Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu.( hay còn gọi là công nghệ cứng ) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường.( hay còn gọi là công nghệ mềm ). Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư.
Một trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển kinh tế của hầu hết các nước đang phát triển là trình độ kỹ thuật, công nghệ còn lạc hậu. Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển, việc tự nghiên cứu để phát triển khoa học công nghệ cho kịp với trình độ của các nước phát triển là việc khó khăn và tốn kém . Con đường nhanh nhất để phát triển công nghệ và trình độ sản xuất của các nước đang phát triển hiện nay là phải biết tận dụng những thành tựu của khoa học tiên tiến của nước ngoài thông qua chuyển giao công nghệ. Tiếp nhận FDI là một phương thức cho phép các nước đang phát triển tiếp thu được trình độ khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, mức độ hiện đại đến đâu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng dù thế nào đây cũng là lợi ích căn bản của các nước khi tiếp nhận FDI. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công nghệ cho nước nào tiếp nhận đầu tư. Các nước đang phát triển mặc dù có trình độ sản xuất hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến nhưng không thể toàn diện được. Để đạt hiệu quả kinh tế cao, mỗi nước chỉ tập trung vào một số lĩnh vực mà họ có ưu thế hơn và ngược lại chính sự tập trung đó cho phép họ có khả năng phát triển vượt trội lên ở một số lĩnh vực nào đó, điều đó càng củng cố thêm địa vị và quyền lợi kinh tế của họ trên thế giới xu hướng phát triển phân công lao động cũng là quá trình chuyên môn hoá và liên kết chặt chẽ với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động FDI là kết quả trực tiếp của quá trình trên. Nó tuân theo quy luật của quá trình phân công lao động quốc tế.
65 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước Asean vào Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thích được hoạt động trong một môi trường tự do, vì vậy họ rất quan tâm đến một đạo luật mềm dẻo giúp họ ứng phó linh hoạt với các diễn biến của thị trường. Tuy nhiên cùng với sự linh hoạt, nhà đầu tư cũng yêu cầu sự quản lý có hiệu quả của nhà nước đối với nền kinh tế để tạo nên một sân chơi công bằng, ổn định và thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
2.5. Cơ sở hạ tầng
Cũng như Luật pháp, cơ sở hạ tầng là nền tảng tự nhiên của tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ sở hạ tầng là một tổng thể các phần cứng như hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc và phần mềm như hệ thống tài chính ngân hàng, dịch vụ kỹ thuật, công nghệ, bao gồm cả cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh như điện nước lẫn cơ sở hạ tầng phục vụ sinh hoạt như trường học, bệnh viện. Kinh nghiệm cho thấy, bao giờ cơ sở hạ tầng cũng phải được phát triển đồng bộ và đi trước nền kinh tế. Nó có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhất là ảnh hưởng đến tốc chu chuyển vốn. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến cho FDI vào các quốc gia phát triển bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng FDI trên thế giới.
2.6. Khả năng chuyển đổi ngoại tệ và thu hồi vốn đầu tư
Yếu tố này rất được các nhà đầu tư quan tâm bởi nó không chỉ liên quan đến việc chuyển lợi nhuận về nước mà nhiều doanh nghiệp phải vay vốn hay mua máy móc, nguyên vật liệu từ nước ngoài. Chỉ một sự khó khăn nhỏ trong việc chuyển đổi tiền cũng đủ để đình trệ cả quy trình sản xuất, thậm chí có thể đưa doanh nghiệp đến chỗ phá sản.
III. Đánh giá môi trường đầu tư Việt Nam đối với nhà đầu tư ASEAN
1. Thuận lợi
1.1. Việt Nam có môi trường chính trị ổn định
Đường lối phát triển kinh tế xã hội thể hiện tính nhất quán tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư. Chính phủ ta rỏ rõ thiện chí và cố gắng tạo môi trường thuận lợi nhất cho đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hoà cùng xu thế hội nhập của thế giới, Việt Nam ngày càng mở rộng mối quan hệ quốc tế thể hiện thông qua việc gia nhập tổ chức ASEAN, ký Hiệp định khung với EU, bình thường hoá quan hệ và ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ, tiến tới gia nhập WTO.
1.2. hệ thống Luật pháp và các chính sách
Các văn bản pháp luật như Bộ Luật dân sự, Bộ Luật hình sự, Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, pháp lệnh về quản lý chất lượng hàng hoá đã ra đời tạo nên một môi trường pháp lý bình đẳng cho cạnh tranh lành mạnh.
- Về hình thức đầu tư: Nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh hiện nay, chính phủ rất khuyến khích các hợp đồng xây dựng như: hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) hay hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT). Đặc biệt, nhà nước ta đang nghiên cứu cho phép các doanh nghiệp FDI chuyển sang hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp cổ phần.
- Về lĩnh vực đầu tư: Hiện nay, Nhà nước Việt Nam chỉ hạn chế đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngoài ở 8 lĩnh vực, ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài chủ động lựa chọn dự án đầu tư, đối tác đầu tư, hình thức đầu tư, địa bàn, thời hạn đầu tư, thị trường tiêu thụ sản phẩm, tỷ lệ góp vốn pháp định phù hợp với quy định của Luật đầu tư nước ngoài.
