Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế “mạnh được – yếu thua” đã trở thành một cơ chế phổ biến mà bất cứ một doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX) nào cũng không thể nằm ngoài guồng quay của nó. Trong xu hướng này, phá sản DN được coi là một hiện tượng chọn lọc tự nhiên tất yếu trong quá trình cạnh tranh để loại bỏ các DN, HTX hoạt động yếu kém và tạo cơ hội phát triển cho các DN, HTX làm ăn có hiệu quả. Phá sản trong nền kinh tế thị trường đã trở thành một hiện tượng thường gặp, và chính vì thế hiện tượng này không nằm ngoài sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật về kinh tế của mỗi quốc gia. Bên cạnh mục tiêu là tạo cơ chế pháp lí để chấm dứt hoạt động của DN lâm vào tình trạng phá sản thì pháp luật về phá sản ở hầu hết các quốc gia còn có một mục tiêu quan trọng nữa đó là giúp DN lâm vào tình trạng phá sản có thể phục hồi được hoạt động sản xuất (SX), kinh doanh (KD). Việc mở thủ tục phục hồi không chỉ giúp DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản tránh được kết cục không mong muốn mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc duy trì việc làm cho người lao động, bảo vệ quyền, lợi ích của chủ nợ và duy trì ổn định tình hình kinh tế. Chính bởi những nguyên nhân trên cùng với những yêu cầu mới của nền kinh tế thì trường trong việc hoàn thiện pháp luật về phá sản, Luật Phá sản năm 2004 (LPS 2004) đã có những quy định cụ thể, rõ ràng và mang nhiều đổi mới tiến bộ về trình tự, thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Đây được xem như một cơ hội rất tốt đối với những DN, HTX đang lâm vào tình trạng phá sản để khôi phục lại hoạt động SX KD của mình. Để hiểu rõ hơn những quy định của pháp luật mà cụ thể là LPS 2004 về thủ tục phục hồi hoạt động KD doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, tiểu luận này xin nghiên cứu về đề tài “Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản (2004)”
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3255 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản (2004), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế “mạnh được – yếu thua” đã trở thành một cơ chế phổ biến mà bất cứ một doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX) nào cũng không thể nằm ngoài guồng quay của nó. Trong xu hướng này, phá sản DN được coi là một hiện tượng chọn lọc tự nhiên tất yếu trong quá trình cạnh tranh để loại bỏ các DN, HTX hoạt động yếu kém và tạo cơ hội phát triển cho các DN, HTX làm ăn có hiệu quả. Phá sản trong nền kinh tế thị trường đã trở thành một hiện tượng thường gặp, và chính vì thế hiện tượng này không nằm ngoài sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật về kinh tế của mỗi quốc gia. Bên cạnh mục tiêu là tạo cơ chế pháp lí để chấm dứt hoạt động của DN lâm vào tình trạng phá sản thì pháp luật về phá sản ở hầu hết các quốc gia còn có một mục tiêu quan trọng nữa đó là giúp DN lâm vào tình trạng phá sản có thể phục hồi được hoạt động sản xuất (SX), kinh doanh (KD). Việc mở thủ tục phục hồi không chỉ giúp DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản tránh được kết cục không mong muốn mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc duy trì việc làm cho người lao động, bảo vệ quyền, lợi ích của chủ nợ và duy trì ổn định tình hình kinh tế. Chính bởi những nguyên nhân trên cùng với những yêu cầu mới của nền kinh tế thì trường trong việc hoàn thiện pháp luật về phá sản, Luật Phá sản năm 2004 (LPS 2004) đã có những quy định cụ thể, rõ ràng và mang nhiều đổi mới tiến bộ về trình tự, thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Đây được xem như một cơ hội rất tốt đối với những DN, HTX đang lâm vào tình trạng phá sản để khôi phục lại hoạt động SX KD của mình. Để hiểu rõ hơn những quy định của pháp luật mà cụ thể là LPS 2004 về thủ tục phục hồi hoạt động KD doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, tiểu luận này xin nghiên cứu về đề tài “Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản (2004)”
NỘI DUNG
Trong LPS 2004, đối tượng áp dụng được quy định là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gọi chung là hợp tác xã), vì vậy, trong đề tài này, khi nói về thủ tục phục hồi hoạt động KD thì cũng được hiểu là thủ tục phục hồi hoạt động KD áp dụng cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nói chung.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KD CỦA DN, HTX LÂM VÀI TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN.
