Đề tài Thu hút nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam

Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến việc thu hỳt nguồn vốn đầu tư cho GDĐH, một số giải phỏp đặt ra. Nhà nước phải cú những chớnh sỏch nhằm khuyến khớch được nguồn vốn đầu tư cho GDĐH, đó là tạo mụi trường phỏp lý trong sạch, mụi trường chớnh trị xó hội ổn định, mụi trường GDĐH tốt, việc phõn bổ và sử dụng nguồn vốn đầu tư phải hợp lý và cụng khai Để thực hiện được ý tưởng về một nền đại học cho số đông, cần thiết phải khơi dậy mọi tiềm năng của quần chúng để phát triển giáo dục. Với một nước cũn nghốo như nước ta, giáo dục không thể chỉ dựa vào bao cấp của nhà nước như một vài nước giàu đó làm. Bờn cạnh ngõn sỏch của Nhà nước chi cho giáo dục, chúng ta cần huy động các thành phần tư nhân, các doanh nghiệp và toàn dân cùng đầu tư phát triển giáo dục. Tiềm lực cho phỏt triển GDĐH của nước ta là rất lớn, đặc biệt là do truyền thống hiếu học của dân ta, do ý thức xem việc đầu tư cho học hành như một sự đầu tư quan trọng bậc nhất cho tương lai của con em mỡnh. Do vậy, một mặt trường đại học cần tiếp tục có những chính sách ưu đói đối với những đối tượng thuộc diện chính sách, những học sinh nghèo học giỏi, mặt khác cần thực hiện chính sách thu đủ, chi đủ cho giáo dục. Thật vụ lý, khi những người dư thừa điều kiện kinh tế lại chỉ có đóng góp mang tính tượng trưng cho những chi phí về giáo dục cho con em họ, cũn thiếu đâu Nhà nước phải bù!

doc36 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
viên vừa là người khách, cũng vừa là người chủ của mỗi trường. Để một trường đại học có thể tồn tại và phát triển, ngoài lực lượng giảng viên, đội ngũ quản lý thì lực lượng sinh viên cũng có vai trò vô cùng quan trọng. Họ là khách hàng của mỗi trường. Sinh viên cần phải được học tập, nghiên cứu, phải được đảm bảo nhu cầu vật chất và sinh hoạt tốt. Vì vậy, nhà trường cũng phải quan tâm đến vấn đề này.Chúng ta phải có chính sách thu hút sinh viên cũng như đầu tư vào họ để họ có thể cảm thấy thoả mãn với sự lựa chọn của mình. Ở đây, chúng ta đầu tư gì? Đó là các chính sách đãi ngộ cho sinh viên như trợ cấp cho sinh viên nghèo vượt khó, con thương binh liệt sỹ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, cấp học bổng cho sinh viên học giỏi, xuất sắc, nhằm khuyến khích động viên họ. Có thể tạo điều kiện cho sinh viên có thể vay vốn, tín dụng để họ có điều kiện học tập tốt hơn. Tạo môi trường đại học tốt đẹp, văn minh, lịch sự để sinh viên có thể yên tâm học tập, rèn luyện, tu chí thành người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Cũng cần phải quan tâm đến nhu cầu nơi ăn chốn ở của sinh viên. Hệ thống kí túc xá phải đảm bảo được nhu cầu sinh hoạt của họ. 3.2.3. Đầu tư vào các phòng ban nghiên cứu Đây là vấn đề cần thiết của mọi trường đại học. Vì sao? Chúng ta học để làm gì? Học để ra đời làm việc, đơn giản là vậy. Nhưng với một khối lượng kiến thức về lý thuyết trong sách vở và trong tài liệu thì liệu rằng ra đời ta có làm được việc? Lý thuyết là một nhưng thực tế là muôn hình vạn trạng, nó bất biến. Chỉ một nhân tố trong thực tế thay đổi thì thì mọi vấn đề trên lý thuyết sẽ thay đổi. Lý thuyết là tổng quát nhưng thực tế là cụ thể của vấn đề. Vì vậy, các phòng nghiên cứu, thực hành thực nghiệm là cực kỳ cần thiết. Ở đây, chúng ta phải đầu tư vào những công cụ, máy móc, các thiết bị nhà xưởng…. những cái mà vào thực tế sẽ gặp. Chúng ta phải trang bị đầy đủ các vật dụng, mô hình cần thiết để cóthể phục vụ tốt nhất cho nhu cầu dạy và học ở trường. Người ta bảo : Trăm nghe không bằng một thấy, đó chính là sự thực tế, sinh viên được tự mình rèn luyện, phân tích tình huống xảy ra trong phòng thí nghiệm. Tất cả những gì diễn ra trong phòng thí nghiệm sau này ra đời sẽ gặp, sẽ có. Có như vậy họ mới có thể thích ứng được với xã hội Chúng ta cũng cần phải bàn đến vấn đề về đi thực tế, thực tập của sinh viên. Đây cũng được coi là hình thức như trên nhưng lại đi sát với thực tế của sinh viên hơn. Chính vì thế mà hình thức này cũng cần phải chú ý. 3.2.4. Đầu tư vào các chương trình đào tạo, vào việc mua bản quyền giáo dục cho trường Giáo trình là nhân tố đầu tiên để phục vụ cho quá trình giảng dạy, học tập và nghiên cứu.Giáo trình là tri thức của con người, là kho tàng quý báu của chúng ta. Mỗi trường cần phải đầu tư viết và mua giáo trình, với khối lượng nhiều, phong phú và đảm bảo chất lượng. Đầu tư mua các bản quyền về chương trình học, về dịch sách và viết sách. Để phục vụ cho nhu cầu học tập và nghiên cứu, mỗi trường đều phải có hệ thống thông tin thư viện đầy đủ các loại sách báo, với hệ thống mạng thông tin để có thể tra cứu, tìm tin một cách dễ dàng. 4.Các nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH Nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH là tâp hợp các tổ chức, các cá nhân có tiền, có khả năng, và mong muốn được đầu tư trong lĩnh vực này. Nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH bao gồm: Ngân sách nhà nước (NSNN) cấp (kinh phí hoạt động thường xuyên, kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học), vốn đầu tư xây dựng cơ bản; Nguồn thu sự nghiệp (học phí, lệ phí, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất dịch vụ…) ; Các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật. Các nguồn tài trợ từ các tổ chức trên thế giới. 4.1.Ngân sách nhà nước Đầu tư của chính phủ vào GDĐH là việc chính phủ sử dụng nguồn NSNN để chi tiêu vào vấn đề giáo dục. Nguồn ngân sách có được từ việc thu thuế. Việc chi tiêu cho vấn đề giáo dục từ nguồn ngân sách chủ yếu là cung cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên. Thường ở các nước đang phát triển thì nguồn NSNN là nguồn chủ yếu để đầu tư cho giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng. Tuy nhiên không nên coi GDĐH là một gánh nặng cho NSNN mà phải coi đầu tư cho GDĐH là đầu tư cho phát triển, là một khoản đầu tư dài hạn, đúng đắn và cấp thiết. Chỉ có mạnh dạn đầu tư toàn diện người và của, kiên quyết đầu tư có trọng điểm theo phương thức đa dạng hoá nguồn lực thì bản thân GDĐH mới có cơ may đủ lực trên con đường cạnh tranh và hội nhập được với GDĐH trên trường quốc tế. Thiếu cách nhìn xa và đúng đắn này thì không thể có được một nền GDĐH phát triển bền vững và đất nước sẽ mất đi một động lực thiết yếu, quan trọng bậc nhất trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 4.2. Đầu tư của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước Đầu tư của các tổ chức trong và ngoài nước có thể thực hiện thông qua: 4.2.1. Góp vốn ủng hộ các quỹ khuyến học Đây là hình thức tài trợ của