Tóm tắt.
Dự báo mưa lớn Miền Trung hiện nay là một bài toán khó, dự báo mưa trong nghiệp vụ mới chỉđưa ra bản tin dự báo mưa một cách định tính không gian mưa. Trong nghiên cứu này các tác giả nghiên cứu khả năng dự báo mưa lớn của mô hình RAMS cho khu vực Đà Nẵng-Quảng Nam-Quảng Ngãi.
Bước đầu thử nghiệm dự báo và đánh giá cho thấy mô hình RAMS có thể dự báo mưa lớn với ngưỡng mưa 50 mm trước 48 giờ có diện mưa chính xác 70% với độ tin cậy 60% và dự báo mưa lớn với ngưỡng mưa 100 mm trước 24 giờ có diện mưa chính xác 90% với độ tin cậy 70%.
ĐỀ TÀI: Thử nghiệm dự báo mưa lớn cho các tỉnh Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thời hạn từ 1 đến 2 ngày bằng mô hình RAMS
Trên cơ sở những đánh giá này giúp cho những người làm dự báo nghiệp vụ có thêm thông tin dự báo mưa lớn sớm để phục vụ phòng chống thiên tai cũng như biết được khả năng dự báo mưa lớn của mô hình RAMS để tìm ra phương pháp cải tiến chất lượng dự báo mưa của mô hình.
8 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1697 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thử nghiệm dự báo mưa lớn cho các tỉnh Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thời hạn từ 1 đến 2 ngày bằng mô hình RAMS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 449‐456
449
_______
Thử nghiệm dự báo mưa lớn cho các tỉnh Đà Nẵng đến
Quảng Ngãi thời hạn từ 1 đến 2 ngày bằng mô hình RAMS
Công Thanh1,*, Nguyễn Tiến Toàn2
1Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN,
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
2Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Trung Trung Bộ
Tóm tắt. Dự báo mưa lớn Miền Trung hiện nay là một bài toán khó, dự báo mưa trong nghiệp vụ
mới chỉ đưa ra bản tin dự báo mưa một cách định tính không gian mưa. Trong nghiên cứu này các
tác giả nghiên cứu khả năng dự báo mưa lớn của mô hình RAMS cho khu vực Đà Nẵng-Quảng
Nam-Quảng Ngãi. Bước đầu thử nghiệm dự báo và đánh giá cho thấy mô hình RAMS có thể dự
báo mưa lớn với ngưỡng mưa 50 mm trước 48 giờ có diện mưa chính xác 70% với độ tin cậy 60%
và dự báo mưa lớn với ngưỡng mưa 100 mm trước 24 giờ có diện mưa chính xác 90% với độ tin
cậy 70%. Trên cơ sở những đánh giá này giúp cho những người làm dự báo nghiệp vụ có thêm
thông tin dự báo mưa lớn sớm để phục vụ phòng chống thiên tai cũng như biết được khả năng dự
báo mưa lớn của mô hình RAMS để tìm ra phương pháp cải tiến chất lượng dự báo mưa của mô
hình.
1. Mở đầu∗
Trong những năm gần đây, dải đất Miền
Trung nói chung và khu vực từ Đà Nẵng đến
Quảng Ngãi nói riêng là nơi chịu nhiều thiên tai
lũ lụt nhiều nhất nước ta. Đặc điểm địa hình
khu vực giới hạn phía bắc là dãy Bạch Mã với
đỉnh cao 1444 m, phía Tây và Tây Nam khu
vực được bao bọc bởi dãy Trường Sơn với các
đỉnh núi cao: Ngọc Linh 2598 m, Ngọc KRinh
cao 2025 m. Địa hình dốc, hẹp với nhiều dãy
núi cắt ngang nhô ra phía Biển đã tạo cho đặc
điểm tự nhiên của khu vực bị chia cắt thành các
địa hình là nơi có điều kiện thuận lợi để đón ẩm
từ Biển Đông khi có bão, nhiễu động từ phía
Đông vào, các đợt gió mùa Đông Bắc... gây
mưa lớn trên các vùng núi cao và kèm theo lũ
lớn trên các triền sông.
∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943.
