Đề tài Thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam gia nhập WTO

Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình lâu dài và bao quát tổng thể các lĩnh vựa trên phạm vi toàn cầu, với sự tham gia của hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên sự hội nhập kinh tế quốc tế đối với nước ta không phải hoàn toàn dễ dàng nhưng sẽ là thuận lợi nhiều hơn hại. Nếu chúng ta hiểu và vận dụng tốt những cơ hội và toàn cầu hoá mang lại. Do đó để thích ứng với quá trình này, chúng ta phải chủ động nắm bắt đón nhận xu hướng mới để thu được thành quả kinh tế trong quá trình hội nhập và đó cũng là cơ hội để cho Việt Nam được sánh vai các nước trong diễn đàn quốc tế và mở rộng thương mại giữa nước ta với các nước trên thế giới. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO đã mở ra một bước ngoặt mới cho sự phát triển của nền kinh tế nước ta.

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5453 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
148 nước thành viên của WTO với mức thuế ưu đãi, thay vì chỉ có một số thị trường truyền thống (Nga, Ðông Âu) và một số thị trường mới khai thác (Mỹ, Nhật Bản, EU). Nếu nhớ lại rằng, giá trị xuất khẩu của Việt Nam hiện chiếm 1/ 2 giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thì sẽ thấy rõ lợi ích to lớn của việc mở rộng không gian thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam. Một khi quy mô sản xuất hàng xuất khẩu phát triển lên đến một mức nào đó, nếu không giải quyết được bài toán đầu ra, doanh nghiệp khó lòng phát triển, chứ chưa nói đến phát triển bền vững.   b. Tăng số lượng hàng hoá xuất khẩu ra các nước:  Nhờ thành quả đàm phán cắt giảm thuế quan và loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan trong lịch sử 50 năm qua của WTO đến nay, doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc xuất khẩu vào các thị trường các nước thành viên của WTO với mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp. Nếu không là thành viên WTO, chắc chắn doanh nghiệp Việt Nam không thể xuất khẩu nhiều hàng hoá sang các nước đang là thành viên WTO. Bởi lẽ, các nước này trước hết cần ưu tiên, hay nói đúng hơn, thực hiện quy chế đãi ngộ tối huệ quốc với các nước thành viên WTO; còn trong khi đó họ có thể phân biệt đối xử với hàng hoá của Việt Nam thể hiện qua việc họ có thể đánh thuế cao vào hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hoặc sử dụng các biện pháp phi thuế quan để ngăn trở hàng hoá của Việt Nam. Do vậy, nếu được hưởng mức thuế suất nhập khẩu thấp, sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam có mức giá cạnh tranh được với hàng hoá tương tự của các nước khác. Vì thế, có thể khẳng định, đồng thời với việc mở rộng không gian thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, mức thuế nhập khẩu thấp cũng sẽ giúp doanh nghiệp có cơ hội thúc đẩy sự xâm nhập hàng hoá của mình vào thị trường các nước thành viên WTO. Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ những quy định của WTO về ưu đãi cho các nước đang phát triển để tăng lượng xuất khẩu, chẳng hạn, các mặt hàng sơ chế khi xuất khẩu sang các nước phát triển sẽ được hưởng mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp, hoặc không có thuế, hoặc hưởng chế độ của hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP)...Khi tham gia WTO, doanh nghiệp Việt Nam cũng được hưởng lợi từ quy chế miễn trừ quy định cấm trợ cấp xuất khẩu đối với các nước đang phát triển có thu nhập dưới 1.000 USD/người/năm.   c. Tạo cơ hội sản xuất và xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các ngành mà Việt Nam có ưu thế cạnh tranh:            Doanh nghiệp Việt Nam được hưởng cơ hội này từ hai bình diện:  + Một là do những quy định của WTO. + Hai là do ưu thế cạnh tranh về giá cả, chi phí đem lại.   - Ðối với những cơ hội do quy định của WTO đem lại:  Ðối với hàng nông sản: Vốn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các nước đang phát triển, nơi mà công nghiệp chế biến chưa phát triển, trình độ chế biến thấp. Ở những nước này, tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu còn chiếm ở mức cao, do đó, nếu bị đánh thuế cao, số lượng xuất khẩu sẽ không được nhiều, chắc chắn ảnh hưởng đến tổng sản lượng xuất khẩu, làm giảm doanh thu xuất khẩu. Nhưng khi vào WTO, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, sẽ được hưởng những thành quả nhờ những vòng đàm phán đa phương trước đó của WTO về nông nghiệp. Chẳng hạn, tại Vòng đàm phán Doha, các nước thành viên WTO cam kết đàm phán toàn diện về tất cả vấn đề của Hiệp định nông nghiệp, bao gồm việc tăng cường tiếp cận thị trường (mở rộng hạn ngạch thuế quan và giảm leo thang thuế quan đối với sản phẩm chế biến), giảm và loại bỏ mọi dạng trợ cấp xuất khẩu, giảm đáng kể hỗ trợ trong nước. Tuy nhiên, WTO cũng quy định : các nước đang phát triển không phải đưa ra các cam kết về giảm trợ cấp xuất khẩu (các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm 36% nguồn ngân sách dành cho trợ cấp xuất khẩu nông phẩm trong vòng 6 năm, các nước đang phát triển nói chung phải cắt giảm 24% trong vòng 10 năm). Việt Nam cũng không phải cắt giảm hỗ trợ trong nước đối với nông dân (các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm 20% mức hỗ trợ trong nước trong thời gian 6 năm, các nước đang phát triển khác là 13,3% trong vòng 10 năm). Theo Hiệp định nông nghiệp, các hạn chế về số lượng trong đó có gạo, nông sản khác sẽ được chuyển thành thuế quan và cắt giảm dần. Do đó, nếu trở thành thành viên WTO, Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng xuất khẩu gạo và các mặt hàng nông sản khác sang các thị trường mới. Mặt khác, các sản phẩm nông sản xuất khẩu của các nước không phải là thành viên sẽ phải chịu thuế suất cao do việc thuế quan hoá của các nước thành viên. Ðối với hàng dệt may:  Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ cơ chế mới của WTO. Tại Vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định về hàng dệt - may được ký kết, thay thế cho Hiệp định đa sợi. Thực chất của Hiệp định đa sợi là các nước phát triển, nhất là Mỹ và EU đặt ra cơ chế hạn ngạch nhằm bảo hộ công nghiệp trong nước, theo đó, hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển vào các nước này phải chịu 15 - 30% thuế suất, đặc biệt là phải chịu hạn ngạch xuất khẩu. Hiệp định dệt may đã quy định rõ chương trình nhất thể hoá các sản phẩm dệt may vào hệ thống thương mại đa biên. Khi các sản phẩm đã được nhất thể hoá thì không phải chịu sự hạn chế về số lượng nữa. Do đó, khi trở thành thành viên của WTO, hàng dệt may của Việt Nam sẽ không phải chịu hạn ngạch hoặc được hưởng sự nới lỏng các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm còn hạn ngạch. Từ 1/1/2005, trong khuôn khổ WTO, đã bãi bỏ toàn bộ hạn ngạch đối với nhập khẩu hàng dệt may từ các nước thành viên WTO. Theo số liệu của WTO, ngành dệt may có tổng doanh thu trung bình hàng năm khoảng 350 tỷ USD.   - Ðối với những cơ hội do ưu thế cạnh tranh về giá cả, chi phí đem lại:  Khi tham gia vào WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tham gia vào sự phân công lao động, sản xuất trong một thị trường mang tính toàn cầu. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có ưu thế do giá cả rẻ, chi phí thấp (do lương nhân công thấp). Chẳng hạn, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều ưu thế về các mặt hàng sử dụng tay nghề truyền thống, sử dụng lao động rẻ (ví dụ lao động nông nhàn, lao động học vấn thấp nên lương công nhân thấp), nguyên liệu sẵn có trong nước như hàng mây tre, thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ...; hoặc các mặt hàng tận dụng được ưu đãi của thiên nhiên (mặt nước, biển, sông, hồ, ao, đầm để nuôi thuỷ hải sản..); khí hậu nhiệt đới cho phép trồng được những loại cây cà phê, hạt tiêu, cao su, thanh long, dừa...; hoặc các mặt hàng mang tính truyền thống, là đặc sản của địa phương, vùng miền (phở, mỳ tôm, nước chấm, gia vị, khô mực, khô cá...). Một số mặt hàng tuy sử dụng nguyên liệu nhập khẩu như dệt may, da giày...song cũng có thể tận dụng ưu thế chi phí lao động rẻ, tiền lương thấp. Ðồng thời, đây cũng là những mặt hàng mà đến nay nhiều nước phát triển không tập trung sản xuất nữa... 1.2. N©ng cao vÞ thÕ trong quan hÖ th­¬ng m¹i quèc tÕ vµ b×nh ®¼ng trong quan hÖ gi¶i quyÕt tranh chÊp th­¬ng m¹i quèc tÕ: a.  Tiếp cận bình đẳng vào thị trường các nước thành viên:  Các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các quy định chỉ dành cho thành viên của WTO, qua đó hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận bình đẳng vào các thị trường của 148 thành viên WTO mà không bị chèn ép, đối xử không bình đẳng như khi chưa là thành viên WTO. Ðặc biệt, đối với những quy định chỉ dành cho thành viên của WTO, nếu Việt Nam là thành viên của WTO, hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam cũng sẽ được đối xử bình đẳng trên thị trường quốc tế. Ví dụ, một nước khi đã là thành viên của WTO, có quyền được áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu của nước khác chưa phải là thành viên trong việc thực hiện Hiệp định nông nghiệp. Trong khi đó, các quy định này không áp dụng đối với các nước chưa phải là thành viên WTO.   Ngoài ra, một số cường quốc thương mại vẫn tiếp tục duy trì các biện pháp phân biệt đối xử đối với các nước với cái gọi là "thương mại nhà nước" hay các nước có nền kinh tế phi thị trường, các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Các biện pháp này sẽ không được áp dụng đối với một nước là thành viên WTO. b. Bảo hộ sản xuất trong nước theo các khuôn khổ quy định của WTO:  Các doanh nghiệp Việt Nam thông qua các hiệp hội của mình hoặc thông qua cơ quan quản lý nhà nước về thương mại (Cục quản lý cạnh tranh...) để kiến nghị Chính phủ áp dụng các biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước. Chẳng hạn, với tư cách là thành viên WTO, doanh nghiệp có thể kiến nghị Chính phủ tiến hành điều tra về mức gây phương hại của hàng nhập khẩu để thực hiện áp dụng thuế đối kháng hoặc chống bán phá giá theo quy định của Hiệp định về chống bán phá giá và thuế đối kháng; thực hiện điều tra để áp dụng thuế chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam; áp dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam quá mức, gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước...   c.  Sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO để giải quyết tranh chấp trong thương mại, tránh bị các nước lớn chèn ép khi xay ra tranh chấp thương mại quốc tế:  Doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận, sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO để giải quyết tranh chấp trong thương mại, tránh bị các nước lớn chèn ép khi xảy ra tranh chấp thương mại quốc tế. Ví dụ, nếu trước kia các quy định của GATT còn nhiều hạn chế với đặc trưng là thiếu cơ chế đảm bảo cho các nghị quyết được thực hiện thì ở WTO, được xem như một "Liên hợp quốc" trong lĩnh vực thương mại quốc tế, mà trong đó mỗi quốc gia thành viên đều có một phiếu bầu, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã đảm bảo mục tiêu công bằng hơn, thống nhất và chắc chắn hơn; đảm bảo một quy trình, thủ tục và thời gian biểu chặt chẽ cho việc giải quyết tranh chấp; đảm bảo có được kết luận đúng cho tranh chấp. 1.3.H­ëng lîi tõ c¸c chÝnh s¸ch c¶i c¸ch trong n­íc: a.  Nhờ gia nhập WTO, tham gia vào một "sân chơi' chung trên phạm vi toàn cầu, WTO mang lại một cơ hội toàn diện về thị trường hàng hoá, thị trường dịch vụ, thị trường vốn và thị trường lao động. Với một không gian kinh tế mới rộng lớn hơn rất nhiều, với hệ thống cơ chế chính sách, luật pháp minh bạch, có thể tiên liệu được, thông qua sự phân công lao động toàn cầu, việc gia nhập WTO hay nói rộng hơn là tham gia vào quá trình toàn cầu hoá sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy các cải cách kinh tế trong nước, làm sâu sắc hơn các thành quả của cải cách.   b.  Nhờ việc Việt Nam  tham gia vào WTO, thực thi chính sách mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại, nền kinh tế trong nước sẽ phải cải cách, mở cửa, tái cơ cấu. Nền hành chính sẽ được cải cách nhằm đáp ứng các yêu cầu công khai, minh bạch, dễ dự đoán của "luật chơi quốc tế", bộ máy quản lý hành chính nhà nước sẽ trở nên gần dân hơn, trở thành một nền hành chính phục vụ dân, phục vụ doanh nghiệp, làm cho môi trường kinh doanh thông thoáng, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, đồng thời giảm thiểu các chi phí tốn kém của doanh nghiệp trong quá trình gia nhập, tiếp cận và tham gia thị trường. c.  Một khi các cam kết khi gia nhập WTO đưược thực hiện, một mặt quá trình mở cửa, tự do hoá, thuận lợi hoá thưương mại, đầu tư minh bạch hoá chính sách sẽ dần đáp ứng yêu cầu của luật chơi quốc tế, mặt khác tạo điều kiện cho chúng ta bổ sung những nguồn lực mà trong nưước còn thiếu, còn yếu như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý. Các nhà sản xuất, kinh doanh trong nước sẽ được đặt trong môi trường cạnh tranh, năng động hơn; tiếp cận với công nghệ, trình độ, chất lượng quốc tế.   