các tổ chức nhằm cung cấp vốn với mục đích là tạo ra một quỹ dùng để khuyến khích vấn đề học tập ở các trường, quỹ này thường được dùng để giúp đỡ sinh viên trong cuộc sống, học tập, thông qua hình thức ủng hộ, trợ cấp cho sinh viên nghèo, cho con em thuộc diện thương binh, chính sách, nó cũng có thể được dùng để tu bổ sửa chữa trường học, mua các công cụ dụng cụ phục vụ cho việc học tập. Mục đích của việc làm này là các nhà đầu tư muốn góp một phần nhỏ sức lực của mình, tạo điều kiện, khuyến khích, cho những sinh viên không có đủ điều kiện học tập, cho việc xây dựng đất nước hoặc cũng là một cách để họ quảng bá cho thương hiệu của tổ chức. Cũng có thể đây là một cơ hội để họ góp phần đào tạo nguồn nhân lực giỏi để sau khi tốt nghiệp sinh viên sẽ quay trở lại phục vụ họ. 4.2.2. Đầu tư trực tiếp cho việc xây dựng, và phát triển đại học Đây là hình thức các tổ chức kinh tế bỏ tiền trực tiếp xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học dưới sự cho phép của nhà nước. Tự bản thân họ sẽ giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực. Họ sẽ tự tổ chức dạy và học theo một chương trình cụ thể mà có sự đồng ý của nhà nước. Họ sẽ thuê lực lượng giảng viên, hoặc chiêu mộ họ trở thành giảng viên chính thức của mình, họ tự tuyển sinh sinh viên vào học với cơ chế mà họ đặt ra dưới sự quản lý của bộ giáo dục đào tạo. Họ thực hiện nghĩa vụ tiền lương, thưởng đúng với quy định của nhà nước, cũng có thể tiền lương ở các trường này sẽ cao hơn rất nhiều tiền lương ở các trường công lập do nhà nước xây dựng. Chính ở điểm này đã tạo cho họ một lợi thế lớn đó là thu hút được một lực lượng giáo viên chất lượng cao, tâm huyết với họ. Vấn đề ở đây là học phí, thường những trường do tổ chức kinh tế hoặc cá nhân xây dựng thường có mức học phí cao hơn rất nhiều so với mức học phí ở các trường công. Tuy nhiên, đó lại không phải là vấn đề đáng lo ngại của họ vì rất nhiều người sẵn sàng đầu tư cho con em mình đi học, với điều kiện học tập được tốt nhất, trang bị cho con em mình đầy đủ kiến thức kĩ năng để bước vào đời. Mục đích của việc làm này là vấn đề lợi nhuận. Họ đầu tư để thu lợi nhuận, đó là tất yếu của mọi hình thức đầu tư. Ta cũng không thể phê phán hình thức này, một số người quan điểm rằng đầu tư cho GDĐH là thực hiện việc xã hội hoá giáo dục, nó như là một dịch vụ công mà ai có khả năng học cũng có thể được học. Bước vào thế kỷ 21, bước vào nền kinh tế thị trường thì đầu tư cho GDĐH không còn là một dịch vụ công như trước nữa. GDĐH không thể tổ chức trong chân không nữa, GDĐH có trăm ngàn mối liên quan với xã hội. Trong thể chế kinh tế thị trường, GDĐH cũng phải tuân theo cơ chế thị trường, hoặc là học theo quy tắc thị trường. Dĩ nhiên, quá trình quá trình giáo dục con người không phải là quá trình sản xuất dây chuyền, không phải là quá trình tiếp nhận đơn thuần. Vấn đề ở đây là đầu tư cho GDĐH hiện vẫn là một vấn đề lớn mà mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển cần phải chú trọng và tập trung nguồn lực nhiều. Cho nên, chúng ta vẫn luôn ủng hộ cho mọi nguồn đầu tư cho GDĐH. Ở đây ta cũng cần xem xét sự khác nhau giữa nguồn đầu tư trong nước và nguồn đầu tư nước ngoài : Đầu tư của các tổ chức kinh tế trong nước thường có nguồn vốn nhỏ, mang tính cấp thiết về nguồn lực. Chẳng hạn như đầu tư vào các ngành hiện tại có nhu cầu lớn như kế toán, ngân hàng, công nghệ thông tin… hoặc họ sẽ đầu tư vào các ngành mà hiện tại tổ chức của họ đang cần. Mặc dù như vậy sẽ rất mất thời gian và tốn kém, nhưng đó cũng là vấn đề sống còn của tổ chức họ. Đầu tư của các tổ chức kinh tế nước ngoài thường có nguồn vốn rất lớn, thứ nhất, đó thường là những tập đoàn kinh tế mạnh, thứ hai, do có sự chênh lệch về tỷ giá hối đoái mà đồng tiền của họ cũng thường có giá trị hơn. Và thường đây là sự đầu tư của các tổ chức kinh tế của các nước phát triển hơn đến các nước kém phát triển hơn. Thường ở những trường này có mức học phí rất cao, nhưng bù lại thì cơ sở học tập lại cực kỳ tốt, môi trường học tập tốt, đội ngũ giảng viên vừa trong nước vừa nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có phương pháp giảng hiệu quả, và tại đây sinh viên có điều kiện học ngoại ngữ rất tốt, cùng với học hỏi được nền văn hoá của các nước… Nói chung, cái gì cũng có cái giá đích thực của nó, tuỳ từng điều kiện hoàn cảnh mà mỗi người sẽ tự lựa chọn cho con đường học của mình. 4.3. Các nguồn tài trợ của các tổ chức khác trên thế giới Đó là các nguồn tiền viên trợ từ các tổ chức như IMF ( quỹ tiền tệ quốc tế), UNESCO ( tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp Quốc), nguồn tài trợ ODA của các nước khác, …Các nguồn viện trợ này thường dành cho các nước nghèo, kém phát triển, tạo điều kiện cho họ có thêm nguồn lực đầu tư cho giáo dục, để họ có điều kiện học tập trong môi trường tốt hơn, họ có thể được tiếp cận với tri thức khoa học của thế giới… họ viện trợ để xây dựng trường lớp, để cung cấp các máy móc trang thiết bị trường học tiên tiến. Có như thế thì các nước này mới có điều kiện để phát triển nền kinh tế, mới có thể sánh vai với các nước khác trên thế giới. 4.4. Nguồn thu sự nghiệp Đó là nguồn thu từ học phí, lệ phí, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất dịch vụ…). Học phí là nguồn thu chủ yếu của tất cả các trường đại học. Học phí thu được, một phần để trả lương cho các cán bộ, công nhân viên trong trường, phần khác được giữ lại để tái đầu tư… Các tổ chức đầu tư với mục đích để kiếm lợi nhuận thì học phí là vấn đề quan tâm hàng đầu của họ. Một mức học phí cao nhưng hợp lý thì mới tạo điều kiện cho trường phát triển, tạo được danh tiếng cho trường. 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH 5.1. Chính sách và cơ chế quản lý giáo dục Chính sách của chính phủ tác động đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội nói chung, việc thu hút đầu tư cho GDĐH cũng không nằm ngoài quy luật đó. Cơ chế quản lý giáo dục là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình giáo dục của quốc gia. Chính sách và cơ chế quản lý giáo dục phải tập trung tạo ra được đòn bẩy quan trọng và đúng đắn trong thị trường giáo dục, dựa vào những quy định luật pháp phù hợp và chi tiết hơn , trong đó luật giáo dục có vai trò cơ bản . 5.1.1. