Đề tài Thu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Sau hơn 20 năm (từ 1979 đến nay) thực hiện chính sách cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, thu hút sự chú ý của cả thế giới. Kim ngạch ngoại thương hai chiều của Trung Quốc đã tăng từ 28 tỷ USD năm 1982 lên 510 tỷ USD năm 2001. Năm 2001, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu đứng thứ bẩy thế giới (266,3 tỷ USD) và là nước nhập khẩu đứng thứ 8 trên thế giới (243,7 tỷ USD). Cho đến nay, tương ứng với các thời kỳ, nền kinh tế Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng. Vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc đã tăng lên rõ rệt. Nhiều nhà kinh tế nhận định rằng, từ nay đến hết thập niên đầu thế kỉ XXI vẫn là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc. Một trong những yếu tố tạo nền sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua là sự thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển và đứng trong tốp đầu trên thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thậm chí đã vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2002 với 52,7 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành động lực của sự phát triển kinh tế Trung Quốc và chính nó là yếu tố then chốt để nước này thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Quan trọng hơn, nó là cơ sở chủ yếu để Trung Quốc thực hiện bước chuyển từ một nước nông nghiệp, khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu là chính sang thành nước sản xuất và xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Nhờ có đầu tư trực tiếp nước ngoài mà đất nước Trung Quốc đã thay da đổi thịt. Nếu như trước khi mở cửa, Trung Quốc được ví như một hành tinh chết, không sinh sôi, không nảy nở, phát triển thì sau 20 năm mở cửa, một đất nước Trung Quốc lớn mạnh đang hình thành, tạo nên một trong những “điều thần kỳ kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ”. Việt Nam tiến hành cải cách mở cửa sau Trung Quốc 8 năm nên việc tham khảo kinh nghiệm trong lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc trong quá trình phát triển kinh tế là cần thiết. Về mặt lý luận, nó giúp ta có thêm dữ liệu để hiểu kỹ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa là điều kiện để đánh giá chuẩn xác hơn sự tác động của loại hình kinh tế này đối với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. Về thực tiễn, Trung Quốc phát triển kinh tế thành công một phần lớn là nhờ đã triệt để tận dụng những ưu thế của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bài học thiết thực được đúc kết là nước nào có năng lực thu hút và biết sử dụng hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thì kết quả đạt được trong quá trình phát triển tương đối thành công. Chúng ta tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc chính là cơ sở để học hỏi những thành công và né tránh những điều chưa hợp lý mà Trung Quốc đã vấp phải. Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải là “chìa khoá vạn năng”, nó cũng có những mặt trái nên trong khoá luận này, tôi xin đề cập cả những bài học thành công cũng như chưa thành công của Trung Quốc. Tham khảo một cách có chọn lọc những bài học kinh nghiệm là yêu cầu cần thiết, bổ ích cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận chia thành 3 chương: Chương I: Thực trạng thu hút FDI tại Trung Quốc. Chương II: Những bài học kinh nghiệm trong thu hút FDI tại Trung Quốc. Chương III: Vận dụng kinh nghiệm trong hoạt động thu hút FDI của trung quốc ở Việt Nam. Do trình độ và thời gian có hạn nên khoá luận này không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Bùi Thị Lý, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong việc hoàn thành khoá luận này.

doc117 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1964 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình kinh tế-xã hội năm 2001”, Báo cáo của Tổng cục Thống kê. Chỉ 14 nước (bằng 21,2% số nước) đã chiếm tới 86,8% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (Singapore: 14,9%; Đài Loan: 12,32%; Hồng Kông: 8,95%; Nhật Bản: 8,73%; Hàn Quốc: 8,07%; Pháp: 6,26%; Quần đảo Virgin: 4,6%; Anh: 4,32%; Nga: 3,85%; Mỹ: 3,5%; Ôxtrâylia: 2,9%; Hà Lan: 2,81%; Malaixia: 2,8%; Thái Lan: 2,73%). Trong tổng số vốn đầu tư của 14 nước này thì có tới 58,52% (24.147,4 triệu USD) là thuộc các nước châu Á, điều này chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam thu hút được các nhà đầu tư châu Á và trình độ, điều kiện, khả năng của các nhà đầu tư châu Á cũng đang phù hợp với điều kiện, yêu cầu phát triển của Việt Nam trong thời gian qua. Cho tới nay, trong số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì sự có mặt của các nhà đầu tư thuộc các tập đoàn kinh tế lớn chưa nhiều (mới có 50/500 tập đoàn kinh tế lớn của thế giới có dự án đầu tư tại Việt Nam). Ba siêu cường kinh tế Mỹ - Nhật - EU hàng năm đầu tư ra nước ngoài một lượng vốn khổng lồ nhưng Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn được các nhà đầu tư này. Đây là đặc điểm rất cần được chú ý trong việc lựa chọn đối tác đầu tư sắp tới nhằm làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước ta đạt hiệu quả hơn. 2.2. Theo địa bàn đầu tư: Với mong muốn thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng nên chính phủ ta đã có những chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào “những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; miền núi, vùng sâu, vùng xa”. Tuy vậy, cho đến nay vốn nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu vào những địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế-xã hội. Tính đến tháng 12 / 2001, nếu như hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã chiếm tới hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư nước ngoài của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%: TP. Hồ Chí Minh với số vốn đăng ký 9.991,3 triệu USD (chiếm 28,3% tổng vốn đăng ký của cả nước) số liệu tương ứng với các địa phương tiếp theo như sau: Hà Nội: 7.763,5 (22%); Đồng Nai: 3.439,0 (9,7%): Bà Rịa-Vũng Tàu: 2.515,9 (7,1%); Bình Dương và Bình Phước: 1.677,9 (4,8%); Hải Phòng: 1.507,7 (4,3%); Quảng Ngãi: 1.333,0 (3,8%); Quảng Nam-Đà Nẵng: 1.013,7 (2,9%); Quảng Ninh: 872,8 (2,5%); Lâm Đồng: 866 (2,4%). Số liệu trên phần nào nói lên rằng vấn đề thu hút FDI theo vùng lãnh thổ để kết hợp với việc khai thác tiềm năng trong nước đạt kết quả chưa cao. Đây cũng là một trong những vấn đề rất cần được chú ý điều chỉnh hoạt động của chúng ta trong thời gian tới đối với lĩnh vực này. 2.3. Theo ngành kinh tế: Nhận xét trên bình diện tổng thế, ta thấy cơ cấu vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian qua đã có sự chuyển biến tích cực, phù hợp