1.1 Khái niệm doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hàng ngày, trên các phương tiện thông tin đại chúng ta có thể bắt gặp vô số những thông báo thành lập DN, HTX, cùng với đó cũng là rất nhiều những thông báo về giải thể, phá sản doanh nghiệp. Sau khi thành lập, bất kể ai cũng muốn doanh nghiệp của mình hoạt động, làm ăn có hiệu quả, nhưng vì rất nhiều lí do mà nhiều DN, HTX làm ăn thua lỗ, không thực hiện được mục tiêu kinh doanh, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và lâm vào tình trạng phá sản. Bất cứ DN nào cũng đều không hề mong muốn đi đến kết cục này nhưng đây lại là điều phổ biến trong nền kinh tế thị trường nếu DN không có những chiến lược đúng đắn để thực hiện công việc SX, KD của mình. Tình trạng phá sản là khái niệm dùng để chỉ tình trạng tài chính của DN, HTX ở một thời điểm nhất định được đặc trưng bởi một khoản nợ cụ thể không thể thanh toán. Việc xác định DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản ở mỗi quốc gia có những điểm khác nhau nhưng nhìn chung đều dựa vào hai tiêu chí là tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Theo tiêu chí định tính thì DN, HTX bị coi là lâm vào tình trạng phá sản nếu tổng số nợ của DN, HTX vượt qua khả năng thanh toán của DN, HTX đó.
Theo tiêu chí định lượng (hay còn được gọi là tiêu chí kế toán) thì DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản khi con nợ không trả được một khoản nợ đến hạn với giá trị theo quy định của pháp luật. Khoản nợ này không giới hạn là nợ mang tính chất dân sự hay nợ mang tính chất kinh doanh.
Mặc dù vậy, nếu chỉ dựa vào hai tiêu chí này thì dường như còn quá đơn giản, không có tính thuyết phục và vẫn tồn tại những thiếu sót khi áp dụng vào thực tế. Khắc phục những thiếu sót trên cũng như những khiếm khuyết trong các VBPL quy định về phá sản trước (như Luật phá sản doanh nghiệp 1993, Nghị định 189/NĐ-CP năm 1994,…), LPS 2004 đã quy định tại Điều 3: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Theo quy định này thì DN, HTX không có khả năng thanh toán không phải là không có khả năng thanh toán chung mà là không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và chỉ là nợ đến hạn khi có chủ nợ yêu cầu. Việc quy định rõ ràng căn cứ để xác định tình trạng phá sản đã mở ra cơ hội tối đa cho các DN, HTX lâm vào tình trạng này có thể tổ chức lại hoạt động KD đồng thời cũng giúp chủ nợ dễ dàng nhận biết được tình trạng này để cân nhắc quyết định nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Cách quy định về khái niệm DN lâm vào tình trạng phá sản như trong LPS 2004 đã thể hiện được quan điểm chủ đạo trong LPS 2004 là phục hồi khả năng thanh toán nợ, đưa DN trở lại hoạt động bình thường. Tiêu chí xác định DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản như trên cũng chỉ là căn cứ cho việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản chứ chưa phải căn cứ cho việc tuyên bố phá sản.
1.2 Đôi nét về thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản và vai trò của nó trong thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
1.2.1 Bản chất pháp lí của thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Khi DN, HTX lâm vào tình trạng “không thể cứu vãn về tài chính”, mắc nợ mà không thể trả toàn bộ hoặc một phần số nợ của mình cho các chủ nợ khi được yêu cầu, thủ tục phá sản sẽ được áp dụng để đảm bảo quyền lợi của chủ nợ, đảm bảo trật tự, ổn định xã hội. Trong LPS của Việt Nam cũng như trong luật quy định về phá sản của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trình tự giải quyết phá sản có hai thủ tục cơ bản là thủ tục phục hồi và thủ tục thanh lí doanh nghiệp.
Hiện nay, có nhiều quan điểm về khái niệm phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Về phương diện ngữ nghĩa, “phục hồi” theo từ điển Bách khoa Việt Nam, được hiểu là “thiết lập lại cân bằng” về một điều gì đó. Theo từ điển Tiếng Việt của Nxb. Đồng Nai, 1997 thì “phục hồi” được hiểu là “khôi phục lại cái đã mất đi”. Còn về góc độ pháp lí, theo tác giả Ngô Cường trong “phương hướng và nội dung cơ bản dự án Luật phá sản”, “phục hồi là đem lại cho con nợ đang trong tình trạng khó khăn về tài chính những điều kiện và cơ hội để tiếp tục kinh doanh chứ không phải là thanh toán con nợ”. Theo quan điểm này, “phục hồi” có thể được hiểu qua ba dấu hiệu đặc trưng:
Đối tượng áp dụng là những con nợ trong tình trạng khó khăn về tài chính.
Không có sự thanh lí tài sản của con nợ trong quá trình phục hồi.
Mục đích của phục hồi là tạo điều kiện cho con nợ tiếp tục hoạt động KD.
Cũng bàn về khái niệm phục hồi trong phá sản DN, một tác giả khác lại cho rằng: “Phục hồi DN mắc nợ trên phương diện pháp lí là một thủ tục được mở cho mọi doanh nghiệp của luật tư nằm trong tình trạng ngừng thanh toán các khoản nợ nhằm cho phép cứu vãn DN, duy trì hoạt động của doanh nghiệp và việc làm cũng như hoàn trả các khoản nợ.
