Thuận. Trong danh sách các nhà đầu tư lớn, những cái tên quen thuộc vẫn liên tục xuất hiện chứng tỏ sức hút mạnh mẽ của thị trường Việt Nam.
Năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ nước Mỹ đã lan rộng sang Châu Âu, các nước Châu Á và phần nào ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và các mặt của đời sống xã hội nước ta. Nhưng cộng đồng đầu tư quốc tế đã đánh giá cao các giải pháp và chính sách của Việt Nam trong khiềm chế lạm phát, giữ ổn định môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và coi Việt Nam là địa bàn đầu tư tin cậy.
Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, trong 10 tháng qua cả nước có 953 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 58,3 tỷ USD, bằng 83,3% về số dự án và tăng gần 6 lần về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước.Vốn đầu tư tăng thêm chủ yếu từ các nhà đầu tư Nhật bản đứng đầu với 265 triệu USD, chiếm 25,8% tổng vốn đầu tư tăng thêm. Hàn Quốc 201,6 triệu USD vốn đầu tư tăng thêm chiếm 19,6%.
Vốn đăng ký mới chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có 512 dự án với tổng vốn đăng ký là 32,5 tỷ USD chiếm 53,7% về số dự án và 55,7% về vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực dịch vụ có 400 dự án với tổng số vốn đăng ký là 25,5 tỷ USD chiếm 42% về số dự án và 43.9% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp.
Tính từ đầu năm đến nay đã có 44 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Việt Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư vốn trên 1 tỷ USD. Malaysia đứng đầu với 40 dự án, vốn đăng ký 14,8 tỷ USD chiếm 4,2% về số dự án và 25,5% về vốn đầu tư đăng ký. Đài Loan đứng thứ 2 có 122 dự án, vốn đầu tư 8,6 tỷ USD chiếm 12,8% về số dự án và 14,8% về số vốn đầu tư đăng ký. Nhật Bản đứng thứ 3 có 90 dự án, vốn đầu tư là 7,2 tỷ USD chiếm 9,4% về dự án và 12,89% về vốn đầu tư đăng ký dự án. Brunei đứng thứ 4 có 15 dự án vốn đầu tư 4,3 tỷ USD chiếm 7,5% về vốn đầu tư đăng ký . Canada đứng thứ 5 có 7 dự án, vốn đầu tư 4,2 tỷ chiếm 7,5% về vốn đầu tư đăng ký.
Bảng 4: Đầu tư nước ngoài 10 tháng năm 2008
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
10 tháng đầu năm 2007
10 thánh đầu năm 2008
So với cùng kỳ
Số dự án cấp mới
Dự án
1144
953
83,3%
Vốn đăng ký cấp mới
Triệu USD
9753
9753
597,7%
Số dự án tăng vốn
Lượt dự án
22
300
82,3%
Vốn đăng ký tăng thêm
Triệu USD
196
1512
67,8%
Vốn cấp mới và tăng thêm
Triệu USD
2192
11265
526,6%
Các dự án chủ yếu thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài (728 dự án, vốn đăng ký là 29,2 tỷ U SD) chiếm 76,4% về số dự án và 51,3% về vốn đăng ký. Số dự án theo hình thức liên doanh có 168 dự án với vốn đăng ký là 26,8 tỷ USD chiếm 17,6% về số dự án và 46.1% về vốn đăng ký, còn lại là các dự án theo hình thức khác.
Các địa phương trong cả nước tích cực, chủ động trong thu hút và quản lý FDI bằng nhiều biện pháp theo hướng giảm thiểu thủ tục hành chính, hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư đã được cấp giấy phép nhanh chóng đi vào hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát huy tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Chính vì vậy, nhiều dự án quy mô lớn khai trương, động thổ triển khai ngay sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư.Do thu hút được các dự án có quy mô lớn nhất nước 9,79 tỷ USD của liên doanh sản xuất thép giữa tập đoàn Lion Malaysia với Vinashin, tỉnh Ninh Thuận đã vươn lên đứng đầu trong số 43 địa phương trong cả nước thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài.Bà Rịa – Vũng Tàu đứng thứ 2 có 4 dự án, tổng vốn đăng ký là 9,3 tỷ USD chiếm 16% tổng vốn đăng ký. Tiếp theo là Thành Phố Hồ Chí Minh 8 tỷ USD, chiếm 13,7% tổng vốn đăng ký. Hà Tĩnh 7,8 tỷ USD chiếm 13,5%. Thanh Hóa 6,2 tỷ USD chiếm 10,6%. Phú Yên 4,3 tỷ chiếm 7,5%. Kiên Giang 2,3 tỷ USD chiếm 5%, Đồng Nai 1,78 tỷ USD chiếm 4%.
3. Đánh giá thực trạng thu hút FDI của Việt Nam trong thời gian qua.
a. Thành tựu đạt được.
Số dự án FDI và lượng vốn FDI thu hút được có xu hướng tăng lên qua các năm, Cơ cấu FDI đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng lĩnh vực dich vụ, các dự án cấp mới trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 37% vốn đăng ký.