Kết quả là các nhân tố nói trên sẽ tạo ra động lực quan trọng giải phóng sức sản xuất trong nước, thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn tiềm năng sẵn có của chúng ta như tài nguyên, lao động, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mike Moore, Cựu Tổng giám đốc WTO (trong chuyến thăm Việt Nam 11/4/2005) đã từng nói: WTO sẽ tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch hơn, dễ tiên đoán hơn và hạn chế tham nhũng cho bản thân các nước thành viên. Kinh nghiệm 50 năm qua đã chứng minh rằng những nước có mức sống cao nhất là những quốc gia theo đuổi chính sách tự do hoá thương mại. Môi trường kinh doanh lành mạnh sẽ tạo ra những doanh nhân sẵn sàng đối mặt với cạnh tranh chứ không phải kiếm lời từ sự trợ giúp của chính phủ hay lợi dụng những hạn chế, bảo hộ của nhà nước.     1.4.T¨ng thu hót vèn ®Çu t­ n­íc ngoµi: a.  Về khía cạnh thị trường:  Khi tham gia vào hệ thống phân công lao động toàn cầu, tham gia vào thị trường toàn cầu rộng lớn, Việt Nam trở thành địa điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài muốn tận dụng cơ hội đầu tư vào các ngành, lĩnh vực tạo ra hàng hoá để xuất khẩu hoặc phục vụ các nhà xuất khẩu. Ðồng thời, khi các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước sản xuất ra (mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mua để làm nguyên liệu của họ); tạo ra thị trường làm thuê, nhận gia công, chế tác, cung cấp linh kiện, cung cấp lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo việc làm cho các doanh nghiệp trong nước.   b.  Về khía cạnh pháp lý:  Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và tham gia WTO nói riêng, thực chất Việt Nam đã chấp nhận thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các quốc gia. Việc thực hiện các cam kết này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam (hoặc bất cứ một quốc gia nào muốn gia nhập WTO) cần phải có một hệ thống luật pháp minh bạch, phù hợp với thông lệ của WTO, bao gồm cả về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Hệ thống luật pháp và hệ thống cơ chế chính sách minh bạch, tiên liệu được sẽ làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh của Việt Nam, làm cho nhà đầu tư yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam. 1.5.TiÕp thu c«ng nghÖ , kü n¨ng qu¶n lý ,qu¶n trÞ kinh doanh , tiÕp thÞ , x©y dùng th­¬ng hiÖu cña n­íc ngoµi: a.  Khi tham gia WTO, tham gia thị trường toàn cầu, các luồng vốn đầu tư khoa học công nghệ, nguồn nhân lực trong nước có cơ hội giao lưu, tham gia vào sự phân công lao động toàn cầu. Trong sự giao lưu và phân công, phân công lại mang tính thị trưường nhưư vậy, tất yếu thị trường trong nước được tiếp nhận những yếu tố tiên tiến, vưượt trội về khoa học công nghệ, khoa học quản lý, tiếp thị, đồng thời nguồn nhân lực trong nưước được đào tạo, được cọ xát, học hỏi tiếp thu những thành quả, tinh hoa của các nền kinh tế phát triển hơn.   b.  Trực tiếp hơn, thông qua quá trình đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài (khi họ đem theo vốn, đem theo bí quyết, công nghệ sản xuất mới, phương thức tổ chức các kênh phân phối, tiếp thị, cách thức xây dựng thương hiệu, quảng bá nhãn hiệu hàng hoá, sản phẩm...vào Việt Nam), các doanh nghiệp trong nước nói chung và đội ngũ lãnh đạo, quản lý, nhân viên nói riêng có thể học hỏi, rút tỉa, mô phỏng các công nghệ sản xuất, dịch vụ của nước ngoài; đồng thời rèn luyện, học hỏi được kỹ năng, kỹ xảo, bí quyết về quản trị doanh nghiệp, về tiếp thị, xây dựng và quảng bá thương hiệu... 2.Khã kh¨n ®èi víi doanh nghiÖp ViÖt Nam khi gia nhËp WTO: 2.1.Nguy c¬ mÊt thÞ phÇn , mÊt thÞ tr­êng: Việc gia nhập WTO không chỉ đem lại thuận lợi, cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam mà còn đưa lại những thách thức, khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp. Những cơ hội, những điều kiện có thể đem lại thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam thì ngược lại cũng có thể đem lại những cơ hội, điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài, từ đó tạo ra những khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể: Thứ nhất, khi Việt Nam gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội để thúc đẩy bán hàng, tăng doanh số xuất khẩu vào thị trường các nước thành viên WTO: nhờ tư cách thành viên của WTO, thị trường xuất khẩu được mở rộng, không gian thương mại được mở rộng. Ngược lại, khi Việt Nam gia nhập WTO, đương nhiên các thành viên WTO cũng có thêm một thị trường mới và các thành viên này cũng có cơ hội thúc đẩy bán hàng, xuất khẩu hàng hoá của họ vào Việt Nam. Thứ hai, khi gia nhập WTO, việc đầu tiên Việt Nam (cũng như bất kỳ quốc gia hay vùng lãnh thổ nào muốn gia nhập WTO) phải làm chính là đàm phán với các thành viên của WTO về cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan nhằm tạo điều kiện cho hàng hoá của các thành viên WTO thâm nhập vào. Ðể thực hiện các cam kết khi đàm phán gia nhập WTO, hàng rào thuế quan phải hạ thấp xuống, đồng thời các biện pháp phi thuế như cấm nhập, hạn chế số lượng nhập khẩu, quy định phải có giấy phép...cũng không được áp dụng nữa. Lúc này, thị trường được "mở cửa", doanh nghiệp nước ngoài được tự do tham gia buôn bán, cung cấp hàng hoá như doanh nghiệp trong nước mà không bị phân biệt đối xử. Hàng hoá từ các nước khác sẽ vào Việt Nam dễ dàng. Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp trong nước sẽ lâm vào tình trạng bị cạnh tranh bởi thị trường sẽ có thêm nhiều người cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Song điều đáng nói ở đây chính là những nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ nước ngoài thường có tiềm lực tài chính mạnh hơn, có hàng hoá chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, có công nghệ phân phối, tiếp thị tốt hơn. Do đó, trong cuộc cạnh tranh để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng, doanh nghiệp nước ngoài có sức mạnh hơn sẽ dễ "thắng" được các doanh nghiệp trong nước. Từ đó, nguy cơ bị mất thị phần, mất thị trường trong nước, "thua" ngay trên "sân nhà" là nguy cơ có thật. Tình trạng này xảy ra sớm hay muộn, xảy ra phổ biến hay không tuỳ thuộc vào năng lực cạnh tranh, chống đỡ của doanh nghiệp trong nước. Trong cuộc cạnh tranh giành thị phần, thị trường, dự đoán khu vực dịch vụ sẽ quyết liệt hơn. Nguyên nhân là hiện nhiều lĩnh vực sản xuất mà các doanh nghiệp Việt Nam có ưu thế như dệt may, da giày, cơ khí nhỏ...thì các nước công nghiệp phát triển không tập trung sản xuất nữa, do đó, họ không đặt ra mục tiêu chiếm lĩnh và cạnh tranh trên thị trường nội địa về nhóm sản phẩm này. Một số sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất như ô tô, đồ gia dụng, điện điện tử, điện lạnh hiện cũng đã được sản xuất, lắp ráp ở trong nước rồi. Do vậy, đích ngắm trong thời gian tới của các nhà đầu tư nước ngoài muốn chiếm lĩnh và cạnh tranh giành giật thị trường nội địa chính là các lĩnh vực dịch vụ mà hiện nay nhà nước còn nắm giữ, chưa mở cửa nhiều hoặc các lĩnh vực dịch vụ còn nhiều tính chất độc quyền như ngân hàng, viễn thông...