Nhìn chung, có rất nhiều ý kiến bàn về vấn đề này, như về bản chất thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục được áp dụng khi một DN, HTX lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi có yêu cầu thì DN đó được tòa án dành cho một khoảng thời gian nhất định nhằm tạo cơ hội để DN, HTX, bằng những nỗ lực của mình và với sự giúp đỡ của các chủ nợ, có thể khôi phục lại hoạt động KD của chính mình, hạn chế đến mức thấp nhất việc phá sản khi còn có hi vọng phục hồi nó.
Có thể thấy được những dấu hiệu pháp lí cơ bản về thủ tục phục hồi doanh nghiệp DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản như sau:
Thứ nhất, phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục được điều hành bởi tòa án. Tòa án là chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi và đảm bảo các quyết định đó được thực hiện trên thực tế. Tòa án là chủ thể có quyền kiểm tra, giám sát, đánh giá, ghi nhận toàn bộ quá trình áp dụng thủ tục phục hồi, đồng thời phối hợp với các chủ thể khác trong quá trình xây dựng, thông qua và thực hiện phương án phục hồi.
Thứ hai, đối tượng áp dụng của việc phục hồi là các DN, HTX mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Ở đây, có hai điểm cần chú ý đó là các khoản nợ phải là nợ đến hạn khi có yêu cầu đòi nợ, và tình trạng mất khả năng thanh toán nợ không đồng nghĩa với việc không còn chút tài sản nào.
Thứ ba, phục hồi hoạt động KD của DN, HTX là một thủ tục đặc biệt. Là một trong những thủ tục nằm trong thủ tục phá sản, thủ tục phục hồi có nhiều điểm khác biệt so với những thủ tục khác:
Thủ tục phục hồi chỉ được áp dụng khi có sự đồng ý của hội nghị chủ nợ (HNCN).
Khi áp dụng thủ tục phục hồi, chủ DN, chủ nhiệm HTX lâm vào tình trạng phá sản hoặc người đại diện hợp pháp khác có thể bị thay đổi nếu HNCN thấy họ không có đủ năng lực để tiếp tục duy trì hoạt động của DN, HTX, không thể đưa DN, HTX thoát khỏi tình trạng phá sản để trở lại hoạt động bình thường. Trong trường hợp này, Thẩm phán là người có thẩm quyền ra quyết định thay thế (theo khoản 2 Điều 30 LPS 2004).
Hoàn toàn không có sự phân chia tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản trong quy trình áp dụng thủ tục phục hồi.
Từ việc phân tích những đặc điểm như trên, có thể đưa ra khái niệm về thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản như sau: “Thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục do tòa án áp dụng, trong đó, một DN hay HTX không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn được hưởng một thời gian nhất định để thực hiện phương án phục hồi hoạt động KD do HNCN thông qua dưới sự giám sát của tòa án và các chủ nợ.
1.2.2 Vai trò của thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Khi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, lợi ích của nhiều bên, đặc biệt là các chủ nợ sẽ bị đe dọa. Thủ tục phục hồi là một trong những giải pháp thường được chủ nợ và con nợ mong muốn được áp dụng, sở dĩ như vậy bởi thủ tục phục hồi có những vai trò quan trọng sau:
Giúp DN, HTX có cơ hội thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, đưa hoạt động KD trở lại bình thường.
Đối với chủ nợ, khi con nợ của mình gặp khó khăn, cách tốt nhất là để con nợ tiếp tục tồn tại và hoạt động. Bởi nếu con nợ phục hồi thành công, khả năng được trả nợ sẽ rõ ràng hơn rất nhiều. Đối với con nợ cũng vậy, việc tiếp tục được hoạt động và cố gắng phục hồi khi còn có thể bao giờ cũng tốt hơn việc ngừng hoạt động và đi đến phá sản. Vì lẽ đó, thủ tục phục hồi được coi như một lối thoát, một cơ hội giúp DN, HTX thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, khôi phục khả năng thanh toán nợ, thậm chí sau đó là làm ăn có lãi.
Tối đa hóa việc trả nợ cho các chủ nợ, qua đó bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ và những người có liên quan.
LPS 2004 đã tạo điều kiện tối đa cho con nợ thực hiện việc tái tổ chức và phục hồi hoạt động KD, việc này nhằm mục đích chính là đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ. Bởi khi DN, HTX bị phá sản, đối tượng chịu hậu quả nặng nề nhất về tài sản chính là các chủ nợ, đặc biệt là những chủ nợ không có đảm bảo. Quyền lợi của chủ nợ sẽ được đảm bảo trọn vẹn khi tạo cho DN, HTX mắc nợ một cơ hội để phục hồi hoạt động KD, điều này bao giờ cũng tốt hơn việc đưa tài sản của con nợ ra thanh lí rồi phân phát để trả nợ, chưa kể đến việc có thể theo thư tự ưu tiên thì chủ nợ còn có nguy cơ không đòi được nợ.