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề thu hút nguồn vốn đầu tư cho tất cả mọi lĩnh vực nói chung và cho GDĐH nói riêng. Một hành lang pháp lý đầy đủ, minh bạch, rõ ràng sẽ tạo cho nhà đầu tư cảm thấy yên tâm, an toàn với nguồn vốn của mình. Họ sẽ cảm thấy có một điều kiện tốt để phát huy được giá trị của nguồn vốn của mình theo mục đích nào đó. Cho dù nhà đầu tư mở trường với mục tiêu lợi nhuận, nhưng luật, chính sách và cơ chế quản lý sẽ buộc họ phải kiếm lời qua chất lượng giáo dục và giá trị thực sự mà trường mang lại cho người học, xã hội và đất nước. Khi nhà nước có một hệ thống pháp luật phù hợp xu thế phát triển của đất nước cũng như của thế giới, thì việc thu hút nguồn vốn cho GDĐH sẽ dễ dàng hơn. 5.1.2. Môi trường chính trị xã hội Để có thể thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư của nước ngoài thì môi trường chính trị xã hội là nhân tố cực kỳ quan trọng. Một môi trường chinh trị ổn định sẽ tạo được sự an tâm cho các nhà đâu tư, họ cảm thấy tự tin với môi trường an toàn, sẽ sẵn sàng đầu tư nhiều hơn nữa. Khi mà môi trường chính trị xã hội tốt, đầu tư đạt được mục đích của mình, họ sẽ lại tiếp tục đầu tư nhiều hơn nữa. Một đất nước có một nền chính trị không ổn định sẽ rất khó thu hút được nguồn đầu tư nói chung và đầu tư cho GDĐH nói riêng. Người ta cảm thấy bất an với nguồn vốn của mình, không ai muốn mạo hiểm trong khi có những nơi an toàn hơn cho họ đáp xuống. 5.1.3. Chính sách về phân bổ sử dụng các nguồn lực tài chính Phân bổ là một nhân tố cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút đầu tư cho giáo dục, sự phân bổ phải hợp lý, rõ ràng, và cần thiết. Nếu phân bổ nguồn tài chính không rõ ràng rất dễ gây bức xúc đối với xã hội và các nhà đầu tư. Cần thực hiện việc phân bổ một cách công băng nhất. Công bằng ở đây không có nghĩa là “cào bằng”. Một thực tế hiện nay là “ai cũng muốn như ai”, không tỉnh nào, không trường nào muốn mình thua thiệt về nguồn vốn hơn các tỉnh, các trường khác. Tuy nhiên, không cào bằng, đó là cần phải có chính sách, cơ chế phân bổ hợp lý, cũng cần phải có trọng tâm, trọng điểm. Có như vậy, đất nước mới có một điểm tựa vững vàng, xây dựng và phát triển tốt ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. 5.2. Môi trường và chất lượng giáo dục, đóng góp của giáo dục đối với sự phát triển của đất nước Một quốc gia dù giàu hay nghèo thì cũng luôn luôn đặt giáo dục lên hàng đầu, đặc biệt là GDĐH - đào tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Môi trường giáo dục là tập hợp tất cả các yếu tố xung quanh, có mối quan hệ tương hỗ, ảnh hưởng đến quá trình giáo dục và đào tạo. Có môi trường giáo dục lành mạnh, người ta sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi rót vốn vào. Chất lượng giáo dục cũng là nhân tố quyết định đến việc thu hút vốn.. Nó làm cho nhà đầu tư cảm thấy hứng thú với hiệu quả của nguồn vốn mình bỏ ra. Nội dung chương trình giảng dạy cần gắn liền với tiến trình phát triển của nền kinh tế. Kinh tế xã hội ngày càng phát triển với tiến độ chóng mặt, trong khi đó GDĐH trì trệ, không theo kịp được với tiến độ phát triển đó thì người đầu tư sẽ cảm thấy không thoả mãn. GDĐH phải đi bên cạnh, song song với sự phát triển của đất nước. GDĐH là động lực của phát triển xã hội, là trung tâm tri thức của xã hội. Lấy thực tiễn kinh tế, xã hội làm kim chỉ nam cho định hướng phát triển nội dung giảng dạy, học tập trong nhà trường. Những sinh viên do nhà trường đào tạo ra không chỉ là để cầm tấm bằng giỏi, bằng khá, mà họ là những con người đi sâu đi sát với thực tiễn, có khả năng thích ứng với nền kinh tế trong tương lai. Sinh viên sau khi tốt nghiệp, ra trường, họ sẽ là chủ nhân của đất nước, họ sẽ là đường lối, là sức trẻ nhiệt huyết xây dựng và phát triển đất nước. Đóng góp của nền GDĐH đối với sự phát triển đất nước. Nguồn nhân lực có vai trò chính trong sự phát triển kinh tế của đất nước, con người luôn luôn là lực lượng nòng cốt trong mọi vấn đề. Nguời sinh viên sau khi ra trường, họ sẽ cống hiến sức trẻ, cống hiến tài năng của minh. Họ sẽ làm đất nước vận động lên theo một hướng mới, hướng nên kinh tế đất nước phát triển theo xu hướng chung của thế giới. Những lớp con người mới sẽ có cái nhìn mới về xây dựng đất nước, không theo quan điểm bảo thu lạc hậu của thê hệ đi trước. Họ sẽ đưa đất nước đi lên bằng chính sức lực cảu mình, đưa một luồng gió mới đến cho đất nước. Làm cho đất nước vận động theo chiều hướng tốt mới tốt hơn. Trong bất kì một tổ chức nào, con người cũng là nhân tố quyết định đến thành công của tổ chức đó. Phát triển hay tiêu vong? Đó chính là nhờ nguồn nhân lực chất lượng cao đó. Sự đóng góp của họ được nhìn chung, một cách tổng thể đó là đưa đất nước lên một tầm cao mới, đưa nền kinh tế đất nước phát triển. Mọi người có cuộc sống vật chất no đủ, có đời sống tinh thần được tăng cao… 5.3. Nhu cầu của xã hội Sinh viên là lực lượng kế cận nhất nắm lấy vai trò là người lãnh đạo đất nước vì vậy đầu tư cho GDĐH không chỉ là nhu cầu, mong muốn của các bạn sinh viên mà đó còn là đòi hỏi cấp thiết của toàn xã hội. Thời đại ngày nay không những là thời đại của nền kinh tế công nghiệp với kĩ thuật tiên tiến, hiện đại mà đó còn là thời đại của nền “kinh tế tri thức”.Nắm bắt được tri thức sẽ cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về mọi mặt của đời sống. Đó là hành trang để bước vào thời đại mới, để hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Vì nền kinh tế nước ta đang trên đà hội nhập nên nhu cầu của các ngành nghề trong xã hội cũng có sự thay đổi so với trước. Trước đây, những ngành về công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, ngân hàng… chưa được xã hội quan tâm nhưng ngày nay do đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế đất nước và sự hội nhập kinh tế nên những ngành này ngày càng được quan tâm, chú ý hơn. Bên cạnh đó, những ngành mới xuất hiện như: tự động hoá, thời trang… cũng được đông đảo bạn trẻ đón nhận và xã hội quan tâm. Nói điều đó để biết rằng các nhà đầu tư cho GDĐH không chỉ cần nhận biết về nhu cầu ngành nghề ở hiện tại mà cũng phải đi trước, đoán nhận biết xu hướng phát triển ngành nghề trong tương lai để từ đó đầu tư cho hợp lí và có hiệu quả hơn Hơn nữa vấn đề nên đầu tư vào ngành, lĩnh vực gì cũng cần phải chú ý đến nhu cầu ngành nghề hiện tại của địa phương. Chẳng hạn, ở một thành phố lớn, đô thị sầm uất thì việc đầu tư vào khối ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng là một sự đầu tư hợp lý, ở những địa phường mà có rất nhiều khu công nghiêp thì khối ngành khoa học kĩ thuật là sự lựa chọn hàng đầu… Có cầu mới có cung, cung cầu gặp nhau, tạo điều kiện chọ nền giáo dục phát triển. 