E-mail: thanhc@vnu.edu.vn
Các lưu vực sông suối Miền Trung, với dải
đồng bằng hẹp, hơn 2/3 diện tích lưu vực là
vùng đồi núi nên các sông ngắn và dốc do đó
thường khi có mưa là gây lũ lớn. Lũ lụt đã gây
nên những thiệt hại to lớn về người và của, tàn
phá cơ sở hạ tầng, gây khó khăn cho sản xuất
và sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, dự báo
trước được mưa lớn Miền Trung trước thời hạn
1 đến 2 ngày sẽ giúp kéo dài thời gian cảnh báo
lũ sớm, nâng cao hiệu quả phòng tránh và giảm
nhẹ thiên tai.
2. Giới thiệu mô hình RAMS
Mô hình RAMS (Regional Atmospheric
Modeling System) được Đại học Tổng hợp
C. Thanh, N.T. Toàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 449‐456 450
Colorado (CSU) kết hợp với ASTER divsion-
thuộc Mission Research Corporation phát triển
đa mục đích. Xuất phát từ việc phối hợp 3 mô
hình: mô hình mây qui mô vừa (Tripoli and
Cotton, 1982) [1], mô hình mây thuỷ tĩnh
(Tremback, 1990) [2], và mô hình gió đất biển
(Mahrer and Pielke, 1977)[3]. Sau đó, cùng với
sự phát triển của kĩ thuật máy tính với các cấu
hình ngày càng mạnh thì mã nguồn của RAMS
đã được viết lại nhiều lần nhằm loại bỏ đi
những tính chất không thích hợp trong mô hình
[4].
Mô hình RAMS đã được thử nghiệm dự báo
mưa lớn Miền Trung cho lưu vực sông Trà
Khúc trong đề tài trọng điểm ĐHQG: “Xây
dựng công nghệ dự báo lũ bằng mô hình số thời
hạn 3 ngày cho khu vực Trung Bộ Việt Nam”
do GS.TS Trần Tân Tiến chủ trì, bằng cách sử
dụng mô hình sóng động học 1 chiều, phương
pháp phần tử hữu hạn và phương pháp SCS với
bộ thông số được thành lập cho lưu vực sông
Trà Khúc, các kết quả dự báo mưa thời hạn 3
ngày từ các mô hình khí tượng đã tiến hành thử
nghiệm cho kết quả dự báo lũ khả quan [5].
3. Xây dựng cấu hình miền tính phục vụ dự
báo mưa lớn cho khu vực Miền Trung
Trong nghiên cứu này chúng tôi đã tiến
hành thử nghiệm dự báo mưa cho khu vực Đà
Nẵng đến Quảng Ngãi bằng mô hình RAMS
với 2 lưới lồng. Vì mô hình RAMS sử dụng
phép chiếu cực nên áp dụng trong điều kiện
Việt Nam chúng tôi chọn tâm chiếu tại 150N và
108.50E.
- Lưới 1: Độ phân giải ngang có kích thước
bước lưới 28 km cho miền dự báo gồm 161 x
161 điểm lưới theo phương ngang, tạo ra miền
tính có kích thước 4508 x 4508 km2.
- Lưới 2: Độ phân giải ngang có kích thước
bước lưới là 7 km cho miền dự báo gồm 42 x
42 điểm lưới theo phương ngang, tạo ra miền
tính có kích thước 294 x 294 km2. Tâm miền
tính được đặt tại 15oN, 108.5oE, mục đích che
phủ toàn bộ khu vực nghiên cứu.
Kết quả dự báo cho 5 đợt mưa lớn diện
rộng gây lũ lớn trên khu vực trong mùa mưa
năm 2008-2009 được đưa ra 6 giờ/lần với hạn
dự báo là 72 giờ. Với hình thế Synốp các đợt
mưa như sau:
Đợt 10-14/10/2008: kết hợp nhiều hình thế:
không khí lạnh (KKL), xoáy thuận nhiệt đới
(XTNĐ), nhiễu động gió đông.
Đợt 16-21/10/2008: Nhiễu động trong đới
gió Đông + dải hội tụ nhiệt đới (ITCZ).
Đợt 28/9-05/10/2009: XTNĐ đổ bộ trực
tiếp.