Duy trì trật tự và ổn định xã hội, góp phần lành mạnh hóa nền kinh tế.
Khi doanh nghiệp hoạt động bao giờ cũng có rất nhiều mối liên hệ, đặc biệt là liên hệ về tài chính với những DN, bạn hàng khác, đồng thời khi DN, HTX hoạt động thì thường luôn có một số lượng lao động nhất định. Vậy nên, nếu DN, HTX phá sản sẽ gây ảnh hưởng rất lớn không những đối với nhiều DN khác mà còn khiến nhiều lao động lâm vào tình trạng thất nghiệp. Điều này sẽ gây ra những tác động không tốt đối với nền kinh tế nói riêng và sự ổn định của xã hội nói chung. Vì thế, việc phục hồi thành công DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản sẽ góp phần hạn chế được những tác động tiêu cực cho xã hội khi DN bị phá sản.
LPS 2004 quy định nhiều thủ tục khác nhau như thủ tục phục hồi hoạt động KD, thủ tục thanh lí tài sản, thủ tục tuyên bố phá sản. Như vậy, thủ tục phục hồi đã được phân tách rạch ròi thành một thủ tục độc lập trong tiến trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Sự phân tách này đã tạo thuận lợi tối đa cho những DN, HTX còn khả năng phục hồi cao, cũng giúp cho các DN, HTX không còn khả năng phục hồi được thanh kí tài sản nhanh chóng, đảm bảo lợi ích cho các chủ nợ.
1.3 Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Khi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, các chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phục hồi. Tuy nhiên, theo quy định của LPS 2004, những DN, HTX muốn được áp dụng thủ tục phá sản phải đảm bảo những điều kiện nhất định. Cụ thể:
DN, HTX phải nằm trong tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Đây là dấu hiệu xác định DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, là căn cứ để mở thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng.
DN, HTX phải nằm trong phạm vi áp dụng thủ tục phục hồi. Cụ thể LPS của Việt Nam hiện nay quy định thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng được áp dụng cho DN, HTX, liên hiệp HTX (Điều 2).
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản phải đáp ứng được những điều kiện về khả năng phục hồi (trong thực tế).
Việc quy định những điều kiện này giúp việc áp dụng thủ tục phục hồi sẽ đạt được hiệu quả cao trong thực tế, hạn chế được việc áp dụng thủ tục một cách tràn lan mà không khả thi.
TRÌNH TỰ, THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KD CỦA DN, HTX LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LPS 2004.
2.1 Giai đoạn nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
2.1.1 Đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi.
Thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản chỉ được mở khi có yêu cầu của các chủ thể có quyền và nghĩa vụ. Trong LPS 2004, thủ tục phục hồi được thiết kế là thủ tục độc lập song do nhu cầu áp dụng, thủ tục này vẫn thuộc quá trình mở thủ tục phá sản. Vì vậy, chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản sẽ “liên quan” đến chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi. Nhìn chung, hai nhóm chủ thể này là một nhưng trong thủ tục phục hồi sẽ không đề cập đến chủ thể là đại diện người lao động, đại diện công đoàn vì cho rằng đây cũng là một dạng chủ nợ của DN, HTX (nợ tiền lương). LPS 2004 quy định những chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản DN, HTX tương đối đa dạng và mở rộng nhiều so với LPSDN 1993. Về cơ bản, thủ tục phá sản là thủ tục đòi nợ đặc biệt để con nợ thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nọ của mình. LPS 2004 quy định đối tượng đầu tiên có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong đó có thủ tục thanh lí tài sản đó là chủ nợ, và theo Điều 13 của LPS 2004 thì chỉ “các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần” mới có quyền này. Sở dĩ như vậy bởi đối với các chủ nợ có bảo đảm toàn bộ thì quyền lợi của họ đã luôn được đảm bảo bằng tài sản của DN dù cho DN có phá sản hay không.
Khi DN, HTX lâm vào tình trạng không thể thanh toán nợ đến hạn, không ai khác thì chính DN, HTX (con nợ) là người hiểu rõ nhất về tình trạng tài chính của mình. Vì thế LPS cũng quy định quyền (cũng là nghĩa vụ) nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (trong đó có thủ tục phục hồi) thuộc về chính DN, HTX, Điều 15 LPS 2004 quy định “Trong thời hạn ba tháng, kể từ khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, nếu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật”. Quy định này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho các bên liên quan.
