Đề tài Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ chính thức trong quá trình phát triển Nông nghiệp Việt Nam

Qua hơn mười năm triển khai và thực hiện ở Việt Nam, nguồn vốn Hỗ trợ chính thức đã phát huy được những ảnh hưởng tích cực của nó đối với công cuộc phát triển kinh tế Việt Nam nói chung, hiện đại hoá ngành Nông nghiệp nói riêng. Khoảng thời gian hơn mười năm chưa phải thật dài, nhưng cũng đủ để chúng ta nhận định và có một cái nhìn bao quát về “ Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong phát triển Nông nghiệp Việt Nam”. Nguồn vốn ODA vào Nông nghiệp tăng khá đều đặn trong thời gian vừa qua đã góp phần thay đổi bộ mặt Nông nghiệp và Nông thôn Việt Nam, đưa ngành dần dần bắt kịp với xu hướng phát triển và hội nhập của thế giới. Tuy nhiên, việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA là vấn đề hết sức nhạy cảm đối với các quốc gia. Bài học từ các nước đang phát triển cho thấy, nếu không sử dụng nguồn vốn ODA một cách có hiệu quả, thì chẳng những không hấp thụ được nguồn vốn mà còn có thể đưa đất nước vào tình trạng trì trệ, nợ nần chồng chất như ở Argentina hay Brazin trong những năm vừa qua.

doc78 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 895 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ chính thức trong quá trình phát triển Nông nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n dần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho nguồn vốn ODA trong ngành. Tăng cường năng lực cho các cơ quan ở tất cả các cấp đặc biệt là cấp địa phương (tỉnh, huyện, xã, làng, bản) được tiến hành thông qua đào tạo nhăm nâng cao trình độ cán bộ về chuyên môn và về mặt quản lý, tổ chức và thực hiện dự án. Tóm lại: Các dự án đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật trong Nông nghiệp đã bổ xung hài hoà cho nhau trong qua trình hoạt động và có những mặt tích cực sau: Nguồn vốn ODA góp phần thay đổi bộ mặt Nông thôn Việt Nam Góp phần vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo Các dự án ODA thực hiện trong Nông nghiệp đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập cho người nông dân thông qua việc triển khai những chương trình, dự án tại các vùng, địa phương còn nhiều khó khăn. Thay đổi cơ sở vật chất nông thôn Việt Nam Như cải thiện hệ thống thuỷ lợi, cầu cống đường xá, các vùng thâm canh, chuyên canh. ODA góp phần hiện đại hoá ngành Nông nghiệp Thông qua các dự án ODA trong Nông nghiệp nhiều phương thức canh tác tiên tiến được hình thành, những loại giống mới đem lại sản lượng cao được đưa vào gieo trồng làm cho năng suất, sản lượng Nông nghiệp tăng lên rõ rệt. Nguồn vốn ODA cung cấp các trang thiết bị hiện đại giúp cho quá trình sản xuất được nhiều thuận lợi. Nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ các bộ trong Nông nghiệp Song song với các dự án ODA hỗ trợ kỹ thuật tập chung vào việc cải tiến năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý, thì quá trình đi sâu, đi sát thực hiện các dự án ODA cũng giúp các cán bộ quản lý của ngành củng cỗ và nâng cao kiến thức về chuyên môn cũng như kinh nghiệm quản lý dự án. Các cán bộ của ngành có cơ hội tiếp xúc với các nhà tài trợ và học hỏi được kinh nghiệm quản lý của họ trong quá trình thực hiện dự án. Thực tế cho thấy một lớp cán bộ quản lý trụ cột trong Nông nghiệp đã hình thành từ các chương trình dự án ODA. Nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác cho người Nông dân thông qua đào tạo phổ cập khuyến nông, khuyến lâm. 2.4.2.2 Tồn tại cần khắc phục và bài học kinh nghiệm Những vấn đề chung Thiếu khung pháp lý hoàn chỉnh cho quản lý và sử dụng ODA Khác với FDI, có một bộ luật điều chỉnh riêng đó là Luật đầu tư nước ngoài, cho đến nay khuôn khổ pháp lý điều chỉnh của ODA mới chỉ dừng lại ở các Nghị định, thông tư, văn bản hướng dẫn thực hiện. Mặt khác, những bất cập trong chính sách thuế hay sự thay đổi thường xuyên của các nguồn luật này gây khó khăn lớn cho các nhà tài trợ trong việc cung cấp nguồn vốn. Thủ tục hành chính còn nhiều bất cập-thiếu tính hài hoà; Qui trình phê duyệt, thẩm định dự án rườm rà, Hiện nay, toàn bộ lượng vốn ODA được Chính phủ Việt Nam quản lý và phê duyệt, Bộ KHĐT chia các dự án có vốn ODA thành 15 loại và sử dụng 15 mẫu hồ sơ khác nhau cho các nhà tài trợ, hoàn tất các thủ tục này sẽ chiếm một khoảng thời gian khá lớn; Tệ quan liêu còn tồn tại ở một số cơ quan quản lý ngành cũng như địa phương dẫn tới một số dự án triển khai vốn chậm hoặc không tận dụng được nguồn tài trợ. Sự phân cấp quản lý các dự án ODA chưa thật rõ ràng, còn có tình trạng trùng lặp về chức năng giữa các cơ quan quản lý, thiếu sự phối hợp đồng đều giữa các cấp, các ngành với địa phương, quyền hạn của ban quản lý dự án còn nhiều hạn chế, thiếu vắng một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh cho sự hoạt động và tồn tại của những đơn vị này (liên quan đến tổ chức, biên chế, ngân sách, hoạt động và nhu cầu đào tạo) dẫn tới hiệu quả sử dụng ODA chưa cao. Tính công khai, minh bạch tài chính của một số dự án chưa cao. 90% dự án ODA thiếu chỉ tiêu thực tế và chưa đáp ứng thoả đáng mục tiêu phát triển kinh tế (theo phát biểu của ông Klaus Rohland, Giám đốc quốc gia của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam trong cuộc hội thảo “nâng cao năng lực quản lý toàn diện nguồn vốn ODA ngày 17/6/2003”[i] Việt Nam net Tranh chấp, khác biệt trong qui trình, thủ tục thu hút ODA Mỗi nhà tài trợ đều có chính sách và qui định tài trợ riêng biệt. Đa phần các nhà tài trợ có chiến lược hợp tác, phát triển với Việt Nam hoặc các định hướng ưu tiên hợp tác với Việt Nam. Các văn kiện này cũng có sự khác biệt về nội dung và cách tiếp cận. Cùng với thời gian, cả phía cung cấp viện trợ lẫn bên tiếp nhận viện trợ bắt đầu nhận thấy rằng việc tồn tại một lúc quá nhiều các chu trình thủ tục khác nhau này đang tạo ra một gành nặng lớn cho bộ máy hành chính của quốc gia tiếp nhận viện trợ và làm tăng chi phí chung của quá trình chuyển giao viện trợ. Sự trùng lặp trong tài trợ làm tăng đáng kể chi phí giao dịch. Để thiết kế các chương trình, dự án các nhà tài trợ phải tìm hiểu, xây dựng dự án, trong đó phạm vi các thông tin tìm hiểu trùng lặp rất nhiều dẫn đến việc trùng lặp trong đầu tư nguồn lực, lãng phí thời gian, tiền bạc của tất cả các phía đối tác có liên quan. Đây là mới chỉ nói đến riêng khâu thiết kế, xây dựng dự án mà chưa kể đến khâu thực hiện và quản lý dự án với sự khác biệt trong các qui định pháp luật của nhà nước Việt Nam đối với các nhà tài trợ về các lĩnh vực đấu thầu, mua sắm, kế toán, kiểm toán, theo dõi dự án, gây khó khăn cho các Ban quản lý dự án, đối tượng chịu sự ràng buộc của cả hai