Đợt 16-21/10/2009: ITCZ nối với ATNĐ
Đợt 21-26/10/2009: Ảnh hưởng XTNĐ
4. Cơ sở dữ liệu và phương pháp đánh giá
4.1. Cơ sở dữ liệu
Số liệu dùng trong bài báo này được sử
dụng gồm: số liệu trường ban đầu GFS (được
cung cấp bởi Trung tâm Dự báo Môi trường
Hoa Kỳ NCEP). Số liệu nhiệt độ mặt nước biển
trung bình tuần (cung cấp bởi NCEP). Số liệu
các yếu tố khí tượng tại 18 trạm KTTV (Bảng
1) khu vực Đà Nẵng-Quảng Nam-Quảng Ngãi
(cung cấp bởi trung tâm Dự báo KTTV khu vực
Trung Trung bộ với sự hỗ trợ của đề tài TN-10-
48). Do số liệu đo tại các trạm không trùng với
số liệu trên lưới, vì vậy trước khi đánh giá
chúng tôi tiến hành nội suy số liệu lưới về trạm.
4.2. Phương phương pháp đánh giá
Đánh giá thống kê theo loại (categorical
statistics) là loại tiêu chuẩn đánh giá sự phù hợp
giữa sự xảy ra hiện tượng dự báo và hiện tượng
C. Thanh, N.T. Toàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 449‐456 451
quan trắc. Các điểm số đánh giá được dựa vào
bảng ngẫu nhiên sau (Damrath, 2002) [6, 7]:
Hits (H) = dự báo có + quan trắc có
Misses (M) = dự báo không + quan trắc có
False alarms (F) = dự báo có + quan trắc
không
Correct negatives (CN) = dự báo không +
quan trắc không
a) Đánh giá tỷ số giữa vùng dự báo và vùng
thám sát (Bias score (BS) hay FBI).
FBI < 1: vùng dự báo nhỏ hơn vùng thám
sát
FBI > 1: vùng dự báo lớn hơn vùng thám
sát
FBI = 1: vùng dự báo trùng với vùng thám
sát (giá trị lý tưởng)
FBI= (H+ F)/(H+ M)
b) Xác suất phát hiện (Probability of
Detection - POD)
POD= H/(H+M)
POD chỉ nhạy đối với những hiện tượng
không dự báo được (misses events) chứ không
nhạy đối với phát hiện sai. POD dao động từ 0
đến 1. Giá trị tối ưu POD = 1.
c) Tỷ phần dự báo phát hiện sai (False
Alarms Ratio - FAR)
FAR= F/(H+ F)
Giá trị tối ưu FAR = 0
d) Điểm số thành công (Critical Success
Index – CSI hay Threat Score – TS)
CSI= TS= H/(M+ F+ H)
Giá trị tối ưu TS = 1
e) Độ chính xác (Percentage Correct - PC)
PC=( H+ CN)/ (M+ F+ H+CN)
Bảng 1. Danh sách trạm Khí tượng Thủy văn
(KTTV) sử dụng trên khu vực thử nghiệm
5. Phân tích thử nghiệm hai đợt mưa lớn
năm 2008-2009
5.1. Đợt 16-21/10/2008
5.1.1 Diễn biến của đợt mưa. Đợt mưa lớn
này gây ra bởi nhiễu động trong đới gió đông
duy trì kết hợp với rìa bắc của dải thấp nối với
một vùng thấp ở vùng biển nam Trung Bộ. Mưa
lớn tập chung vào ngày 16-17/10, tổng lượng
mưa đợt trong khu vực phổ biến là 300-500
mm, trong đó Trà My 572,4 mm (ngày 17/10
mưa 277,7 mm) và là nơi có lượng mưa lớn
nhất trong đợt. Đây là đợt mưa lớn nhất trong
mùa mưa năm 2008 và đã gây lũ lớn trên các
sông trên khu vực Đà Nẵng-Quảng Nam-Quảng
Ngãi. Các tác giả đã chạy thử nghiệm Dự báo
mưa bằng mô hình Rams cho khu vực từ 19 giờ
ngày 15/10/2008 cho hai ngày 16-17/10/2008.