Quy mô bình quân một dự án FDI cũng có xu hướng tăng từ 2,08 triệu USD năm 2002 lên 4,6 triệu USD năm 2005. Chất lượng các dự án mới và các dự án tăng vốn trong ngày càng có xu hướng chuyển biến tích cực nên đã thu hút được một số dự án có quy mô lớn, sử dụng công nghệ tiên tiến như các dự án phát triển mở rộng sản xuất của Canon, dự án hệ thống diện thoại di động của CDMA, dự án nghiên cứu phát triển sản xuất các thiết bị âm thanh siêu nhỏ của tập đoàn SINION….
FDI đã góp phần quan trọng tạo ra 150 khu công nghiệp, khu chế xuất. Với tốc độ tăng FDI thì năm 2015 sẽ thành lập mới thêm 115 khu công nghiệp và mở rộng 27 khu công nghiệp.Rõ ràng FDI đã tạo ra những khu công nghiệp tập trung để các doanh nghiệp nước ngoài và việt nam vào sản xuất tại đó, thay vì những nhà máy công nghiệp trước đây nằm rải rác trong các thành phố.Gía trị sản xuất công nghiệp của các khu công nghiệp trên cả nước chiếm khoảng 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Vì là khu công nghiệp tập trung nên thủ tục cấp phép tại các khu công nghiệp hoàn thiện hơn theo cơ chế một cửa, đơn giản và hạ tầng cũng như dịch vụ hải quan thuận tiện.
Trong thu hút FDI, Việt Nam đã thu hút được các tập đoàn lớn vào kinh doanh tại Việt Nam. Điều đó đã tạo ra uy thế cho Việt Nam cũng như giá trị sản phẩm trên trường quốc tế.Hiện có 110 các tập đoàn đa quốc gia( TNCS ) trong danh sách 500 tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới đã đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 11,09 tỷ USD chiếm 20% tổng vốn FDI của cả nước.
Nguyên nhân mang lại những thành tựu đó.
Thu hút vốn FDI của Việt Nam sở dĩ có được thành tựu nổi bật như vậy, mấu chốt là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO, môi trường quốc tế đã thuận lợi hơn cho Việt Nam phát triển. Bên cạnh đó, thị trường trong nước nói chung và thị trường tiêu dùng của Việt Nam nói riêng không ngừng mở rộng và tạo đều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, tình hình chính trị xã hội ổn định trong suốt thời gian dài vừa qua đã đảm bảo an toàn với vốn đầu tư quốc tế, hệ thống luật pháp tiếp tục hoàn thiện. Chính phủ Việt Nam còn thông qua các hình thức như diễn đàn và đối thoại, đã thiết lập được kênh đối thoại với chủ đầu tư, tăng cường hơn niềm tin của chủ đầu tư tại Việt Nam.
Việt Nam tiếp tục có những bước tiến quan trọng về tư duy, tổ chức, lãnh đạo và chỉ đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, thể hiện qua Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X và các nghị quyết của ban chấp hành Trung ương. Sự kiện Việt Nam đã được bầu làm ủy viên không thường trực hội đồng bảo an liên hợp quốc góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo thêm điều kiện thuận lợi dể phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế với thế giới.
Sự ổn định chính trị và môi trường kinh tế vĩ mô ngày càng được hoàn thiện là điều rất quan trọng, có thể huy động mọi nguồn lực cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế. Hệ thống pháp luật cần thiết cho thể chể kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cơ bản đã dược hình thành và tương đối đồng bộ.
b. Hạn chế trong việc thu hút FDI trong thời gian qua.
Cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ như cảng biển, đường cao tốc, điện, nước, viễn thông, thông tin….. được các nhà đầu tư quan tâm nhiều. Việt Nam đã có nhiều chính sách ưu đãi nhưng không phải nhà đầu tư nào cũng vào được.Bởi vì cơ sở hạ tầng là những công trình đầu tư đòi hỏi thời gian thu hồi vốn lâu và để đảm bảo điều này lại đòi hỏi có nguồn vốn lớn cho nên không phải tất cả các nhà đầu tư đều có thể tham gia được vào tất cả các dự án.
Cải cách hành chính còn tập trung quá nhiều vào trung ương mà chưa khởi động mạnh mẽ phân cấp cho địa phương vì vậy, những vướng mắc của doanh nghiệp lại gắn chặt với địa phương, nhất là các thủ tục liên quan xin giấy phép, xin đất, thuế, môi trường….
Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế.
Sức ép cạnh tranh quốc tế gia tăng cùng với tiến trình hội nhập trong điều kiện tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn yếu, khả năng cạnh tranh còn thấp, chất lượng tăng trưởng kinh tế và hiệu quả đầu tư chưa cao…. Làm kém đi tính hấp dẫn đối với FDI với tư cách là một đối tác đầu tư trực tiếp.