Ðây cũng là những lĩnh vực mà thị trường nội địa còn nhiều tiềm năng phát triển, đem lại lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời cũng là các lĩnh vực mà các doanh nghiệp nước ngoài có ưu thế cạnh tranh. Hiện nay sự đóng góp của ngành dịch vụ trong nền kinh tế của các nước trên thế giới nói chung và các nước thành viên WTO ngày càng lớn do đó khi tiến hành đàm phán và đi đến thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) các nước thành viên đã dành sự quan tâm rất lớn đến lĩnh vực dịch vụ và kết quả là kể từ khi WTO được thành lập, khái niệm thương mại truyền thống đã không chỉ còn bao hàm thương mại hàng hoá mà đã chuyển sang bao hàm cả thương mại dịch vụ và một phần liên quan đến đầu tư, sở hữu trí tuệ. Tỷ trọng đóng góp của dịch vụ trong GDP ở Uganda là 40%, Zambia là 50%, ở Hàn Quốc, Barazil là hơn 60%, ở Mỹ là 80%. Bình quân chung của thế giới là 68%. ở Việt Nam, tính đến đầu năm 2005, tỷ trọng dịch vụ trong nền kinh tế mới đạt 38%.           Trong số các loại hình dịch vụ theo phân loại của WTO (như dịch vụ tài chính - ngân hàng, dịch vụ viễn thông, dịch vụ phân phối, dịch vụ kinh doanh (như dịch vụ kế toán và kiểm toán; dịch vụ pháp lý; dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan...), dịch vụ vận tải....), các ngành dịch vụ bị tác động mạnh nhất khi Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế và gia nhập WTO là dịch vụ ngân hàng, viễn thông, phân phối... Tác động đối với dịch vụ ngân hàng:  Nguy cơ và thách thức đối với lĩnh vực dịch vụ ngân hàng Việt Nam khi gia nhập WTO thể hiện ở hai khía cạnh chủ yếu: Gián tiếp và trực tiếp.  - Gián tiếp:   Gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa thị trường, mở cửa thương mại hàng hoá, đầu tư...Quá trình cắt giảm thuế, mở cửa thị trường và thực thi các cam kết về đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia sẽ làm cho các doanh nghiệp, nhất là các tổng công ty nhà nước kinh doanh về phân bón, sắt thép, đường, giấy....chịu tác động rất mạnh. Hiện đây cũng là những khách hàng lớn của các ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn trong dư nợ tín dụng của các ngân hàng. Vì vậy, khi các khách hàng này gặp khó khăn, thua lỗ, phá sản sẽ kéo theo sự thua lỗ, phá sản của các ngân hàng.   - Trực tiếp:  Thách thức trực tiếp đối với các ngân hàng Việt Nam thể hiện ở những khía cạnh:  + Việc mở cửa thị trường theo các quy định của WTO làm tăng số lượng các ngân hàng nước ngoài hoạt động ở thị trường nội địa và tạo ra áp lực cạnh tranh trực tiếp về số lượng đối thủ trên thị trường. Ðặc biệt, sự cạnh tranh của các đối thủ nước ngoài sẽ khác với các đối thủ trong nước ỏ chỗ: tiềm lực tài chính của các ngân hàng nước ngoài mạnh (vốn lớn), trình độ quản trị kinh doanh ngân hàng bài bản và cao hơn hẳn, trình độ công nghệ về dịch vụ tiên tiến hơn nhiều. Hiện nay ở Việt Nam có 4 ngân hàng liên doanh và 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo lộ trình cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, ngay từ năm 2006 trở đi, Việt Nam bắt đầu phải gỡ bỏ dần các hạn chế về tỷ lệ tham gia cổ phần của các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ (Xem thêm phần tìm hiểu cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thương mại Việt Nam ? Hoa Kỳ); theo lộ trình cam kết trong Hiệp định khung về hợp tác thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN (AFAS), đến năm 2008 Việt Nam sẽ phải dỡ bỏ các hạn chế về tỷ lệ tham  gia vốn, bỏ các khống chế về giá trị giao dịch, dịch vụ của các ngân hàng ASEAN. Ðến năm 2010, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ ở Việt Nam, tức là các ngân hàng Mỹ được đối xử tương tự như các ngân hàng trong nước. Ðồng thời, từ năm 2006 trở đi, Việt Nam cũng bắt đầu thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường theo các cam kết khi gia nhập WTO đối với các thành viên WTO. Nói cách khác, chỉ trong vòng 5 năm tới, số lượng ngân hàng nước ngoài hoạt động tại  Việt Nam sẽ tăng lên nhanh chóng. Việc xuất hiện các ngân hàng nước ngoài sẽ làm thay đổi mạnh bức tranh thị phần thị trường tiền tệ.   + Khi hội nhập, mở cửa thị trường, thực thi các cam kết trong khuôn khổ WTO, các ngân hàng Việt Nam gặp nhiều bất lợi do những yếu kém của bản thân các ngân hàng: năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam thấp do khả năng tài chính yếu kém, chất lượng và hiệu quả kinh doanh kém, trình độ quản trị chưa chuyên nghiệp, công nghệ lạc hậu, chủng loại dịch vụ, sản phẩm nghèo nàn, trình độ và chất lượng nguồn nhân lực còn bất cập so với yêu cầu. Về quy mô, hiện nay các ngân hàng lớn nhất Việt Nam (là Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương) có vốn tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình của khu vực và một ngân hàng nhỏ ở các nước tiên tiến. Mức vốn điều lệ trung bình của các doanh nghiệp ngân hàng Việt Nam này tính đến năm 2005 đạt khoảng 5.000 tỷ đồng, hay khoảng 300 triệu USD. Quy mô của các ngân hàng cổ phần tư nhân lớn nhất Việt Nam vào khoảng 300 tỷ đồng hay gần 20 triệu USD. Về năng lực tài chính và chất lượng tài sản của các ngân hàng trong nước, hiện nợ xấu của các ngân hàng quốc doanh trong nước giảm từ 14,9% xuống còn từ 2,9 - 7,8%; nợ xấu của các ngân hàng cổ phần giảm từ 20% xuống còn 2,5% - 4,5%. Hệ số an toàn vốn tối thiểu mới đạt 4 - 5% so với chuẩn quốc tế là 8%. Tỷ lệ sinh lời bình quân trên vốn tự có đạt khoảng 6% so với mức 13-15% của các ngân hàng các nước trong khu vực. Về sản phẩm, dịch vụ, các ngân hàng trong nước hiện chủ yếu vẫn trong tình trạng "độc canh" dịch vụ tín dụng trong khi tỷ trọng dịch vụ phi tín dụng ở các ngân hàng nước ngoài thường chiếm đến 40-50%. Các dịch vụ ngân hàng hiện đại như ngân hàng điện tử, môi giới kinh doanh, đầu tư...chưa phát triển hoặc thậm chí mới sơ khai. Trong khi đó, các ngân hàng nước ngoài có ưu thế mạnh về các dịch vụ như giao dịch thanh toán và chuyển tiền, dịch vụ tư vấn, môi giới kinh doanh tiền tệ, phát triển doanh nghiệp... Dự báo, trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng phục vụ công ty (tức dịch vụ tín dụng của ngân hàng với các doanh nghiệp), các ngân hàng nước ngoài sẽ cạnh tranh chủ yếu ở khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân chứ không phải là khu vực các DNNN. Nguyên nhân là về lâu dài, số lượng các DNNN ngày càng giảm đi do cổ phần hoá, trong khi số lượng các doanh nghiệp, công ty tư nhân ngày càng phát triển. Hơn nữa, các DNNN, nhất là các tổng công ty thường được ưu đãi trong vay vốn ngân hàng, hoạt động lâu trong môi trường bao cấp lâu nên không có sức cạnh tranh, dễ phát sinh nợ đọng, nợ xấu. Các dịch vụ ngân hàng phục vụ cá nhân, dịch vụ ngân hàng bán lẻ cũng sẽ là lĩnh vực cạnh tranh khốc liệt vì trong tương lai, đây là những lĩnh vực rất phát triển, đồng thời cũng là các lĩnh vực mà các ngân hàng nước ngoài cũng có nhiều kinh nghiệm hơn, nhiều loại hình sản phẩm hơn, trình độ công nghệ tiên tiến hơn trong khi lại là lĩnh vực yếu của các ngân hàng nội địa (vốn hoạt động tín dụng, cho vay là chủ yếu), chẳng hạn như dịch vụ banking home; thẻ ATM...Khi các ràng buộc về việc nhận tiền gửi VND, phát hành thẻ tín dụng, đặt máy rút tiền tự động (ATM) được nới lỏng, dỡ bỏ sẽ tạo áp lực cạnh tranh rõ rệt, mạnh mẽ, khi đó thị phần của các ngân hàng trong nước sẽ bị thu hẹp dần. Số liệu khảo sát do UNDP Việt Nam phối hợp với Bộ kế hoạch và đầu tư tiến hành và công bố hồi tháng 8/2005 cho hay, 42% doanh nghiệp và 50% người dân được hỏi cho biết, khi mở cửa thị trường tài chính, họ sẽ lựa chọn vay tiền tại các ngân hàng nước ngoài chứ không phải là ngân hàng nội địa. Ngay cả dịch vụ gửi tiền tiết kiệm vốn là "đặc sản" và là dịch vụ chủ yếu của các ngân hàng nội địa hiện nay thì kết quả khảo sát cũng cho hay, 50% doanh nghiệp và 62% người dân được hỏi cho rằng họ sẽ lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền tiết kiệm. Về công nghệ, trình độ công nghệ ngân hàng trong nước còn thấp, hệ thống thanh toán nội bộ yếu, hệ thống kế toán còn thiếu minh bạch, chưa xác định được chính xác tình trạng chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh doanh. Hệ thống quản lý tập trung, hệ thống quản lý rủi ro, thanh tra, giám sát theo chuẩn mực quốc tế chưa được thiết lập. Thanh toán với khách hàng và thanh toán liên ngân hàng thường kéo dài, thủ tục rườm rà, phiền hà khiến người dân, doanh nghiệp thường sử dụng tiền mặt để thanh toán. Thủ tục gửi, rút tiền còn phiền toái, chậm chạp. Về chất lượng nguồn nhân lực, đội ngũ lao động ngành ngân hàng đông về lượng nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ thấp, nhất là cán bộ quản lý.   Tác động đối với dịch vụ viễn thông:  Thách thức đối với các doanh nghiệp viễn thông khi Việt Nam gia nhập WTO thể hiện ở một số khía cạnh sau: a). Về thị trường: Thị phần của các doanh nghiệp viễn thông sẽ bị chia sẻ đáng kể khi các tập đoàn viễn thông lớn xâm nhập vào Việt Nam. Số lượng các nhà kinh doanh dịch vụ viễn thông nước ngoài có mặt tại Việt Nam sẽ tăng lên dần theo lộ trình cam kết mở cửa thị trường mà Việt Nam đã ký với Hoa Kỳ và trong đàm phán gia nhập WTO. Cụ thể như sau:  Cam kết trong Hiệp định Việt Nam - Hoa Kỳ: - Cho phép các công ty Mỹ và các công ty Việt Nam  (được phép kinh doanh viễn thông) thành lập công ty liên doanh để kinh doanh các dịch vụ viễn thông theo lộ trình như sau: + từ 10/12/2003 được thành lập liên doanh với vốn của công ty Mỹ chiếm không quá 50% để kinh doanh dịch vụ giá trị gia tăng; + từ 10/12/2004: được thành lập liên doanh với vốn của công ty Mỹ chiếm không quá 50% để kinh doanh dịch vụ internet; + từ 10/12/2005: được thành lập liên doanh với vốn của công ty Mỹ chiếm không quá 49% để kinh doanh dịch vụ viễn thông cơ bản (trừ dịch vụ điện thoại cố định nội hạt, đường dài và quốc tế); + từ 10/12/2007: được thành lập liên doanh với vốn của công ty Mỹ chiếm không quá 49% để kinh doanh dịch vụ điện thoại (bao gồm dịch vụ cố định nội hạt, đường dài và quốc tế). - Về thuế: cắt giảm từ 5-10% thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm thu và phát vô tuyến trong vòng 3 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực (hiệu lực từ ngày 10/12/2001). - Về các biện pháp phi thuế: bãi bỏ quy định về quyền nhập khẩu mậu dịch một số thiết bị viễn thông sau từ 3-8 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực; bãi bỏ quy định về quyền phân phối một số thiết bị viễn thông sau từ 8 -14 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.  Các cam kết của Việt Nam trong WTO: Các cam kết của Việt Nam trong đàm phán gia nhập WTO về mở cửa thị trường viễn thông tương đương với mức độ mở cửa thị trường của Trung Quốc. Cụ thể là: đầu tư nước ngoài trong liên doanh khai thác dịch vụ viễn thông tăng dần từ 25% lên tới 50% vào năm 2006, tùy từng loại dịch vụ. b). Về năng lực cạnh tranh: Mặc dù trong hơn 10 năm qua, ngành viễn thông Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh song so với các nước tiên tiến, trình độ công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam vẫn còn khá lạc hậu trong khi đó yêu cầu về mở cửa thị trường viễn thông chủ yếu là do các nước công nghiệp phát triển (vốn có tiềm lực và kinh nghiệm cạnh tranh quốc tế) yêu cầu. c). Về nguồn nhân lực: Hiện nay lực lượng lao động trong các doanh nghiệp viễn thông, nhất là các DNNN còn khá đông, năng suất lao động thấp, trình độ cán bộ quản lý còn hạn chế. Nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp viễn thông, đặc biệt là trong các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, sản xuất phần mềm, đòi hỏi kỹ năng, trình độ chuyên môn cao, nhiều chất xám. Tuy nhiên, với cơ chế đào tạo, tuyển dụng, đãi ngộ như hiện nay các doanh nghiệp nhà nước khó có thể thu hút và duy trì đội ngũ cán bộ có đủ năng lực để cạnh tranh với các tập đoàn viễn thông lớn của nước ngoài.   Dự đoán, cạnh tranh trong dịch vụ viễn thông chủ yếu diễn ra ở dịch vụ điện thoại di động và các dịch vụ giá trị gia tăng khác. Một số dịch vụ bưu chính hiện đại cũng sẽ tiếp tục có áp lực cạnh tranh như dịch vụ chuyển phát nhanh...Hiện nay, mặc dù theo lộ trình cam kết, các doanh nghiệp Mỹ đã được phép thành lập công ty liên doanh với vốn góp 50% để kinh doanh dịch vụ internet song đến thời điểm này vẫn chưa có nhà đầu tư Mỹ nào tham gia thị trường này. Nguyên nhân là do nhu cầu thị trường và mức tiêu thụ dịch vụ này ở Việt Nam còn chưa cao và đặc biệt là do cơ sở hạ tầng viễn thông (đường truyền internet tốc độ cao) còn yếu. Trong tương lai gần, dự đoán khi đường truyền tốc độ cao phát triển mạnh, các dịch vụ giá trị gia tăng như gameonline và các loại hình giải trí trực tuyến như âm nhạc, xổ số...qua mạng sẽ phát triển mạnh, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường. Các dịch vụ thương mại khác dựa trên nền tảng viễn thông để tiến hành dịch vụ thương mại điện tử như dịch vụ đào tạo trực tuyến, phân phối qua mạng, bán lẻ qua mạng...cũng sẽ nhanh chóng được du nhập và phát triển.   