5.4. Các nguồn cung ứng vốn Như chúng ta đã nói ở trên, để hình thành nên một trường đại học thì không chỉ có cầu thôi mà cung cũng là một nhân tố rất quan trọng. Họ là những người bỏ vốn ra để xây dựng trường học, chiêu mộ giảng viên, tổ chức học tập. Họ là những người đóng vai trò quyết định đến việc thành lập trường, hoặc tài trợ cho chính phủ để đầu tư vào giáo dục. Họ ở đây là những cá nhân hoặc tổ chức. Cá nhân ở đây là những người đơn lẻ tham gia vào quá trình đầu tư cho giáo dục. Đó có thể là một doanh nhân, một tỷ phú, một người nghệ sỹ… tóm lại họ phải là những người có rất nhiều tiền, và họ là những người quan tâm đến nền giáo dục. Họ có thể đầu tư toàn bộ xây dựng một trường, tham gia mọi công việc của trường, tức là với hình thức đầu tư trực tiếp. Cũng có thể họ đứng ra mở các lớp đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ và chuyên môn cho đội ngũ giảng viên, hay đơn thuần họ chỉ đầu tư trang thiết bị hiện đại cho một trường nào đó…. Dù đầu tư dưới hình thức nào thì người đầu tư cũng phải nhìn thấy triển vọng , tương lai của nó. Nếu họ nhìn thấy ở đó sẽ khả quan thì họ sẽ đầu tư, và sẽ đầu tư nhiều hơn, ngược lại nếu sự án không khả quan thì họ không cảm thấy thích thú đầu tư, không muốn đầu tư và họ có thể sẽ không đầu tư nữa. Không chỉ là những người đầu tư nhằm kiếm lợi nhuận mới có suy nghĩ như vậy mà kể cả những người viện trợ, làm từ thiện cũng vậy. Tức là, đã xác định đầu tư cái gì thì cũng phải mang một hiệu quả nhất định nào đó. Các tổ chức ở đây là các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các tổ chức chính trị xã hội khác. Việc đầu tư của họ cũng có hai mục đích hoặc là để giúp đỡ các quốc gia đang phát triển, hoặc cũng có thể là đầu tư để kiếm lợi nhuận Ngành giáo dục đang là một lĩnh vực đầu tư mới rất nhiểu triển vọng, đó thực sự là một ngành siêu lợi nhuận. Viêc các cá nhân, hoặc tổ chức đầu tư vào đây với mục đích kiếm lời là một hướng đúng. CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Thực trạng chung của nền giáo dục ở Việt Nam 1.1. Quy mô phát triển GDĐH Từ năm 1998 đến nay, quy mô GDĐH đã tăng đáng kể. Hiện cả nước có 127 trường cao đẳng, 87 trường đại học, học viện. Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn 2001-2010 đã được chính phủ phê duyệt, trong đó chú ý đến việc xây dựng các trường đại học, cao đẳng tại các vùng khó khăn, thành lập thêm các trường đại học công lập tại Thanh Hoá, An Giang, Vĩnh Long, Tây Bắc nhằm tạo điều kiện đào tạo cho nguồn nhân lực tại chỗ, đồng thời qua đó có các trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội trên đia bàn. Bằng nhiều nguồn vốn, các trường đã cố gắng nâng cấp thư viện, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành, mua sắm thiết bị hiện đại và nối mạng Internet. Tuy nhiên, tình trạng chung là cơ sở vật chất kĩ thuật của các trường đại học còn thiếu và lạc hậu, diện tích sử dụng của các trường mới chỉ đáp ứng được 1/3 chuẩn quy định. Tiến độ xây dựng hai trường đại học quốc gia và đại học sư phạm trọng điểm còn rất chậm. Việc xây dựng chương trình khung và công tác biên soạn giáo trình chưa được quan tâm đúng mức, giáo trình đại học hiện nay còn thiếu nhiều và lạc hậu. Với số lượng khoảng 40 000 giảng viên trên 1 triệu sinh viên, hầu hết các trường đại học, cao đẳng đều thiếu giảng viên. Tỷ lệ sinh viên trên một giảng viên bình quân là 25,8. Đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng có trình độ thạc sỹ mới đạt 45%. Phần đông giảng viên nòng cốt, chuyên gia đầu ngành đã cao tuổi trong khi chưa xây dựng được đội ngũ kế cận. Thêm vào đó, chưa có chính sách thích hợp để xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học của các cơ quan nghiên cứu tham gia giảng dạy tại các trường đại học. Hoạt động nghiên cứu khoa học tại các trường đại học chưa được quan tâm đúng mức. Đa số giảng viên chỉ tập trung vào giảng dạy, ít tham gia nghiên cứu khoa học. Trong 5 năm qua, số sinh viên tăng bình quân 6,4%/năm. Năm 2003-2004 cả nước có hơn 1 triệu sinh viên. Hàng năm, số sinh viên từ khu vực nông thộn miền núi chiếm khoảng 70 % số sinh viên tuyển mới. Số lượng tuyển sinh đại học, cao đẳng tuy tăng hàng năm song mới đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu đại học trong cả nước. 1.2. Chất lượng GDĐH Những năm gần đây, nhiều trường đại học, cao đẳng thực hiện các biện pháp có hiệu quả để nâng cao trình độ giảng viên, tăng cường cơ sở vật chất. Ở một số trường trọng điểm có truyên thống như trường Đại học Bách Khoa Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trình độ của sinh viên tốt nghiệp đã tiếp cận trình độ của các trường đại học trong khu vực. Năm học 2001-2002, tỷ lệ sinh viên xuất sắc ở các trường đại học, cao đẳng là 0,6%, giỏi 4%, khá 18,5%, trung bình khá 29,3%, trung bình 37,1 % , còn lại là yếu kém. Trong đội ngũ giảng viên được đánh giá chuyên môn tốt có 71% số tiến sĩ, 83% số thạc sĩ, 57% số cán bộ có trình độ đại học và 49% số cán bộ trình độ cao đẳng. Về tinh thần trách nhiệm, có 75% số tiến sĩ, 75% số thạc sĩ, 64% số cán bộ trình độ đại học, và 76% số cán bộ trình độ cao đẳng đạt tiêu chuẩn. Tuy nhiên đội ngũ giảng viên đại học, cao dẳng còn rất mỏng, chỉ gần bằng 50% so với chuẩn quy định. Đến năm học 2002-2003, cả nước có 324 giáo sư, 1 330 phó giao sư, đó là con số quá ít so với khoảng 3 000 bộ môn đang được giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng. Tuy việc tuyển sinh chặt chẽ, nhưng cách đánh giá quá trình học tập lại lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên chưa chăm chỉ học tập. Một số sinh viên còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng, chưa tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý, cờ bạc, rượu chè trong sinh viên tuy có giảm nhưng vẫn còn cao. Chất lượng đào tạo đại học có sự phân tầng rõ rệt giữa các hệ chính quy và không chính quy, giữa các trường công lập trọng điểm với trường công lập địa phường và dân lập. Sinh viên ít có điều kiện tham gia nghiên cứu khoa học; năng lực tự học, tự nghiên cứu, thực hành, khả năng giao tiếp và hợp tác trong công việc còn yếu. Trình độ ngoại ngữ của sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Thực trạng các nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH ở Việt Nam Tình trạng khá phổ biến ở các nước đang phát triển là nguồn đầu tư cho GDĐH một phần quan trọng do Chính phủ cấp (từ ngân sách giáo dục công cộng) hàng năm trên cơ sở quy mô đào tạo theo kế hoạch của Chính phủ. Một phần kinh phí khác do nguồn học phí của sinh viên nộp theo quy định. Nguồn kinh phí còn lại do các trường tự khai thác thông qua kiên kết đào tạo và các hoạt động khác. Ở các nước đang phát triển, Ngân hàng thế giới đã khuyến cáo các Chính phủ chuyển mạnh hơn từ hệ thống cung cấp tài chính công cộng sang thu tiền người học cùng với việc cung cấp vốn vay cho sinh viên rộng rãi hơn kết hợp với một số lượng hạn chế học bổng. Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng. Điều lệ trường đại học, ban hành Quyết định số:153/2003/QĐ-TTg ngày 20/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ, các loại hình trường đại học bao gồm: công lập, bán công, dân lập và tư thục được quy định tại Điều 13 Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật của giáo dục. Nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH bao gồm: NSNN cấp (kinh phí hoạt động thường xuyên, kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học) , vốn đầu tư xây dựng cơ bản; nguồn thu sự nghiệp, (học phí, lệ phí, hợp tác đào tạo, sản xuất dịch vụ…) ; các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật. Kinh phí có GDĐH ngoài các khoản đầu tư hàng năm từ ngân sách còn có nguồn viện trợ từ các tổ chức quốc tế, vay vốn của ngân hàng thế giới và ngân hàng phát triển châu Á qua các dự án phát triển GDĐH. Ngoài ra còn có nguồn ngoại tệ từ quỹ chuyên gia và dạy nghề, các khoản thu học phí của các sinh viên và đóng góp của nhân dân xây dựng trường sở, các khoản thuế phải nộp nhưng được cấp lại để bổ sung kinh phí cho sự nghiệp giáo dục. Hiện nay, tổng số nguồn vốn ngoài NSNN chiếm khoảng 25% -30% tổng nguồn vốn đầu tư cho giáo dục Như vậy, nguồn lực tài chính đầu tư cho GDĐH ở nước ta hiện nay đã được xã hội hoá. Muốn khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính cùng với việc tăng thêm và sử dụng có hiệu quả chủ yếu là NSNN, tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, của nước ngoài, cải tiến chế độ học phí, huy động sự đóng góp của cha mẹ học sinh và của các tổ chức sản xuất kinh doanh… để phát triển giáo dục trong quá trình hội nhập quốc tế, nhiệm vụ quan trọng của các nhà quản lí GDĐH hiện nay là: tạo ra và triệt để khai thác các nguồn lực tài chính hợp pháp đảm bảo mọi chi phí chính đáng của GDĐH, đồng thời phải có chiến lược khai thác các nguồn đầu tư đảm bảo cho GDĐH tăng trưởng bền vững và ổn định. 3. Thực trạng của vấn đề thu hút đầu tư, và đầu tư cho GDĐH ở Việt Nam hiện nay Từ sau đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã khởi sắc và phát triển, đời sống nhân dân đã được tăng lên đáng kể, làm cho nhu cầu học tập ngày càng gia tăng. Cũng từ đó mà vấn đề thu hút nguồn vốn đầu tư cho giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng đã được Đảng và nhà nước chú ý hơn và việc thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH có vẻ dễ dàng hơn. Nhà nước đã có rất nhiều chính sách khuyến khích đầu tư cho GDĐH, kêu gọi các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có điều kiện tốt nhất để thực hiện công việc của họ. Đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Đã có rất nhiều dự án đã được lên kế hoạch đầu tư. Các dự án đầu tư của các tổ chức trong nước và các tổ chức nước ngoài. Họ là các tổ chức, cá nhân đã thấy được rằng môi trường đầu tư của Việt Nam rất tốt, khi đầu tư ở Việt Nam học được rất nhiều ưu đãi. Đó là các chính sách ưu đãi về đất đai, về thuế. Chẳng hạn khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư cho GDĐH Việt Nam thì họ sẽ được nhà nước tạo điều kiện bằng cách cho họ quyền sử dụng đất, rồi một thời gian rất dài kể từ khi dự án được đi vào hoạt động mà không phải đóng thuế, ở đây tức là miễn thuế thu nhập cho các khoản đóng góp cho giáo dục. Chính hoạt động này có thể huy động những khoản tiền không nhỏ cho giáo dục. Hơn nữa, môi trường chính trị xã hội ở Viêt Nam rất ổn định. Chính nhờ điều kiện này mà việc thu hút đầu tư trở nên dễ dàng hơn. Các nhà đầu tư đã không phải lo lắng về sự đầu tư của mình bị ảnh hưởng do môi trường chính trị không tốt. Rất ít bạo loạn, rất ít đình công, nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Đó là một yếu tố quan trọng mà Việt Nam đã tạo được trong tâm trí các nhà đầu tư nói chung và đầu tư cho GDĐH nói riêng.. Một yếu tố không thể không kể đến đó là nhu cầu học tập và sức học hiện nay ở Việt Nam. Một đất nước đang trên đà phát triển, kinh tế tri thức ngày càng cần thiết thì vấn đề học tập để mình trở thành nguồn nhân lực giỏi là nhu cầu bức thiết của mọi người. Việc liên kết đào tạo nguồn nhân lực giữa các trường đại học hiên nay cũng đang tiến triển rất tốt. Điển hình đó là đại học RMIT ( 100% là vốn nước ngoài, có trụ sở chính tại Úc), năm 1998 đã được xây dựng, nó là đại học đầu tiên ở Việt Nam là trường đại học đẳng cấp quốc tế, với số vốn đầu tư 20 triệu USD, đặt tại thành phố HCM. Tuy nhiên, phải đến năm 2000, các hoạt động GDĐH của RMIT như giảng dạy, nghiên cứu mới bắt đầu. Khóa đầu tiên chỉ có 30 sinh viên theo học nhưng hiên nay tình hình đã khác, số sinh viên tại đại học RMIT gia tăng nhanh chóng qua từng năm. Hiện nay RMIT đã thu hút được hàng ngàn sinh viên Việt Nam, mỹ, Đức, Pháp, Singapore, Malaysia, Nam Phi, Hàn Quốc, Trung Quốc,… theo học. Trường có quy mô rộng 12,4 ha. Toà nhà chính hơn 100m với 4 tầng có sức chứa lên tới 3000 sinh viên. Có thể nói rằng trong những năm gần đây, RMIT đang chiếm vị thế độc tôn đào tạo nguồn nhân lực bậc cao cho các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, trong tương lai gần, RMIT sẽ không còn chiếm giữ vị trí độc tôn trong GDĐH bậc đại học quốc tế tại Việt Nam, bởi một dự án tầm cỡ về đầu tư xây dựng khu đô thị -đại học quốc tế thành phố HCM vừa được kí kết. Dự án đầu tư Khu đô thị - Đại học Quốc tế tại TP.HCM, với tổng số vốn đầu tư lên đến 3,5 tỷ USD, của Công ty Berjaya Land Berhad (thuộc Tập đoàn Berjaya Berhad của Malaysia) vừa được ký kết đang tạo ra một tín hiệu lạc quan trong đào tạo nguồn nhân lực bậc cao. Cùng với đó, hiện đang có một số trường đại học lớn đang tiến hành khảo sát về thị trường GDĐH và khả năng đầu tư vào những ngành học đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam. Không cần chờ đến tháng 1-2009 (thời điểm mà các trường đại học nước ngoài chính thức được lập chi nhánh tại Việt Nam theo lộ trình cam kết với WTO) mà hiện nay đã bắt đầu có những dấu hiệu cho thấy lĩnh vực này đang “ấm” dần lên. Dự án trên của Malaysia đã phát lên một tín hiệu khá rõ về “làn sóng” cạnh tranh trong hoạt động đào tạo bậc đại học đẳng cấp quốc tế từ các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư trong lĩnh vực GDĐH quốc tế cũng đã nhận thấy được sự phát triển và nhu cầu tất yếu về nguồn nhân lực bậc cao ở Việt Nam. Nếu như RMIT Việt Nam đi tiên phong trong việc xây dựng một môi trường giảng dạy sáng tạo và đổi mới, cam kết mang đến cho sinh viên nền giáo dục đào tạo chất lượng quốc tế thì dự án của Tập đoàn Berjaya Berhad bứt phá với quy mô lớn hơn nhiều. Đây là dự án có vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất từ trước tới nay tại TP.HCM. Dự án này mang tính chất cụm trường đại học và liên hoàn với các cụm dân cư, thu hút một số lượng lớn sinh viên và giáo viên. Những trường đại học nước ngoài trong dự án này cũng có thể mở ra cơ hội liên kết với các trường đại học ở trong nước về nhiều mặt như liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học... Và, đương nhiên sẽ trở thành một đối trọng cạnh tranh với các trường đại học quốc tế khác trong nước hiện nay. Đây là dự án điển hình tại Việt Nam, do kết hợp hài hòa giữa giáo dục và cộng đồng, giữa nét hiện đại và bản sắc văn hóa nhằm đáp ứng các nhu cầu của một cộng đồng đa văn hóa. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ Qua bài nghiên cứu trên ta nhận thấy có một số vấn đề nổi cộm của tình hình thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH . Cần phải có giải pháp như thế nào để có thể thu hút được nguồn vốn một cách hiệu quả nhất. Sau đây là một số giải pháp 1.Chính sách của chính phủ Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH, một số giải pháp đặt ra. Nhà nước phải có những chính sách nhằm khuyến khích được nguồn vốn đầu tư cho GDĐH, đó là tạo môi trường pháp lý trong sạch, môi trường chính trị xã hội ổn định, môi trường GDĐH tốt, việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn đầu tư phải hợp lý và công khai… Để thực hiện được ý tưởng về một nền đại học cho số đông, cần thiết phải khơi dậy mọi tiềm năng của quần chúng để phát triển giáo dục. Với một nước còn nghèo như nước ta, giáo dục không thể chỉ dựa vào bao cấp của nhà nước như một vài nước giàu đã làm. Bên cạnh ngân sách của Nhà nước chi cho giáo dục, chúng ta cần huy động các thành phần tư nhân, các doanh nghiệp và toàn dân cùng đầu tư phát triển giáo dục. Tiềm lực cho phát triển GDĐH của nước ta là rất lớn, đặc biệt là do truyền thống hiếu học của dân ta, do ý thức xem việc đầu tư cho học hành như một sự đầu tư quan trọng bậc nhất cho tương lai của con em mình. Do vậy, một mặt trường đại học cần tiếp tục có những chính sách ưu đãi đối với những đối tượng thuộc diện chính sách, những học sinh nghèo học giỏi, mặt khác cần thực hiện chính sách thu đủ, chi đủ cho giáo dục. Thật vô lý, khi những người dư thừa điều kiện kinh tế lại chỉ có đóng góp mang tính tượng trưng cho những chi phí về giáo dục cho con em họ, còn thiếu đâu Nhà nước phải bù! Hiện nay, do lương và thu nhập của cán bộ, công nhân còn thấp nên sẽ dẫn tới tình trạng phần lớn con em của họ khi học đại học sẽ được giảm, miễn học phí. Song, khi đó họ cần hiểu rằng họ đã được giảm, miễn một khoản tiền rất lớn! Sinh viên phải có trách nhiệm đối với việc học tập ngày nay và công tác sau này. Với đà tăng trưởng kinh tế, số người có khả năng đóng góp đầy đủ cho chi phí giáo dục sẽ ngày càng tăng. Nhà nước cũng nên mở quỹ tín dụng cho sinh viên vay tiền đóng học phí, sau này đi làm sẽ trả nợ (đương nhiên là phải cải cách tiền lương). Ở Nhật và Mỹ phần đóng góp cho giáo dục từ phía Nhà nước chỉ là phần nhỏ, như Nhật (35%), Mỹ (42%), phần còn lại do khu vực tư nhân đóng góp. Một khi mức đầu tư giáo dục trên đầu sinh viên rất thấp (4-6 triệu đồng/ sinh viên/ năm) thì không hy vọng có được chất lượng đào tạo như các nước đã đầu tư lớn (gấp 5 – 20 lần). Dù muốn hay không, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế rằng có một thị trường đặc biệt - thị trường giáo dục- tồn tại, bị chi phối bởi qui luật thị trường: qui luật cung, cầu, cạnh tranh, chất lượng, giá cả… Thị trường đặc biệt này liên quan đến một sản phẩm đặc biệt là con người. Do vậy, nó cần được quản lý tốt để phát triển 2. Tăng học phí Gần đây dư luận hay đề cập đến việc có nên tăng học phí đại học hay không? Nhìn chung có hai quan điểm trái ngược. Một cho rằng không nên tăng học phí vì sẽ gây phân hóa giàu nghèo. Quan điểm kia lại xem việc tăng học phí là cần thiết để cải thiện chất lượng giáo dục. Theo đó, học phí thấp sẽ làm cho nguồn đầu tư đào tạo thấp, kết quả là trang bị trường lớp, phòng thí nghiệm, thư viện, đội ngũ giảng dạy sẽ có chất lượng thấp tương ứng. Chất lượng giáo dục thấp, đưa đến trình độ nhân lực thấp, kéo theo kinh tế phát triển chậm, dẫn đến thu nhập người dân thấp nên không thể đóng học phí cao, và vòng luẩn quẩn lại tiếp tục. Làm sao để dung hòa mâu thuẫn trên? Ta thấy, do tình hình thu nhập của người dân còn nhiều cách biệt nên việc áp dụng “mức học phí như nhau cho mọi sinh viên (SV)” không phải luôn là một giải pháp thích hợp! Chính vì vậy giải pháp đề nghị sau đây sẽ dựa trên cơ sở phá bỏ nguyên tắc trên. Nghĩa là xóa bỏ chính sách một mức học phí đánh đồng cho mọi SV và thay bằng chính sách học phí khác nhau cho các đối tượng khác nhau. Có thể qui định một mức học phí phổ thông (đa số người dân có thu nhập trung bình có thể trả được, nhưng cao hơn mức mà một bộ phận người nghèo nhất có thể trả). Phần đông SV sẽ đóng ở mức này. Song song đó xây dựng nhiều hình thức trợ cấp học phí cho SV thuộc các gia đình có thu nhập thấp (ví dụ: giảm một tỉ lệ học phí nào đó tùy theo thu nhập của họ). Để thu hồi một phần ngân sách, có thể cân nhắc giải pháp lấy ngân sách lập quĩ tín dụng cho SV nghèo vay với lãi suất thấp (hay không lấy lãi). Sau khi tốt nghiệp, SV đi làm và hoàn lại tiền vay sẽ được nhận bằng chính thức (trước đó chỉ cấp bằng tạm có ghi rõ lý do cấp tạm). Những biện pháp như trên sẽ giúp tăng nguồn thu để cải thiện chất lượng đại học. Người có thu nhập trung bình trở lên sẽ được hưởng một mức chất lượng giáo dục cao hơn và gần hơn với nhu cầu của họ, đồng thời những SV có thu nhập thấp hơn vẫn có điều kiện tiếp tục học tập, như được minh họa ở ví dụ sau. Một quốc gia có 10.000 SV có đủ năng lực và nguyện vọng học đại học (bằng nhu cầu nhân lực hằng năm). Ngân sách cho giáo dục là 3,5 tỉ đồng/học kỳ. Phân phối khả năng chi tiêu cho giáo dục của họ ở bảng. Hãy quan sát hai trường hợp sau: Trường hợp 1: Mức học phí hiện tại là 1 triệu đồng/SV. Ở mức phí này mọi SV đều có thể chi trả và trả cùng một mức. Đầu tư giáo dục = 100% học phí + NSNN = 1 triệu x 10.000 + 3,5 tỉ đồng = 13,5 tỉ đồng. Đầu tư/SV = 1,35 triệu đồng. Chất lượng giáo dục ở mức đầu tư 1,35 triệu đồng/SV. Vì sao số đông (9.000 SV nhóm 1, 2, 3) chấp nhận trả cao hơn để được một mức chất lượng giáo dục cao hơn lại phải chịu một mức chất lượng thấp hơn mong đợi? Có công bằng cho mọi người không? Trường hợp 2: Học phí nâng lên 2,5 triệu đồng/SV. Lúc này có 5.000 SV không đủ tiền đóng học phí (nhóm 3 và 4). Dùng ngân sách trợ cấp cho 5.000 SV này đủ tiền đóng mức học phí mới (1.000 SV nhận 1,5 