hơn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Nếu ở thời kỳ đầu, các dự án đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khách sạn, văn phòng cho thuê... thì thời gian từ 1995, 1996 đến nay, các dự án đã tập trung vào lĩnh vực sản xuất vật chất nhiều hơn. Tính cả thời kỳ 1988 - 2001, các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số dự án lẫn vốn đầu tư, tiếp đến là lĩnh vực khách sạn, du lịch và các dịch vụ, ngành nông lâm-nghiệp có số dự án lớn nhưng vốn đầu tư thấp (chứng tỏ quy mô dự án ở lĩnh vực này tương đối nhỏ). Để dễ hình dung, ta có thể biểu diễn cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế bằng đồ thị sau: Hình 3: Cơ cấu vốn FDI tại Việt Nam theo ngành kinh tế Nguồn: Vụ quản lý dự án - Bộ kế hoạch và đầu tư Số liệu thống kê cho thấy sự phân bố FDI vào các ngành kinh tế còn mất cân đối. Nông nghiệp, một lĩnh vực Việt Nam có nhiều tiềm năng và tập trung tới hơn 80% lao động, còn chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề cần điều chỉnh vì sự thành công trong phát triển nông thôn, nông nghiệp là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ thành công của sự nghiệp CNH - HĐH nước ta. 3.4. Theo các hình thức đầu tư: Nhất là ở thời kỳ đầu, và ngay cả đến hiện nay, liên doanh hiện là hình thức phổ biến nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Hình thức này đang chiếm tới khoảng 40% số dự án và 59% vốn đăng ký (1.035 dự án còn hiệu lực, với khoảng 21,5 tỷ USD vốn đăng ký). Sở dĩ như vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc, và rất phức tạp, trong khi đó nhà đầu tư nước ngoài còn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế, xã hội và pháp luật của Việt Nam. Vì vậy, đa số các nhà đầu tư thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên đối tác Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Gần đây, số dự án FDI vào Việt Nam theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang ngày càng có xu hướng tăng lên cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Nguyên nhân là các nhà đầu tư nước ngoài đã am hiểu hơn về pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, các thủ tục cấp phép của Việt Nam đang được đơn giản hoá, hơn nữa do khi tham gia liên doanh, khả năng của phía Việt Nam thường yếu cả về vốn đóng góp lẫn cán bộ quản lý nên nhu cầu có đối tác Việt Nam trong hoạt động đầu tư ngày càng giảm đi. Nếu thời kỳ đầu, chỉ có gần 10% số dự án và vốn đăng ký hoạt động theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì đến nay con số đó đã lên tới 55,5% số dự án và 29,4% vốn đăng ký (đến hết năm 2000, có 1.459 dự án 100% vốn nước ngoài còn hiệu lực với 10,7 tỷ USD vốn đăng ký). Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đến nay chỉ chiếm 5% số dự án và 10,5% số vốn đầu tư (đến hết năm 2000 có 130 dự án còn hiệu lực với 3,8 tỷ USD vốn đầu tư), chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí và dịch vụ viễn thông, in ấn và phát hành báo chí. Từ năm 1993, Việt Nam bắt đầu áp dụng hình thức “hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao” (BOT), và cho đến nay đã có 6 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép theo hình thức này với số vốn đăng ký hơn 1.300 triệu USD, trong đó có 1 dự án (Cảng quốc tế Vũng Tàu) đã rút giấy phép đầu tư. Hình thức BOT được chính phủ khuyến khích vì nó giúp nâng cấp cơ sở hạ tầng, một lĩnh vực mà Việt Nam còn rất yếu. 3. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư của các dự án FDI tại Việt Nam Đến hết năm 2001, có trên 550 dự án sau một thời gian triển khai sản xuất kinh doanh có hiệu quả đã đề nghị cấp phép tăng vốn, mở rộng sản xuất. Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là 6.756 triệu USD (bằng 16,27% tổng vốn đăng ký và bằng 15,2% số dự án được cấp giấy phép). Tổng số vốn của các dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng là 296 triệu USD (bằng 0,712% tổng số vốn đăng ký). Số vốn thuộc các dự án đã giải thể là 9.284 triệu USD (bằng khoảng 22,3% tổng vốn đăng ký). Như vậy, tính đến hết năm 2001, trên lãnh thổ Việt Nam còn 38.712,8 triệu USD thuộc các dự án FDI còn hiệu lực. Bảng 9: Tiến độ thực hiện vốn FDI của các dự án Đơn vị: triệu USD Năm Vốn thực hiện So với vốn đăng ký mới trong năm (%) Vốn nước ngoài Vốn trong nước 1991 478 37,49 432 46 1992 542 26,74 478 64 1993 1.097 42,37 871 226 1994 2.213 59,08 1.936 277 1995 2.761 41,79 2.363 398 1996 2.837 32,84 2.447 390 1997 3.032 62,53 2.768 264 1998 2.189 56,17 2.062 127 1999 1.933 123,36 1.758 175 2000 2.100 105,69 1.900 200 2001 2.300 94,42 2.100 200 Tổng 21.482 51,72 19.115 2.367 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam 2001 - 2002 Việt Nam và thế giới, trang 50. Đến hết năm 2001, trong tổng số 3.000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang còn hiệu lực hoạt động tại Việt Nam, đã có 1.393 (bằng 46,43% tổng số dự án còn hiệu lực) dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. 783 dự án (32% số dự án còn hiệu lực) đang trong quá trình xây dựng cơ bản. Số dự án còn lại đang trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính hoặc chưa triển khai. Đến hết năm 2001, tổng số vốn thực hiện bằng 51,72% tổng số vốn đăng ký. Cá biệt có những năm (1999 và 2000) số vốn thực hiện của dự án còn lớn hơn cả số vốn đăng ký được phê duyệt trong năm đó. Tuy nhiên, nếu so sánh số vốn thực hiện của từng năm với số vốn đăng ký còn lại (tổng vốn đăng ký từ trước trừ đi số vốn đã thực hiện) thì tỷ lệ vốn thực hiện diễn biến thiếu ổn định. Tỷ lệ này tăng nhanh từ 1988 đến 1997, sau đó giảm dần từ 1998 đến 1999, năm 2000, 2001 đã có biểu hiện của xu hướng tăng lên. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì một số nhà đầu tư khi lập dự án đã tính toán chưa thật sát với thực tế nên khi triển khai dự án họ gặp phải một số vấn đề phát sinh vượt cả khả năng tài chính cũng như các yếu tố điều kiện cho doanh nghiệp vận hành. Một số nhà đầu tư khác, mặc dù đã được cấp phép đầu tư nhưng không đủ khả năng tài chính, không huy động được vốn đúng như dự kiến, buộc phải triển khai thực hiện dự án chậm, có khi mất khả năng thực hiện. 4. Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài 4.1. Bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam Cho tới nay, số vốn đầu tư nước ngoài đã thực hiện đạt trên 20 tỷ USD. Tính riêng thời kỳ 1996 - 2000, vốn đầu tư thực hiện đạt 12,8 tỷ USD, chiếm 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Luồng vốn đầu tư nước ngoài thuần tuý chiếm khoảng 8,6% GDP trong thập kỷ qua. Nguồn vốn này đã góp phần tích cực trong việc hình thành, mở rộng và hiện đại hoá các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: dầu khí, hoá dầu, bưu chính viễn thông, điện tử, ô tô, xe máy, hoá chất, phân bón, dệt may, giầy dép, chế biến nông sản, thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc, khách sạn du lịch. Năng lực tăng thêm của những ngành, lĩnh vực do đầu tư nước ngoài tạo ra đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, thay thế hàng nhập khẩu, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, tạo ra thế và lực mới cho phát triển kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước (lao động, đất đai, tài nguyên) được khai thác và sử dụng tương đối hiệu quả. 4.2. Duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mở rộng nguồn thu ngân sách, đẩy mạnh xuất khẩu Tính riêng thời kỳ 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn 2,5 lần so với tốc độ tăng GDP của nền kinh tế. Khu vực đầu tư nước ngoài có tỷ lệ đóng góp trong GDP tăng dần và đạt khoảng 12,7% năm 2000. Tính đến hết năm 2000, tổng số nộp ngân sách nhà nước của khu vực đầu tư nước ngoài đạt hơn 1,8 tỷ USD. Năm 2001, khu vực này đóng góp cho ngân sách 373 triệu USD, đóng góp 13,3% GDP. Đầu tư nước ngoài cũng có tác dụng tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán thông qua luồng vốn chuyển vào Việt Nam và mở rộng thu ngoại tệ gián tiếp. Bảng 10: Đóng góp của FDI đối với nền kinh tế Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Doanh thu (triệu USD) 2800 3900 4400 5200 7850 8200 Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 920 1790 1982 2590 3320 3600 Đóng góp GDP (%) 7,4 9,1 10 11,8 12,7 13,3 Nộp ngân sách (triệu USD) 263 315 317 271 324 373 Tốc độ tăng trưởng công nghiệp (%) 21,7 23,2 23,3 20 18,6 12,1 Tạo việc làm (1000 người) 220 250 270 296 379 439 Nguồn: Vụ Đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch và đầu tư Kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh và đạt trung bình khoảng 65%/năm trong thời kỳ 1991 - 2000. Tính riêng thời kỳ 1996 - 2000, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này đạt trên 10,6 tỷ USD, chiếm khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hoạt động xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thị trường quốc tế và nâng cao chất lượng của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. 4.3. Tạo công ăn việc làm cho người lao động Hoạt động đầu tư nước ngoài tạo việc làm cho khoảng hơn 430.000 lao động trực tiếp, trong đó có khoảng 6.000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật và hàng chục vạn công nhân lành nghề. Tuy nhiên, theo ước tính của Ngân hàng thế giới (World Bank), còn có khoảng 1 triệu lao động gián tiếp do khu vực này tạo ra như hoạt động thầu phụ, xây dựng. Đồng thời đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng góp phần phát triển nguồn nhân lực, nâng cao kỹ năng và trình độ quản lý của đội ngũ lao động này. 4.4. Tiếp thu công nghệ hiện đại Việt Nam bước vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế với xuất phát điểm rất thấp về mặt công nghệ. Sau khi thực hiện luật đầu tư nước ngoài, nước ta đã nhận được một số kỹ thuật, công nghệ tiến bộ trong nhiều ngành kinh tế như: thông tin viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy. Trong đó, có những ngành công nghệ có chất lượng cao và đạt mức tiên tiến của thế giới như: công nghệ trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông. Mặc dù phần lớn công nghệ chuyển giao vào nước ta là công nghệ trung bình của thế giới nhưng nó đã có tiến bộ rất nhiều so với những công nghệ đã có từ trước đó, và nếu không có FDI thì bản thân các doanh nghiệp trong nước khó có thể đạt được trong một thời gian ngắn như vậy. Đây thực sự là đóng góp quan trọng của FDI, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam. 5. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thu hút FDI ở Việt Nam hiện nay 5.1. Những thuận lợi - Xu thế hoà bình, ổn định hợp tác trong khu vực: Việt Nam có vị trí địa lý hết sức thuận lợi là nằm ngay trong lòng khu vực châu Á -Thái Bình Dương, khu vực phát triển năng động nhất thế giới về thương mại, vận chuyển hàng hoá, viễn thông. Các nhà kinh tế trên thế giới đã dự đoán rằng trong 50 năm nữa thì khu vực này vẫn là khu vực phát triển nhất trên thế giới về kinh tế với sự lớn mạnh của Trung Quốc và Nhật Bản. Với tiêu chí “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, Việt Nam tích cực gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế, ký các hiệp định song phương và đa phương với chính phủ các nước khác: gia nhập ASEAN, tham gia AFTA, ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ... Tất cả những hoạt động này sẽ góp phần tăng tính hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. - Môi trường kinh tế, chính trị ổn định: Ở tầm vĩ mô, môi trường kinh tế của Việt Nam là khá ổn định, đời sống nhân dân các vùng, cả thành thị và nông thôn không ngừng được nâng cao, bình quân mỗi năm tăng 4-5% là mức cao so với khu vực. Đó là điều kiện để không ngừng mở rộng dung lượng thị trường. Nhờ chính sách phát huy mạnh mẽ nội lực, vốn trong nước chiếm tới 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội với tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế năm 2000 đạt 27% GDP, cho phép huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài. Môi trường chính trị ở nước ta khá ổn định, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay, giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài có được sự tin tưởng, an tâm về sự an toàn trong hoạt động đầu tư. - Lực lượng lao động dồi dào: Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào về số lượng, có trình độ tiên tiến. Chỉ số phát triển nguồn nhân lực đạt cao hơn trình độ phát triển kinh tế, thể hiện điểm nổi trội của chất lượng nguồn nhân lực, có khả năng tiếp thu và thích nghi hoá chuyển giao công nghệ để không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Trong điều kiện sản xuất như hiện nay, về cơ bản người lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu và có mặt bằng tiền lương thấp hơn các nước ASEAN khác. - Luật đầu tư tương đối hấp dẫn: Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam lần đầu tiên thực sự đi vào cuộc sống từ năm 1988. Trải qua quá trình thực hiện bổ sung, sửa đổi, luật này đã được hoàn thiện dần, tạo ra được sự lôi cuốn đối với các nhà đầu tư. Đến thời điểm này, nếu so sánh với các nước ASEAN khác thì Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã tương đối hấp dẫn. 5.2. Những khó khăn - Cạnh tranh mạnh mẽ của các nước trong khu vực: Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ gặp phải sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các nước trong khu vực. Trước hết phải kể đến Trung Quốc. Việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ biến Trung Quốc thành địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Theo tính toán, đến năm 2005, mức FDI vào Trung Quốc có thể đạt tới 100 tỷ USD/năm. Điều này đồng nghĩa với việc dòng vốn FDI vào các nước khác trong khu vực sẽ giảm đi đáng kể, ít nhất là 10% (theo ước tính của ban thư ký ASEAN). Vì thế, không chỉ Việt Nam mà cả các nước ASEAN khác cũng đều phải gia tăng những biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của mình và thực hiện chúng một cách có hiệu quả. Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các nước ASEAN khác trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997, các nước khác trong khu vực đã áp dụng nhiều biện pháp để cải thiện môi trường đầu tư của mình. Hàn Quốc đã ban hành luật xúc tiến đầu tư nước ngoài mới (11 / 1998), thực hiện tự do hoá thị trường chứng khoán và thị trường vốn, bãi bỏ hoàn toàn các hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài trong việc sáp nhập và mua lại các công ty của nước này. Thái Lan cũng ban hành Luật kinh doanh của người nước ngoài mới (10 / 1998), sửa đổi luật đất đai và nhà ở theo hướng cho phép nhà đầu tư nước ngoài có đủ điều kiện sở hữu đất ở, tự do hoá lĩnh vực tài chính. Điều này buộc Việt Nam phải cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư của mình. - Chi phí đầu tư ở Việt Nam còn cao: So với các nước trong khu vực, chi phí đầu tư của Việt Nam tương đối cao, đặc biệt là giá điện và dịch vụ thông tin. Ví dụ như giá nước sạch của ta duy trì ở mức 0,21-0,47 USD/ m3, cao hơn hầu hết các nước trong khu vực, giá điện sản xuất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn so với Bangkok, Kuala Lumpur, Jakarta, giá cước vận chuyển container ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn so với Thượng Hải, Singapore, Bangkok, Kuala Lumpur, cước điện thoại quốc tế ở Việt Nam cao hơn từ 2,6 đến 5 lần so với các nước Thái Lan, Malaysia, Inđônêsia, Singapore và Philipine. Giá thuê đất tuy ở mức trung bình so với các nước trong khu vực nhưng nếu tính thêm cả chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng thì tổng chi phí nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ ra để có được quyền sử dụng đất là rất cao. - Hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài còn chưa đầy đủ và đồng bộ: Mặc dù luật đầu tư nước ngoài đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn tình trạng chồng chéo, không nhất quán giữa các văn bản pháp luật. Nhiều Bộ ngành vẫn chưa ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn nghị định 24 / 2000 / NĐ-CP ngày 31 / 7 / 2000 của chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật đầu tư nước ngoài, ví dụ các văn bản hướng dẫn về thuế, quản lý tài chính doanh nghiệp, chế độ kế toán của Bộ tài chính; hướng dẫn chuyển giao công nghệ, nhập máy móc thiết bị qua sử dụng, công nghệ cao, xử lý môi trường của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Chính sách thuế, hải quan còn bất cập, gây cản trở cho sản xuất của các doanh nghiệp, lãng phí thời gian cho doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước (ví dụ Thông tư 40 / 2000 / TT-BTC của Bộ Tài Chính). Quy định hiện hành vẫn chưa rõ ràng về thời gian giải phóng mặt bằng, chi phí ai chịu, vấn đề cưỡng chế di dời... gây lãng phí rất nhiều công sức, thời gian của các nhà đầu tư trong việc triển khai dự án. Các văn bản quy định về sở hữu trí tuệ vẫn còn chung chung và chưa được thực hiện có hiệu quả, khiến cho tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là nạn buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái rất phổ biến, gây nhiều thiệt hại cho các chủ đầu tư nước ngoài. Quy định đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cũng là trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài vì lợi nhuận của họ bị đánh thuế hai lần (thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế chuyển lợi nhuận). - Khả năng đáp ứng ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài chưa cao: Cân đối ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài đang là một vấn đề nổi lên vì nhiều dự án triển khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu đã đến thời kỳ phải trả vốn vay, trong khi khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các ngân hàng thương mại rất hạn chế, nhất là vào thời điểm cuối chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. - Thủ tục hành chính còn rườm rà: Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá thủ tục hành chính của Việt Nam còn nhiều phức tạp, gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Hoạt động quản lý chồng chéo, nhiều tầng lớp. Cán bộ quản lý lại thiếu thông hiểu về pháp luật, thiếu kinh nghiệm chuyên môn trong việc xử lý các tình huống phát sinh và nhìn chung, các nhà quản lý của Việt Nam vẫn mang tác phong nông nghiệp. - Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao: Mặc dù chi phí tiền lương cho lao động Việt Nam tương đối thấp, nó chỉ đúng trong điều kiện so sánh với các nước ASEAN trong giai đoạn hiện nay. Về lâu dài, khi trình độ sản xuất phát triển, nếu lao động Việt Nam không được đào tạo kịp thời thì lợi thế đó cũng sẽ mất đi trong so sánh với các nước ASEAN khác. Nếu so sánh với các nền kinh tế phát triển thì các nước ASEAN vẫn đang giữ được lợi thế là thị trường lao động rẻ. Trong so sánh này thì các nước ASEAN đang gặp phải đối thủ cạnh tranh có tiềm lực, đó là thị trường Trung Quốc. - Cơ sở hạ tầng kém phát triển, vốn đồng bộ trong nước còn thấp: Để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả FDI, nước nhận đầu tư cần phải có một số điều kiện tối cần thiết như: vốn đối ứng trong nước phải gấp 2-3 lần vốn đầu tư nước ngoài, có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, có năng lực nội tại đủ tiếp nhận các công nghệ phù hợp của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài như trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất... Từ nền sản xuất nhỏ vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong việc tạo lập các điều kiện này. Đây là thử thách lớn của Việt Nam so với các nước ASEAN khác trong cuộc cạnh tranh thu hút vốn FDI. III. VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TRONG HOẠT ĐỘNG THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC Ở VIỆT NAM Trên cơ sở phân tích những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như khả năng hiện tại của Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, ta có thể vận dụng một số kinh nghiệm sau cho hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam. 1. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, Nhà nước có vai trò quan trọng trong hoạch định chiến lược tổng thể phát triển đất nước, xác định mục tiêu từng thời kỳ trên cơ sở đó bố trí cơ cấu vốn đầu tư một cách hợp lý, thu hút đầu tư vào những ngành, vùng theo mục tiêu định hướng tránh tình trạng tự phát. Thiếu sự quản lý của nhà nước có thể dẫn đến tình trạng cấp giấy phép đầu tư ồ ạt vào một số ngành, một số vùng, như ngành dệt, đồ chơi ở khu vực ven biển Trung Quốc. Ở Việt Nam, thời gian qua cũng có tình trạng đã cấp giấy phép đầu tư ồ ạt vào một số lĩnh vực và sản xuất tạm thời vượt quá nhu cầu hiện tại như: các dự án khách sạn, văn phòng cho thuê, thức ăn gia súc, nước giải khát có ga, sản phẩm điện tử gia dụng, lắp ráp ô tô, xe máy. Điều này đã gây ra sức ép với sản xuất trong nước và sự giải thể của một số dự án đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân là chúng ta chưa xác định được chính thức quy hoạch đối với một số ngành chủ chốt, trong khi đó một số ngành tỏ ra có sức hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư thì gần như đã đến giai đoạn bão hoà về nhu cầu đầu tư. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước theo quy định của nhà nước, theo quy định của pháp luật, tránh tình trạng không kiểm soát được như hiện nay, đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia như phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng trong bộ máy hành chính, tinh giảm theo hướng gọn nhẹ, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy này nhằm ngăn chặn tham nhũng, quan liêu, gây phiền hà cho các nhà đầu tư. 2. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, lành mạnh hoá môi trường kinh tế vĩ mô Khi nhà đầu tư bỏ vốn ra kinh doanh thì ổn định kinh tế và chính trị là vấn đề quan tâm hàng đầu, đặc biệt là với những nền kinh tế mới chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc. Chính trị có ổn định thì đời sống kinh tế xã hội trong nước mới có điều kiện phát triển. Trong những năm vừa qua, nước ta dưới sự lãnh đạo thống nhất và xuyên suốt của một Đảng vẫn được dư luận thế giới đánh giá cao về sự ổn định của môi trường chính trị. Trong điều kiện thế giới gần đây có nhiều biến động, cuộc chiến của Mỹ với những nước chứa chấp khủng bố vẫn chưa đến hồi kết thì sự ổn định chính trị của nước ta là một lợi thế so sánh cần được tăng cường. Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế theo hướng tích cực cũng là tiền đề cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI. Môi trường kinh tế vĩ mô tốt cho đầu tư bao hàm sự lành mạnh về giá cả hàng hoá nguyên vật liệu, về giá trị đồng tiền và tỉ giá hối đoái, về hoạt động của hệ thống ngân hàng, thị trường vốn, cơ chế tổ chức quản lý nền kinh tế. Một trong những nội dung chính của tạo lập và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là ổn định tiền tệ. Việc sử dụng hệ thống công cụ này ở nước ta cho đến nay vẫn còn nhiều điểm phải sửa đổi bổ sung và hoàn chỉnh. Muốn vậy, chúng ta cần phải xác định quan điểm rõ ràng về hiểm hoạ lạm phát và biện pháp kiềm chế nó. Bên cạnh đó, cũng cần khắc phục những khó khăn trong việc phát triển nền kinh tế như: chênh lệch thu nhập, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề còn chậm chạp, sự nghèo nàn, xuống cấp của tài nguyên…để phát triển kinh tế thị trường và thiết lập một hệ thống thị trường đồng bộ. Muốn vậy, phải kiên trì đổi mới, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá và sự vận động của thị trường chứng khoán. Một nền kinh tế thị trường thực sự phát triển, có hệ thống thị trường đồng bộ, một môi trường chính trị ổn định sẽ là một nhân tố tích cực đối với việc tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn tại Việt Nam, góp phần thu hút nhiều hơn vốn FDI từ các nước phát triển. 3. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư 3.1. Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư “mềm” Sức hút của mỗi quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết thể hiện ở hệ thống luật pháp có liên quan đến đầu tư của nước đó. Các nhà đầu tư khi đầu tư vào một nước sẽ quan tâm tới các vấn đề: tỉ lệ góp vốn ra sao, vấn đề thuê đất, tuyển dụng lao động, xuất nhập khẩu sản phẩm, máy móc, thuế... Tất cả những điều này đều được quy định cụ thể bằng các văn bản luật và dưới luật. Do vậy, nếu không có những văn bản hướng dẫn rõ ràng thì nhà đầu tư sẽ không biết được ý định của nước chủ nhà như thế nào cũng như mình nên tiến hành đầu tư ra sao. Vậy để có một môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ, rõ ràng, cần tiến hành nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư theo hướng: - Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh, đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ. - Đa dạng hoá các hình thức FDI để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới, nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn, cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước; nghiên cứu mô hình kinh tế mở. - Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở cửa hơn nữa thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư ở Việt Nam; xây dựng cơ chế để doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được xây dựng, kinh doanh nhà ở và xây dựng; xây dựng kinh doanh phát triển khu đô thị mới, khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ khoa học, công nghệ dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, từng bước mở rộng khả năng hợp tác đầu tư trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch. - Tiếp tục thí điểm chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, tạo điều kiện cho doanh nghiệp này tham gia thị trường chứng khoán. Nghiên cứu sửa đổi các quy định về thời hạn đàm phán dự án BOT và quy tắc, thẩm quyền chỉ định nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài làm dự án BOT trong một số trường hợp cần thiết. - Cụ thể hoá các quy định về việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước, thu hẹp danh mục hàng hoá không thuộc đối tượng doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài mua để mở rộng thị trường xuất khẩu. - Thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích đầu tư: Tiếp tục cải tạo hệ thống thuế cho phù hợp tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hoá các sẵc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm, cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu phụ trợ phục vụ hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Bảo hộ có thời hạn hợp lý và hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng. 3.2. Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư “cứng” Cơ sở hạ tầng là một nhân tố hết sức quan trọng khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn của mình ra, bởi nó có liên quan trực tiếp đến hiệu quả thực hiện dự án. Thành công của Trung Quốc đã cho chúng ta thấy điều này. Bởi vậy, việc cần thiết hiện nay là xây dựng một quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng cụ thể và hợp lý để có thể tận dụng các khoản vay ưu đãi từ các nhà tài trợ. Đồng thời, chính phủ cũng cần bố trí cơ cấu ngân sách hợp lý, dành nhiều hơn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này thông qua các hình thức BOT, BT, BTO, và đặc biệt dành nhiều ưu đãi về giá cả như dịch vụ điện nước, thông tin liên lạc và chi phí giải phóng mặt bằng nhiều hơn các lĩnh vực đầu tư khác. 4. Đa dạng hoá các đối tác đầu tư Nhà nước Việt Nam đã có quan điểm chuyển sang thu hút FDI từ EU và Mỹ. Đây là quyết định đúng đắn vì trong bối cảnh cuộc khủng hoảng khu vực vừa qua, quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với các nước trong khu vực đã giảm đáng kể, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng chính sách thu hút đầu tư của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Vì vậy, trước tiên cần khuyến khích TNCs đầu tư vào các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Đây là những thế mạnh của các TNCs, đặc biệt những TNCs lớn của các nước công nghiệp phát triển. Bằng cách này, Việt Nam không chỉ thu hút được nhiều vốn đầu tư mà còn nhận được công nghệ chuyển giao trực tiếp từ công nghệ nguồn và tiếp cận nhanh chóng vào mạng lưới Marketing toàn cầu của các họ. Trong khi đó, các đối tác có tiềm năng đầu tư hạn chế thường chuyển giao công nghệ lạc hậu qua các chi nhánh TNCs, theo mô hình “Đàn nhạn bay” hoặc công nghệ trình độ thấp. Vì vậy cần có nhiều tổ chức tư vấn chất lượng cao, có những toà án giải quyết tranh chấp có uy tín, hiểu biết sâu sắc về pháp luật Việt Nam và thế giới. 5. Xây dựng định hướng và quy hoạch tổng thể về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Mặc dù nhu cầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của chúng ta hiện nay là rất lớn, nhưng không phải vì thế mà chúng ta chấp nhận nó bằng mọi giá. Đến nay, chúng ta chưa xác định được chính thức quy hoạch phát triển với một số ngành chủ chốt, trong khi đó một số ngành tỏ ra có sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư thì nay đã đến giai đoạn bão hoà về nhu cầu đầu tư. Đây là một trong những lý do của tình trạng chững lại và giảm thiểu của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian gần đây. Để cải thiện nhanh chóng tình hình này, bên cạnh việc hoàn thiện và tăng tính hấp dẫn của các văn bản pháp quy thì việc sớm công bố quy hoạch cũng trở nên rất cấp bách. Quy hoạch này, cố gắng đảm bảo độ chuẩn xác cao với tình hình và yêu cầu của thực tế. Bản quy hoạch phải trở thành bức tranh tổng thể về nhu cầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. Một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc lựa chọn dự án đầu tư. Mặt khác, công khai làm căn cứ cho các ngành, các địa phương tính toán, chủ động trong kêu gọi vốn đầu tư một cách hợp lý, có hiệu quả, giải toả được những bất hợp lý trong cơ cấu đầu tư nước ngoài theo ngành kinh tế, kỹ thuật và vùng lãnh thổ như vừa qua. 6. Nâng cao trình độ phát triển nguồn nhân lực Đây là vấn đề có tính chất quyết định đến trình độ sản xuất và đến việc nhà đầu tư nước ngoài có quyết định đầu tư công nghệ cao vào Việt Nam hay không. Muốn thu hút được công nghệ cao thì trong nước phải có đội ngũ cán bộ, công nhân có đủ điều kiện để vận hành nó. Bên cạnh việc chú trọng đào tạo trong nước, Trung Quốc còn có chính sách thích hợp để thu hút nhân tài về Tổ quốc. Vào cuối thập kỷ 70, Trung Quốc bắt đầu cho phép sinh viên du học nước ngoài với mong muốn họ sẽ trở về hỗ trợ công cuộc hiện đại hoá đất nước. Hơn 320.000 sinh viên đã được đưa ra nước ngoài trong đó có gần một nửa được đưa sang Mỹ, nhưmg đến giữa thập kỷ 80, chỉ có khoảng 1/3 số họ trở về sau tốt nghiệp. Trước tình hình đó, Trung Quốc đã có nhiều biện pháp tích cực để khuyến khích lưu học sinh trở về như: thành lập trung tâm dịch vụ sinh viên hồi hương năm 1991, cử hàng loạt quan chức sang Mỹ gặp gỡ và phổ biến những chính sách ưu đãi của chính phủ cho sinh viên hải ngoại. Nhờ những nỗ lực đó, trong 4 năm qua, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp về nước đã tăng bình quân 13% mỗi năm. Hầu hết các thành phố cuả miền Nam đến Đại Liên của miền Bắc đều cố gắng tạo ra môi trường làm việc tốt nhất cho người lao động có tay nghề cao. Các khu công nghệ cao đã được xây dựng trong toàn quốc và đối tượng ưu tiên là những lưu học sinh và các nhà khoa học nước ngoài. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chưa cao nên việc học tập các kinh nghiệm trên của Trung Quốc là rất cần thiết để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. 7. Nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao có vai trò rất quan trọng trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay, Nhà nước ta đã phê duyệt cho thành lập trên 70 KCX, KCN. Như vậy, so với tiềm lực đầu tư, và dự báo phát triển các doanh nghiệp đầu tư xây dựng trong KCX, KCN, khu công nghệ cao thì số lượng các KCX, KCN hiện có của ta đang đạt mức cao. Để nâng cao hiệu quả theo đúng những ưu thế vốn có của KCN, KCX, khu công nghệ cao, góp phần tạo ra sự hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài cũng như đầu tư trong nước, trước mắt chúng ta cần có sự tập trung hơn cho việc hoàn thành xây dựng cơ bản các KCN, KCX đã phê duyệt để sớm đưa hệ số sử dụng cao hơn. Tuy nhiên, sự phát triển của hình thức này cũng cần phải tuân theo quy hoạch tổng thể, phù hợp với yêu cầu phát triển và điều kiện thực tế của Việt Nam, quan tâm đến chất lượng hơn số lượng vốn đầu tư. Chúng ta cần thận trọng trong việc phê duyệt thành lập KCX, KCN, khu công nghệ cao mới. Sắp tới, nên hình thành một cách cân đối các KCX, KCN với quy mô khác nhau, nhất là các cụm KCN, KCX quy mô vừa và nhỏ phục vụ nông nghiệp, nông thôn. 8. Tăng cường hội nhập, tham gia vào các tổ chức khu vực và thế giới Trong xu thế hội nhập và hợp tác mạnh mẽ như hiện nay, một quốc gia không thể phát triển đơn lẻ một mình mà phải gắn mình vào một khối thống nhất trong khu vực và thế giới. Trung Quốc và Việt Nam đều nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, khu vực tăng trưởng năng động nhất thế giới. Trung Quốc hiện nay đang trở thành một hiện tượng của thế giới, có quan hệ hợp tác với hơn 200 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới và gần đây đã gia nhập WTO. Việc Trung Quốc tham gia vào chiếu chợ lớn nhất thế giới sẽ phần nào gợi ý cho Việt Nam điều chỉnh hướng đi thích hợp, chuẩn bị cho việc gia nhập vào WTO. Do hạn chế về trình độ, Việt Nam cần nỗ lực để điều chỉnh nền kinh tế của mình cho phù hợp, nâng cao năng lực nội sinh của đất nước, phát triển năng lực hấp thụ, chuyển hoá hiệu quản các nguồn vốn nước ngoài trong đó có đầu tư nước ngoài thành hợp lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước theo hướng CNH - HĐH. 9. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động để tạo dựng chính xác hình ảnh một đất nước Việt Nam thực sự muốn mở rộng quan hệ với bên ngoài. Về nội dung, hoạt động xúc tiến đầu tư cần tập trung vào việc cải thiện, tuyên truyền tốt hơn môi trường và cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Từng ngành, từng địa phương cùng với việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng cần xây dựng các dự án cụ thể và có biện pháp bố trí các đối tác, cán bộ giải pháp tài chính. Mặt khác cần nghiên cứu thành lập các tổ chức tư vấn đầu tư chuyên ngành ở một số địa phương để cung cấp các dịch vụ triển khai dự án khi được cấp giấy phép đầu tư như dịch vụ về đất đai, dịch vụ quản lý xây dựng...tạo thuận lợi cho các chủ đầu tư 100% vốn. KẾT LUẬN Mặc dù còn có một số hạn chế, những thành công của Trung Quốc trong thu hút FDI là không thể phủ nhận. Cho đến nay, một số mục tiêu lớn mà Chính phủ Trung Quốc đặt ra khi thực hiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài về cơ bản đều đạt được. Trong điều kiện thiếu các nguồn vốn trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Trung Quốc “đảm bảo sự phát triển đi lên bền vững của nền kinh tế quốc dân; thúc đẩy cải cách kinh tế và chuyển sang hoạt động của cơ chế thị trường; đóng vai trò quan trọng trong hiện đại hoá nền kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới”. Một số yếu tố cơ bản, đảm bảo sự thành công trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc có thể tóm tắt lại là: - Thứ nhất, đó là chiến lược mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế theo vùng lãnh thổ tuân theo quy hoạch ưu tiên. Về mặt này, Trung Quốc đã rất thành công và cũng không để xẩy ra tình trạng tập trung các dự án đến mức thái quá như trường hợp của Thái Lan. - Thứ hai, thực hiện đa dạng hoá các nguồn huy động vốn, kết hợp có hiệu quả việc sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với các nguồn vốn tín dụng trong và ngoài nước. Tìm kiếm các nguồn tín dụng từ bên ngoài với các điều kiện vay có lợi nhất và sử dụng một phần đáng kể vốn vay này vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. - Thứ ba, có chính sách thỏa đáng để mở rộng việc thu hút người Hoa và Hoa kiều đầu tư về nước. Mở rộng địa bàn hoạt động, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, sử dụng các chính sách ưu đãi phù hợp với yêu cầu phát triển của từng thời kỳ, đa dạng hoá các hình thức đầu tư. Qua việc nghiên cứu những chính sách thu hút FDI của Trung Quốc, chúng ta có thể thấy rằng thành công hay thất bại của việc thu hút FDI phụ thuộc rất lớn vào vai trò quản lý của Nhà nước. Quản lý và thu hút không được tách rời nhau mà phải bổ sung cho nhau thì mới triệt để tận dụng được những mặt tích cực của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và giảm thiểu những tác hại của nó. Bên cạnh đó, kinh nghiệm của Trung Quốc chỉ ra rằng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tự bản thân nó không thể đạt được hiệu quả mong muốn của nhà đầu tư nếu không có các điều kiện thích ứng của nước nhận đầu tư. Và lượng vốn này chảy vào nhiều hay ít cũng không phụ thuộc ý muốn của nước chủ nhà. Về hình thức, ta có cảm giác như nước tiếp nhận đầu tư hầu như ở thế thụ động trước các dòng chẩy của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng bản chất của vấn đề lại không phải vậy, nước nhận đầu tư chính là người chủ động trong việc kêu gọi, hấp dẫn đầu tư. Khi một nước có nhu cầu tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài nếu có các điều kiện, các tiền đề cần thiết đảm bảo cho việc thực hiện các dự án đầu tư đạt hiệu quả cao thì đó sẽ là địa bàn có sức hút mạnh, có khi làm đổi hướng cả dòng chảy đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhận thức đầy đủ đặc điểm này rất cần thiết đối với việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu bằng tiếng Việt: Trung Quốc 20 năm cải cách mở cửa, cải cách chế độ sở hữu, Tề Quế Trân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. Trung Quốc nhìn lại một chặng đường phát triển, Jun Ma, NXB trẻ TP Hồ Chí Minh, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Trung tâm kinh tế Châu Á -Thái Bình Dương 2002. Phép lạ Trung Quốc - Chiến lược phát triển và cải cách kinh tế, Justin Yifu Lin - Fang Cai - Zhou Li, NXB TP Hồ Chí Minh, Trung tâm kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, Thời Báo kinh tế Sài Gòn 1998. Về cải cách mở cửa Trung Quốc, Lý Thiết Ánh, NXB KHXH Hà Nội 2002. Trung Quốc 2020, Ngân hàng thế giới, NXB KHXH Hà Nội 2001. Niên giám thống kê Trung Quốc 2001, 2002. Việc thành lập các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc, Nguyễn Minh Hằng, tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 5 / 1996. Tạp chí “Nghiên cứu Trung Quốc” các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002. Bản tin Trung Quốc các số năm 2000, 2001, 2002. Giáo trình “Đầu tư nước ngoài”- Chủ biên: PTS. Vũ Chí Lộc, và bài giảng môn học -Trường đại học Ngoại thương. Giáo trình “Kinh tế đầu tư” (Chủ biên: PGS.PTS. Nguyễn Ngọc Mai), trường ĐH KTQD. Sách “Đầu tư nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, PTS. Vũ Trường Sơn, NXB Thống kê. Những nội dung kinh tế tài chính của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, PTS. Phạm Đào Duyên, NXB Tài Chính tháng 9 / 1999. Thực trạng và những vấn đề vận dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, Vũ Tuấn Anh, Tư liệu Viện Kinh tế học, Hà Nội 1997. Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam, Lê Văn Châu, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. Công nghiệp hoá và Chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và khu vực, nguyên nhân và tác động, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999. Cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1994. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996. Các báo: Đầu tư, Thời báo kinh tế Việt Nam, Lao Động (2001 - 2002). Các báo cáo về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam năm 1999, 2000, 2001, 2002 của Vụ Quản lý dự án và Vụ đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 23. “Tình hình kinh tế xã hội năm 2001”, Báo cáo của Tổng cục thống kê. II. Tài liệu bằng tiếng Anh: Growth triangles: Conceptual and operational considerations. Growth triangles in Asia, Tang and Thant, Oxford University Press 1994. Economic Globalization, Crisis and Emergence of Chinese Communities in South East Asia, Wai Cheng Yeung, Henry (2000) London. Ethnic Chinese Network and international investment evidence from inward FDI in China, Ting, Gao (2000), Department of Economics, University of Missouri. FDI in China: an Asian perspective - Yasheng, Huang (1998) - Singapore. Investment Guide in Zhuhai, China Zhuhai Administration and service centre of Foreign investment, 1997. Multinational and Expatriate FDI: A comparative analysis of the China and Indian experience, Guha, Ashok & Ray, Amit S. (2000), New Delhi. Taiwan Statistical Data Book 2001. China Statistical Yearbook 2001, 2002. UNCTAD World Investment Report 2001, 2002. Econosystem 23/2/2001. Taipei Times 12/1/1999. China Daily 23/3/2002. Data released by US Bureau of Economic Analysis, US Dept of Commerce. PHỤ LỤC 1 Bảng 1: Luồng FDI hàng năm của một số nước và khu vực Đơn vị: triệu USD Luồng FDI 1997 1998 1999 2000 2001 1.TRUNG QUỐC FDI vào 44.237 43.751 40.319 40.772 46.846 FDI ra 2.563 2.634 1.775 916 1.775 2. SINGAPORE FDI vào 10.746 6.389 11.803 5.407 8.609 FDI ra 9.465 795 4.277 4.966 10.216 3. HOA KỲ FDI vào 103.398 174.434 283.376 300.912 124.435 FDI ra 95.769 131.004 174.516 164.969 113.917 4. ĐÔNG, NAM VÀ ĐÔNG NAM Á FDI vào 96.338 86.252 99.990 131.123 94.365 FDI ra 49.671 30.278 36.023 79.657 30.593 5. CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN FDI vào 191.022 187.611 225.140 237.894 204.801 FDI ra 74.797 50.256 73.636 104.207 36.571 6. THẾ GIỚI FDI vào 478.082 694.457 1.088.263 1.491.934 735.146 FDI ra 474.010 684.039 1.042.051 1.379.493 620.713 Nguồn: UNCTAD World Investment Report 2002. Bảng 2: Tỷ trọng FDI trong tổng đầu tư tài sản cố định Đơn vị: phần trăm (%) Luồng FDI Bình quân 1985-1995 1997 1998 1999 2000 1.TRUNG QUỐC FDI vào 6,4 14,6 12,9 11,3 10,5 FDI ra 1,6 0,8 0,8 0,5 0,2 2. SINGAPORE FDI vào 31,1 29,4 20,8 42,4 19,8 FDI ra 8,2 25,9 2,6 15,4 18,2 3. HOA KỲ FDI vào 5,2 7,8 11,9 18 17,5 FDI ra 4,7 7,2 8,9 11,1 9,6 4. ĐÔNG, NAM VÀ ĐÔNG NAM Á FDI vào 5,3 10,0 10,5 11,5 14 FDI ra 2,9 5,4 3,9 4,4 9,0 5. CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN FDI vào 4,4 11,1 11,4 13,4 13,4 FDI ra 2,0 4,0 3,1 3,5 5,8 6. THẾ GIỚI FDI vào 3,9 7,4 11 16,5 22 FDI ra 4,5 7,4 11 15,9 20,6 Nguồn: UNCTAD World Invesment Report 2002. PHỤ LỤC 2 Bảng 1: Tổng ngạch FDI từng thời kỳ Đơn vị: triệu USD Nước / Khu vực 1985 1990 1995 2000 2001 1.TRUNG QUỐC FDI vào 10.499 24.762 137.435 348.346 395.192 FDI ra 131 2.489 15.802 25.804 27.579 2. SINGAPORE FDI vào 13.016 28.565 59.582 95.714 104.323 FDI ra 4.387 7.808 35.050 53.009 63.225 3. HOA KỲ FDI vào 184.615 394.911 535.553 1.214.254 1.321.063 FDI ra 238.369 430.521 699.015 1.293.431 1.381.674 4. ĐÔNG, NAM VÀ ĐÔNG NAM Á FDI vào 199.000 284.090 522.011 1.168.470 1.243.405 FDI ra 9.519 41.259 179.462 571.956 590.213 5. CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN FDI vào 344.463 484.954 849.915 2.002.273 2.181.249 FDI ra 35.469 90.404 270.925 751.632 776.065 6. THẾ GIỚI FDI vào 913.182 1.871.594 2.911.725 6.258.263 6.845.723 FDI ra 691.745 1.721.462 2.854.853 6.086.428 6.552.011 Nguồn: UNCTAD World Investment Report 2002. Bảng 2: Tỷ trọng FDI so với GDP Đơn vị : phần trăm (%) Nước/Khu vực 1980 1985 1990 1995 2000 1.TRUNG QUỐC FDI vào 3,1 3,4 7,0 19,6 32,3 FDI ra --- --- 0,7 2,3 2,4 2. SINGAPORE FDI vào 52,9 73,6 77,9 71,5 103,8 FDI ra 31,7 24,8 21,3 42,0 57,5 3. HOA KỲ FDI vào 3,0 4,4 6,9 7,3 12,4 FDI ra 7,8 5,7 7,5 9,5 13,2 4. ĐÔNG, NAM VÀ ĐÔNG NAM Á FDI vào 21,1 19,5 17,4 18,9 36,4 FDI ra 1,1 1,6 2,6 6,7 18,2 5. CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN FDI vào 10,2 13,9 13,0 15,3 30,9 FDI ra 1,3 1,7 2,8 5,1 11,9 6. THẾ GIỚI FDI vào 6,1 7,8 8,9 10,0 20,0 FDI ra 5,4 6,2 8,4 9,9 19,6 Nguồn: UNCTAD World Investment Report 2002. PHỤ LỤC 3  TỔNG HỢP ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở TRUNG QUỐC (1979 - 2001) Năm Số hạng mục Kim ngạch theo hiệp định (tỷ USD) Kim ngạch thực tế (tỷ USD) 1979-1982 922 6,009 1,167 1983 470 1,732 0,636 1984 1.856 2,651 1,258 1985 3.073 5,932 1,659 1986 1.498 2,834 1,874 1987 2.233 3,709 2,314 1988 4.945 5,298 3,193 1989 5.779 5,600 3,392 1990 7.273 6,596 3,487 1991 12.978 11,977 4,367 1992 48.764 58,120 11,010 1993 83.437 111,440 27,520 1994 47.490 81,410 33,790 1995 37.826 90,900 37,7 1996 24.529 73,210 42,35 1997 21.028 52,582 45,26 1998 20.611 52,520 48,0 1999 17.100 44,200 40,4 2000 22.347 62,660 40,7 2001 26.140 69,195 46,877 2002 34,171 82.768 52.743 Nguồn: Tổng hợp từ China Statistical Yearbook 1979 - 2002 PHỤ LỤC 4 FDI CỦA ĐÀI LOAN VÀO TRUNG QUỐC THEO NGÀNH KINH TẾ Đơn vị : triệu USD Ngành kinh tế 2000 1999 1998 Vốn FDI % Vốn FDI % Vốn FDI % Đồ điện và điện tử 1.465 56 538 43 759 31 Chế biến thực phẩm 43 1,6 58 4,6 70 3,4 Luyện kim 184 7,1 104 8,3 127 6,2 Chất dẻo 185 7,1 99 7,9 64 3,1 Dệt may 57 2,2 41 3,3 141 7 Phi kim 84 3,2 34 2,7 88 4,3 Hoá chất 111 4,3 143 11,4 147 7,2 Cơ khí chính xác 85 3,3 28 2,2 75 3,7 Thiết bị GTVT 53 2 32 2,6 84 4,1 Lĩnh vực khác 340 13 176 14 480 13,8 Tổng 2.607 100 1.253 100 2.035 100 Nguồn: Taiwan Statistical Data Book 2001. (Chú thích: số liệu trên bao gồm cả vốn FDI của Đài Loan đăng ký vào Trung Quốc đại lục thông qua nước trung gian). PHỤ LỤC 5 Bảng 1: FDI của Mỹ vào các nước Châu Á Đơn vị : tỷ USD Nước / Khu vực 1995 1996 1997 1998 1999 2000 1995-2000 Châu Á - Thái Bình Dương 14,3 15,4 13,7 14,7 21,0 21,0 100,1 Trung Quốc 0,3 0,9 1,3 1,5 1,6 1,2 6,8 Hồng Kông 0,6 1,7 3,8 1,9 2,6 3,1 13,7 Indonesia 0,5 1,0 -- 0,5 2,2 1,2 5,4 Nhật Bản 2,3 0,3 0,3 6,4 5,2 8,1 21,4 Cộng hoà Triều Tiên 1,1 0,8 0,7 0,6 1,2 1,2 5,6 Malaysia 1,0 1,3 0,7 0,5 -- 0,3 2,8 Philippines 0,3 0,7 0,1 0,3 0,3 -- 1,1 Singapore 0,9 2,8 3,7 0,3 3,0 2,7 13,4 Đài Loan 0,4 0,3 0,7 0,6 0,6 1,1 3,2 Thái Lan 0,7 0,8 -- 0,4 1,1 0,5 3,5 Nguồn: BEA, U.S. Dept. of Commerce Bảng 2: FDI của Mỹ tại Trung Quốc theo ngành kinh tế năm 2000 Ngành Vốn FDI (tỷ USD) Tỷ trọng % tăng 2000/1994 Dầu khí 1,846 19,3% 106% Chế biến thực phẩm 0,181 1,8% 38% Hoá chất 0,245 2,6% 11% Luyện kim 0,183 1,9% 76% Chế tạo máy 0,931 9,7% - Sản xuất thiết bị điện tử 3,208 33,5% 1787% Sản xuất thiết bị GTVT 0,147 1,5% - Các lĩnh vực sản xuất khác 0,768 8% 252% Bán sỉ 0,362 3,8% 168% Tài chính-Ngân hàng- DV 1,113 11,6% 179% Các lĩnh vực khác 0,594 6,2% 357% Tổng cộng 9,577 100% 275% Nguồn: United States Bureau of Economic Analysis data compiled by USCC staff. PHỤ LỤC 6 MỘT SỐ SẢN PHẨM CHỦ ĐẠO CỦA CÁC TNCs TẠI TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 2001-2006 Đơn vị: triệu USD Tên hãng Sản phẩm năm 2000 Sản phẩm sắp tới Vốn đầu tư GM Buick Century Buick Sail 1.700 DCX Cherokee Grand Cherokee 260 Ford Transit Ikon 300 Toyota Charade Platz 400 Honda Accord Civic 350 VW Santana / Jetta Polo / Bora 1.500 Nguồn: China Daily 28/3/2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan