Đề tài Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

PHẦN MỞ ĐẦU1.Lí do chọn đề tàiTrong quá trình hội nhập và phát triển, vốn đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại cho nền kinh tế của cả một quốc gia. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu đối với Việt Nam đó là thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nhìn lại chặng đường 24 năm qua thì chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào: với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 7%; đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ người nghèo giảm từ 75% năm 1986 xuống còn 13,5% năm 2008; tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được đảm bảo, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện đánh dấu bằng việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), được bầu là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Việt Nam là thành viên tích cực của ASEAN, APEC và các tổ chức quốc tế khác. Để đạt được những thành công đó bên cạnh sự khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước thì sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng đóng vai trò rất quan trọng trong đó có viện trợ phát triển chính thức (ODA) của các quốc gia và các tổ chức quốc tế luôn đóng vai trò chủ đạo, tỷ lệ ODA/GDP bình quân hàng năm khoảng 2,3%. Nguồn vốn ODA đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng đối với nước ta. Nguồn vốn đã đáp ứng được phần nào nhu cầu cấp bách về vốn trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. ODA đã giúp chúng ta tiếp thu và tiếp cận được với những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội tương đối hiện đại. ODA không chỉ đơn thuần là một khoản cho vay mà đi kèm với nó là những điều khoản ràng buộc về kinh tế, chính trị. Bởi vậy, việc quản lý và sử dụng ODA sao cho có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu và định hướng phát triển đất nước, tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào nước ngoài thông qua các khoản viện trợ đó là một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 chúng ta cần phải huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực để phát triển đất nước, trong đó ODA đóng một vai trò quan trọng. Do đó, một số câu hỏi được đặt ra là liệu chúng ta có thể huy động được nhiều hơn nguồn vốn ODA không? Nguồn vốn này có được sử dụng hiệu quả, có thực sự đảm bảo được phát triển kinh tế và nâng cao được đời sống của nhân dân hay không? Và giải pháp nào tốt nhất để nâng cao thu hút và phát huy hiệu quả hơn nữa việc sử dụng nguồn vốn này? Để nghiên cứu và tìm hiểu rõ hơn những điều trên và tìm ra những giải pháp tốt nhất cho nguồn vốn ODA trong thời gian tới, tôi đã chọn đề tài: “Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) - Thực trạng và giải pháp” 2.Mục tiêu nghiên cứu2.1.Mục tiêu chungPhân tích tình hình thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức để thấy được những thành công và những mặt còn hạn chế, đồng thời tìm ra nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và rút ra bài học kinh ngiệm. Từ đó đề ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này trong thời gian tới. 2.2.Mục tiêu cụ thểPhân tích tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong giai đoạn 2008 – 2009Tìm ra nguyên nhân dẫn đến những thành công và hạn chếĐề ra những giải pháp giúp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hổ trợ phát triển chính thức 3.Phương pháp nghiên cứu3.1.Phương pháp thu thập số liệuSố liệu phục vụ cho chuyên đề được thu thập qua các tài liệu như sách báo, tạp chí, internet, các thông tin thị trường và các tài liệu liên quan đến nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. 3.2.Phương pháp phân tích số liệu3.2.1.Phương pháp thống kê mô tả (Descriptive statistics)Là các phương pháp có liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán và mô tả các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu. 3.2.2.Phương pháp so sánhSo sánh số tuyệt đối Là kết quả của phép trừ giữa trị số của năm phân tích so với năm gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện khối lượng và quy mô của các hiện tượng kinh tế. Số tuyệt đối có ý nghĩa quan trọng vì thông qua các số tuyệt đối ta sẽ có một nhận thức cụ thể về quy mô, khối lượng thực tế của hiện tượng nghiên cứu. Số tuyệt đối chính xác là sự thật khách quan, có sức thuyết phục không ai có thể phủ nhận được. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Mục tiêu nghiên cứu 2 2.1. Mục tiêu chung 2 2.2. Mục tiêu cụ thể 2 3. Phương pháp nghiên cứu 2 3.1. Phương pháp thu thập số liệu 2 3.2. Phương pháp phân tích số liệu 2 4. Phạm vi nghiên cứu 3 4.1. Phạm vi không gian 3 4.2. Phạm vi thời gian 4 4.3. Đối tượng nghiên cứu 4 PHẦN NỘI DUNG 5 1. Cơ sở lý luận chung về nguồn viện trợ phát triển chính thức 5 1.1. Tổng quan về ODA 5 1.1.1. Khái niệm vốn ODA 5 1.1.2. Lịch sử hình thành nguồn vốn ODA 6 1.1.3. Các hình thức của ODA 7 1.1.4. Phân loại ODA 7 1.2. Đặc điểm và vai trò của ODA 8 1.2.1. Đặc điểm 8 1.2.2. Vai trò 9 1.3. Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA 11 1.4. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu 11 2. Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam 12 2.1. Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA trong giai đoạn 2008 – 2009 12 2.1.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam 12 2.1.2. Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA 13 2.2. Một số kết quả đạt được và tồn tại cần khắc phục trong quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA 21 2.2.1. Một số kết quả đạt được 21 2.2.2. Những tồn tại cần khắc phục trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA 23 2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến những thành công, hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn ODA và bài học rút ra 24 2.3.1. Nguyên nhân thành công 24 2.3.