2.1.2 Thẩm quyền thụ lí đơn và ra quyết định mở thủ tục phục hồi.
Theo quy định của LPS 2004, tòa kinh tế thuộc hệ thống TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện là những cơ quan có thẩm quyền thụ lí đơn, ra quyết định phục hồi và tiến hành phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Nguyên tắc được áp dụng là: Cơ quan hành chính cấp nào cấp giấy chúng nhận ĐKKD cho DN, HTX thì TAND thì TAND cấp đó sẽ thụ lí việc giải quyết phá sản nói chung và phục hồi nói riêng. Đối với các HTX có quy mô vốn lớn tuy ĐKKD ở cấp huyện nhưng TAND cấp tỉnh có thể lấy lên để tiến hành thụ lí thủ tục phục hồi. Việc tiến hành thủ tục phục hồi được đảm nhiệm bởi một thẩm phán hoặc một tổ thẩm phán 3 người. So với LPSDN 1993, LPS 2004 đã có sự phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. sự phân cấp này là một cải tiến nhằm tăng thẩm quyền cho TAND cấp huyện.
2.2 Giai đoạn giải quyết yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoạt đông KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
2.2.1 Triệu tập hội nghị chủ nợ (HNCN).
Hội nghị chủ nợ là tổ chức đại diện cao nhất của các chủ nợ, do tòa án triệu tập và chủ trì. Việc triệu tập HNCN thứ nhất là nhằm đảm bảo lợi ích của tất cả các chủ nợ, thứ hai là giúp các bên có liên quan trong vụ phá sản cùng nhau thống nhất ý kiến, cùng thỏa thuận tìm kiếm và thực hiện phương án cứu vãn, phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Sau khi có quyết định mở thủ tục phục hồi, tòa án giao cho chủ thể có thẩm quyền xác định danh sách chủ nợ của DN lâm vào tình trạng phá sản. Trong thủ tục phá sản, mặc dù có nhiều chủ nợ tham gia nhưng mỗi chủ nợ không được tách ra đòi nợ riêng mà tất cả họ phải được tập hợp thành một chủ thể pháp lí duy nhất để tham gia thủ tục phá sản, thủ tục phục hồi. Thành phần tham gia HNCN theo quy định của LPS 2004 bao gồm 2 nhóm: Nhóm chủ thể có quyền và nhóm chủ thể có nghĩa vụ tham gia HNCN. Nhóm chủ nợ có quyền tham gia HNCN bao gồm các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ, đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền, người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản (Điều 62 – LPS 2004). Nhóm chủ nợ có nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ bao gồm: Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản quy định tại các điều 15, 16, 17 và 18 LPS 2004. Do đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong LPS 2004 được mở rộng nên thành phần tham gia HNCN theo LPS 2004 cũng đa dạng hơn so với LPSDN 1993. Cũng theo LPS 2004 thì HNCN được coi là hợp lệ khi “có quá nửa số chủ nợ không có đảm bảo đại diện cho từ 2/3 trở lên tổng số nợ không có bảo đảm tham gia; có sự tham gia của những người có nghĩa vụ tham gia HNCN”.
Thẩm quyền của HNCN trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản: Để giúp HNCN thực hiện tốt vai trò, nghĩa vụ, quyền hạn của mình trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi, LPS 2004 quy định cho HNCN những thẩm quyền sau:
Xem xét và quyết định thông qua hay không thông qua nghị quyết về các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh. Như vậy gần như có thể nói, chủ thể có thẩm quyền quyết định có hay không việc áp dụng thủ tục phục hồi không phải là chủ DN hay tòa án mà chính là các chủ nợ. Ngoài ra, HNCN còn là thiết chế để các bên liên quan xem xét, thảo luận và thống nhất phương án phục hồi hoạt động KD của DN, HTX. Đây là điểm mới so với LPSDN 1993.
Quyết định bầu người đại diện hoặc bầu thay thế người đại diện cho các chủ nợ trong thành phần tổ quản lí, thanh lí tài sản. Kiểm kê và quản lí nhằm giám sát và bảo toàn tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản sẽ tạo cơ sở để áp dụng thủ tục phục hồi đối với DN, HTX. Sự tham gia của đại diện chủ nợ trong tổ chức này sẽ tạo điều kiện cho các chủ nợ bảo về quyền lợi của mình.
Đề nghị thẩm phán ra quyết định cử người quản lí và điều hành hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản trong trường hợp xét thấy người này không có khả năng điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động KD thì sẽ không có lợi cho DN, HTX cũng như cho chủ nợ.