C. Thanh, N.T. Toàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 449‐456 452
5.1.2. Phân tích kết quả mô hình
Hình 1. Tổng lượng mưa dự báo tích lũy trong
24 giờ ngày 16/10/2008.
a) Kết quả dự báo mưa 24 giờ ngày
16/10/2008 (Hình 1) mô hình cho mưa trên toàn
bộ khu vực. Mưa lớn tập trung chủ yếu ở phía
tây với ba trung tâm mưa lớn. Trung tâm mưa
lớn thứ nhất nằm ở khu vực phía bắc tỉnh
Quảng Nam, tây bắc thành phố Đà Nẵng tiếp
giáp với tỉnh Thừa Thiên – Huế, cường độ mưa
được dự báo trên 200 mm; trung tâm mưa lớn
thứ hai nằm ở khu vực vùng núi tỉnh Quảng
Nam giữa các huyện Giằng, Quế Sơn, Trà My
và Đông Giang với cường độ mưa trên 300 mm
(đây là khu vực có lượng mưa rất lớn hàng
năm) và vùng mưa lớn thứ 3 nằm ở vùng núi Ba
Tơ đến Sơn Giang tỉnh Quảng Ngãi với cường
độ mưa từ 150-200 mm. Kết quả mưa thực đo
tại các trạm trong khu vực cho phân bố không
gian cường độ mưa chính xác với kết quả Dự
báo bằng mô hình, nhưng cường độ mưa của
mô hình thiên thấp hơn đối với các điểm có
cường độ mưa trên 100 mm với độ chênh lệch
phổ biến 20-60 mm; và đối với các điểm có
lượng mưa nhỏ hơn 100 mm thì lại có xu hướng
cao hơn trong khoảng từ 10-30 mm.
b) Kết quả dự báo mưa thời đoạn 24 giờ
ngày 17/10/2008 (Hình 2)
Hình 2. Tổng lượng mưa dự báo tích lũy trong 24
giờ ngày 17/10/2008.
Tổng lượng mưa tích lũy 24 giờ từ 19 giờ
ngày 16/10 đến ngày 17/10 của mô hình cho kết
quả thấp hơn so với tổng lượng mưa tích lũy 24
giờ trước đó. Hai trung tâm mưa lớn ở khu vực
phía bắc tỉnh Quảng Nam và trung tâm mưa lớn
ở vùng núi Ba Tơ được dự báo trong ngày
16/10 suy giảm, chỉ còn trung tâm mưa lớn ở
khu vực vùng núi tỉnh Quảng Nam ngày hôm
trước với xu hướng mở rộng hơn về diện nhưng
cường độ mưa được dự báo cao hơn. Vùng tâm
mưa lớn nhất có cường độ trên 450 mm. Kết
quả đo được thực tế tại các trạm trong khu vực
cho thấy sai khác về cường độ mưa là khá lớn
nhưng phân bố không gian của cường độ mưa
là tốt so với mưa thực tế.
5.2. Đợt mưa từ 28/9-05/10/2009
5.2.1. Diễn biến của đợt mưa. Bão số 9 (25-
29/09) (KETSANA-0916) hoạt động trên biển
Đông từ ngày 26-29/9/2009. Đây là một cơn
bão rất mạnh, hình thành trên vùng biển phía
C. Thanh, N.T. Toàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 449‐456 453
đông Philippin, di chuyển nhanh theo hướng tây
và tây tây bắc với tốc độ 20-25 km/giờ, trong
quá trình di chuyển trên biển Đông bão số 9
mạnh dần lên cấp 13, giật cấp 14-15 và tốc độ
di chuyển giảm dần xuống 10-15 km/giờ. Trưa
ngày 29/9 thì đổ bộ vào đất liền các tỉnh Quảng
Nam và Quảng Ngãi. Khi đổ bộ vào đất liền
bão số 9 có cường độ vẫn rất mạnh cấp 11-12,
giật cấp 13 và di chuyển theo hướng tây tây bắc
đi sâu vào đất liền tỉnh Quảng Nam và tiếp tục
suy yếu.