hệ thống này. Thủ tục giải ngân của Việt Nam và các tổ chức tài trợ không đồng nhất là vấn đề hết sức nan giải. Cơ chế giót vốn của các nhà tài trợ là cơ chế tạm ứng, khi nào quyết toán hết phần tạm ứng mới tiếp tục cấp vốn. Điều này quả không dễ dàng với Việt Nam khi thời hạn qui định quyết toán vốn ngắn. trong khi đó theo qui định của Việt Nam, để có thể sử dụng khoản tiền ứng đó phải làm tất cả các thủ tục từ thiết kế phê duyệt luận chứng kinh tế, tổ chức đấu thầu, thi công cho đến nghiệm thu và quyết toán. Đây là quá trình nhiều công đoạn và rất mất thời gian khó có thể hoàn tất trong khoảng thời gian mà nhà tài trợ cho phép. Đây chính là khó khăn lớn nhất trong vấn đề giải ngân các dự án vốn vay ODA. Nguồn vốn đối ứng không kịp thời đầy đủ Đối với các dự án vốn vay, để giải ngân được nguồn vốn thì các dự án này phải lập kế hoạch vốn đối ứng và phải được phê duyệt kịp thời. Trong thực tế các địa phương ngay cả cấp bộ mới chỉ quan tâm đến việc tiếp cận dự án và chưa chú ý đến việc lập kế hoạch vốn đối ứng cho những dự án này. Trong một số dự án vốn vay, địa phương (nơi tiếp nhận dự án) không lo đủ số vốn đối ứng cần thiết để giải quyết các vấn đề tái định cư và giải phóng mặt bằng cho các công trình nên đã ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thực hiện. Thiếu vốn để thực hiện hỗ trợ kỹ thuật trong các dự án cũng là khó khăn lớn. Thông thường đối với các dự án hỗ trợ không hoàn lại, các nhà tài trợ muốn dùng vốn nước ngoài để thuê chuyên gia tư vấn, còn đối với các dự án vốn vay thì phải dùng vốn Việt Nam. Trường hợp không có vốn để thuê tư vấn thì sẽ ảnh hưởng đến việc chuẩn bị đầu tư, nhất là quá trình xây dựng dự án tiền khả thi và khả thi. Năng lực quản lý kém Qua hơn 10 thực hiện các chương trình, dự án ODA. Năng lực quản lý ODA của Việt Nam đã có những bước tiến bộ đang kể. Bằng nhiều hình thức đào tạo khác nhau và qua thực tế thực hiện dự án, nhiều cán bộ Việt Nam từ cấp cơ quan quản lý vĩ mô tới các ban quản lý dự án đã làm quen và tích luỹ các kinh nghiệm quản lý nguồn vốn ODA. Tuy vậy, công tác quản lý và sử dụng ODA ở Việt Nam cũng còn những mặt yếu kém và đứng trước những khó khăn, thách thức nhất là khâu chuẩn bị, tổ chức thực hiện và theo dõi, đánh giá dự án. Điều này là do: Thiếu sự quản lý điều hành từ Chính phủ: Chính phủ giữ vai trò quan trọng trong thu hút vận động nguồn vốn ODA. Tuy nhiên công tác triển khai theo dõi tình hình thực hiện từ Chính phủ đến các cơ sở địa phương chưa được thường xuyên và chưa có hệ thống, phân cấp quản lý chưa rõ ràng dẫn tới tình trạng rối ren, thiếu minh bạch đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA Nguyên nhân quan trọng khiến cho tốc độ giải ngân chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển và mong muốn của các nhà tài trợ là do năng lực quản lý của các cấp còn yếu. Hiện trong lĩnh vực này chưa có một hệ thống phát triển đội ngũ cán bộ chuyên môn. Quản lý dự án được coi là một phần việc làm phụ thêm và không thuộc phần trách nhiệm chính của cơ quan chủ quản. Vì vậy, khi dự án kết thúc, các nguồn lực được đào tạo hoặc phát triển trong dự án đều không được sử dụng tiếp. Bên cạnh đó là những khó khăn trong khâu phê duyệt và thẩm định dự án. Theo đánh giá của các chuyên gia, nếu không kịp thời tăng tốc độ giải ngân, mức vốn ODA vào Việt Nam có nguy cơ giảm và Việt Nam sẽ bị tụt hậu so với những nước công nghiệp mới. Khả năng đánh giá và hệ thống báo cáo kém Năng lực theo dõi, đánh giá các chương trình, dự án ODA vẫn còn nhiều hạn chế ở tất cả các cấp đặc biệt là cấp địa phương: Ban quản lý dự án là cơ quan chính chịu trách nhiệm báo cáo về tình hình thực hiện các dự án. Các báo cáo lập ra, được gửu tới các cơ quan hưu quan như: Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, cơ quan chủ quản, nhà tài trợDo yêu cầu, chức năng của các cơ quan này có sự khác biệt, gây ra khó khăn lớn cho ban quản lý dự án trong quá trình lập các báo cáo. Hơn thế, hệ thống thông tin liên ngành, liên cấp yếu kém, còn tồn tại chủ yếu dưới dạng văn bản, chưa được tin học hoá trong quản lý, còn thiên về tính hình thức, thành tích mà chưa chuyên sâu nghiên cứu vào thực chất của vấn đề. Do vậy rất khó xác định thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA, khó đi đến sự thống nhất giữa những hướng ưu tiên mà Việt Nam đang cần giúp đỡ từ bên ngoài. Một số vấn đề trong Nông nghiệp Chưa có chiến lược cụ thể trong thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA Chưa xây dựng được chiến lược hay lộ trình tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế của ngành, vì vậy chưa có định hướng cụ thể để các đơn vị tích cực, chủ động triển khai các hoạt động hội nhập trong lĩnh vực mình phụ trách. Riêng về nguồn vốn ODA, trong thời gian qua ngành Nông nghiệp chưa có chiến lược chủ động tiếp cận với các nhà tài trợ, còn thụ động, trông chờ vào những khoản viện trợ không hoàn lại. Danh mục các chương trình, dự án ưu tiên phát triển, kêu gọi nguồn vốn bên ngoài còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Nguồn vốn ODA tập chung chủ yếu vào những khu vực kinh tế có nhiều thuận lợi hơn, có khả năng dải ngân nguồn vốn cao hơn, dễ dàng thu hồi vốn mà chưa thấy được các ích lợi, tầm quan trọng lâu dài của nguồn vốn ODA đối với các khu vực còn nhiều khó khăn. Các cơ quan đơn vị của ngành còn thụ động trong việc tiếp nhận và thực hiện dự án, chưa có được sự chuẩn bị kỹ càng về các nguồn lực để thực hiện các dự án có hiệu quả. Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ ngành còn non yếu Thiếu đội ngũ cán bộ quản lý vừa có trình độ chuyên môn vừa có khả năng ngoại ngử để đảm nhiệm công tác hội nhập quốc tế Ngành Nông nghiệp có một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ từ Bộ xuống cơ sở khá tốt nhưng lại thiếu cơ bản những cán bộ có khả năng về hội nhập về phân tích, đánh giá, dự đoán; về phát triển công nghệ và thị trường trong và ngoài nước. Thiếu cán bộ vứa giỏi chuyên môn vừa giỏi ngoại ngữ và có kinh nghiệm làm việc trong môi trường đầu tư quốc tế, tiếp xúc với các tổ chức nước ngoài. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ tỉnh, địa phương chưa đáp ứng được các yêu cầu của các chương trình, dự án ODA. Lề lối làm việc “Tiểu Nông nghiệp” vẫn còn ảnh hưởng nặng nề, trình độ chuyên môn yếu gây trở ngại lớn cho việc thực hiện các dự án ở cơ sở, dẫn tới hiệu quả sử dụng ODA rất thấp, gây lãng phí nguồn vốn. Một số đơn vị trong ngành từ cấp trung ương đến địa phương chưa thực sự đánh giá đúng được tầm quan trọng của công tác hội nhập kinh tế quốc tế, khiến việc bố trí cán bộ không phù hợp, thay đổi, gián đoạn, thiếu tính liên tục. [i] trích báo cáo của bộ NN&PTNT về tình hình thực hiện chương trình hành động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thực hiện Nghị quyết 07 về hội nhập KTQT của bộ chính trị Hệ thống thông tín- dự báo, theo dõi- đánh giá còn nhiều hạn chế Hiện nay cùng với quá trình hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế nói chung và nền Nông nghiệp Việt Nam nói riêng, vai trò thông tin-dự báo là hết sức quan trọng nhằm bắt kịp với các xu hướng toàn cầu luôn thay đổi. Có thể nói rằng bên cạnh bộ kế hoạch đầu tư, cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm chung về công tác theo dõi thống kê tổng quan tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Thì Bộ NN-PTNT, cụ thể là Vụ hợp tác quốc tế-Bộ NN-PTNT là cơ quan chuyên trách đối với các dự án thuộc phạm vi thẩm quyền của ngành. Ban đầu, hoạt động thống kế đánh giá các chương trình dự án ODA trong Nông nghiệp còn nhiều hạn chế, không có một cơ chế quản lý rõ ràng, không có bộ phận chịu trách nhiệm chính về thông tin, dự báo đánh giá nguồn vốn ODA. Hệ thống chia sẻ thông tin trong phạm vi ngành hoàn toàn không có, dẫn tới hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA rất thấp. Năm 1994, nhóm hợp tác quốc tế ISG ra đời trực thuộc sự quản lý của Vụ hợp tác quốc tế đã bước đầu hình thành cơ chế quản lý các dự án ODA một cách có hệ thống hơn. Tuy nhiên phạm vi hoạt động của ISG cho đến nay vẫn còn nhiều hạn chế : ISG mới chỉ dừng lại ở mức độ là diễn đàn trao đổi chia sẻ thông tin chứ không chịu trách nhiệm về theo dõi đánh giá chương trình, dự án ODA Chưa thiết lập được mạng lưới thông tin đầy đủ từ ngành đến các địa phương gây khó khăn cho quá trình bao quát các dự án ở cấp cơ sở. Điều này là do nguồn kinh phí dành cho ISG còn thấp, chưa đủ sức để xây dựng mạng lưới thông tin cập nhật liên tục, ngoài ra do năng lực và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ dự án địa phương chưa cao, chưa đồng đều giữa các đơn vị nên rất khó có thể phổ biến toàn diện được mô hình này. Trang Web của ISG còn đơn điệu chưa cập nhật được đầy đủ thông tin, diễn đàn ISG mới được xây dựng còn chưa thu hút được sự tham gia rộng rãi của các cấp, các ngành, các tổ chức tài trợ và các chủ thể có liên quan Qui mô của phòng ISG còn nhỏ bé, với đội ngũ cán bộ hạn chế chưa tương xứng với chức năng của nhóm. Hiện nay ISG đang được sự ủng hộ thường xuyên của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế nhằm tăng cường chức năng quyền hạn của tổ chức này. Xây dựng ISG thành trung tâm thông tin về ODA, gắn kết các chủ thể có liên quan đến nguồn vốn ODA trong Nông nghiệp, theo dõi đánh giá tình hình thu hút và sử dụng ODA, đề suất những giải pháp kịp thời nhằm tăng tính hiệu quả trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn này. Phương thức tiếp cận theo chương trình còn nhiều hạn chế Cho đến nay Việt Nam nói chung và toàn ngành Nông nghiệp nói riêng vẫn tiếp cận nguồn vốn ODA chủ yếu theo các dự án. Thông thường các dự án trong Nông nghiệp có qui mô nguồn vốn nhỏ và phạm bao quát hẹp. Trong khi đó có nhiều nhà tài trợ cùng quan tâm đến cùng một loại dự án. Các dự án này triển khai rời rạc gây lên sự lãng phí trong chuẩn bị, triển khai, thực hiện dự án về cả nguồn lực con người và vật chất. Phương thức tiếp cận theo chương trình còn nhiều hạn chế, số lượng các chương trình sử dụng nguồn vốn ODA còn khiêm tốn. Các chương trình sử dụng nguồn vốn ODA thường có qui mô nguồn vốn lớn và phạm vi ảnh hưởng sâu rộng như: Chương trình phát triển ngành Nông nghiệp, chương trình phòng chống sâu hại tổng hợp, chương trình giống quốc giaNhững chương trình này sẽ có ảnh hưởng tích cực và lâu dài đến sự phát triển của ngành Nông nghiệp , do vậy trong thời gian tới đây ngành Nông nghiệp cần dần chuyển hướng tiếp cận nguồn vốn ODA theo chương trình. Chương 3: Định hướng và giải pháp thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA 3.1 Định hướng thu hút và sử dụng ODA trong Nông nghiệp 3.1.1 Mục tiêu phát triển của ngành giai đoạn 2001-2010 Để tạo được những bước chuyển biến lớn trong Nông nghiệp, xây dựng được một nền Nông nghiệp bền vững, đóng góp tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế. Nhà nước ta đã có một số chủ trương, định hướng cho giai đoạn những năm tiếp theo như sau: Thứ nhất, thực hiện Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường tiếp cận kỹ thuật công nghệ tiên tiến và phát triển công nghệ sinh học theo hướng hiện đại của thế giới để đẩy mạnh sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia bền vững. Thúc đẩy phát triển ngành nghề nông thôn thông qua việc khôi phục và phát huy hiệu quả các ngành nghề truyền thống. Xây dựng phổ biến và phát triển ngành nghề mới, tạo nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động tại chỗ, tăng thu nhập và cải thiện mức sống của nông dân. Thứ 2, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông nghiệp trong xu thế hội nhập và phát triển bền vững. Từng bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, hiệu quả lớn thay thế các cây trồng vật nuôi kém hiệu quả. Nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của Nông sản xuất khẩu. Lựa chọn các mặt hàng có sức cạnh tranh cao và phát huy lợi thế so sánh bền vững. Thực hiện phát triển Nông nghiệp hàng hoá đáp ứng nhu cầu của thị trường sản xuất Nông nghiệp hàng hoá hướng mạnh ra xuất khẩu. Thứ 3, tiếp tục tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng Nông nghiệp, Nông thôn. Tiếp tục ưu tiên đầu tư thuỷ lợi cho các cây Công nghiệp phục vụ sản xuất, đạt năng suất cây trồng cao nhằm hạ giá thành sản phẩm, đón nhận và tham gia cạnh tranh trên thương trường. Phát triển các mặt hàng thay thế nhập khẩu; Sữa, Bông, Dầu thực vật, Ngô, Đậu tương thông qua chương trình nghiên cứu, đổi mới giống quốc gia, chương trình khuyến nông chuyển giao công nghệ và khoa học kỹ thuật. Thứ 4, phát triển công nghệ chế biến, bảo quản, nâng cao giá trị nông sản. Gắn cơ sở chế biến với vùng sản xuất nguyên liệu, thông qua cơ chế hợp đồng kinh tế, thực hiện phát triển bền vững. Tăng cường giao lưu, trao đổi kinh nghiệm quốc tế song phương, đa phương, tiếp cận thị trường để nắm bắt thông tin, tiếp xúc công nghệ tiên tiến giúp tránh tổn thất không đáng có cho đất nước. Thứ 5, cần phát triển các chương trình, dự án lớn về Thuỷ lợi như các hồ chứa nước Bình Định, Cửa Đạt, Hồ nước trong để có nước tưới cho Nông nghiệp , hạn chế lũ lụt, giảm nhẹ thiên tai, hệ thống kiểm soát lũ ở đồng bằng sông Cửu Long, ưu tiên cho các dự án chế biến nông sản xuất khẩu, chế biến hàng thay thế nhập khẩu. Phát triển trồng trọt, chăn nuôi ngành nghề truyền thống, phát triển kết cấu cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực cho Nông thôn Đó chính là năm mục tiêu lớn mà ngành Nông nghiệp theo đuổi trong chiến lược phát triển 10 năm. Nếu thực hiện được những mục tiêu này, chúng ta hoàn toàn có thể hi vọng về một nền Nông nghiệp Việt Nam khởi sắc trong tương lai.