2.2.2 Xây dựng phương án phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Chủ thể xây dựng phương án phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Ở Việt Nam, pháp luật về phá sản được xây dựng theo hướng hiện đại, phương án phục hồi có thể do nhiều chủ thể với tư cách khác nhau tham gia xây dựng như đại diện chủ nợ, DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản… Điều 68 LPS 2004 quy định 2 nhóm chủ thể tham gia xây dựng phương án phục hồi hoạt động KD, đó là: nhóm chủ thể có quyền và nhóm chủ thể có nghĩa vụ. Nhóm chủ thể có quyền là “bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã đều có quyền xây dựng dự thảo phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nộp cho Toà án” (Điều 60, LPS 2004). Nhóm chủ thể có nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 Điều 68 đó chính là DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Nội dung của phương án phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Điều 69 LPS 2004 quy định nội dung của phương án phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản theo hướng của thủ tục phục hồi hiện đại, nghĩa là phải nêu rõ các giải pháp cần thiết để phục hồi hoạt động KD, các điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh toán các khoản nợ. Các nội dung này là bắt buộc trong phương án phục hồi bởi thông qua đó, có thể vừa xác định được khả năng cứu vãn, phục hồi hoạt động KD vừa đảm bảo lợi ích của các chủ nợ. Phương án phục hồi sẽ được các chủ nợ đánh giá tính khả thi tại HNCN và quyết định thông qua hay không. Khoản 2 Điều 69 còn quy định cụ thể các biện pháp cần thiết để khôi phục hoạt động KD bao gồm: Huy động vốn mới; Thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh; Đổi mới công nghệ sản xuất; Tổ chức lại bộ máy quản lý; sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản xuất; Bán lại cổ phần cho chủ nợ;… Nội dung của phương án phục hồi hoạt động KD có thể được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 69 LPS 2004.
2.2.3 Trình tự thông qua phương án phục hồi hoạt động KD.
Theo Điều 71 LPS 2004, việc xem xét và thông qua phương án phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện theo trình tự sau: “1. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày quyết định đưa phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ra Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương án phục hồi.
2. Hội nghị chủ nợ xem xét, thảo luận phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. […]”
Có thể nói đây là giai đoạn mang tính quyết định trong thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. LPS trao quyền thông qua phương án phục hồi cho HNCN, phương án phục hồi sẽ được thông qua bằng hình thức biểu quyết tại HNCN. Khoản 2 Điều 71 quy định “Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành.” Tuy nhiên ở đây còn một số điểm chưa hợp lí đó là đại diện người lao động, đại diện công đoàn lại không được luật quy định có tư cách pháp lí trong trường hợp này trong khi về bản chất thì họ cũng là những chủ nợ không có bảo đảm. Nghị quyết về phương án phục hồi chỉ được thực hiện và có hiệu lực đối với các bên liên quan sau khi được thẩm phán ra quyết định công nhận. Việc công nhận nghị quyết về phương án phục hồi được quy định cụ thể trong Điều 72:
“1. Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Nghị quyết này có hiệu lực đối với tất cả các bên có liên quan.
2. Toà án phải gửi quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định.”
2.3 Giai đoạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Sau khi được thẩm phán ra quyết định công nhận, nghị quyết về phương án phục hồi sẽ có hiệu lực, DN, HTX có trách nhiệm thực hiện phương án phục hồi cùng với các chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan khác.
2.3.1 Giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Điều 73 LPS 2004 quy định “Sáu tháng một lần, doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi cho Toà án báo cáo về tình hình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp, hợp tác xã.”; “Chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.” Như vậy, chính DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là chủ thể có nghĩa vụ thực hiện phương án phục hồi và phải chịu sự giám sát, kiểm tra của tòa án, chủ nợ. Việc thực hiện kiểm tra, giám sát của chủ nợ vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của họ, tòa án cũng có thẩm quyền kiểm tra việc thực hiện phương án phục hồi thông qua các báo cáo định kì của DN, HTX.
2.3.2 Thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động KD.
Mỗi DN, HTX khi lâm vào tình trạng phá sản có tình hình tài chính khác nhau, quy mô DN, số lượng lao động, ngành nghề hoạt động, phương án phục hồi khác nhau nên thời gian cần để thực hiện phương án phục hồi cũng không giống nhau. Trên thực tế, DN, HTX nào khi thực hiện phương án phục hồi cũng muốn có thời gian thực hiện càng lâu càng tốt. LPS đã quy định 1 khung cho thời gian phục hồi tối đa tại Điều 74: “Thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản là ba năm, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của Toà án công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.” Trong LPS 2004, thời gian này đã nhiều hơn 1 năm so với LPSDN 1993. Điều này đã tạo những thuận lợi nhất định cho DN, HTX khi tiến hành phương án phục hồi của mình.
2.3.3 Sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi kinh doanh trong quá trình thực hiện.
Trong qua trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động KD, DN, HTX chắc chắn sẽ gặp không ít những khó khăn. Để giải quyết vấn đề này có thể phải thay đổi, bổ sung phương án phục hồi. Sự thay đổi hay bổ sung một hoặc một số phần của phương án phục hồi hoạt động KD của DN, HTX chỉ được chấp nhận khi có sự đồng ý của các chủ nợ. Điều 75 LPS 2004 đã quy định:
“2. Thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã được chấp nhận khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên đồng ý.
3. Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên và gửi quyết định đó cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định.”