Tác động đối với dịch vụ phân phối: Lĩnh vực phân phối theo định nghĩa của WTO bao gồm bốn (4) nhóm dịch vụ chính là: + dịch vụ đại lý uỷ quyền; + dịch vụ bán buôn; + dịchvụ bán lẻ; + nhượng quyền (franchising). Riêng nhóm dịch vụ nhượng quyền ở Việt Nam còn được gọi là "nhượng quyền thương mại". Nhượng quyền theo định nghĩa của WTO là bán một số quyền và ưu đãi cụ thể, ví dụ như quyền sử dụng một mô hình bán lẻ cụ thể hoặc một thương hiệu. Chẳng hạn như trường hợp cà phê Trung Nguyên... Ở Việt Nam, theo Luật thương mại có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện: + Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; + Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.   Cam kết quốc tế về mở cửa thị trường trong lĩnh vực phân phối của Việt Nam bao gồm các cam kết trong khuôn khổ các hiệp định thương mại song phương, trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ASEAN cộng (ASEAN với các đối tác) và trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO. Theo các cam kết hiện nay của Việt Nam, dịch vụ phân phối đã được mở cửa cho các doanh nghiệp Mỹ, Nhật Bản (theo các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt Nam - Nhật Bản). Trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO, dịch vụ phân phối sẽ được tiếp tục mở cửa cho các nước thành viên khác của WTO khi  Việt Nam gia nhập WTO. Trong số 10 công ty bán lẻ lớn nhất thế giới xếp theo doanh số có 3 công ty của Mỹ, 5 công ty của Ðức, 2 công ty của Nhật Bản, trong đó đứng đầu là Wal -Mart (Mỹ), thứ hai là Metro Int (Ðức). Hiện nay, Bộ kế hoạch và đầu tư đã cấp phép cho 3 tập đoàn kinh doanh siêu thị nước ngoài là Metro Cash & Carry (Ðức); Big C (Pháp); Parkson (Malaysia). Metro đã được cấp phép bán buôn, chưa được cấp phép bán lẻ. Big C đã được cấp phép bán lẻ.   Thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh dịch vụ phân phối hiện nay chính là thời gian cho các doanh nghiệp thích nghi với điều kiện cạnh tranh quốc tế và mở cửa thị trường không còn nhiều. Hơn nữa, các loại hình phân phối hiện đại là thế mạnh của các doanh nghiệp nước ngoài. Dự đoán, lĩnh vực phân phối sẽ hứng chịu nhiều tác động và cạnh tranh khốc liệt từ phía các doanh nghiệp nước ngoài. Có thể nói sự cạnh tranh với các tập đoàn kinh doanh phân phối nước ngoài là cuộc đua không cân sức của các doanh nghiệp Việt Nam do các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quản lý, kinh doanh, có quan hệ bạn hàng tốt và trực tiếp với nhiều nhà sản xuất hàng tiêu dùng lớn trên thế giới. Việc xuất hiện các trung tâm siêu thị lớn của các tập đoàn siêu thị nước ngoài có thể dẫn tới việc phá sản hàng loạt các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị trong nước cũng như hàng triệu hộ kinh doanh bán lẻ nhỏ.   Việc kinh doanh của các tập đoàn siêu thị lớn của nước ngoài trên thị trường Việt Nam cũng sẽ dẫn đến sự chi phối, khống chế của các doanh nghiệp này đối với một số các doanh nghiệp sản xuất trong nước, dẫn đến sự lệ thuộc về mẫu mã (thông qua các đơn đặt hàng), về nguồn nguyên liệu, về tài chính, về đầu ra. Sự lệ thuộc này có thể dẫn đến các nguy cơ thôn tính, mua lại cơ sở sản xuất của các tập đoàn siêu thị đối với các doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng tiêu dùng, đồ gia dụng, trang trí nội thất, may mặc...  TỶ TRỌNG ÐÓNG GÓP CỦA lĩnh vực phân phối trong GDP Ở MỘT SỐ NƯỚC ( % trên GDP) Panama:                         24% Hongkong:                      21% Srilanka:                        20% Ecuado:                         19% Australia:                       18% Nigieria:                         17% Mỹ:                                16% Italia:                             15% Nhật Bản:                       13% Pháp:                             12% ấn Ðộ:                            11% Hàn  Quốc :                      8%                                                                             Nguồn: Ban thư ký WTO 2.2.Nguy c¬ thu hÑp s¶n xuÊt , chuyÓn ®æi sang lÜnh vùc kh¸c , thËm chÝ nhiÒu doanh nghiÖp bÞ ph¸ s¶n do kh«ng c¹nh tranh ®­îc víi hµng ho¸ nhËp khÈu: Từ chỗ bị cạnh tranh bởi hàng ngoại nhập, các doanh nghiệp trong nước sẽ buộc phải sắp xếp lại, tổ chức lại sản xuất, thay đổi nhân sự để làm sao hàng hoá sản xuất ra có giá cả, chất lượng, mẫu mã tốt hơn, rẻ hơn trước để cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu. Trong trường hợp tổ chức lại sản xuất rồi, thay đổi nhân sự rồi nhưng hàng hoá sản xuất ra vẫn không cạnh tranh được, thị phần ngày càng giảm đi, hàng hoá sản xuất ra không có thị trường tiêu thụ thì đương nhiên doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất, phải tính toán lại chiến lược sản xuất, kinh doanh, có thể phải chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, thậm chí nếu hàng hoá, dịch vụ sản xuất ra không tiêu thụ được, không trả được vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp có thể bị thua lỗ, phá sản.           Nguy cơ này cũng rất rõ ràng bởi vì các doanh nghiệp trong nước thường yếu kém hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài như doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp thuê chuyên gia nước ngoài quản lý...về năng lực quản trị, trình độ tiếp thị. Nguy cơ này cũng xuất phát từ chỗ bản thân hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trong nước kém chất lượng hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, về tên tuổi, thương hiệu... 2.3.Nguy c¬ bÞ c¸c DN n­íc ngoµi th«n tÝnh , mua l¹i , chÌn Ðp , "lÊy" mÊt nh©n viªn , mua chuéc l·nh ®¹o cao cÊp tr¶ l­¬ng cao , høa hÑn th¨ng tiÕn: -  Trở thành thành viên của WTO cũng có nghĩa là Việt Nam được hưởng mọi quy chế ưu đãi và quy tắc buôn bán, đầu tư ngang với các thành viên khác của WTO, thị trường Việt Nam trở thành một bộ phận của thị trường toàn cầu. Với những lợi thế như chi phí lao động rẻ, có nguyên vật liệu cho sản xuất hàng hoá, thị trường đông dân (là thị trường tiêu thụ tiềm năng), Việt Nam trở thành nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào để sản xuất hàng hoá, dịch vụ để xuất khẩu, để bán cho thị trường nội địa.   -  Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường do người nước ngoài đến làm ăn, buôn bán ở Việt Nam, do vậy đa số họ phải thuê đất để đặt trụ sở, nhà máy, phải thuê người địa phương làm công cho họ. Vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn, nắm giữ các bí quyết công nghệ tiên tiến hơn, có trình độ quản lý giỏi hơn nên họ có nhiều cơ hội để thành công hơn trong việc sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ so với các doanh nghiệp trong nước. Dần dần khi họ đã chiếm được thị phần, để tiếp tục mở rộng thị phần, họ sẽ tìm cách "mua" lại, thôn tính các doanh nghiệp trong nước đang làm ăn thua lỗ, khó khăn (về thị trường, về đầu ra, thiếu vốn để đổi mới công nghệ, để thuê quản lý giỏi), vừa đạt mục tiêu loại bớt đối thủ trên thị truờng, vừa tận dụng được mặt bằng, tận dụng nhà xưởng, tận dụng công nhân đã có tay nghề của các doanh nghiệp Việt Nam.  -  Ðể tiết kiệm tiền lương, tiết kiệm chi phí về ăn ở đối với công nhân, cán bộ quản lý, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ tìm cách thuê người Việt Nam hơn là đưa người nước ngoài sang Việt Nam. Các chuyên gia có tay nghề giỏi, các cán bộ quản lý có tài kinh doanh, tổ chức làm việc ở các doanh nghiệp nhà nước chính là mục tiêu "săn đầu người" của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Bằng cách trả lương cao, hứa hẹn sự thăng tiến, đãi ngộ (về đào tạo, về phúc lợi tham quan du lịch, nghỉ ngơi...), các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ bỏ tiền mua chuộc các cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp của các doanh nghiệp trong nước chuyển sang làm việc ở các công ty có vốn nước ngoài, vừa đỡ tốn tiên thuê các vị trí tương đương là người nước ngoài, vừa làm suy yếu các doanh nghiệp trong nước. III.Nh÷ng quy ®Þnh ph¸p luËt vµ thñ tôc ph¸p lý trong kinh doanh mµ doanh nghiÖp cÇn ph¶i n¾m b¾t khi tham gia vµo thÞ tr­êng quèc tÕ: 1.T×m hiÓu vÒ c¸c chÝnh s¸ch , luËt ph¸p liªn quan ®Õn th­¬ng m¹i quèc tÕ: Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã phải đối phó với khoảng 20 vụ kiện bán phá giá. Ngoài những vụ kiện cá basa, kiện tôm Việt Nam bán phá giá vào thị trường Mỹ, có một số vụ EU kiện Việt Nam bán phá giá, điển hình như kiện Việt Nam bán phá giá xe đạp; bóng đèn huỳnh quang tiết kiệm điện (compact); chốt cài không gỉ và các phụ kiện xuất khẩu.                Ðể tiến hành kinh doanh" thuận buồm, xuôi gió" trong môi trường thương mại quốc tế, bên cạnh việc phải nắm bắt các nguyên tắc chung của WTO về thương mại, thông tin về các thị trường chính của Việt Nam, ngày nay các doanh nghiệp còn nhất thiết phải có hiểu biết về một số quy định, thủ tục pháp lý trong kinh doanh thương mại quốc tế mà các nước nhập khẩu đã và đang áp dụng như:  + Các biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu: cấm nhập khẩu; hạn ngạch; thủ tục cấp phép nhập khẩu... + Các biện pháp: chống bán phá giá; chống trợ cấp; các biện pháp tự vệ... + Các hàng rào kỹ thuật trong thương mại: các yêu cầu về tiêu chuẩn; quy định kỹ thuật; đánh giá hợp chuẩn; các yêu cầu về ghi nhãn; về đóng gói, bao bì, nhãn mác... + Các biện pháp kiểm dịch động - thực vật;  Các biện pháp này thường được gọi chung dưới cái tên là "các biện pháp phi thuế quan". Trong số các biện pháp này, có một số biện pháp, ngoài những tác dụng như bảo vệ sức khoẻ con người, động - thực vật, an ninh xã hội, bảo vệ đạo đức, thuần phong mỹ tục... song đồng thời, về thực chất cũng là các biện pháp bảo hộ thường được các nước nhập khẩu sử dụng để ngăn cản việc đưa hàng hoá vào nước họ.  Các nước sử dụng các biện pháp thuế quan hay phi thuế quan với mục đích chủ yếu là để bảo hộ sản xuất trong nước. Các biện pháp bảo hộ được đưa để bảo vệ cho một ngành sản xuất nào đó không bị phá sản khi bị cạnh tranh bởi hàng hoá ngoại nhập. Ví dụ, Malaysia muốn phát triển ngành công nghiệp ôtô nên nước này cố sức bảo hộ ngành công nghiệp ôtô; Trung Quốc muốn bảo hộ ngành thép, thuốc lá; Mỹ, Nhật Bản muốn bảo hộ các ngành nông nghiệp như lúa, gạo; Việt Nam muốn bảo hộ ngành công nghiệp ôtô, mía đường.... 2.C¸c biÖn ph¸p h¹n chÕ ®Þnh l­îng nhËp khÈu: a.  Cấm nhập khẩu:             Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 (GATT 1994) cho phép các nước thành viên có thể cấm nhập khẩu trong trường hợp cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia hoặc để bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ con người, bảo vệ động thực vật với điều kiện là các biện pháp này phải đi kèm với việc hạn chế sản xuất hay tiêu dùng nội địa liên quan đến chúng. Các mặt hàng thuộc danh mục cấm có thể kể ra như vũ khí, đạn dược, ma tuý, hoá chất độc... Trong một số trường hợp khẩn cấp như để giữ cân bằng cán cân thanh toán, an ninh lương thực quốc gia...các nước cũng có thể áp dụng tạm thời biện pháp cấm.             Trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thường không gặp biện pháp này.  b.  Hạn ngạch nhập khẩu:          WTO cho phép duy trì biện pháp hạn ngạch ở hai lĩnh vực là nông nghiệp và dệt may. Ðối với lĩnh vực nông nghiệp, WTO cho phép các nước sử dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan. Tức là hàng nhập khẩu vào một nước nằm trong số lượng (hạn ngạch) đã định sẵn thì hưởng thuế suất thấp, nếu vượt qua số lượng này thì phải chịu thuế suất thuế nhập khẩu cao. Ðây là vấn đề cần lưu ý khi Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp, nông sản sang các nước. Ðối với dệt may, theo thoả thuận giữa các thành viên của WTO, hệ thống hạn ngạch hàng dệt may toàn cầu đã chấm dứt từ 01/01/2005. Mặc dù chưa trở thành thành viên của WTO, tức là chưa được hưởng chính sách không hạn ngạch về dệt may như các nước thành viên WTO song từ 1/1/2005 EU đã quyết định bãi bỏ hạn ngạch hàng dệt may cho Việt Nam. Do vậy, chỉ các nước khác ngoài EU áp dụng chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam.   c.  Thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu:            WTO có hẳn một hiệp định về vấn đề này mang tên: "Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu".           Theo quy định tại Hiệp định này, cấp phép nhập khẩu là các thủ tục hành chính được sử dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu, yêu cầu nộp đơn xin nhập khẩu hoặc các loại giấy tờ khác (không phải các giấy tờ cần thiết cho mục đích hải quan) cho các cơ quan hành chính liên quan, như là một điều kiện đặt ra trước khi nhập khẩu hàng hoá vào một nước.           Tuy nhiên, hiện nay phần lớn các nước thành viên WTO, bao gồm cả những nước mới gia nhập đã lần lượt bỏ biện pháp này. Do đó, đây là vấn đề không lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. 