[i] Năm định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001-2010, bộ NN&PTNT 3.1.2 Chiến lược thu hút ODA trong phát triển Nông nghiệp Nguồn vốn đầu tư có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của toàn nền kinh tế nói chung và ngành Nông nghiệp nói riêng. ý thức được điều này, ngành Nông nghiệp đã định hướng công tác Hợp tác quốc tế trong thời gian tới như sau: Tăng cường quan hệ song phương và đa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại và đầu tư, tranh thủ các hỗ trợ quốc tế về vốn, khoa học công nghệ để góp phần thúc đẩy Nông nghiệp và Nông thôn. Công tác hợp tác quốc tế thời gian tới phải bám sát và hỗ trợ đắc lực việc thực hiện các phương hướng và mục tiêu của ngành, góp phần giải quyết nguồn vốn, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, phục vụ chủ trương, đường lối chủ động hội nhập quốc tế theo định hướng của Đại hội Đảng IX và mở rộng thị trường xuất khẩu nông, lâm sản. Với các tổ chức tài chính: Ngân hàng WB và ADB: Trong thời gian tới WB và ADB vẫn là hai nhà tài trợ hàng đầu cho ngành với nguồn vốn ODA chủ yếu là nguồn vốn vay ưu đãi để thực hiện những dự án lớn từ chục triệu đến hàng trăm triệu USD. Tập chung ưu tiên: Xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ các xã nghèo; Phát triển cơ sở hạ tầng Nông thôn, thuỷ lợi; Thực hiện đa dạng hoá Nông nghiệp; Quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, rừng). Các khoản trợ giúp kỹ thuật không hoàn lại của hai ngân hàng này chủ yếu để chuẩn bị cho những dự án vốn vay hoặc hỗ trợ thực hiện các dự án vốn vay. Tổng vốn vay từ hai nhà tài trợ WB và ADB dự kiến trong thời kỳ 2001-2005 là 1.289 triệu USD, trong đó vay là 1.270 triệu, không hoàn lại 19 triệu USD Với các nhà tài trợ song phương Nhật Bản: Qua các buổi làm việc chính thức thấy trong những năm tới lĩnh vực Nông nghiệp và phát triển Nông thôn sẽ được ưu tiên cao từ nguồn vốn ODA Nhật Ban dành cho Việt Nam. Viện trợ không hoàn lại khoảng 130 triệu USD với các loại hình sau: Phát triển Nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng Nông, Lâm nghiệp, Thuỷ lợi, cấp nước Nông thôn, trồng rừng: khoảng 78 triệu USD; Hợp tác kỹ thuật khoảng 31 triệu USD, tập chung cho việc nâng cấp các cơ quan nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trong chăn nuôi, thú y, khuyến nông, trồng rừng, kỹ thuật thuỷ lợi, xoá đói giảm nghèo. Nghiên cứu qui hoạch phát triển; khoảng 21 triệu USD, tập chung vào qui hoạch phát triển ngành Nông nghiệp, xây dựng hợp tác xã Nông nghiệp kiểu mới, qui hoạch xây dựng Nông thôn mới, qui hoạch lưu vực sôngCác dự án vốn vay: Dự kiến khoảng 445 triệu USD để đầu tư xây dựng một số hệ thống thuỷ lợi loại vừa và lớn ở Miền trung và chương trình “5 triệu ha rừng” Các nước Châu á khác: phát huy thế mạnh trong hợp tác kỹ thuật, đào tạo cán bộ với Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan để trao đổi và học hỏi kinh nghiệm về tổ chức Nông nghiệp, phát triển Nông thôn, xoá đói giảm nghèo, chuyển giao công nghệ về giống, cây con, nhất là lúa lai, kỹ thuật Thuỷ lợi, phòng chống lũ lụt. Các nước Châu Âu: Huy động từ EU, Phần Lan, Bỉ, Thụy Điển, Anh cho chương trình phát triển Nông thôn đến 2005 khoảng 50 triệu USD; Đức, Thụy Điển, ý tập chung cho chương trình trồng rừng 40 triệu USD, tiếp tục phát triển chương trình giống khoai tây, phát triển sản xuất dâu tằm tơ và chế biến tơ tằm. Hà Lan, Đan Mạch, Pháp, áo, Bỉ cho chương trình quản lý nguồn nước, chương trình phát triển Nông nghiệp (chăn nuôi gia súc, quản lý dịch hại tổng hợp, tín dụng, phòng chống bệnh gia súc, giống cây trồng và công nghệ sau thu hoạch lúa gạo), trong đó có việc thực hiện tiếp chương trình do Đan Mạch tài trợ, và chương trình đa dạng hóa sinh học với tổng ODA khoảng 100 triệu USD đến năm 2005. Tranh thủ nguồn vốn AFD của Pháp để tài trợ hoặc đồng tài trợ với WB, ADB trong các dự án phát triển Nông nghiệp, Thuỷ lợi, Lâm nghiệp. Đẩy mạnh các chương trình hợp tác kỹ thuật, đào tạo cán bộ với các nước Tây, Bắc Âu có trình độ khoa học công nghệ cao. Đẩy mạnh các hoạt động về hợp tác khoa học kỹ thuật với các nước khối Đông Âu và SNG Các nước Châu úc: tranh thủ nguồn ODA không hoàn lại của Đức khoảng 100 triệu AUD tới 2005 cho các lĩnh vực sau đây: Phát triển Nông thôn ở một số tỉnh nghèo; Cấp nước Nông thôn cho các tỉnh ĐB sông Cửu Long và miền Trung; Quản lý tài nguyên nước và phát triển Thuỷ lợi; Chương trình giảm nhẹ thiên tai miền Trung; Hợp tác kỹ thuật và đào tạo. Với New Zealand: chủ yếu tranh thủ về hợp tác kỹ thuật và đào tạo Mỹ: việc bình thường hoá quan hệ giữa 2 nước đang mở ra con đường hợp tác mới. Sứ quán Mỹ cho biết hợp tác Nông nghiệp là hướng ưu tiên cho 5-10 năm tới giữa Mỹ và Việt Nam. Trước mắt nên tranh thủ tài trợ cho các lĩnh vực như sau: Giảm nhẹ thiên tai miền Trung; Hợp tác về Công nghệ sinh học; Chế biến Nông sản thực phẩm; Các hoạt động trong lĩnh vực thuỷ lợi và giống cây trồng, vật nuôi; Đào tạo cán bộ. Từ nay đến 2005, mỗi năm cố gắng tiếp nhận 2-3 dự án hỗ trợ kỹ thuật của FAO, 2-3 dự án của UNDP, và 4-5 triệu USD của UNICEF cho chương trình cấp nước và vệ sinh môi trường Nông thôn. Tổng kinh phí viện trợ thời lỳ 2001-2005 của 3 tổ chức này ước tính khoảng 30-40 triệu USD Trong những năm tới, với bối cảnh chung của nền kinh tế nước ta, ODA vẫ chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Theo TS. Lê Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN-PTNT), 3-3,5 tỷ USD là số vốn ODA mà ngành Nông nghiệp muốn thu hút trong vòng 10 kể từ năm 2000 tới năm2010, gấp khoảng 2 lần vốn ) ODA thời kỳ 1991-2000. An ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo, quản lý tài nguyên thiên nhiên, phát triển Nông thôn và bảo vệ môi trường vẫn là những ưu tiên đầu tư hàng đầu. Trước mắt, ngành NN-PTNT tập trung thu hút nguồn vốn vào các lĩnh vực Việt Nam chưa có đủ khả năng phát triển, hoặc những vấn đề trọng điểm của ngành. Đó là đầu tư vào các hoạt động làm tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành để nâng cao tính cạnh tranh của Nông sản Xuất khẩu chiến lược như; Gạo, cafê, cao su, chè, tiêu, điều, rau quả, chăn nuôivà tạo việc làm cho khu vực Nông thôn. [Theo TS. Lê Văn Minh, vụ trưởng Vụ hợp tác quốc tế – Bộ NN&PTNT ][i] Việt Nam net 3.2 Giải pháp thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA 3.2.1 Những giải pháp chung 3.2.1.1 Hoàn thiện khung điều phối về ODA Trong những năm vừa qua Việt Nam đã dành được những thành tựu đáng kể trong thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA . Chính phủ Việt Nam đã khẳng định được vai trò quản lý của mình thông qua việc tạo ra được môi trường pháp lý phù hợp cho các nhà tài trợ và xây dựng các chính sách đúng đắn về ODA. Năm 1993 Việt Nam chính thức nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế thông qua hội nghị tài trợ quốc tế dành cho Việt Nam (Hội nghị Paris), qua đó tạo điều kiện cho việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Từ đó đến nay, Chính phủ đã không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý cho việc quản lý nguồn vốn này. Tiếp theo Nghị định 20/CP của Chính phủ ban hành năm 1993, Nghị định 87/CP ban hành năm 1997 về quản lý và sử dụng ODA, ngày 4 tháng 5 năm 2001. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2001/NĐ-CP (thay thế NĐ 87/CP). Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp qui khác cũng được ban hành nhăm quản lý và tạo điều kiện thực hiện nguồn vốn ODA như: Thông tư 06/Bộ KH-ĐT về hướng dẫn thực hiện Nghị định 17/NĐ-CP, Nghị định số 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 về qui chế vay và trả nợ nước ngoài: Quyết định 223/1999/QĐ-TTg ngày 7/12/1999 về Thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với các dự án sử dụng ODA; Quyết định 211/1998/QĐ-TTg ngày 30/10/1998 về qui chế chuyên gia đối với các dự án ODA Trong thời gian tới Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục cố gắng, nỗ lực nhằm nâng cao năng lực điều phối ODA: Thứ nhất, phải hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, trong đó có việc bổ xung sửa đổi các văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh sự vận hành của các chương trình, dự án ODA. Bổ xung hoàn thiện các qui định tài chính, kế toán, các qui định giúp quá trình hoàn thuế VAT đối với các dự án ODA diễn ra nhanh chóng, thuận tiện, các hướng dẫn nhằm tăng cường công tác quản lý hợp đồng (như mở LC, dự phòng, bảo hiểm) Thứ hai, xác định trật tự ưu tiên và phân bổ các dự án sử dụng nguồn vốn ODA giữa các ngành, các vùng bằng một hệ thống rõ ràng, thống nhất, nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý của Bộ kế hoạch và đầu tư. Thứ ba, Xây dựng hệ thống thông tin từ các bộ, ngành tới từng địa phương, từng dự án để một mặt các cấp cơ sở có thể tiếp cận dễ dàng với các dự án, chương trình và thường xuyên cập nhật thông tin về ODA, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ, các ngành phân bổ và quản lý nguồn vốn một cách có hiệu quả Thứ 4, xây dựng hệ thống theo dõi đánh giá 3 cấp gồm: trung ương, bộ quản lý ngành, tỉnh- đơn vị thực hiện dự án để kịp thời phát hiện ra vấn đề, đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng vốn. Ba cấp này luôn duy trì mối quan hệ chặt chẽ trong quản lý, điều phối ODA. Xây dựng hệ thống theo dõi và đánh giá dự án bao gồm cả việc xây dựng cơ cấu, tổ chức, tăng cường kiến thức về công tác theo dõi và đánh giá dự án từ trung ương đến địa phương. Thứ 5, phân cấp cho các bộ, ngành và địa phương chủ động quyết định các dự án ODA- chí ít ra là cùng với các dự án có giá trị nhỏ. Chẳng hạn khoản viện trợ 1 triệu USD mà cũng phải làm đầy đủ các thủ tục hiện nay là không cần thiết. 3.2.1.2 Hài hoà thủ tục một cách làm để nâng cao hiệu quả sử dụng ODA Những khó khăn thách thức trong vấn đề bất cập thủ tục giữa Chính phủ Việt Nam với các nhà tài trợ hoặc giữa các nhà tài trợ với nhau là mối đe dọa lớn đối với hiệu quả thu hút và sử dụng ODA. Chính phủ đã nhận thức được vấn đề này và cùng với các cơ quan hữu quan đang hợp tác nhằm tìm một cách làm thích hợp để khắc phục những khó khăn và vượt qua các thách thức trong môi trường hợp tác với nhiều nhà tài trợ. Yêu cầu đối với Chính phủ Việt Nam trong việc hài hoà thủ tục Chính phủ phải làm đầu tầu trong quá trình thực hiện các hành động hài hoà thủ tục. Chính phủ phải có “các khung” làm cơ sở để hài hoà thủ tục trọng hoạt động thực tiễn. Chính phủ và các nhà tài trợ đều có các qui định, qui trình rõ ràng và công khai về thực hiện ODA. Các quan niệm về hài hoà thủ tục và các công cụ thực hiện ODA cần được chia sẻ và đạt được nhận thức chung giữa Chính phủ và các nhà tài trợ. Hài hoà thủ tục có thể được tiến hành giữa Chính phủ và nhà tài trợ trên cơ sở song phương hoặc giữa nhóm các nhà tài trợ với Chính phủ và cả cộng đồng các nhà tài trợ. Nội dung hài hoà thủ tục Mục tiêu Loại bỏ các qui định, thủ tục rườm rà nhằm giảm bớt chi phí giao dịch Tăng cường tính trách nhiệm về mặt tài chính và về các kết quả của chương trình thông qua việc xây dựng các qui định về tài chính hợp lý Chia sẻ các dịch vụ chung tại các văn phòng sở tại. Xây dựng các thủ tục thực hiện các chương trình, dự án, đặc biệt là các qui định về giám sát và báo cáo. Quá trình này bao gồm các nội dung cơ bản dưới đây Hài hoà thủ tục giữa Chính phủ và các nhà tài trợ trên cơ sở trước mắt lựa chọn một sỗ lĩnh vực trọng tâm và một số giai đoạn quan trọng cần được hài hoà Thành lập các nhóm về hài hoà thủ tục thông qua hội nghị nhóm các nhà tài trợ CG Các nhà tài trợ tham gia nhóm hài hoà cần phải lên kế hoạch hoạt động phù hợp với Chính phủ (ví dụ như trong vấn đề chu trình dự án), tổ chức một số hoạt động chung với nhau để giảm chi phí giao dịch của Chính phủ (ví dụ như việc cùng xem xét chiến lược quốc gia) và hài hòa các thuật ngữ. Chính phủ cần áp dụng bổ sung một số thông lệ thực hành mới (như phương pháp phân tích theo khung logic), và tăng cường áp dụng các biện pháp thực hành khác (như Đánh giá tác động môi trường EIA và các phương pháp luận đánh giá dự án). Các nhà tài trợ cần thực hiện một số bước đi cụ thể hướng tới việc thực hiện các thủ tục của Chính phủ (ví dụ như trong lĩnh vực kế toán) và sử dụng phương pháp “Học thông qua thực hành” để tăng cường năng lực hệ thống cho Chính phủ (ví dụ thông qua việc thiết kế và đánh giá dự án chung) Chính phủ cần làm rõ một số khía cạnh trong chu trình dự án cho phép hài hoà ở một sỗ lĩnh vực (như xây dựng và áp dụng các định mức chi phí, các mẫu biểu chuẩn và các hướng dẫn thực hiện). Tiêu chuẩn hoá các tác nghiệp của các ban quản lý dự án bao gồm hướng dẫn hoạt động chuyên môn và tác nghiệp trong qua trình quản lý và thực hiện dự án, hướng dẫn tổ chức, quản lý nhân sự cũng như ban hành chế độ tài chính đối với hoạt động của các đơn vị này. 3.2.1.3 Thiết lập các diễn đàn cho đối thoại, chia sẻ thông tin và điều phối WB cùng với Chính phủ, UNDP và cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế tại Việt Nam tổ chức hội nghị nhóm tư vấn hàng năm đề cập các vấn đề liên quan đến chính