Có thể nói, đây là lần đầu tiên quy định này được ghi nhận trong một văn bản luật về phá sản. Điều này chứng tỏ LPS 2004 luôn tạo ra cơ hội tối đa cho DN, HTX có thể thực hiện thành công việc phục hồi KD của mình.
2.3.4 Đình chỉ thủ tục phục hồi.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 76 LPS 2004, thẩm phán sẽ ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản trong hai trường hợp:
Doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh;
Đình chỉ khi được quá nửa số phiếu của các chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý đình chỉ. Trường hợp này việc đình chỉ có thể thực hiện ở bất kì giai đoạn nào miễn là nhận được sự đồng ý của các chủ thể trên.
Theo quy định tại Điều 77 LPS 2004, hậu quả pháp lí của việc đình chỉ thủ tục phá sản được thể hiện như sau:
“1. Trường hợp Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã đó được coi không còn lâm vào tình trạng phá sản.
2. Trường hợp việc thi hành án dân sự hoặc việc giải quyết vụ án bị đình chỉ theo quy định tại Điều 57 của Luật này chưa được thi hành hoặc chưa được giải quyết thì ngay sau khi ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, việc thi hành án dân sự hoặc việc giải quyết vụ án được tiếp tục. Toà án ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi phải gửi trả lại hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.”
Như vậy LPS 2004 đã quy định khá đầy đủ và chi tiết những hậu quả pháp lí đối với DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản sau khi thủ tục phục hồi bị đình chỉ. Tùy vào việc DN, HTX bị đình chỉ thủ tục phá sản theo trường hợp nào mà hệ quả của việc đình chỉ sẽ được coi là “thành quả” hay “hậu quả”. Những hệ quả này có ý nghĩa quyết định đối với quyền và nghĩa vụ của những chủ thể liên quan.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC THI NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA LPS NĂM 2004 VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI DN, HTX LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN.
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định liên quan đến thủ tục phục hồi.
Thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản có ý nghĩa rất quan trọng với con nợ, chủ nợ nói riêng và sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung, trong điều kiện kinh tế - xã hội biến đổi từng ngày, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, các văn bản pháp luật phải không ngừng hoàn thiện để không bị trở nên lỗi thời. Pháp luật về phá sản nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Trong LPS 2004, các quy định về thủ tục phục hồi đã có nhiều điểm đổi mới so với các văn bản quy định về thủ tục phục hồi trước đó. Lần đầu tiên thủ tục phục hồi được quy định với tư cách là một thủ tục độc lập, có sự phân tách tương đối rõ ràng với thủ tục thanh lí tài sản. Điều đó cho thấy LPS 2004 đã coi trọng thủ tục phục hồi, coi trọng việc cứu vãn DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, bảo vệ tối đa lợi ích cho các bên. Tuy có nhiều điểm tiến bộ nhưng đến thời điểm làm tiểu luận này, trong một xã hội mà “tất cả đều mới vào mỗi buổi sáng”, LPS 2004 đã bộc lộ những hạn chế. Để đạt được hiệu quả cao trong thi hành những quy định của pháp luật về phá sản nói chung và pháp luật về thủ tục phục hồi nói riêng, việc hoàn thiện các quy định các quy định của pháp luật là hết sức cần thiết.
3.2 Tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành thủ tục phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Khác với LPSDN 1993 được hướng dẫn thi hành một cách tổng thể bởi Nghị định số 189/1994/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 23/12/1994 hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp, LPS 2004 được hướng dẫn thi hành theo hướng ban hành nghị định hướng dẫn thi hành đối với từng loại hình DN, HTX, từng hình thức, lĩnh vực kinh doanh khác nhau (ví dụ Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03/11/2008 về “Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của luật phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác”, Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 về “Hướng dẫn việc áp dụng luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản”, …). Rất nhiều văn bản hướng dẫn đã được ban hành, tuy vậy, đối với một số loại hình doanh nghiệp, một số lĩnh vực kinh doanh vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể về thủ tục phá sản cũng như thủ tục phục hồi. Vì vậy, việc ban hành các văn bản hướng dẫn một cách chi tiết, đầy đủ và bao quát về thi hành LPS nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng là rất cần thiết. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở pháp lí cho cơ quan thực thi pháp luật cũng như các chủ thể có liên quan trong vụ việc phá sản.
3.3 Một số kiến nghị cụ thể nhằm thực thi có hiệu quả những quy định của pháp luật về thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Thứ nhất, LPS 2004 chỉ quy định đối tượng áp dụng là DN, HTX, tuy đã có sự mở rộng về đối tượng điều chỉnh so với LPSDN 1993 nhưng vẫn cần mở rộng hơn nữa đối tượng áp dụng thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng. Cụ thể ở đây là nên bổ sung thêm hộ kinh doanh cá thể vào đối tượng áp dụng thủ tục phá sản và thủ tục phục hồi. Điều này cũng là hoàn toàn phù hợp với tiền lệ trên thế giới. Về bản chất, hộ kinh doanh cá thể và DN đều có những điểm tương đồng, đặc biệt là về góc độ kinh tế và cụ thể là ở phương diện phá sản, phục hồi kinh doanh.Việc mở rộng đối tượng áp dụng sẽ đảm bảo sự bình đẳng giữa các loại hình chủ thể kinh doanh.