Những biến động khó lường nhất là trên thị trường nhất là giá dầu, giá vàng và một số mặt hàng khác có tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, trong đó có hoạt động FDI.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI TẠI VIỆT NAM
I. Quan điểm thu hút FDI của Việt Nam trong thời gian tới.
Việc tăng cường thu hút FDI của Việt Nam để đáp ứng những yêu cầu của đất nước xuất phát từ các quan điểm sau:
Duy trì nhất quán, ổn định, lâu dài chính sách thu hút FDI. Coi FDI như một bộ phận hữu cơ quan trọng về vốn và và kinh doanh của nền kinh tế đất nước. Cần thống nhất nhận thức về tầm quan trọng, triển vọng và điều kiện hoạt động của FDI trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
Coi trọng đồng bộ hóa các giải pháp. Có rất nhiều yếu tố liên quan trực tiếp và gián tiếp, trước mắt và lâu dài đến động thái, các quyết định đầu tư và triển khai các dự án FDI đã đăng ký. Vì vậy cần có những giải pháp đồng bộ, thống nhất và đặc biệt là cần đứng từ góc độ nhà đầu tư để xây dựng các ưu đãi tạo mọi điều kiện bình đẳng và thuận lợi nhất cho việc thu hút FDI.
Kết hợp chặt chẽ hiệu quả dòng FDI và nguồn vốn đầu tư phát triển khác nhất là vốn trong nước
Đề cao yêu cầu phát triển bền vững cho thu hút FDI.Việc thu hút cũng như sử dụng FDI càn phải gắn với quy hoạch, mục tiêu chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa để từng bước tiếp cận nhanh nền kinh tế tri thức, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả nền kinh tế. Giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm sự lành mạnh xã hội và môi trường sinh thái.
Đa dạng hóa cơ cấu nguồn FDI và hình thức FDI.Đồng thời quan tâm đặc biệt và ưu tiên đối với nhà đầu tư lớn, dự án có tiềm năng lớn về tài chính nắm công nghệ nguồn và cả những công nghệ nhỏ.
II. Các định hướng thu hút đầu tư FDI trong thời gian tới
Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, khắc phục các mặt hạn chế nhằm thu hút FDI một cách hiệu quả hơn.
Đầu tư nước ngoài sẽ được ưu tiên khuyến khích vào những ngành nghề, lĩnh vực có tác dụng thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế như sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ chế tạo, nuôi trồng chế biến nông, lâm sản …..
Tăng cường công tác quản lý dự án FDI sau khi được cấp giấy phép, đối thoại thường xuyên với cộng đồng doanh nghiệp nhằm nhanh chóng tháo gỡ vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Mở rộng các kênh đầu tư mới gắn mở cửa thị trường với cam kết quốc tế.
Thành lập quỹ xúc tiến đầu tư, đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư.
Xây dựng các đầu mối xúc tiến đầu tư tại các khu vực trọng điểm.
III. Giải pháp tăng cường thu hút FDI của Việt Nam trong thời gian tới.
a.Quy hoạch hợp lý
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.
Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
b.Cải tiến luật pháp và chính sách:
Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan.
Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ.
Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
c. Tăng cường xúc tiến đầu tư:
Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương.
Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Đồng thời, thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010 để đảm bảo kinh phí cho vận động thu hút vốn ĐTNN nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch.
Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga)
Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.
d. Cải thiện cơ sở hạ tầng:
Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng.
Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v.
Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời.
Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập.
Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v.
Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng.
Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu,
e.Về lao động, tiền lương:
Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau.
Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm:
Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động.
Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
f. Về cải cách hành chính:
Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.
Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài.
Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể.
Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư .
Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan.
g. Một số giải pháp khác:
Trong các giải pháp nêu trên cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các định hướng ưu tiên, đặc thù.. phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.
Trong các giải pháp trên, giải pháp đảm bảo môi trường chính trị, xã hội ổn định là giải pháp quan trọng hàng đầu vì nó đảm bảo cho sự an toàn của nhà đầu tư.Vấn đề con người mà cụ thể lả nâng cao chất lượng cán bộ và lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được coi là giải pháp vừa mang tính chiến lược, vừa mang tính cấp bách.Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách thu hút FDI là giải pháp lâu dài vì việc sửa đổi bổ sung luật phải có thời gian nhất định ( vài năm kể từ khi chuẩn bị đến thủ tục thông qua). Tuy nhiên tại thời điểm hiện nay vấn đề mà nhà đầu tư quan tâm nhất là cải thiện hệ thống luật pháp về đầu tư nước ngoài đảm bảo tính minh bạch, nhất quán, phù hợp với cam kết quốc tế, đa dạng hóa hình thức đầu tư, cải thiện chính sách thuế, giảm bớt phiền hà ,thủ tục hành chính và giảm chi phí đầu vào và tăng hiệu quả doanh nghiệp.
Để tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới các giải pháp trên cần phải thực hiện đồng bộ, liên tục và nhất quán nhưng linh hoạt theo thời gian và không gian cụ thể, ưu tiên các giải pháp trước mắt và từng bước thực hiện các giải pháp lâu dài.
KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng vận động tất yếu của các nền kinh tế hiện nay. Khi quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra nhanh chóng dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Trong xu thế hội nhập, FDI đã, đang và sẽ còn là nguồn vốn đầu tư quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước nhất là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhưng bài viết của em không tránh khỏi nhưng điều thiếu sót nên em rất mong được sự góp ý của thầy.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21914.doc