sách và huy động nguồn lực. Một trong những mục đích của hội nghị là tạo cơ hội cho Chính phủ trước cộng đồng quốc tế nêu lên những lĩnh vực cần thiết huy động sự hỗ trợ bổ xung để đạt được những thành tựu trong phát triển bền vững. Diễn đàn nhóm tài trợ do UNDP thiết lập tháng 3/1995 và tổ chức hàng tháng. Diễn đàn thu hút thành viên tham gia từ các tổ chức tài trợ lớn ở Việt Nam, các quan chức Chính phủ (bao gồm các bộ liên ngành). Cuộc họp mỗi lần tập chung vào một vấn đề phát triển ưu tiên, chủ thể rộng và bao trùm nhiều vấn đề như chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn 10 năm, hiệu quả của nguồn vốn ODA, cải cách pháp lý, cải cách thương mại, phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo, luật doanh nghiệp mới và các vấn đề khác. Kể từ năm1994, Chính phủ đã tổ chức rất nhiều hội nghị điều phối viện trợ ngành có sự trợ giúp của các nhà tài trợ lớn nhất trong lĩnh vực có liên quan như giao thông vận tải, y tế, môi trường, nông nghiệp, lâm nghiệp, giáo dục, giảm nghèo, nước, thuỷ sản và nhiều ngành khác. Tại những lần diễn ra hội nghị, Chính phủ và các nhà tài trợ đều cố gắng đạt được sự hiểu biết chung về các ưu tiên phát triển của các ngành này, các hành động cần tiến hành tiếp theo để trợ giúp. Theo yêu cầu của Chính phủ và cộng đồng các nhà tài trợ, UNDP lưu trữ một cơ sở dữ liệu các cam kết và chi tiêu về ODA trong khoảng thời gian trước đây và hiện nay ở Việt Nam. Nó cung cấp chính xác những dữ liệu có liên quan nguồn vốn ODA nhằm giảm tối đa các sự trùng lặp, lẵng phí và dư thừa trong đầu tư. 3.2.1.4 Nâng cao năng lực quản lý nguồn vốn ODA Qua thảo luận, vấn đề tăng cường năng lực đã nổi lên thành một mối quan tâm chung của Chính phủ và các nhà tài trợ. Đặc biệt, các nhà tài trợ đã thống nhất với nhận định của Chính phủ rằng tăng cường năng lực sẽ đóng một vai trò chủ đạo trong việc góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng sử dụng viện trợ ở Việt Nam. Chính phủ cần chủ động triển khai chương trình tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA, không chỉ để giải quyết các yêu cầu trước mắt về đẩy nhanh tiến độ giải ngân và nâng cao chất lượng thực hiện ODA mà còn để phối hợp các nỗ lực chung trong việc thực hiện cải cách về thể chế, tổ chưc bộ máy và con người cần thiết phục vụ sự nghiệp phát triển lâu dài của Việt Nam. Tăng cường năng lực cũng cần được nhìn nhận trên cơ sở cung cầu phát triển của Việt Nam trong giai đoạn tới đây khi các thách thức về hội nhập càng lớn hơn và trên cơ sở một yêu cầu chung về quản lý hữu hiệu các nguồn lực cho phát triển dù đó là nguồn vốn ODA, FDI hay các nguồn vốn khác. Thông qua nhiều phương thức và qui mô đào tạo và các hình thức hỗ trợ khác nhau nhằm tăng cường năng lực quản lý và thực hiện ODA các cấp. Kiện toàn hệ thống theo dõi đánh giá dự án từ các Bộ, ngành, trung ương tới địa phương nhằm thúc đẩy quá trình thực hiện và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA; đưa công nghệ thông tin vào phục vụ công tác quản lỹ và theo dõi dự án. Phát triển nguồn nhân lực cho việc quản lý và thực hiện dự án ODA bao gồm việc xác định nhu cầu và tiến hành đào tạo cho các cán bộ tham gia vào hoạt động quản lý dự án, trước hết là ở các PMU. 3.2.1.5 Tiếp tục triển khai phương thức “Quốc gia điều hành” (PTQGĐH) Được hiểu là một phương thức tác nghiệp, mà căn cứ vào đó các quốc gia tiếp nhận viện trợ tự đảm nhận toàn bộ công việc chương trình, dự án, từ khâu xây dựng, kế hoạch, quản lý (hoặc điều hành) để chương trình, dự án được thực thi một cách có hiệu quả. Cuối năm 1990, Chính phủ Việt Nam đã chấp nhận từng bước đưa PTQGĐ vào áp dụng tại Việt Nam . Cuối năm 1991, dự án đầu tiên do UNDP tài trợ áp dụng phương thức quốc gia điều hành được phê duyệt. Chức năng điều hành dự án được giao cho Văn phòng các dịch vụ điều phối và điều hành dự án thuộc Uỷ ban khoa học Nhà nước (nay là bộ Khoa học, công nghệ và môi trường). Đây là mô hình thử nghiệm đầu tiên với cơ quan điều hành quốc gia mang tính tập chung. Tuy nhiên, mô hình sử dụng cơ quan điều hành quốc gia mang tính tập chung đã thể hiện tính bất cập của nó, UNDP đã phối hợp với các cơ quan Chính phủ xây dựng và áp dụng cơ chế quản lý phi tập chung đối với các dự án, theo đó các cơ quan chủ quản và UBND cấp tỉnh sẽ là cơ quan điều hành các dự án. PTQGĐH có các mặt tích cực, cụ thể là: Đảm bảo quyền làm chủ, sở hữu dự án, tính chủ động của các cơ quan tiếp nhận dự án gồm: nhà tài trợ, cơ quan chủ quản dự án, cơ quan tiếp nhận thực hiện dự án, cơ quan đồng thực hiện dự án, các cơ quan quản lý Viện trợ của Chính phủ, Phát huy tính chủ dộng của cơ quan tiếp nhận dự án và khả năng huy động nguồn lực trong nước thay vì sử dụng từ bên ngoài Đơn giản hoá và mẫu hoá các thủ tục trong các khâu quản lý dự án, đặc biệt quản lý tài chính, đồng thời vẫn đảm bảo quản lý chặt chẽ việc thực hiện dự án, giúp các cơ quan tiếp nhận dự án áp dụng, triển khai dự án một cách dễ dàng thuận lợi. Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiếp nhận dự án, trong đó có trách nhiệm báo cáo, đồng thời tăng cường công tác giám sát, theo dõi thực hiện dự án. Tăng cường năng lực quốc gia, ý thức tự lực, tự cường của các nước tiếp nhận viện trợ trong toàn bộ quá trình quản lý thực hiện dự án. Làm cho các dự án phù hợp hơn với điều kiện thực tế của nước tiếp nhận viện trợ, phát huy kết quả của dự án đối với lĩnh vực được tài trợ, nâng cao tính bền vững của dự án và phát huy các kết quả đã đạt được khi dự án kết thúc. PTQGĐH đã đặt ra một số vấn đề cần giải quyết nhằm hoàn thiện, cải tiến hiệu quả, hiệu lực của phương thức, đồng thời tiến tới hài hoà với hệ thống, cơ chế quản lý của Việt Nam. Những vấn đề đó là: Năng lực nội tại về quản lý dự án của các cơ quan và cán bộ tiếp nhận dự án còn hạn chế, không đồng bộ. Mỗi cơ quan thường chỉ có cơ hội tiếp nhận một dự án, do vậy năng lực điều hành đã được xây dựng không được duy trì và chuyển giao, kế thừa, những hiểu biết, kỹ năng về phương thức quốc gia điều hành luôn luôn là mới với cơ quan tiếp nhận dự án. Thiếu sự đồng bộ và toàn diện trong các qui trình, thủ tục trong nước về quản lý dự án, thiếu hệ thống giám sát dự án và chính sách kiểm toán chính thức. Để giải quyết những vấn đề trên, Chính phủ phải phối hợp cùng các nhà tài trợ tổ chức đào tạo và tập huấn về quản lý dự án và phương thức quốc gia điều hành cho các nhân lực tham gia quản lý, thực hiện dự án, đồng thời xây dựng và ứng dụng các công cụ quản lý dự án nhằm hỗ trợ điều hành và thực hiện dự án 3.2.2 Đối với các chương trình, dự án ODA trong Nông nghiệp 3.2.2.1 Xây dựng chiến lược dài hạn thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA Để tăng cường thu hút cũng như sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn ODA, trong thời gian tới Bộ Nông nghiệp và PTNT cần phối hợp với các cấp tỉnh địa phương xây dựng kế hoạch dài hạn đỗi với nguồn vốn này tập chung vào các nội dung sau: Xây dựng danh mục dự án ưu tiên thu hút ODA. Từ chiến lược phát triển Nông nghiệp, ngành sẽ xây dựng một danh mục những dự án, chương trình ưu tiên thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA, từ đó đệ trình lên Bộ KH-ĐT để được đề cập tại các hội nghị các nhà tài trợ hoặc đưa ra tại các hội nghị hợp tác quốc tế của ngành. Trước mắt, Bộ cần tập trung thu hút nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực Việt Nam chưa có đủ khả năng phát triển hoặc những vấn đề trọng điểm của ngành. Đó là hoạt động đầu tư nhằm tăng năng suất, hạ giá thành để nâng cao tính cạnh tranh của nông sản xuất khẩu chiến lược như: Gạo, Cafê, Chè, Cao su, Tiêu, Điều, Rau quả, Chăn nuôivà tạo việc làm cho khu vực Nông thôn. Thiết lập mối quan hệ lâu dài với các nhà tài trợ Để tiếp cận được nguồn vốn ODA, Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn cần phối hợp với Bộ KHĐT, các nhà tài trợ quốc tế lập kế hoạch tổ chức các hội nghị tài trợ nhằm kết nối giữa nhu cầu về nguồn vốn với khả năng cung ứng của nhà tài trợ và kêu gọi viện trợ từ các nhà tài trợ. Tiếp tục củng cố mối quan hệ bền vững với các nhà tài trợ hiện tại đồng thời thông qua các cơ quan Chính phủ, Bộ KHĐT tiếp cận với những nhà tài trợ mới, kêu gọi được sự quan tâm ủng hộ của họ. Có chiến lược cụ thể, rõ ràng với từng đối tác. Cùng với phía đối tác xây dựng kế hoạch thực hiện và giải ngân nguồn vốn ODA, thường xuyên theo dõi tình hình triển khai chương trình, dự án để đề xuất những biện pháp giải quyết cụ thể, kịp thời. Xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao Lên kế hoạch phân bổ các nguồn nhân lực từ cấp Bộ cho các lĩnh vực hoặc các chương trình, dự án ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA ở các tỉnh, địa phương. Sẵn sàng đáp ứng khi nhà tài trợ yêu cầu. Có kế hoạch tăng cường, bổ túc kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ cho cán bộ quản lý, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở, địa phương để thích nghi được nhanh chóng khi đảm nhận dự án của ngành. 3.2.2.2 Giải pháp về tổ chức cán bộ Sắp tới việc đẩy mạnh đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp tỉnh, cơ sở là việc làm hết sức cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA. Phát triển nguồn nhân lực không phải là công việc ngày một, ngày hai mà cần phải được xem xét như là một chiến lược lâu dài nhằm sử dụng tốt nguồn vốn ODA cũng như tạo dựng được tác phong, lề lối làm việc mới trong ngành Nông nghiệp. Phải kiện toàn hệ thống tổ chức, thực thi các dự án từ Bộ xuống cơ sở theo nguyên tắc tập chung gọn nhẹ và phân mạnh trách nhiệm thực thi dự án cho cho các địa phương. Hình thành mạng lưới hoạt động thường xuyên giữa Bộ và cơ sở, các Cục, Vụ, Viện, Sở phải có một lãnh đạo phụ trách công tác hợp tác quốc tế. Có như vậy mới tạo ra một mạng lưới thống nhất dễ dàng cho công tác quản lý từ trên xuống cũng như việc cập nhất chủ trương, chính sách thường xuyên của cơ sở. Đẩy mạnh các chương trình đào tạo, nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở. Xây dựng đội ngũ cán bộ có chuyên môn, am hiểu về lĩnh vực hợp tác quốc tế, thành lập ngân hàng lý lịch các cán bộ của ngành để khi cần có thể giới thiệu cho các tổ chức quốc. Tận dụng nguồn vốn tài trợ như nguồn vốn viện trợ từ úc, Đan Mach, NewZealand, Canadadành cho các dự án nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn. 3.2.2.3 Thiết lập mối quan hệ với các nhà tài trợ quốc tế thông qua hoạt động của nhóm hỗ trợ quốc tế ISG. Giới thiệu chung về ISG ISG là một cơ quan trực thuộc Vụ hợp tác quốc tế, Bộ KHĐT, được thành lập năm 1997 theo Quyết định 54/NĐ/TCCB-QĐ với chức năng cơ bản là tư vấn nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA . Vai trò ISG có vai trò xúc tác nhằm đạt được sự trao đổi thông tin một cách cởi mở và thể hiện những lợi ích liên quan đến việc chia sẻ thông tin. ISG được Bộ NN-PTNT thành lập từ năm 1997, đã bước đầu hỗ trợ Bộ và các nhà tài trợ trong việc trao đổi chính sách, kinh nghiệm và thông tin qua mô hình diễn đàn và tiến hành một số hoạt động chuyên đề. Cuối năm 2000, ISG được củng cố và mở rộng theo yêu cầu của cộng đồng tài trợ, với sự tham gia của nhiều nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế kể cả các tổ chức phi Chính phủ và các cơ quan hữu quan của Việt Nam. Ban điều hành ISG được thành lập để quyết định các chính sách cũng như các hoạt động cần thiết của ISG. ISG được Chính phủ Việt Nam cũng như nhiều nhà tài trợ đánh giá là một mô hình đối tác thành công đang được một số ngành và địa phương nghiên cứu và vận dụng. Đó là vì ISG đã huy động được sự tham gia tích cực, bền bỉ và có trách nhiệm của nhiều bên. Trong suốt thời gian hoạt động vừa qua, kể cả giai đoạn 1997-2000 và 2000-2002, Bộ NN-PTNT với vai trò chủ nhà của diễn đàn đối thoại đã luôn luôn tôn trọng nguyên tắc tiếp cận có sự tham gia của nhiều bên. ISG còn là một quá trình từng bước xây dựng năng lực một các có trọng tâm, trọng điểm. Cộng đồng ISG đã cùng nhau xây dựng và từng bước củng cố quá trình này tuỳ theo mức độ phát triển trong năng lực tiếp nhận của các cơ quan liên quan của Bộ và các cơ hội hợp tác và đối thoại. Kết quả của quá trình ISG cũng chính là kết quả của nỗ lực hợp tác của tất cả các bên tham gia. Nhiều nhà tài trợ đã thể hiện cam kết của mình cho sự nghiệp NN-PTNT qua các chương trình, dự án hay các hợp tác-hỗ trợ ngắn và trung hạn, trong đó nhiều ý tưởng xuất hiện trong diễn đàn trong khuôn khổ ISG. Các ý tưởng của ISG cũng đóng góp cho nhiều chủ trương và chương trình, dự án của Bộ NN-PTNT. Mục tiêu, nhiệm vụ, các hoạt động chính Hỗ trợ Bộ Nông nghiệp và PTNT nói chung và Vụ hợp tác quốc tế nói riêng trong việc: Điều phối với các nhà tài trợ quốc tế trong đó có các tổ chức phi Chính phủ về các chương trình, dự án trong tương lai. Xây dựng các đối tác Tăng cường vai trò làm chủ của Việt Nam đối với các dự án do nước ngoài tài trợ trong ngành Nông nghiệp ISG hoạt động như một cơ chế, tạo điều kiện thuận lợi cho đối thoại chính sách và điều phối ở các cấp theo chiều dọc và chiều ngang ( các nhà tài trợ, các Bộ và các Tỉnh ). Hội nghị thường niên ISG là diễn đàn chính sách lớn nhất giữa Bộ NN-PTNT với các cơ quan liên quan trong Chính phủ và phi Chính phủ, các tổ chức quốc tế tham gia hoạt động trong lĩnh vực Nông nghiệp và PTNT ở Việt Nam ISG đang trở thành một diễn đàn với các phương thức hoạt động