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế 25 2.3.3. Một số bài học rút ra 26 3. Những giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA và kinh nghiệm của một số quốc gia 27 3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong thu hút và sử dụng vốn ODA 27 3.1.1. Các giải pháp thực hiện 27 3.1.2. Kết quả mà Trung quốc đạt được 28 3.2. Những giải pháp tăng cường thu hút vốn ODA 28 3.3. Những giải pháp nhằm sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả hơn 29 PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2032 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được xem như là các khoản ODA đầu tiên. Mặc dù, mục tiêu chính của các khoản viện trợ này là chính trị nhưng chúng cũng đã có tác dụng quan trọng giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm 1960, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của các nước đang phát triển, cộng với nhận thức thay đổi của các nước giàu đối với sự phát triển của các nước đang phát triển, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) thành lập Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC). Uỷ ban này có nhiệm vụ yêu cầu, khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD cho các nước đang và kém phát triển. Trong bản báo cáo đầu tiên của mình, DAC đã sử dụng thuật ngữ “Offical Development Assistance”, với nghĩa là sự trợ giúp tài chính có ưu đãi của các nước phát triển cho các nước đang phát triển. Các hình thức của ODA Nguồn vốn ODA có các hình thức sau: Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ). Nhưng đôi khi là hỗ trợ bằng hiện vật (hỗ trợ hàng hóa) như hỗ trợ nhập khẩu bằng hàng hoặc vận chuyển hàng hóa vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc có thể chuyển hóa thành hỗ trợ ngân sách. Tín dụng thương mại với lãi suất thấp, kéo dài thời gian trả… trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hóa có ràng buộc. Viện trợ chương trình: là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho mục đích tổng quát với thời hạn nhất định mà không cần xác định chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào. Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của viện trợ chính thức và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng vốn thực hiện ODA và nó có 2 loại là viện trợ cơ bản và viện trợ kỹ thuật. Viện trợ cơ bản thường cấp cho những dự án xây dựng đường xá, cầu cống, cơ sở hạ tầng, … Viện trợ kỹ thuật cấp cho viện trợ tri thức, tăng cường cơ sở, lập kế hoạch cố vấn cho các công trình, nghiên cứu trước khi đầu tư hoặc hỗ trợ các lớp đào tạo. Phân loại ODA Có nhiều phương thức phân loại nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức khác nhau, tùy theo từng phương thức phân loại mà ODA có các loại sau: Phân loại theo phương thức hoàn trả ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp vốn ODA mà nước tiếp nhận không phải hoàn trả lại cho các nhà tài trợ. ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ; bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc. ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc. Phân loại theo nguồn cung cấp ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia thông qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ. ODA đa phương: Là loại ODA do các tổ chức quốc tế, các tổ chức liên chính phủ tài trợ cho Chính phủ của một nước. ODA của các tổ chức phi chính phủ: Là loại ODA do các tổ chức phi chính phủ cung cấp. Căn cứ vào điều kiện để nhận ODA ODA không ràng buộc: Là khoản ODA bằng vốn vay hoặc không hoàn lại không kèm theo những điều khoản ràng buộc liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ.  ODA có ràng buộc: Là khoản ODA bằng vốn vay hoặc không hoàn lại có kèm theo các điều kiện liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ từ một số nhà cung cấp hoặc quốc gia nhất định do nhà tài trợ quyết định. Căn cứ theo mục đích Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường như đường xá, cầu, cảng,... Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi. Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực…; hình thức hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại. Đặc điểm và vai trò của ODA Đặc điểm Vốn ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi: Với mục tiêu trợ giúp các nước đang và chậm phát triển, vốn ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn tài trợ nào khác, thể hiện ở những điều sau: Khối lượng vốn vay lớn từ hàng chục đến hàng trăm triệu USD. Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, thường là 20 – 50 năm và có thời gian ân hạn dài (chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc). Thông thường vốn ODA có một phần viện trợ không hoàn lại, phần này dưới 25% tổng số vốn vay. Ví dụ OECD cho không 20 - 25% tổng vốn ODA. Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Các khoản vay thường có lãi suất thấp (thường dưới 3%), thậm chí không có lãi suất. Vốn ODA thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định: Tuỳ theo khối lượng vốn ODA và loại hình viện trợ mà vốn ODA có thể kèm theo những điều kiện ràng buộc nhất định. Những điều kiện ràng buộc này có thể là ràng buộc một phần và cũng có thể là ràng buộc toàn bộ về kinh tế, xã hội và thậm chí cả ràng buộc về chính trị. Thông thường, các ràng buộc kèm theo thường là các điều kiện về mua sắm, cung cấp thiết bị, hàng hoá và dịch vụ của nước tài trợ đối với nước nhận tài trợ. ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ: Vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, các nước nhận ODA phải sử dụng sao cho có hiệu quả, tránh lâm vào tình trạng không có khả năng trả nợ. Vai trò Nguồn vốn ODA được đánh giá là nguồn ngoại lực quan trọng giúp các nước đang phát triển thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mình. Vai trò của ODA thể hiện như sau: ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước nghèo đảm bảo chi đầu tư phát triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là 20 - 50 năm, lãi suất thấp khoảng dưới 3%/năm. Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như vậy Chính phủ các nước đang phát triển mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường xá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế. Những cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội được xây dựng mới hoặc cải tạo nhờ nguồn vốn ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của các nước nghèo. Theo tính toán của các chuyên gia của WB, đối với các nước đang phát triển có thể chế và chính sách tốt, khi ODA tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng trưởng tăng thêm 0,5%. ODA giúp các nước đang phát triển phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường. Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc dạy và học của các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, một lượng ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo sức khoẻ cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước đang phát triển đã gia tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình. ODA giúp các nước đang phát triển xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói nghèo là một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi hình thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của ODA. Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và giảm 0,9% tỷ lệ tỷ vong ở trẻ sơ sinh. Và nếu như các nước giàu tăng 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ cứu được 25 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo. ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của các nước đang phát triển. Đa phần các nước đang phát triển rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây bất lợi cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc biệt các khoản trợ giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ. ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ sung cho đầu tư tư nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm “hút” đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ. ODA giúp các nước đang phát triển tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế. Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA Theo điều 3 Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ban hành kèm theo nghị định số 131/2006/NĐCP ngày 9 tháng 11 năm 2006 của Chính Phủ) thì vốn ODA được ưu tiên sử dụng cho những công trình, dự án thuộc các lĩnh vực sau: Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản) kết hợp xoá đói giảm nghèo. Xây dựng hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại. Phát triển kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, lao động, việc làm, dân số và một số lĩnh vực khác). Bảo vệ môi trường và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên Tăng cường năng lực thể chế, quản lý, kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai. Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu Cho đến nay, sau 16 kỳ hội nghị CG được tổ chức, Việt Nam có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương có các chương trình ODA thường xuyên. Một số nhà tài trợ song phương lớn như: Australia, Đức, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Singapore, Thụy Sĩ, Trung Quốc, Vương Quốc Anh, … Một số nhà tài trợ đa phương lớn gồm: Các tổ chức tài chính quốc tế: Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB) Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Ủy ban châu Âu (EC) Liên minh Châu Âu (EU) Các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc bao gồm: Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA) Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD) Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO) Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Các tổ chức phi Chính phủ quốc tế tại Việt Nam (NGO) Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA trong giai đoạn 2008 – 2009 Cơ sở pháp lý cho hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam Năm 1993 việc quản lý và sử dụng vốn ODA được điều tiết bởi từng quyết định riêng lẻ của Thủ tướng Chính phủ đối với từng dự án và nhà tài trợ cụ thể. Kể từ Hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam họp tại Paris diễn ra vào tháng 11 năm 1993, nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam, Chính phủ đã không ngừng hoàn thiện khung thể chế về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA trên nhiều mặt theo hướng đồng bộ hóa với các quy định về quản lý nguồn vốn nước ngoài, các văn bản pháp quy trong nước cũng như chủ trương phân cấp mạnh mẽ quản lý đầu tư và xây dựng của Chính phủ, đó là: Định hướng quản lý nợ nước ngoài đến năm 2010 (theo quyết định số 135/2005/QĐ-TTg ngày 8 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ) Nghị định số 131/2006/QĐ-TTg ngày 9 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Trên cơ sở này, các cơ quan quản lý nhà nước về ODA đã ban hành nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn này, như là: Thông tư số 03/2007/TT-BKH ngày 12 tháng 03 năm 2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Ban quản lý chương trình, dự án ODA Quyết định số 803/2007/QĐ-BKH ngày 30 tháng 7 năm 2007 ban hành chế độ báo cáo tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA Thông tư số 01/2008/TT-BNG ngày 04 tháng 02 năm 2008 hướng dẫn quy trình, thủ tục ký kết và thực hiện điều ước quốc tế về hướng dẫn trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện điều ước quốc tế về nguồn vốn ODA Quyết định số 883/2008/QĐ-BKH ngày 14 tháng 07 năm 2008 về việc ban hành kế hoạch hành động cải thiện tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2008 – 2009 Quyết định số 119/2009/QĐ-TTg ngày 01 tháng 10 năm 2009 ban hành Quy chế chuyên gia nước ngoài thực hiện các chương trình, dự án ODA Quyết định 747/QĐ-BKH ngày 28/05/2010 ban hành kế hoạch hành động cải thiện tình hình thực hiện các chương trình, dự án thời kỳ 2010-2011 Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA Công tác thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) trong giai đoạn 2008 – 2009 đã được thực hiện tích cực, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đó là "Việt Nam sẵn sàng là một đối tác vững chắc trong cộng đồng quốc tế, nổi bật cho hòa bình, độc lập và phát triển". Việc thu hút ODA được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và ở tất cả các cấp từ Trung ương đến cơ sở cũng như ở các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Mặc dù tình hình kinh tế trong nứớc gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào năm 2008, song các nhà tài trợ tiếp tục thực hiện các cam kết ODA dành cho Việt Nam với mức cam kết năm sau luôn cao hơn năm trước. BẢNG 2.1: KHỐI LƯỢNG VỐN ODA CAM KẾT, KÍ KẾT VÀ SỬ DỤNG TRONG 2 NĂM 2008 – 2009 ĐVT: triệu USD Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch Cam kết 5.426 5.914 488 8,99% Ký kết 3.950 5.793 1.843 46,66% Sử dụng 2.253 3.653 1.400 61,14% (Nguồn: Bộ KH & ĐT) BẢNG 2.2: BẢNG THỂ HIỆN TỈ LỆ VỐN VAY VÀ VỐN VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI TRONG TỔNG VỐN ODA ĐVT: triệu USD Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch Ký kết Sử dụng Ký kết Sử dụng Ký kết Sử dụng Vốn vay 2.904 1.933 5.530 3.283 2.626 90,43% 1.350 69,84% Viện trợ không hoàn lại 1.046 320 263 370 -783 -74,86% 50 15,63% Tổng cộng 3.950 2.253 5.793 3.653 1.843 46,66% 1.400 61,14% (Nguồn: Bộ KH & ĐT) Để hiện thực hóa số vốn 5,914 tỷ USD ODA đã cam kết tại Hội nghị thường niên Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (Hội nghị CG) năm 2008, cũng như những cam kết của các năm trước, các nhà tài trợ đã hợp tác chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương trong việc xây dựng và phê duyệt dự án, ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA. Tổng vốn ODA đã ký từ năm 2009 đạt 5.793 triệu USD (trong đó, vốn vay: 5.530 triệu USD, viện trợ không hoàn lại: 263 triệu USD), cao hơn 46,66% so với vốn ODA ký kết năm 2008 Một số nhà tài trợ có giá trị vốn ODA đã ký lớn như Nhật Bản (2.112,28 triệu USD), WB (1.445,86 triệu USD) và ADB (1.330,7 triệu USD). Những chương trình, dự án có giá trị lớn được ký kết tập trung chủ yếu vào lĩnh vực giao thông, cấp thoát nước và phát triển đô thị, bao gồm: "Xây dựng đường vành đai 3 Hà Nội" (245,27 triệu USD); “Cải thiện môi trường nước thành phố Huế” (182,48 triệu USD) do JBIC tài trợ; “Khoản vay hỗ trợ khắc phục tác động khủng hoảng” trị giá 500 triệu USD, “Phát triển toàn diện thành phố Thanh Hóa” trị giá 104,7 triệu USD do ADB và Hàn Quốc tài trợ; “Tín dụng ngành giao thông vận tải để nâng cấp mạng lưới đường bộ giai đoạn 2” trị giá 183,51 