triệu đồng/người; 4.000 SV được 500.000 đồng/người). Tổng số tiền trợ cấp = 3,5 tỉ đồng. Vừa đúng bằng ngân sách. Số 5.000 SV còn lại sẽ đóng mỗi người 2,5 triệu đồng/học kỳ (vẫn dưới khả năng của họ). Tổng đầu tư giáo dục = tiền thu từ SV + tiền trợ cấp học phí = 25 tỉ đồng. Đầu tư/SV = 2,5 triệu đồng (bằng mức học phí). Chất lượng giáo dục ứng với mức đầu tư 2,5 triệu đồng/SV. Rõ ràng, với cùng một mức ngân sách nhưng bằng biện pháp thu học phí mới, mọi SV được hưởng một mức chất lượng giáo dục cao hơn. Tóm lại, chính sách học phí đồng đều không những không đem lại sự công bằng mà hơn nữa còn là trở lực đối với sự phát triển của hệ thống GDĐH. Chính sách thu học phí tùy theo điều kiện thu nhập, trong đó ngân sách hỗ trợ SV nghèo, sẽ cho phép nâng cao được mức đầu tư cho đại học, đồng thời vẫn tạo điều kiện cho người thu nhập thấp tham gia. Ngoài ra, chính sách này còn tạo điều kiện cho những người có thu nhập trung bình trở lên có điều kiện hưởng một dịch vụ giáo dục chất lượng cao hơn tương xứng với số tiền họ bỏ ra. Thực hiện chính sách trên cần một số điều kiện cơ bản. Một là phải biết phân bố thu nhập và ngân sách giáo dục để định mức học phí phổ thông hợp lý. Hai là cần biết thu nhập hộ gia đình để trợ cấp thích hợp cho SV có thu nhập thấp (việc này làm được ở những nước trả lương thông qua ngân hàng). Hệ thống lương giả ở nước ta là một trở ngại lớn. Bước tiến về giáo dục phụ thuộc vào sự tiến bộ của các ngành khác như ngành tài chính trong cải cách tiền lương và ngân hàng trong xây dựng tập quán sử dụng ngân hàng trong đời sống xã hội. Cuối cùng, nguồn tiền do tăng học phí phải được sử dụng và quản lý có hiệu quả để đảm bảo có sự tăng chất lượng giáo dục tương xứng. Nhóm Số sinh viên Khả năng (triệu đồng /học kỳ) Chất lượng mong muốn 1 1.000 4 mức đầu tư 4 triệu đồng/SV 2 4.000 3 3 triệu đồng/SV 3 4.000 2 2 triệu đồng/SV 4 1.000 1 1 triệu đồng/SV 3. Cổ phần hoá đại học có phải là câu trả lời Trong trường hợp đại học, cổ phần hóa có ba phương án sau đây:  - Bán toàn bộ cơ sở  vật chất, thiết bị, sách vở... cho tư nhân, tổ chức tư nhân (tức là tư thục hóa 100%) hay tổ chức công; - Bán một phần tài sản của đại học cho tư nhân, tổ chức tư nhân hay tổ chức công. - Kêu gọi tư nhân, tổ chức tư nhân hay tổ chức công góp vốn đầu tư phát triển trường sở và nhân lực đại học (thí dụ như xây dựng cơ sở vật chất hay trang bị mới) với mục đích kiếm lợi nhuận.  Ở đây chỉ tập trung vào các nhà đầu tư giáo dục tư nhân.  Tư thục hóa 100% đại học, cao đẳng là biện pháp chưa một nước nào trên thế giới thử nghiệm. Tuy cổ phần hóa theo hai phương thức sau khả thi hơn, nhưng vẫn có nhiều vấn đề cần bàn. Hai câu hỏi cần đặt ra ngay khi cổ phần hóa theo phương án thứ 2 và 3 là:  - Tư nhân sẽ mua cổ phần một lần hay đóng góp định kỳ; hay vừa mua cổ phần vừa đóng góp định kỳ?  - Cổ đông sẽ là những nhà đầu tư gián tiếp hay trực tiếp?  Trong trường hợp đầu tư trực tiếp, với những điều kiện nào các cổ đông có thể tham gia vào ban lãnh đạo đại học?  Các trở ngại khi cổ phần hóa đại học Cổ phần hóa đại học rất khó khăn và đầy rủi ro vì hai lý do: giáo dục không phải là một dịch vụ bình thường và đại học không phải là một doanh nghiệp bình thường. Dùng thuật ngữ kinh tế, nếu coi đại học là một đơn vị sản xuất, giá thị trường không phản ánh đúng giá xã hội của đại học. Các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi cổ phần hóa đại học cần được giải quyết gồm :  - Tư cách pháp nhân của tổ chức đứng ra phát hành cổ phiếu là ai? Bộ Giáo dục và Đào tạo hay các trường đại học?  - Trong trường hợp cổ phần hóa theo phương án 2, làm sao đánh giá tài sản của trường  đại học vì một phần không nhỏ tài sản ở dạng vô hình (thí dụ như uy tín đại học)?  Do đó, có nguy cơ tài sản của trường đại học bị bán với giá thấp hơn trị giá thật.   Một khó khăn tương tự là dùng phương pháp kế toán nào để tính lợi nhuận của các đại học và để chia lời lỗ cho các cổ đông?  Chúng ta có thể thấy ngay sự va chạm, xung đột giữa các thành viên đại diện nhà nước và các cổ đông trong việc này. Chính phủ có tiếp tục tài trợ các đại học đã cổ phần hóa hay không và, nếu có, theo công thức nào?  Cổ phần hóa đại học - có cần không? Xã hội hóa đại học, nâng cao chất lượng giáo dục và làm tăng hiệu quả quản trị thường được xem là ba lập luận chính cho chủ trương cổ phần hóa đại học. Nếu tư nhân góp vốn thêm vào nguồn lực công của Nhà nước thì trên nguyên tắc khu vực đại học sẽ có khả năng thu nhận nhiều sinh viên hơn, với điều kiện Chính phủ tiếp tục duy trì ngân sách cho đại học như hiện nay. Một số sinh viên với khả năng tài chính cao, sẽ ghi danh học các trường đại học cổ phần hóa, giải tỏa phần nào áp lực cho các đại học công còn lại. Các sinh viên khác, nhất là sinh viên nghèo, sẽ được hưởng thành quả của cổ phần hóa đại học nếu học phí đại học công duy trì như hay giảm hơn mức hiện nay. Nếu Chính phủ giảm ngân sách cho đại học hay tăng học phí đại học công thì cổ phần hóa đại học có thể làm tăng bất công xã hội trong giáo dục, và do đó đi ngược lại mục đích của xã hội hóa giáo dục. Một lập luận khác là nếu không cổ phần hóa làm sao nâng cao chất lượng? Đồng ý là cổ phần hóa sẽ giúp hiện đại hóa đại học nhanh hơn, nhất là về cơ sở vật chất và thiết bị. Nhưng tất cả mọi người đều biết chất lượng giáo dục tùy thuộc chủ yếu vào đội ngũ giáo viên. Để giảm chi phí, chưa chắc một đại học cổ phần hóa muốn trả lương giáo viên cao hơn các đại học công. Dù có trả nhiều hơn, sự khác biệt sẽ không đủ để các giáo viên của đại học cổ phần hóa tập trung vào công tác giảng dạy và nghiên cứu. Nếu đại học cổ phần hóa trả lương cao hơn đại học công, một vấn đề tế nhị khác là làm sao ấn định mức lương tương xứng với khả năng và đóng góp chuyên môn của từng giáo viên. Về phương diện học thuật, cổ phần hóa đại học có thể gây ra xu hướng thiên về giảng dạy và nghiên cứu có ứng dụng thương mại.  Cổ phần hóa đại học cũng thường được xem là một cách cải tổ phương thức tổ chức và quản lý thiếu linh động và kém hiệu quả của các đại học công hiện nay. Thật ra, nếu Chính phủ vẫn giữ cổ phần chi phối, thì đại học cổ phần hóa vẫn bị trói buộc bởi các hệ thống tổ chức và cơ chế lạc hậu, xơ cứng hiện hữu. Không những thế, sự có mặt của một số cổ đông lớn trong hội đồng quản trị còn có thể gây ra bất đồng giữa mục đích lợi nhuận và các giá trị truyền thống của đại học. Vấn đề tổ chức và quản trị sẽ được trở lại trong một phần sau của bài này.  