3.C¸c biÖn ph¸p chèng b¸n ph¸ gi¸ , chèng trî cÊp , c¸c biÖn ph¸p tù vÖ: a. Chống bán phá giá:                Chống bán phá giá hiện đang là biện pháp được Mỹ và một số nước EU thường xuyên áp dụng đối với hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam. Các vụ kiện hàng hoá Việt Nam bán phá giá và dẫn tới bị áp thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, EU đã liên tiếp xảy ra mấy năm gần đây, bắt đầu bằng vụ cá tra, cá basa xuất vào Mỹ.   Thế nào là bán phá giá? Một sản phẩm hàng hoá bị coi là bán phá giá nếu hàng hoá đó được bán vào nước nhập khẩu với giá thấp hơn mức giá của sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu.   Hiệp định về chống bán phá giá của WTO quy định nếu nhà sản xuất hay xuất khẩu bán phá giá sản phẩm của mình và việc bán phá giá này gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu thì nước nhập khẩu có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Do vậy, các nước được phép đánh thuế chống bán phá giá vào các sản phẩm bán phá giá khi điều tra được rằng hàng nhập khẩu đã được bán phá giá vào thị trường nước mình đồng thời chứng minh được rằng việc bán phá giá này gây thiệt hại cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước.   Mỹ và các nước EU là các quốc gia sử dụng biện pháp chống phá giá nhiều nhất. Nước bị áp thuế chống bán phá giá nhiều nhất là Trung Quốc. Mỗi năm Trung Quốc phải đối phó với khoảng vài trăm vụ kiện bán phá giá. Hiện nay, không phải chỉ có các nước nhập khẩu là nước công nghiệp phát triển mới áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nhà xuất khẩu thuộc các nước đang phát triển, mà cũng đã có nhiều nước đang phát triển như Brazil, Argentina, ấn Ðộ...thực hiện biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của các nước khác.   Doanh nghiệp Việt Nam cần làm quen và tập "sống chung" với các vụ kiện bán phá giá của các nhà nhập khẩu và chấp nhận chống bán phá giá như một "luật chơi chung" trên thị trường thương mại quốc tế. Ðể đối phó với các vụ kiện bán phá giá và tránh bị thiệt hại, doanh nghiệp cần nắm bắt đầy đủ thông tin pháp luật của nước nhập khẩu hàng hóa của mình; thông tin về tiêu thụ và năng lực sản xuất nội địa của một mặt hàng cụ thể ở quốc gia mình dự kiến xuất khẩu để tránh việc xuất khẩu ồ ạt vào thị trường đó, gây phản ứng cho các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành hàng ở nước đó, dẫn đến việc họ đâm đơn kiện doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá.  b.  Chống trợ cấp:  Trợ cấp là hành động của Chính phủ tài trợ cho doanh nghiệp thông qua các hình thức như cấp phát, cho vay, góp vốn cổ phần; bảo lãnh tiền vay; ưu đãi tài chính như miễn thuế; Chính phủ cung cấp hàng hoá không phải là hạ tầng cơ sở hoặc mua hàng; Chính phủ góp tiền hoặc giao/ lệnh cho một tổ chức tư nhân thực hiện các việc nêu trên...Kết quả của trợ cấp là sản phẩm bán ra của doanh nghiệp có giá thấp và được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.   WTO có "Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng" điều chỉnh về vấn đề này.             Theo Hiệp này, khi nước nhập khẩu nghi ngờ và tiến hành điều tra, xác định được rằng hàng hoá xuất khẩu đó đã được trợ cấp bán vào nước mình, gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất tương tự trong nước thì có quyền áp dụng biện pháp chống trợ cấp thông qua việc đánh một mức thuế tương đương với mức mà hàng nhập khẩu được trợ cấp.           Tuy nhiên, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng chỉ áp dụng đối với trợ cấp công nghiệp. Trợ cấp trong lĩnh vực nông nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định nông nghiệp của WTO.          Ðối với các doanh nghiệp Việt Nam, để tránh bị áp thuế chống trợ cấp, doanh nghiệp cần nghiên cứu thêm về các chính sách trợ cấp cho doanh nghiệp hiện hành của Chính phủ liên quan đến các quy định của Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO. Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị các nước nhập khẩu đánh thuế chống trợ cấp khi phát hiện Chính phủ có trợ cấp. Hiện nay, Chính phủ đang có những hình thức trợ cấp như hỗ trợ tín dụng xuất khẩu; thưởng xuất khẩu...  Trong đàm phán gia nhâp WTO, Việt Nam cam kết:   + Ðối với hàng hoá công nghiệp:  Việt Nam cam kết, từ thời điểm gia nhập, Việt Nam sẽ bãi bỏ ngay các hình thức trợ cấp theo tỷ lệ nội địa hoá hoặc yêu cầu sử dụng nguyên liệu trong nước và các hình thức trợ cấp trực tiếp từ ngân sách nhà nước như thưởng xuất khẩu. Các hình thức trợ cấp khác bị cấm theo quy định của Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng sẽ được Việt Nam bãi bỏ sau 9 năm kể từ thời điểm gia nhập.           + Ðối với hàng hoá nông nghiệp:  Việt Nam cam kết ràng buộc trợ cấp xuất khẩu nông sản ở mức 0 % và cam kết, kể từ thời điểm gia nhập,  Việt Nam sẽ không duy trì hoặc đưa ra bất cứ biện pháp trợ cấp xuất khẩu nào cho nông sản, trừ những loại trợ cấp mà các nước đang phát triển được phép duy trì.           c.  Các biện pháp tự vệ:          Theo Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO, một nước thành viên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ cho một sản phẩm chỉ khi thành viên đó đã xác định được là sản phẩm đó được nhập vào lãnh thổ của mình khi có sự gia tăng nhập khẩu, tương đối hay tuyệt đối so với sản xuất nội địa, và theo đó có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp. Biện pháp để tự vệ có thể là tăng thuế quan, áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu (như hạn ngạch, giấy phép)... KÕt luËn Héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ lµ mét qu¸ tr×nh l©u dµi vµ bao qu¸t tæng thÓ c¸c lÜnh vùa trªn ph¹m vi toµn cÇu, víi sù tham gia cña hÇu hÕt c¸c quèc gia cã nÒn kinh tÕ ph¸t triÓn còng nh­ ®ang ph¸t triÓn trong ®ã cã ViÖt Nam. Tuy nhiªn sù héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ ®èi víi n­íc ta kh«ng ph¶i hoµn toµn dÔ dµng nh­ng sÏ lµ thuËn lîi nhiÒu h¬n h¹i. NÕu chóng ta hiÓu vµ vËn dông tèt nh÷ng c¬ héi vµ toµn cÇu ho¸ mang l¹i. Do ®ã ®Ó thÝch øng víi qu¸ tr×nh nµy, chóng ta ph¶i chñ ®éng n¾m b¾t ®ãn nhËn xu h­íng míi ®Ó thu ®­îc thµnh qu¶ kinh tÕ trong qu¸ tr×nh héi nhËp vµ ®ã còng lµ c¬ héi ®Ó cho ViÖt Nam ®­îc s¸nh vai c¸c n­íc trong diÔn ®µn quèc tÕ vµ më réng th­¬ng m¹i gi÷a n­íc ta víi c¸c n­íc trªn thÕ giíi. ViÖc ViÖt Nam trë thµnh thµnh viªn chÝnh thøc cña tæ chøc th­¬ng m¹i thÕ giíi WTO ®· më ra mét b­íc ngoÆt míi cho sù ph¸t triÓn cña nÒn kinh tÕ n­íc ta.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35756.doc
Tài liệu liên quan