mới, bao gồm: Hệ thống thông tin quản lý Trang WEB phục vụ phát triển Mã hoá để hỗ trợ quản lý các dự án Bản tin nội bộ thường kỳ Hội nghị toàn thể thường niên Các hội nghị ban điều hành Phương hướng phát triển của ISG Tại hội nghị lần thứ 7 của Ban điều hành ISG ngày 17 tháng 6 năm 2003 vừa qua, các thành viên của Ban đã cùng nhau bàn bạc và quyết định cách thức hoạt động mới của ISG trong giai đoạn 2003-2005. Ban điều hành tin tưởng rằng với cách thức hoạt động mới, ISG sẽ mang lại những kết quả khả quan hơn nữa trong vai trò một diễn đàn hỗ trợ đối thoại chính sách và trao đổi thông tin, kinh nghiệm về huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa nguồn vốn ODA phục vụ cho ngành Nông nghiệp và phát triển Nông thôn ở Việt Nam. Hội nghị ban điều hành lần thứ 6 (18/12/2002) đã yêu cầu sửa đổi các tài liệu chỉ đạo hoạt động của ISG theo hướng tăng cường chất lượng và mở rộng phạm vi của một số hoạt động. Lý do của việc đổi mới này là nhằm giúp Việt Nam đáp ứng tốt hơn những thách thức của việc chuyển dịch từ một nền Nông nghiệp và kinh tế Nông thôn chú trọng vào tăng qui mô sản xuất sang mô hình phát triển phù hợp nhu cầu thị trường trong một nền kinh tế ngày càng thích hợp chặt chẽ hơn với kinh tế Thế giới, đồng thời xoá đói giảm nghèo và công bằng xã hội. Trong những năm tới ISG sẽ tiếp tục mở rộng hoạt động của mình thông qua những định hướng sau: Thiết lập mở rộng và củng cố mối quan hệ với các nhà tài nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế đối với quá trình phát triển của Nông nghiệp nước nhà Hoạch định những chương trình, dự án ưu tiên phát triển của ngành trong từng giai đoạn-thời kỳ. Xây dựng mạng lưới thông tin rộng khắp từ Bộ tới các tỉnh, địa phương, thường xuyên cập nhật thông tin, chính sách mới nhằm nâng cao kiến thức và hiểu hiểu ở cấp cơ sở. Ngược lại, những thông tin phản hồi về tình hình thực hiện chương trình dự án ở địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý từ trên xuống. Cơ chế này đảm bảo cho các sở NN-PTNT được cung cấp thông tin và được tham gia vào các hoạt động lớn của ngành. Phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ trong việc quản lý các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA. Thường xuyên đánh giá hiệu quả tình hình thực hiện các dự án. Rút ra những kết luận cụ thể về thành công, thất bại, những bài học kinh nghiệm cụ thể để đề Xuất những biện pháp sử lý kịp thời. Đưa ra những kiến nghị, đề Xuất các biện pháp cụ thể cho Bộ NN-PTNT để cùng với các Bộ, các Ngành khác hoàn thiện qui trình thu hút và hài hoà thủ tục với các nhà tài trợ. 3.2.2.4 Chuyển mạnh từ phương thức tiếp cận theo dự án hiện nay sang phương thức tiếp cận mới theo chương trình Tiếp cận theo dự án: Là phương thức tiếp cận với nguồn vốn tài trợ thông qua từng dự án đơn lẻ, thường có qui mô nhỏ và phạm vi hẹp. Tiếp cận theo chương trình: Là phương thức tiếp cận nguồn vốn một cách tổng hợp dựa trên chiến lược phát triển của ngành và vai trò chỉ đạo của Chính phủ. Cho đến nay, viện trợ trong Nông nghiệp chủ yếu được cung cấp thông qua những dự án đơn lẻ, thường không có cơ chế phối hợp rõ ràng và hiệu quả giữa các dự án này. Do vậy chúng ta đang chuyển dần từ phương thức thực hiện nhiều dự án nhỏ sang phương thức thực hiện ít dự án hơn nhưng có qui mô lớn hơn, trong đó từng nhà tài trợ nên tập chung hỗ trợ cho một số ít các tỉnh hoặc ngành thì tốt hơn là dàn trải ra nhiều tỉnh và nhiều ngành và thực hiện các cơ chế phối hợp và đồng tài trợ. Về nguyên tắc, Thủ tướng Chính phủ sẽ phê duyệt tất cả các giai đoạn của một chương trình lớn, song quyền hạn phê duyệt các hợp phần được trao cho các cơ quan cấp dưới. Qua đó, hạn chế tình trạng xây dựng quá nhiều dự án đồng thời giảm nhẹ gánh nặng về năng lực tiếp nhận viện trợ của các cơ quan thụ hưởng, phát huy được vai trò điều phối của cấp cao, khuyến khích phát huy được quyền tự chủ của cấp cơ sở. Việc chuyển hướng sang phương thức hỗ trợ theo chương trình trong lĩnh vực Nông nghiệp Việt Nam đã được các nhà tài trợ hết sức ủng hộ và có thể là một triển vọng lâu dài do môi trường vĩ mô ở Việt Nam và thể chế cho việc thực hiện và quản lý ngân sách chưa đáp ứng được một số điều kiện tiên quyết cần có để triển khai đầy đủ phương thức này. Chính phủ và các nhà tài trợ có thể tiến hành để thực hiện phương thức hỗ trợ theo chương trình nhiều hơn với khả năng đạt được mục tiêu tăng hiệu quả Viện trợ, mặc dù chưa thể giảm ngay các chi phí giao dịch phát sinh từ tình hình như vậy. Trong những sáng kiến này có việc đưa dự án vào cùng một chiến lược của ngành hoặc phân ngành, củng cố và hợp lý hoá các dự án tài trợ trên cơ sở cung góp vốn, tiếp tục nâng cao chất lượng hợp tác với các nhà tài trợ, tăng cường công tác quản lý chi tiêu Kết luận Qua hơn mười năm triển khai và thực hiện ở Việt Nam, nguồn vốn Hỗ trợ chính thức đã phát huy được những ảnh hưởng tích cực của nó đối với công cuộc phát triển kinh tế Việt Nam nói chung, hiện đại hoá ngành Nông nghiệp nói riêng. Khoảng thời gian hơn mười năm chưa phải thật dài, nhưng cũng đủ để chúng ta nhận định và có một cái nhìn bao quát về “ Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong phát triển Nông nghiệp Việt Nam”. Nguồn vốn ODA vào Nông nghiệp tăng khá đều đặn trong thời gian vừa qua đã góp phần thay đổi bộ mặt Nông nghiệp và Nông thôn Việt Nam, đưa ngành dần dần bắt kịp với xu hướng phát triển và hội nhập của thế giới. Tuy nhiên, việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA là vấn đề hết sức nhạy cảm đối với các quốc gia. Bài học từ các nước đang phát triển cho thấy, nếu không sử dụng nguồn vốn ODA một cách có hiệu quả, thì chẳng những không hấp thụ được nguồn vốn mà còn có thể đưa đất nước vào tình trạng trì trệ, nợ nần chồng chất như ở Argentina hay Brazin trong những năm vừa qua. Do vậy, Nâng cao hiệu quả “thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức” trong thời gian tới là việc làm hết sức cần thiết để nguồn vốn ODA có thể phát huy được hết vai trò của nó, tăng cường được những tác động tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực trong thu hút và sử dụng nguồn vốn này. Ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần phát huy được vai trò chủ động của mình, phối hợp với các bộ, các ngành khác, các nhà tài trợ nhằm đẩy mạnh việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu quả phục vụ cho quá trình phát triển của ngành, đưa ngành Nông nghiệp trở thành ngành mũi nhọn trong công cuộc phát triển đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docvientro.doc
  • pptoda hien.ppt
  • docMUCLUC.doc
  • docdanhmucvt.doc
  • doctailieuthamkhao.doc
Tài liệu liên quan