Do ảnh hưởng trực tiếp của bão số 9, trong
hai ngày 28 và 29/09/2009 khu vực Đà Nẵng
đến Quảng Ngãi đã có mưa to đến rất to phổ
biến: 350-600mm, một số nơi trên 600 mm như
trạm Hiên 602 mm, Trà Khúc 673 mm và đã
gây lũ lớn trên các sông trong khu vực. Các tác
giả đã chọn chạy thử nghiệm dự báo mưa bằng
mô hình Rams từ 19 giờ ngày 27/10/2009 cho
ngày 28 và 29/10/2009.
5.2.2. Phân tích kết quả dự báo bằng mô hình:
a) Kết quả dự báo mưa 24 giờ ngày
28/10/2009 (Hình 3):
Hình 3. Tổng lượng mưa dự báo tích lũy trong 24
giờ ngày 28/10/2009.
Kết quả dự báo của mô hình thời đoạn 24
giờ cho thấy toàn khu vực có mưa lớn diện
rộng, cường độ mưa từ 50 mm đến trên 200
mm. Phân bố không gian với hai trung tâm mưa
lớn: một nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Nam giáp
ranh với Thừa Thiên – Huế với cường độ mưa
dự báo lớn nhất trên 250 mm; tâm mưa thứ hai
có cường độ nhỏ hơn, phổ biến từ 150-200 mm
phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng và ven biển
từ thành phố Tam Kỳ tới thành phố Quảng Ngãi
nối với tâm mưa trên vùng núi huyện Trà My
(Quảng Nam) nhưng có cường độ nhỏ hơn 200
mm. Kết quả thực tế lượng mưa đo được tại các
trạm dùng đánh giá cho thấy kết quả dự báo của
mô hình trong trường hợp này có độ chính xác
cao đối với các điểm khảo sát cường độ mưa đo
được phổ biến từ 50-150 mm. Đặc biệt, cường
độ mưa dự báo chênh lệch với mưa thực rất ít,
phổ biến từ 10-30 mm đối với cả các điểm mưa
lớn nhất.
b) Kết quả dự báo mưa thời đoạn 24 giờ ngày
29/10/2009 (Hình 4)
Hình 4. Tổng lượng mưa dự báo tích lũy trong 24
giờ ngày 29/10/2009.
C. Thanh, N.T. Toàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 449‐456 454
Với thời gian dự báo mưa trước 48 giờ mô
hình dự báo tiếp tục có mưa lớn trên diện rộng.
Lượng mưa lớn phân bố thành nhiều trung tâm
mưa: một trung tâm mưa nằm phía nam so với
thành phố Tam Kỳ có cường độ mưa 150-200
mm; một trung tâm mưa nhỏ hơn nằm ở phía
tây thành phố Quảng Ngãi với cường độ 150
mm; một tâm mưa lớn ở ven biển và trên đất
liền Đà Nẵng với cường độ mưa 24 giờ 200-260
mm; đặc biệt mô hình dự báo có một tâm mưa
lớn nhất nằm ở phía tiếp giáp với Thừa Thiên –
Huế với cường độ mưa 250 – 300 mm. Thực tế,
cơn bão KETSANA đã di chuyển phức tạp và
đổ bộ trực tiếp vào khu vực, đánh giá lượng
mưa các trạm khảo sát cho thấy mô hình đã dự
báo tốt được phân bố lượng mưa trong khu vực
nhưng cường độ mưa thấp hơn thực tế khá lớn
từ 50-100 mm.
5.3. Nhận xét
Dựa trên kết quả phân tích thử nghiệm của
các đợt mưa lớn trên có thể thấy:
Thời gian dự báo 24 giờ mô hình cho kết
quả rất tốt về cường độ mưa và về diện mưa.
Thời điểm chạy mô hình toàn khu vực đều có
mưa nhỏ hặc không mưa, mô hình đã cho dự
báo lượng mưa của khu vực rất lớn, đa số trên
100 mm và có những điểm được dự báo trên
150 mm. Kết quả xảy ra thực tế là mô hình đã
dự báo được phân bố và cường độ mưa. Đây là
thông tin rất quan trọng đối với dự báo về phân
bố diện mưa và cuờng độ mưa trong ngày đầu
tiên của một đợt mưa lớn đối với khu vực Đà
Nẵng-Quảng Nam-Quảng Ngãi nói riêng cũng
như Miền Trung Việt Nam nói chung.