Thứ hai, trong nội dung đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cần có yêu cầu mở thủ tục phục hồi. Mặc dù LPS 2004 đã quy định thủ tục phục hồi theo hướng phân tách thành một thủ tục tương đối độc lập trong thủ tục phá sản. Song, có thể nói cơ sở pháp lí để DN, HTX được áp dụng thủ tục phục hồi lại không được quy định. Trên thực tế, chỉ khi con nợ hoặc chủ nợ có yêu cầu được mở thủ tục phục hồi thì những quy định về thủ tục phục hồi mới phát huy tác dụng. Vì vậy, trong đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nên bổ sung thêm nội dung là yêu cầu mở thủ tục phục hồi hay thủ tục thanh lí DN, HTX.
Thứ ba, pháp luật về phá sản cần quy định nâng cao hơn nữa vai trò của hội nghị chủ nợ trong qua trình áp dụng thủ tục phục hồi.
Thứ tư, nên trao quyền quyết định các vấn đề trong thủ tục phục hồi cho tất cả các chủ nợ, hoàn thiện hơn nữa vai trò của người lao động trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Thứ năm, pháp luật về phá sản cần hoàn thiện các quy định về vai trò của thẩm phán trong quy trình áp dụng thủ tục phục hồi.
Thứ sáu, trong LPS 2004 có quy định trách nhiệm phải báo cáo tình hình thực hiện phương án phục hồi của DN, HTX đối với chủ nợ và tòa án nhưng lại không quy định biện pháp xử lí nếu các chủ thể trên không thực hiện việc báo cáo. Đây là một thiếu sót, vì vậy cần quy định thêm các biện pháp chế tài đối với chủ DN, HTX, chủ nợ để xử lí vi phạm trong quá trình thực hiện nghĩa vụ báo cáo tình hình thực hiện phương án phục hồi hoạt động KD và giám sát thực hiện phương án phục hồi.
Thứ bảy, quy định quyền ưu tiên thanh toán trước cho mọi nhà cung cấp tài chính cho quá trình phục hồi. Đây là quy định quan trọng giúp đảm bảo quyền lợi cho những nhà cung cấp tài chính – một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất đối với quá trình phục hồi hoạt động KD của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
KẾT LUẬN
Thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản cùng với thủ tục thanh lí tài sản là hai thủ tục cơ bản của thủ tục phá sản DN, HTX. Không giống như thủ tục thanh lí là kết quả cuối cùng mà không doanh nghiệp nào mong muốn, phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục nhằm đưa DN, HTX thoát khỏi tình trạng khó khăn để trở lại hoạt động bình thường. Việc áp dụng thủ tục phục hồi không những đảm bảo lợi ích cho chủ nợ, cho bản thân DN, HTX, cho người lao động mà còn góp phần duy trì trật tự xã hội, ổn định nền kinh tế. Với ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế cũng như xã hội trên thì việc áp dụng thủ tục phục hồi đối với DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản nhưng vẫn còn khả năng phục hồi là rất cần thiết và là xu hướng trong pháp luật phá sản hiện đại. Các quy định về thủ tục phục hồi trong LPS 2004 còn ghi nhận đây là thủ tục độc lập trong tố tụng phá sản. Tuy nhiên, để đưa những quy định trên vào thực hiện hiệu quả trong thực tế, cần phải xem xét một cách toàn diện hơn nữa về thủ tục phục hồi, cùng với đó cần kịp thời hoàn thiện những điểm còn hạn chế của pháp luật.
Với thời gian nghiên cứu hạn hẹp, kiến thức hạn chế, do vậy đề tài này sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô để em có thể hoàn thiện hơn kiến thức của mình!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngô Cường (2002) Phương hướng và nội dung cơ bản của dự án Luật phá sản;
Phạm Thị Hường (2005) Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Đinh Doãn Hồng Linh (2006), Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản 2004, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Giáo trình Luật Thương mại tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, Hà Nội, 2006;
Luật Phá sản 2004;
Luật Phá sản doanh nghiệp 1993;
Nghị định số 189/1994/NĐ-CP ngày 23/12/1994 về hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp 1993;
Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 về Hướng dẫn việc áp dụng luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản;
Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03/11/2008 về Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của luật phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác;
Từ điển Tiếng Việt (1997) Nxb. Đồng Nai;
Từ điển Bách Khoa (2000) Nxb. Trung tâm từ điển Bách Khoa;
Bộ bài tập Luật thương mại của Bộ môn Luật thương mại – Trường Đại học Luật Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L7898N H7884C K TH431416NG M7840I.doc