triệu USD; “Xây dựng tuyến đường sắt đô thị thành phố Hà Nội” trị giá 150,43 triệu USD do Nhật Bản tài trợ; và “Khoản tài trợ bổ sung cho Dự án năng lượng nông thôn II” trị giá 200 triệu USD, “Chương trình bảo đảm chất lượng trường học” trị giá 127 triệu USD, “Cung cấp nước sạch và thủy lợi tỉnh Bình Thuận” trị giá 19,74 triệu USD và “Thoát nước và xử lý nước thải thành phố Cà Mau” trị giá 17,89 triệu USD do Ý tài trợ, …Ngoài ra, còn có một số khoản viện trợ không hoàn lại như: “Phát triển nông nghiệp miền Tây Nghệ An giai đoạn III” trị giá 7,79 triệu USD do Luxembourg viện trợ, “Chương trình hợp tác chung với Liên Hợp Quốc về bình đẳng giới” trị giá 4,6 triệu USD do Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) viện trợ,… Các khoản tài trợ này góp phần hỗ trợ cho phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn và giúp vốn cho nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp và ngành nghề thủ công. Sự hỗ trợ này hết sức quý báu trong bối cảnh khu vực nông nghiệp và người dân nông thôn chịu tác động rất tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu, nhất là giá hàng nông sản xuất khẩu sụt giảm nghiêm trọng và thị trường tiêu thụ bị thu hẹp. Khoản vay hỗ trợ khắc phục hậu quả khủng hoảng kinh tế của ADB trị giá 500 triệu USD tạo ra nguồn vốn quan trọng để kích cầu sản xuất, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay ngân hàng. Khoản vay kích thích kinh tế và tín dụng hỗ trợ giảm nghèo lần thứ 8 trị giá 54,9 tỷ Yên do Nhật Bản tài trợ được ký ngày 7/11/2009 nhân chuyến viếng thăm Nhật Bản và tham dự Hội nghị GMS cấp cao các nước tiểu vùng Mê-kông mở rộng tại Tokyo của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, đã cung cấp nguồn vốn quan trọng góp phần kích thích phát triển mạnh động thái hồi phục tích cực của nền kinh tế Việt Nam và giảm nghèo, đồng thời chuẩn bị cho những bước phát triển mạnh tiếp theo sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu... Tình hình giải ngân vốn ODA trong hai năm qua có những tiến bộ đáng kể. Kế hoạch giải ngân năm 2009 đề ra với tổng mức 1.900 triệu USD, trong đó vốn vay là 1.600 triệu USD và viện trợ không hoàn lại là 300 triệu USD. Mức giải ngân vốn ODA năm 2009 đã vượt kế hoạch đề ra, đạt khoảng 3.653 triệu USD (vốn vay: 3.283 triệu USD, viện trợ không hoàn lại: 370 triệu (USD) nhờ một số khoản vốn ODA giải ngân nhanh do một số nhà tài trợ cung cấp để hỗ trợ khắc phục hậu quả khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tình hình giải ngân vốn ODA trong năm 2009 đã được cải thiện đáng kể là nhờ có sự điều hành sát sao của Chính phủ, nỗ lực to lớn của các ngành, các cấp và các nhà tài trợ trong việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn ODA trong khung khổ thực hiện chủ trương và các giải pháp kích cầu của Chính phủ. Công tác quản lý và thực hiện vốn ODA ở các Bộ, ngành và địa phương (Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, TP. Cần Thơ, Thái Nguyên,...) đã được cải thiện thông qua việc ban hành các quy chế nội bộ về vận động, thu hút và sử dụng vốn ODA tạo thuận lợi cho việc tinh giản quy trình, thủ tục và tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ngành hoặc đơn vị liên quan. BẢNG 2.3: CƠ CẤU VỐN ODA SỬ DỤNG THEO NGÀNH VÀ LĨNH VỰC TRONG 2 NĂM 2008 - 2009 Các lĩnh vực ODA sử dụng (triệu USD) Cơ cấu (%) Nông - lâm nghiệp, thủy sản kết hợp phát triển nông nhiệp và nông thôn – Xóa đói giảm nghèo 1.096,97 18,57 Giao thông vận tải và bưu chính viễn thông 1.290,41 21,85 Cấp thoát nước và phát triển đô thị 785,03 13,30 Năng lượng và công nghiệp 976,91 16,54 Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác (bao gồm xây dựng thể chế, tăng cường năng lực, …) 1.756,68 29,74 Tổng cộng 5.906 100 (Nguồn: Bộ KH & ĐT) Trong các ngành và lĩnh vực ưu tiên vốn ODA, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án ODA ký kết trong giai đoạn 2008 – 2009 đạt tổng trị giá khoảng 1,1 tỷ USD, chiếm 18,57% tổng vốn ODA; trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự án giảm nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng, Dự án phát triển sinh kế miền Trung, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo khác đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục. Một số dự án tiêu biểu như: “Tín dụng giảm nghèo 7 (PRSC 7)” (150 triệu USD) do WB tài trợ, “Hiệp định khung Việt Nam - Thụy Điển về hợp tác phát triển” (100 triệu USD); Hiệp định khung về kế hoạch chung hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và 6 tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam (170 triệu USD) Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành sử dụng vốn ODA lớn nhất với tổng giá trị trên 1,29 tỷ USD (chiếm 21,85%) trong giai đoạn qua. Nhờ nguồn vốn này Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và đường thủy nội địa. Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể nêu lên một số dự án như: hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường xuyên Á Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân, cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các cầu lớn như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy. Hệ thống thông tin liên lạc ven biển, điện thoại nông thôn và internet cộng đồng... Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với các dự án đã ký trong thời gian qua đạt trên 0,9 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn như: Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 475 MW; nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện Ô Môn công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Đại Ninh công suất 360 MW nhằm cải tạo và phát triển mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng nhu cầu điện gia tăng hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị trấn, thị xã, khu công nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước. Đây là nguồn vốn lớn và có ý nghĩa trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, khu vực tư nhân trong và ngoài nước trong giai đoạn phát triển ban đầu còn chưa mặn mà với đầu tư phát triển nguồn và lưới điện vì yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn chậm. Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật là những lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương trình, dự án đạt tổng số vốn trên 1,7 tỷ USD (chiếm 29,74%) Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, cung cấp học bổng đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào tạo và đào tạo lại tại nước ngoài về các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý. Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng 58% trong tổng vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và tăng cường trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và các trạm y tế xã, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia,..., tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét; đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành. Nhiều chương trình và dự án ODA hỗ trợ Việt Nam bảo vệ môi trường và phát triển bền vững như các chương trình trồng rừng và phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; các chương trình và dự án xây dựng và bảo vệ các khu sinh quyển, rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,... Ngoài ra, hơn 1 tỷ USD vốn ODA còn được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách thông qua các khoản vay và viện trợ không hoàn lại gắn với chính sách của WB, ADB, IMF và một số nhà tài trợ song phương như hỗ trợ thực hiện các chính sách kinh tế trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng, phát triển khu vực tư nhân, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,… BẢNG 2.4: CƠ CẤU VỐN ODA SỬ DỤNG THEO VÙNG, LÃNH THỔ TRONG 2 NĂM 2008 - 2009 Vùng, lãnh thổ ODA sử dụng (triệu USD) Cơ cấu (%) Vùng trung du miền núi Bắc Bộ 925,47 15,67 Vùng Đồng bằng sông Hồng 1.102,65 18,67 Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 984,53 16,67 Vùng Tây Nguyên 747,70 12,66 Vùng Đông Nam Bộ 1.161,71 19,67 Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long 983,94 16,66 Tổng cộng 5.906 100 (Nguồn: Bộ KH & ĐT) Vùng trung du miền núi Bắc Bộ: ưu tiên sử dụng ODA (chiếm 15,67% tương đương 925,67 triệu USD) để thực hiện các chương trình và dự án trong các lĩnh vực như phát triển lâm nghiệp bền vững, tiếp cận các dịch vụ cơ sở hạ tầng bao gồm điện, thủy lợi, nước sạch và giao thông nông thôn, phát triển dân tộc thiểu số; xây dựng các trường dân tộc nội trú và tăng cường trang thiết bị cho các trường đại học, tăng cường trang thiết bị cho bệnh viện tuyến tỉnh và hình thành các trung tâm y tế; phát triển cơ sở hạ tầng nhằm đẩy mạnh quan hệ kinh tế với Trung Quốc, tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp. Vùng đồng bằng sông Hồng là khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc: ưu tiên sử dụng ODA đạt 1.102,65 triệu USD (chiếm 18,67%) để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển trong các lĩnh vực như hiện đại hoá kết cấu hạ tầng (Dự án Phát triển giao thông đô thị Hà Nội trị giá 100 triệu USD), cải tạo các dịch vụ cơ sở hạ tầng khác; hỗ trợ xây dựng và trang bị một số trường đại học; phát triển hệ thống các trường đào tạo nghề; hỗ trợ đa dạng hóa thu nhập cho các hộ nông dân; tăng cường trang thiết bị cho hệ thống bệnh viện tuyến tỉnh, thành phố; phòng chống ô nhiễm môi trường; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: ưu tiên sử dụng ODA trong thời gian qua đạt 98,453 triệu USD (chiếm 16,67%) để thực hiện các chương trình, dự án trong các lĩnh vực như quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên rừng; các hệ thống thủy lợi; giảm thiểu thảm hoạ thiên tai; giao thông nông thôn; hỗ trợ ngư dân ven biển và đồng bào thiểu số; phát triển cơ sở hạ tầng để thúc đẩy thương mại với các vùng khác trong nước và quốc tế; phát triển hệ thống các trường dạy nghề; phát triển hệ thống y tế; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp. Vùng Tây Nguyên ưu tiên sử dụng ODA cho các lĩnh vực như trồng rừng và bảo vệ các vườn quốc gia; xây dựng các công trình thủy lợi; phòng chống thiên tai, dịch bệnh; nâng cấp các quốc lộ nối các tỉnh duyên hải miền Trung, nâng cấp các tuyến đường sang Campuchia và Lào; cải thiện khả năng tiếp cận các cơ sở hạ tầng nông thôn; tăng cường các cơ hội tạo thu nhập cho người dân nông thôn; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp; tổng vốn ODA sử dụng thời gian qua đạt 74,77 triệu USD chiếm 12,66%. Vùng đông Nam Bộ bao gồm khu kinh tế trọng điểm phía Nam là vùng sử dụng vốn ODA nhiều nhất, đạt 116,171 triệu USD chiếm 19,67%; ưu tiên sử dụng ODA để thực hiện các chương trình, dự án trong các lĩnh vực thích hợp như hỗ trợ về khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp; đẩy mạnh trồng rừng phòng hộ ven biển; xây dựng hệ thống giao thông bao gồm các đường vành đai quanh thành phố Hồ Chí Minh, “Đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây” trị giá 410,20 triệu USD; hiện đại hoá hệ thống đường sắt và đường thủy, xây dựng cảng hàng không quốc tế mới và hệ thống giao thông công cộng ở thành phố Hồ Chí Minh; hoàn thiện và xây dựng hệ thống cấp và thoát nước nhằm cải thiện môi trường đô thị; tăng cường trang thiết bị y tế cho các bệnh viện tỉnh; xây dựng các trường đào tạo nghề; tăng cường năng lực quản lý đô thị. Vùng đồng bằng sông Cửu Long với số vốn ODA là 983,94 triệu USD (chiếm 16,66%) đã ưu tiên sử dụng ODA cho các lĩnh vực như: quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên; các hệ thống thủy lợi; giao thông nông thôn; phát triển giao thông đường thủy; khôi phục tuyến đường sắt thành phố Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho; phát triển cơ sở hạ tầng thành phố Cần Thơ (Dự án Giao thông đồng bằng sông Cửu Long (150 triệu USD), dự án Cầu Cần Thơ, Cầu Mỹ Thuận); phát triển cơ sở hạ tầng môi trường; đầu tư vào phát triển nông thôn tổng hợp; cải thiện các dịch vụ y tế, giáo dục; phát triển các trường dạy nghề; xây dựng trường Đại học Cần Thơ thành trường trọng điểm quốc gia; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp. Một số kết quả đạt được và tồn tại cần khắc phục trong quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA Một số kết quả đạt được Sau hơn 15 năm được huy động để phục vụ công cuộc phát triển của đất nước, nguồn vốn ODA đã đem lại những thành tựu bước đầu quan trọng. Hàng trăm dự án ODA được đưa vào thực hiện đã hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống của nhân dân đồng thời phù hợp với chủ trương và đường lối chỉ đạo của Đảng. Nguồn vốn ODA đã bổ sung một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển, chiếm khoảng từ 22% đến 25% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả phần vốn ODA cho vay lại từ ngân sách nhà nước). ODA rõ ràng sẽ trở thành một kênh thu hút tài chính quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặc dù nhận được một số lượng vốn ODA tương đối lớn, nhưng nợ nước ngoài của nước ta vẫn còn trong khu vực an toàn như nhận xét của IMF (chiếm 30% GDP quốc gia và nằm trong giới hạn 50% GDP trong giai đoạn 2001 - 2010). Những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA đã góp phần cải thiện cơ bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Thông qua các dự án ODA, hệ thống đường bộ được phát triển đáng kể từ quốc lộ 1A, 10, 18, 9, đường xuyên Á (đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài), các cầu lớn (Mỹ Thuận, Cần Thơ, Thanh Trì,...); nâng cấp và mở rộng các cảng biển như Cái Lân (Hải Phòng), Sài Gòn, Tiên Sa (Đà Nẵng), xây dựng cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, phát triển giao thông nông thôn ở hầu hết các tỉnh... Nguồn vốn ODA đã đầu tư phát triển ngành điện bao gồm phát triển nguồn điện (các dự án Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2-1 với công suất 288MW, Phả Lại 2, Hàm Thuận - Đa My, Đại Ninh, Đa Nhim) và phát triển hệ thống đường dây 500 kV Plâyku - Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố. ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo. Số liệu các cuộc điều tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức 70% vào năm 1986 xuống còn 13,5% năm 2008; tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 24,2% năm 2000 lên 30% năm 2009. Đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, thu nhập bình quân trên đầu người khoảng 1057 USD/người/năm năm 2009. Khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người so với các nước trong khu vực vẫn còn lớn, năm 2009 thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng 33% GDP/người của Trung Quốc, 11% của Malaysia và bằng khoảng 4% của Hàn Quốc. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng từ 71 tuổi năm 2002 lên 74,3 tuổi năm 2009. Thu nhập thực tế của mỗi người dân sau 10 năm tăng gấp 3,5 lần. Những kết quả này có sự góp phần quan trọng của ODA, điều này được thể hiện rõ nét thông qua các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xoá đói giảm nghèo (như dự án giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn II) trong đó nguồn vốn ODA đã giúp nông dân nghèo tiếp cận nguồn vốn vay để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm  y tế, trường học... ODA đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tác động tích cực đến việc cải thiện chỉ số phát triển con người ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn ODA cho giáo dục và đào tạo ước chiếm khoảng 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, như các dự án ODA hỗ trợ cải cách giáo dục tiểu học, trung học và đại học, tự án tạo nghề... Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình quốc gia, ngành có ý nghĩa sâu rộng như chương trình dân số và phát triển, chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em, chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, …Lĩnh vực y tế cũng mang lại nhiều thành tựu tốt đẹp: tỷ suất tử vong mẹ giảm mạnh trong hai thập kỷ qua: từ 233/100.000 trẻ đẻ sống trong năm 1990 xuống còn 75/100.000 trẻ đẻ sống trong năm 2009; tỷ lệ phụ nữ mang thai được khám thai và tiêm phòng đã tăng lên rõ rệt trong thời gian qua; mạng lưới y tế cơ sở về chăm sóc sức khoẻ bà mẹ được củng cố và nâng cấp. Việc thực hiện mục tiêu Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai dưới nhiều hình thức. Đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam đã bước đầu được kiềm chế tốc độ gia tăng và có xu hướng giảm trong hai năm gần đây. Bệnh sốt rét đang được khống chế và nhiều vùng đã được loại trừ. Chương trình phòng chống lao đã thu được những kết quả tích cực, được thế giới đánh giá cao. Quan hệ giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ tục ODA. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ... nghiên cứu áp dụng các mô hình viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành, ...), hài hoà quá trình chuẩn bị dự án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm, tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA. Những tồn tại cần khắc phục trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA Bên cạnh những mặt được của ODA hỗ trợ quá trình phát triển, việc sử dụng ODA trong thời gian qua cũng bộc lộ những yếu kém, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực này: Giải ngân còn thấp và không đồng điều: theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2009, trong tổng số 556 dự án ODA thì chỉ có 121 dự án đạt mức giải ngân từ 60% trở lên so với kế hoạch; một số khối bộ, ngành và địa phương có tỷ lệ giải ngân thấp như: Bộ Giao thông vận tải chỉ giải ngân được 38% so với kế hoạch năm, Bộ thông tin và truyền thông là 32%, Tập đoàn Bưu chính viễn thông là 19%, Thành phố Hải Phòng giải ngân gần 40% Chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất của ODA: Việc coi vốn ODA của nước ngoài, dù là vốn vay, là tiền của người khác cho mình, dù mình sử dụng như thế nào cũng là “quà biếu không” hiện nay vẫn còn tồn tại trong không ít các nhà chức trách quản lý dự án. Vì không coi trọng nguồn vốn này, dẫn tới việc mua sắm tràn lan (như các dự án tại PMU 18) không tiết kiệm, giải ngân cho hết tiền nhưng không chú trọng hiệu quả mang lại. Vẫn còn nhiều tiêu cực và thất thoát vốn ODA mặc dù đây là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các ngành, các cấp. Chẳng hạn như dự án “Giao thông nông thôn” (tổng vốn đầu tư 145,3 triệu USD) do Ngân hàng Thế giới cho vay vốn ODA và Chính phủ Anh viện trợ không hoàn lại. Thanh tra 700 dự án, hạng mục, công trình của dự án này (số vốn 523 tỷ đồng), người ta cũng đã phát hiện nhiều sai phạm, với tổng giá trị trên 13,4 tỷ đồng. Một số nguyên nhân dẫn đến những thành công, hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn ODA và bài học rút ra Nguyên nhân thành công Tình hình chính trị ổn định, sự nghiệp đổi mới toàn diện đời sống kinh tế xã hội tiếp tục được triển khai mạnh mẽ và sâu rộng đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nước được cộng đồng viện trợ ưu thích. Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 7%), những tiến bộ xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, đã tạo ấn tượng mạnh mẽ đối với bạn bè quốc tế. Tiến trình hội nhập sâu của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới và khu vực diễn ra sôi động, với bước ngoặt là việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chính phủ luôn coi trọng việc hoàn thiện môi trường pháp lý để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA. Công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA đã đạt được nhiều bước tiến bộ, thành lập các Ban thanh tra Chính phủ để kiểm tra các dự án nhằm hạn chế thất thoát và rút kinh nghiệm. Việc chỉ đạo thực hiện ODA của chính phủ kịp thời và cụ thể như đảm bảo vốn đối ứng, nhờ vậy nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án đã được tháo gỡ. Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ nhằm tăng cường quản lý ODA, làm hài hoà thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ để thúc đẩy tiến trình thực hiện các chương trình, dự án. Quá trình sử dụng vốn ODA đã diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới và cả ở Việt Nam từ nhiêu năm trước, điều này giúp các nhà hoạch định chiến lược có thêm điều kiện nghiên cứu, rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công và vướng mắc khi sử dụng nguồn vốn này, từ đó kịp thời điều chỉnh để có kế hoạch sử dụng sát thực và hữu hiệu hơn. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế Nâng cao hiệu quả sử dụng ODA là một trong những vấn đề quan trọng mà Việt Nam phải giải quyết. Một trong những nguyên nhân chính của việc sử dụng ODA chưa có hiệu quả là nhận thức và hiểu về bản chất của ODA chưa được chính xác và đầy đủ trong quá trình huy động và sử dụng. Nhận thức cho rằng ODA là cho không và trách nhiệm trả nợ nguồn vốn vay ODA thuộc về chính phủ. Nhận thức sai lệch như vậy đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả trong việc thực hiện một số chương trình và dự án ODA. Thực tế, mặc dù hầu hết ODA là dưới dạng các khoản vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian trả nợ và ân hạn dài, ODA không phải là thứ cho không và việc sử dụng ODA là một sự đánh đổi. Nếu sử dụng ODA không hiệu quả, gánh nặng trả nợ sẽ tăng lên. Mặt khác, việc kết hợp nguồn vốn ODA với các nguồn vốn khác còn yếu, điều này cũng làm giảm hiệu quả của nguồn vốn ODA. “Phải quản lý dựa vào kết quả” là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất trong quản lý nguồn ODA, lại không phải luôn có sự đồng tình từ phía các cơ quan chủ quản và chủ đầu tư các dự án ODA. Các chuyên gia của Chương trình nâng cao năng lực toàn diện về quản lý ODA tại Việt Nam đã tiến hành thăm dò ý kiến của 24 cơ quan chủ quản và quản lý vốn ODA, kết quả chỉ có 70,2% tán đồng quan điểm trên, số còn lại không đồng ý hoặc không có ý kiến. Điều này cho thấy sự mơ hồ trong nhận thức và phương cách quản lý của một số cơ quan chủ quản. Sự khác nhau trong nhận thức giữa các đối tác Việt Nam và các nhà tài trợ còn lớn, làm hạn chế việc thực hiện các dự án. Trong Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ năm 2007, các nhà tài trợ cho Việt Nam đã khẳng định rằng việc giải ngân ODA sẽ được cải thiện mạnh mẽ nếu cách thức thực hiện của Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ hài hoà được với nhau. Khuôn khổ pháp lý về quản lý và sử dụng vốn ODA chưa đồng bộ và việc hiểu các văn bản này cũng không thống nhất. Tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, chuyển nguồn lớn vẫn chậm được khắc phục, dẫn tới hiệu quả nhiều chương trình, dự án không cao. Công tác theo dõi và đánh giá dự án buông lỏng. Nhiều cơ quan chủ quản ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lý được các dự án của mình. Kỷ luật báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thực hiện thiếu nghiêm túc. Cơ chế quản lý về sử dụng các nguồn vốn viện trợ còn nhiều điểm chồng chéo, rườm rà nên đôi lúc dẫn đến tình trạng chậm trễ trong việc thành lập các Ban quản lí dự án. Một số bài học rút ra Thực tế thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua cho thấy những bài học chủ yếu sau: Cần nhận thức đúng đắn về ODA, coi ODA là nguồn lực bên ngoài có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực nội sinh đối với quá trình phát triển ở cấp độ quốc gia, ngành, địa phương và đơn vị thụ hưởng. ODA không phải là "thứ cho không" mà chủ yếu là vay nợ nước ngoài theo các điều kiện ưu đãi, gắn với uy tín và trách nhiệm quốc gia trong quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế. Để phát huy vai trò làm chủ trong thu hút và sử dụng ODA nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA phục vụ sự nghiệp phát triển, phải dựa trên cơ sở chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành và địa phương. Sự cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và có sự tham gia của các đối tượng thụ hưởng sẽ bảo đảm việc thực hiện các chương trình, dự án ODA có hiệu quả, phòng và chống được thất thoát, lãng phí và tham nhũng. Xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy với các nhà tài trợ trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, hợp tác xây dựng và cùng chia sẻ trách nhiệm trong cung cấp và tiếp nhận ODA là yếu tố không thể thiếu để quản lý và sử dụng ODA có hiệu quả. Những giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA và kinh nghiệm của một số quốc gia Kinh nghiệm của Trung Quốc trong thu hút và sử dụng vốn ODA Các giải pháp thực hiện Nguyên tắc vay nợ của Trung Quốc là chú trọng các khoản vay trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi của các nước và các tổ chức tiền tệ quốc tế, tận dụng các khoản vay hỗn hợp mang tính ưu đãi, các khoản vay xuất khẩu và các khoản vay thương mại, lựa chọn các điều kiện vay hợp lý nhất. Trung Quốc chú trọng hơn tới hình thức vay theo dự án. Các khoản vay đều phải là các khoản vay của các dự án, không vay để bù đắp nợ tài chính. Chú trọng hợp lý hoá hướng đầu tư của các khoản vay. Các khoản vay nước ngoài phần lớn được hưởng vào các ngành hạ tầng cơ sở như: năng lượng, giao thông. Ngoài ra, có thể đầu tư vào các dự án then chốt của ngành công nghiệp, đầu tư cải tạo kỹ thuật của các doanh nghiệp công nghiệp, xây dựng nông nghiệp, đầu tư cho phát triển công nghiệp xây dựng, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, các dự án nghiên cứu phát triển khoa học kỹ thuật để có thể đảm bảo lợi ích kinh tế của các khoản vay. Quy mô các khoản vay phải hợp lý và khoa học, phải căn cứ vào nhu cầu xây dựng kinh tế và khả năng trả nợ của các đơn vị vay để quyết định quy mô các khoản vay, tỷ lệ hoàn trả nợ từ 15% – 20%/năm, tỷ lệ vay nợ ≤ 100%, để đảm bảo có thể hoàn trả lãi suất của các khoản vay đúng thời hạn. Các khoản vay để đầu tư vào các dự án trọng điểm của Nhà nước do Nhà nước vay và hoàn trả, hoặc do Nhà nước vay, các địa phương, bộ ngành hoặc các doanh nghiệp trả. Các dự án của địa phương và của các bộ ngành do các địa phương và các bộ ngành tự vay tự trả, Nhà nước không can thiệp. Trung Quốc đặc biệt đề cao vai trò của việc quản lý và giám sát. Hai cơ quan Trung ương quản lý ODA là Bộ Tài chính (MoF) và Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia (NDRC). MoF làm nhiệm vụ “đi kiếm tiền”, đồng thời là cơ quan giám sát việc sử dụng vốn. MoF yêu cầu các Sở Tài chính địa phương thực hiện kiểm tra thường xuyên hoạt động của các dự án, phối hợp với WB đánh giá từng dự án. Kết quả mà Trung quốc đạt được Với những chính sách đưa ra Trung Quốc đã đạt được một những thành tựu đáng kể, đó là: Nguồn vốn ODA mà Trung quốc thu hút được đã được sử dụng hiệu quả góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tốc độ phát triển kinh tế trong những năm gần đây của Trung Quốc luôn ở mức cao từ 8 - 13% /năm, GDP luôn tăng và ở mức rất cao từ 7.418 tỷ USD năm 2007 lên 8.789 tỷ USD năm 2009. Cơ cấu dư nợ nước ngoài của Trung Quốc ổn định hơn với độ rủi ro thấp hơn, chỉ chiếm 18.2% của GDP trong năm 2009 còn Việt Nam thì chiếm đến 52,3% của GDP. Phần lớn nợ nước ngoài của Trung Quốc là nợ dài hạn, đây chính là nguyên nhân giúp Trung Quốc tránh được rủi ro nợ trong khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Những giải pháp tăng cường thu hút vốn ODA Thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 Việt Nam sẽ trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình (GDP bình quân đầu người đạt trên 1.000 USD/năm) và theo tập quán tài trợ quốc tế Việt Nam sẽ nhận được ít hơn các nguồn vốn vay ODA ưu đãi như hiện nay, đồng thời các khoản viện trợ không hoàn lại và hỗ trợ kỹ thuật có khuynh hướng giảm. Do đó trong thời gian tới việc thu hút ODA cần tập trung vào một số nhiệm vụ cụ thể như: Các Bộ, ngành và địa phương cần nỗ lực nâng cao năng lực chuẩn bị các chương trình và dự án đã được cam kết vốn để ký kết hiệp định, đẩy mạnh việc thực hiện và giải ngân các chương trình, dự án ODA để đảm bảo đạt mục tiêu thực hiện 11,9 tỷ USD vốn ODA trong thời kỳ 2006 - 2010 và tạo ra các công trình gối đầu cho giai đoạn sau năm 2010. Sau năm 2010 ưu tiên sử dụng ODA, nhất là ODA vốn vay kém ưu đãi cho các chương trình, dự án có khả năng hoàn vốn cao, tạo được nguồn thu. Nâng cao trình độ hiểu biết của lãnh đạo và cán bộ quản lý và thực hiện các chương trình, dự án ODA ở các cấp về chính sách, quy trình và thủ tục ODA của Việt Nam cũng như của nhà tài trợ. Tăng cường thông tin tuyên truyền ra nước ngoài về ODA, kể cả các hoạt động xúc tiến để thu hút nguồn lực này ở nước ngoài. Xây dựng hệ thống các tiêu chí để làm cơ sở lựa chọn các chương trình, dự án ODA đưa vào Danh mục yêu cầu tài trợ theo quy định hiện hành nhằm đảm bảo tính công khai và minh bạch. Phát huy vai trò làm chủ và nâng cao tính chủ động của các Bộ, ngành và các địa phương trong việc vận động ODA đối với các nhà tài trợ. Những giải pháp nhằm sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả hơn Mở rộng thành phần được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA, kể cả khu vực tư nhân trong nước trên cơ sở quan hệ đối tác công – tư kết hợp trong đầu tư phát triển. Thực tế đã cho thấy, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đã sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp nhà nước, vì vậy trong thời gian tới cần chú ý hơn tới đối tượng này. Quản lý nguồn vốn đầu tư công một cách minh bạch và có trách nhiệm, cải thiện hơn nữa hệ thống của Chính phủ về mua sắm công theo hướng tiếp cận tới các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực này, thực hiện các chương trình và giải pháp cụ thể để phòng chống tham nhũng. Bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, rõ ràng, minh bạch, đơn giản và dễ thực hiện của hệ thống văn bản pháp quy liên quan đến quản lý và sử dụng ODA. Tăng cường việc theo dõi và đánh giá các dự án ODA: Xây dựng kho dữ liệu chính thức về các chương trình, dự án ODA phục vụ công tác theo dõi, đánh giá và phân tích việc sử dụng nguồn vốn này. Xây dựng cơ chế đảm bảo việc theo dõi và giám sát từ phía cộng đồng, góp phần thực hiện các biện pháp phòng chống thất thoát, lãng phí và tham nhũng. Xây dựng và áp dụng những chế tài cần thiết để khuyến khích những đơn vị thụ hưởng sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này, đồng thời phòng ngừa và xử lý nghiêm những trường hợp sử dụng kém hiệu quả và vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng ODA. Xem xét việc mở rộng hơn diện thụ hưởng ODA đối với các đối tượng ngoài khu vực nhà nước để thực hiện các chương trình, dự án phục vụ các lợi ích công cộng trên cơ sở tuân thủ các quy định của luật pháp liên quan tới thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ. Thời gian qua trong khuôn khổ các chương trình, dự án ODA, một đội ngũ khá đông đảo cán bộ đã được đào tạo và huấn luyện về công tác quản lý và thực hiện các chương trình, dự án ODA. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần có một chương trình huấn luyện rộng rãi để tạo ra những thay đổi về nhận thức, thái độ và kỹ năng cho đội ngũ cán bộ ở tất cả các cấp. Ngoài ra còn phải xác định khả năng trả nợ cả gốc và lãi trong tương lai để xây dựng kế hoạch trả nợ, cập nhật các thông tin trong và ngoài nước về sự biến động của các nhân tố có khả năng tác động đến nguồn vốn vay để xử lý kịp thời và có những quyết định đúng đắn tránh tình trạng lỗ do những tác động của những nhân tố khách quan khi dự án đã đi vào hoạt động. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Qua việc phân tích thực trạng thu hút và sử dụng vốn ODA trong thời gian qua cho thấy rằng ODA có một vai trò quan trọng, hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực tế cho thấy rằng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của Việt Nam đã cải thiện và đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực như: xã hội, y tế, giáo dục, tăng cường thể chế, bảo vệ môi trường, phát triển nông thôn, đặc biệt là xóa đói giảm nghèo; đó là những lĩnh vực đầu tư vừa có tính xúc tác vừa có tác dụng trước mắt, đồng thời là cơ sở lâu dài cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tính từ năm 1993 đến nay tổng số vốn ODA mà cộng đồng quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam lên tới 22,43 tỷ USD và khối lượng vốn ODA tăng lên qua các năm từ 1,861 tỷ USD năm 1993, năm 2000 là 2,4 tỷ USD và đến nay là 5,914 tỷ USD (năm 2009). Trong khi khối lượng nguồn vốn ODA mà các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển ngày càng giảm súc thì nguồn vốn cam kết ODA cho Việt Nam lại tăng lên như vậy. Điều này cho thấy nước ta đang từng bước có được niềm tin của các nhà tài trợ thông qua những chương trình, dự án thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA thiết thực và mang lại nhiều hiệu quả. Tình hình thu hút và sử dụng ODA ở nước ta trong thời gian qua cho thấy chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Song, nước ta cũng còn có nhiều hạn chế trong trong quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA mà Chính phủ, các Bộ, ngành các cấp cần khắc phục để sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn ngoại lực quí báu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Tài chính, Đề án “Hoàn thiện khuôn khổ thể chế quản lý nợ của Việt Nam”, 2008. Nguyễn Thanh Hà, Quản lý ODA: Bài học từ kinh nghiệm các nước, Tạp chí Tài chính số 9 (527)/2008, Trang 54-57 Phan Trung Chính, Đặc điểm nguồn vốn ODA và thực trạng quản lý nguồn vốn này ở nước ta, Tạp chí Ngân hàng số 7 tháng 4/2008, Trang 18-25 Tấn Đức, ODA: Hiệu quả chưa phải là mục tiêu quản lý, Viện Kinh tế Thành phố Hồ chí Minh, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 14/2008. Các website sau: www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html www.mofa.gov.vn oda.mpi.gov.vn/odavn/tabid/124/Default.aspx www.google.com.vn MỤC LỤC PHỤ LỤC BẢNG BẢNG 2.1: KHỐI LƯỢNG VỐN ODA CAM KẾT, KÍ KẾT VÀ SỬ DỤNG TRONG 2 NĂM 2008 – 2009 13 BẢNG 2.2: BẢNG THỂ HIỆN TỈ LỆ VỐN VAY VÀ VỐN VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI TRONG TỔNG VỐN ODA 14 BẢNG 2.3: CƠ CẤU VỐN ODA SỬ DỤNG THEO NGÀNH VÀ LĨNH VỰC TRONG 2 NĂM 2008 – 2009 .16 BẢNG 2.4: CƠ CẤU VỐN ODA SỬ DỤNG THEO VÙNG, LÃNH THỔ TRONG 2 NĂM 2008 – 2009 19

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH136.doc