Dự báo mưa lớn thời gian dự báo trước 48
giờ cho kết quả tốt về diện và phân bố cấp mưa
nhưng cường độ mưa còn thấp hơn thực tế khá
nhiều.
6. Đánh giá khả năng dự báo mưa lớn trên
khu vực Quảng Ngãi-Quảng Nam-Đà Nẵng
Bảng 2. Thời gian sử dụng mô phỏng của mô hình
Dựa trên bộ số liệu đo mưa tại 18 trạm khí
tượng thủy văn của năm đợt mưa lớn gây lũ
trong hai năm 2008-2009 trên khu vực từ Đà
Nẵng đến Quảng Ngãi, chúng tôi tiến hành mô
phỏng lại năm trường hợp (Bảng 2) bằng mô
hình RAMS với thời hạn 48 giờ. Tiến hành xây
dựng các điểm số đánh giá trên cơ sở chọn
ngưỡng mưa lớn là 50 mm, 100 mm và 150
mm, sau đó lượng mưa dự báo được nội suy về
toạ độ của các trạm đo mưa tương ứng. Kết quả
thu được tổng lượng mưa của ngày thứ nhất và
tổng lượng mưa của ngày thứ hai sẽ được sử
dụng để so sánh với số liệu quan trắc mưa tại
các trạm (Bảng 3) với tổng dung lượng mẫu của
mỗi thời hạn dự báo là 90 trạm.
Bảng 3. Các chỉ số thống kê ngẫu nhiên giữa
dự báo và thực tế
C. Thanh, N.T. Toàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 449‐456 455
Để làm rõ hơn khả năng dự báo của mô
hình cho khu vực Đà Nẵng-Quảng Nam-Quảng
Ngãi, các chỉ số thống kê và tính toán được đưa
ra trong Bảng 4 qua đó nhận thấy:
Diện tích vùng mưa dự báo và diện tích
vùng mưa quan trắc với ngưỡng 50 mm và 100
mm trong hạn dự báo 24 giờ giá trị FBI đều
khá cao, đạt 0.9; đối với hạn dự báo 24 - 48 giờ
FBI có giá trị từ 0.6-0.7.
Chỉ số POD biểu thị xác suất phát hiện
đúng sự kiện mưa lớn. Rõ ràng chỉ số POD khá
tốt đối với dự báo ngưỡng mưa lớn hơn 50 mm
cho thời hạn 48h và dự báo ngưỡng mưa lớn
hơn 100 mm cho thời hạn dự báo 24 giờ. Ở
ngưỡng mưa lớn hơn 150 mm khả năng phát
hiện mưa của mô hình còn thấp dưới 20%.
Bảng 4. Điểm số đánh giá mưa với các ngưỡng
50, 100, 200 mm với thời hạn dự báo 00-24 giờ
và 24-48 giờ
Đối với việc phát hiện dự báo sai của mô
hình, chúng tôi sử dụng chỉ số FAR. Kết quả
ban đầu cho thấy mô hình dự báo rất tốt với các
ngưỡng mưa lớn hơn 50 mm ở hạn 48 giờ (FAR
dao động trong khoảng 0,1-0,2) và ngưỡng mưa
lớn hơn 100 mm trong hạn dự báo 24 giờ (FAR
= 0.3).
Để đánh giá chất lượng dự báo mưa của mô
hình chúng tôi sử dụng chỉ số CSI. Kết quả cho
thấy mô hình có thể dự báo được mưa lớn hơn
50 mm, độ chính xác 60% trong hạn dự báo 48
giờ và 50% đối với ngưỡng mưa lớn hơn 100
mm ở hạn 24 giờ.