Nếu các nhà đầu tư giáo dục muốn kiếm siêu lợi nhuận thì cổ phần hóa đại học có thể gây áp lực làm tăng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp, kể cả các sinh viên chưa đủ trình độ. Những hiệu quả (= chi phí/sinh viên tốt nghiệp) giả này gửi các tín hiệu lộn xộn và nguy hại cho thị trường giáo dục và lao động.  Đâu là giải pháp? Trong việc cải tổ đại học, nguồn vốn thường được xem là một vấn đề vướng mắc lớn nhất. Chúng ta có thể tạm chấp nhận rằng trong GDĐH Việt Nam hiện nay số cầu vượt quá số cung. Nhưng chúng ta cũng cần đặt hai câu hỏi: (i) số cầu này có dựa trên kỳ vọng thực tế của học sinh tốt nghiệp THPT hay không? và (ii) có thể làm số cung tăng lên với nguồn lực công hiện hữu không? Nếu không, biện pháp nào là tốt nhất trong việc làm tăng nguồn lực dành cho đại học? Về câu hỏi (i), có lẽ một phần các học sinh muốn ghi danh đại học sẽ cảm thấy thoải mái và thành công hơn trong môi trường cao đẳng. Đây là một khía cạnh của chính sách giáo dục mà Nhà nước cần quảng bá và phát triển hơn. Cần tích cực giúp học sinh có cái nhìn thực tế hơn trong việc lựa chọn hướng đi sau khi tốt nghiệp trung học. Về câu hỏi (ii), nhiều nhà bình luận cho rằng ngân sách giáo dục hiện được sử dụng một cách lãng phí, thiếu minh bạch và kém hiệu quả. Như vậy, việc đầu tiên là phải tìm cách chấn chỉnh hiệu năng đại học công trước khi nghĩ đến việc cổ phần hóa. Nếu quả thật nguồn lực công không đủ đáp ứng yêu cầu dù đã được sử dụng một cách hiệu quả, thì thay vì cổ phần hóa Nhà nước có thể huy động các nguồn vốn khác như sau:  - Vay ODA với lãi suất thấp từ nước ngoài hay các tổ chức quốc tế.  - Vay tư nhân hay tổ chức tư nhân trong nước qua hệ thống nhà băng bưu điện (với lãi suất cao hơn bình thường chút ít và tiền lãi miễn thuế thu nhập).  - Cho phép thành lập các trường đại học tư 100% vốn với một số ưu đãi dài hạn về đất đai và thuế. - Thiết lập vài trường đại học công mới bằng cách liên kết và tái tổ chức các viện nghiên cứu hiện tại.  Nếu Chính phủ vì lý do nào đó phải cổ phần hóa đại học, thì cổ phần hóa một số trường chuyên ngành như công nghệ thông tin (CNTT) là ít rủi ro hơn cả vì các lý do sau đây:  - CNTT là một khu vực mà số cầu vượt số cung có lẽ nhiều nhất. Các sinh viên ngành này sẵn sàng trả học phí cao hơn với kỳ vọng sẽ dễ kiếm được việc làm với số lương xứng đáng sau khi tốt nghiệp.  - Nguy cơ lạm phát bằng cấp tương đối thấp hơn các môn khác vì các nhà thuê mướn có thể đo lường chất lượng giáo dục và đào tạo của CNTT trực tiếp và dễ dàng hơn các môn khác.  - CNTT là một bộ môn mà đại học có thể thiết lập liên kết cụ thể với các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nước ngoài.  - CNTT là một ngành mũi nhọn cần phát triển và hiện đại hóa sớm và nhanh nhất.  Ngoài ra, CNTT còn đóng vai trò hậu cần cho việc phát triển các bộ môn đại học khác.  Một cách làm tăng hiệu quả đại học khả thi nhất là cải tổ hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý đại học công. Về việc này Chính phủ Việt Nam có thể tham khảo các mô hình đại học công của các quốc gia tiên tiến, nhất là các nước nói tiếng Anh như Mỹ, Anh, Canada, Úc...  Các mô hình này thường có các đặc điểm chính sau đây:  - Nhà nước chỉ đóng vai trò chỉ đạo về chính sách và can thiệp gián tiếp qua ngân sách dành cho đại học (tổng số ngân sách, mô hình tài trợ...).  - Hiệu trưởng chịu trách nhiệm điều hành với sự giám sát của hội đồng quản trị. Thành viên của hội đồng quản trị bao gồm các viên chức đại diện chính phủ, giới lãnh đạo đại học, đại biểu nhân viên, sinh viên (chưa hoặc đã tốt nghiệp) và doanh nghiệp. Các thành viên độc lập này làm việc cho hội đồng không ăn lương. Họ có kinh nghiệm và khả năng chuyên môn trong các lĩnh vực tài chính, quản trị doanh nghiệp, luật pháp, lãnh đạo, quản lý, kế hoạch và phát triển. Hội đồng quản trị tiêu biểu cho hệ thống kiểm soát và cân bình cho đại học.  - Đại học có quyền tự chủ trong các lĩnh vực tài chính (chi tiêu, trả lương, ấn định ngân sách cho từng khoa...), hoạt động (hành chính, giảng dạy, nghiên cứu, tư vấn...), nhân sự (mướn và sa thải nhân viên, lương bổng, trách nhiệm, kỷ luật...) và phần nào trong việc tuyển sinh.  Quyền tự chủ này được phân phối xuống từng khoa, ban trong trường.  - Đại học đa ngành: một đại học đa ngành thật sự sẽ hoạt động hiệu quả vì có thể xóa bỏ các hoạt động trùng lặp và làm gia tăng sự chọn lựa môn học của sinh viên.  Tóm lại, để phát triển và hiện đại hóa đại học, Chính phủ Việt Nam có thể xúc tiến các biện pháp ngắn hạn sau: cải tổ hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý đại học; thành lập một vài đại học công mới từ các viện nghiên cứu; cho phép thành lập đại học tư thục 100%; mượn vốn từ các nguồn ODP và tư nhân trong nước, và giới hạn việc cổ phần hóa, nếu cần thiết, vào một vài đại học công nghệ. Tuy nhiên về lâu dài, vấn đề chính vẫn là phát huy và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đại học.          KẾT LUẬN Qua nghiên cứu đề tài, chúng ta đã có cái nhìn sơ bộ về vấn đề thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH, hiểu được tầm quan trọng của nó trong việc đầu tư cho GDĐH. Không thể phát triển GDĐH trong chân không được mà cần có những chính sách và giải pháp hợp lý để có thể thu hút được một khối lượng vốn lớn nhằm tạo điều kiện cho GDĐH phát triển. Bước vào thế kỷ 21, bước vào nền kinh tế thị trường thì đầu tư cho GDĐH không còn là một dịch vụ công như trước nữa. GDĐH không thể tổ chức trong chân không nữa, GDĐH có trăm ngàn mối liên quan với xã hội. Trong thể chế kinh tế thị trường, GDĐH cũng phải tuân theo cơ chế thị trường, hoặc là học theo quy tắc thị trường. Ngoài ra với một số giải pháp đề ra, đó có thể là một hướng lựa chọn cho vấn đề GDĐH ở Việt Nam hiện nay. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt, TS Từ Quang Phương (2005), GT Kinh tế đầu tư, ĐH Kinh tế quốc dân, NXB Thống Kê PGS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt (2005), GT Lập dự án đầu tư, ĐH Kinh tế quốc dân, NXB Thống Kê. Giáo dục Việt Nam 1945 – 2005. TS Nguyễn Thị Minh Hường - Nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH phân bổ sử dụng và quản lý, Tạp chí Thanh tra tài chính, Số 47, tháng 5/2006 GS. TSKH Đặng Ứng Vận - Giải pháp phát triển GDĐH trong cơ chế thị trường, Tạp chí Khoa học giáo dục, Số 12, tháng 9/2006 GS. TS Vũ Ngọc Hải – GDĐH với tư cách là động lực phát triển kinh tế xã hội, tạp chí khoa học giáo dục, Số 12, tháng 9/2006 TS Trần Đình Tuấn - Đổi mới giáo dục trong xu thế hội nhập quốc tế, Tạp chí Khoa học giáo dục, Số 22, tháng 7/2007t Một số trang Web: laodong.com.vn FPT - Aptech WEbside Vietnamnet.com.vn Tbktsg_31May07_1.htm MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0215.doc
Tài liệu liên quan