Đánh giá chung, độ chính xác của mô hình
khi dự báo mưa lớn qua chỉ số PC cho tất cả các
ngưỡng mưa lớn: với hạn dự báo 24 giờ đều đạt
70%, trong khi đó độ chính xác của mô hình
hạn dự báo 48 giờ đạt 40-60%. Tuy nhiên, nếu
chỉ xem xét đánh giá cường độ mưa dựa trên
các điểm khảo sát thì sẽ không nói được hết khả
năng dự báo được bằng mô hình do các trung
tâm mưa lớn nhất trong trường hợp thử nghiệm
chủ yếu không nằm trong vùng có các điểm
khảo sát, trong khi lượng mưa của chúng rất
lớn. Thực tế, trong các trường hợp khảo sát này
đã xuất hiện lũ đặc biệt lớn trên các sông trong
khu vực Miền Trung.
7. Kết luận
Mô hình Rams có khả năng dự báo mưa lớn
vài trăm milimet trong thời gian 24 giờ, điều
này rất ít mô hình dự báo khu vực có thể dự báo
được [8, 9]. Qua việc đánh giá kết quả dự báo
mưa lớn ở trên, mô hình RAMS có thể dự báo
được mưa lớn khu vực từ Đà Nẵng tới Quảng
Ngãi trước 48h với ngưỡng mưa lớn hơn 50
mm cho khu vực, trước 24 h với ngưỡng mưa
lớn hơn 100 mm. Mô hình RAMS hoàn toàn có
thể đưa vào nghiệp vụ để dự báo mưa lớn khu
vực Đà Nẵng-Quảng Nam-Quảng Ngãi.
Tài liệu tham khảo
[1] G.J. Tripoli, W.R. Cotton, The Colorado State
University three-dimensional cloud/mesoscale
model - 1982. Part I: General theoretical
framework and sensitivity experiments. J. de
Rech. Atmos., 16 (1982) 185.
[2] C. J. Tremback, Numerical simulation of a
mesoscale convective complex: model
development and numerical results. Ph.D.
dissertation, Atmos. Sci. Paper No. 465,
Colorado State University, Dept. of Atmospheric
Science, Fort Collins, CO 80523, 1990
[3] C.J. Tremback, L. Robert Walko, 2006, RAMS
user’s guide version 6.0.
C. Thanh, N.T. Toàn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 449‐456 456
[7] Damrath U., Verification of the operational
NWP models at DWD, Offenbach, Germany,
2002.
[4] Y. Mahrer, R.A. Pielke, A numerical study of
the airflow over irregular terrain, Beitrage zur
Physik der Atmosphare 50 (1977) 98.
[5] Trần Tân Tiến, Xây dựng công nghệ dự báo lũ
bằng mô hình số thời hạn 3 ngày cho khu vực
Trung Bộ Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài
trọng điểm cấp ĐHQG, 2006.
[8] Chu Thị Thu Hường, Nghiên cứu thử nghiệm dự
báo mưa thời hạn từ 1 đến 3 ngày cho khu vực
Trung Bộ Việt Nam bằng mô hình WRF, Tạp
chí Khí tượng Thủy văn, tháng 10/2006.
[6] Vũ Thanh Hằng, Nghiên cứu tác động của tham
số hóa đối lưu đối với dự báo mưa bằng mô hình
HRM ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, 2008.
[9] Bùi Minh Sơn, Thử nghiệm dự báo mưa lớn khu
vực Nam Trung Bộ bằng mô hình MM5, Tạp chí
Khí tượng Thủy văn, tháng 4/2009.
Experimental prediction of heavy rainfall over Da Nang-
Quang Nam- Quang Ngai area of Vietnam for 1-2 day term
using RAMS model
Cong Thanh1, Nguyen Tien Toan2
1Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU,
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
2Hydro-Meteorology Agency of Central Viet Nam
Prediction of heavy rainfall over central Vietnam is a difficult problem. The daily weather reports
give qualitative analysis only. This study assesses the applicable of the RAMS model to predict heavy
rainfall for central Vietnam (Da Nang-Quang Nam-Quang Ngai). Applicability simulation results,
verified against observed precipitation, showed that the RAMS model is a useful tool for prediction of
heavy rainfall. The accuracy for 48-h forecast (at 50 mm threshold) and 24-h forecast (at 100 mm
threshold) were about 70% and 90%, respectively. The results of this study can contribute to a better
understanding quantitative precipitation prediction using numerical simulation in central Vietnam, and
they may be valuable for local forecasters.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21) Thanh, Toan_449-456(8tr).pdf