- Luật này quy định các biện pháp khuyến khích và ưu đãi về thuế, về hình thức tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong các lĩnh vực: sản xuất hàng xuất khẩu; nuôi, trồng, chế biến nông lâm, thuỷ sản; sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư vào phát triển, nghiên cứu vào phát triển; sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên luệu và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam; xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng và đầu tư vào các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
1.3. Đặc điểm của thị trường bản địa
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì Việt Nam là thị trường mới mẻ và rộng lớn, đầy tiềm năng và triển vọng. Đây không chỉ là thị trường với hơn 80 triệu người tiêu dùng mà còn là địa bàn để cung cấp hàng hoá cho Lào, Campuchia, Trung Quốc
Lao động Việt Nam dồi dào và tương đối rẻ. Đây chính là ưu điểm hàng đầu và nước ta cũng chủ yếu là dựa vào đây để thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư vào Việt Nam giúp cho các doanh nghiệp giảm chi phí lao động, tận dụng lợi thế so sánh để tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
1.4. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển vận tải biển, hàng không, thông tin liên lạc là những ngành tạo tiền đề cho việc phát triển những ngành công nghiệp khác, đồng thời mang lại lợi nhuận cao. Nguồn tài nguyên thiên nhiên tuy không phong phú nhưng đa dạng về nông lâm ngư nghiệp, về các loại khoáng sản phục vụ cho sự phát triển nhiều ngành công nghiệp sản xuất trong nước và xuất khẩu.
1.5. Sự tham gia hội nhập KV của Việt Nam
Thứ nhất, hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) được ký kết ngày 7/10/1998 quy định về nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN). Theo đó, nước ta sẽ dành ngay lập tức và vô điều kiện cho các nhà đầu tư các nước thành viên ASEAN sự đối xử không kém thuận lợi sự đối xử dành cho các nhà đầu tư của bất kỳ nước thứ 3 nào. Việc thực hiện mở cửa tất cả các ngành nghề và dành chế độ đối xử quốc gia (NT) cho các nhà đầu tư ASEAN sẽ hoàn tất vào năm 2013. Theo đó, dành sự đối xử không kém thuận lợi hơn so với các nhà đầu tư nước mình và mở cửa tất cả các ngành nghề cho các nhà đầu tư nước ngoài đến từ ASEAN.
Thứ hai, lịch sử và văn hoá Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với Đông á là điều kiện thuận lợi trong giao lưu với các nước có cùng nền tảng văn hoá trong và ngoài khối ASEAN. Có thể nói, Việt Nam như một cửa ngõ phía Đông Bắc mở ra thị trường Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc.
Thứ ba, Việt Nam phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, khác hẳn với các nước ASEAN khác toạ nên lợi thế về sự khác biệt. Các nước ASEAN khác có thể lợi dụng bàn đạp Việt Nam để mở rộng quan hệ buôn bán với các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa cũ vốn có quan hệ tốt đẹp với Việt Nam như Nga và các nước Đông Âu.
2. Khó khăn
2.1. Những vấn đề của hệ thống pháp luật
* Hệ thống luật pháp, chính sách thiếu đồng bộ
- Tính nhất quán: việc thực hiện và diễn giải luật và các quy định của các địa phương trên đất nước khác nhau, đôi khi một văn bản được sử dụng và hiểu theo nhiều nghĩa.
* Có quá nhiều yêu cầu về giấy phép và thủ tục xin cấp phép: có giấy phép hình thành trong toàn bộ quá trình đầu tư mà trong đó hơn một nửa phải phê duyệt lại trên cơ sở từng năm. Quy trình xin cấp giấy phép đầu tư có thể lên tới hàng năm trời. Bộ hồ sơ để xin giấy phép đầu tư: Đơn xin cấp giấy phép; hợp đồng liên doanh, điều lệ, luận chứng khả thi; tài liệu tài chính của chủ đầu tư giấy uỷ quyền và tài liệu về công ty của nhà đầu tư, tất cả phải được công chứng, xác thực tính hợp pháp bởi lãnh sự và phải dịch sau đó lại phải công chứng bản dịch.
* Lĩnh vực đầu tư vẫn còn hạn chế: nước ta vẫn giữ độc quyền nhà nước ở lĩnh vực quảng cáo, viễn thông, điện, nước. Nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế lĩnh vực nhập khẩu và kinh doanh hàng hoá. Thực chất những hạn chế này không tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh khiến cho công nghệ không phát triển mà giá lại cao ảnh hưởng đến lợi ích người tiêu dùng. Có nhiều lĩnh vực Việt Nam còn hạn chế đầu tư nước ngoài thì một số nước khác đã mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài như: thương mại bán lẻ, kinh doanh phân phối sản phẩm, tài chính, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản
* Hệ thống pháp luật về bản quyền và sở hữu công nghiệp yếu kém: không đủ cơ sở để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, trung thực, công bằng giữa các chủ thể cạnh tranh; điều tiết cạnh tranh có mức độ đối với từng loại thị trường hàng hoá; bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và nhà sản xuất. Chưa có chế tài cụ thể đối với hành vi bán phá giá để loại bỏ đối thủ, lợi dụng quảng cáo để khuyếch trương sai lệch về sản phẩm của mình, nhại nhãn hiệu và mẫu mã hàng hoá của người khác để thu lời bất hợp pháp.
2.2. Cơ sở hạ tầng kém phát triển, chi phí đâu tư cao
Do có sự đầu tư, cơ sở hạ tầng ở nước ta đã có sự phát triển đáng kể, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh. Cho đến nay, đã có nhiều cảng biển cho tàu trọng tải lớn được xây dựng, giao thông đường bộ thông suốt Bắc Nam, đặc biệt là mạng lưới viễn thông quốc tế rất hiện đại, được đánh giá cao trong khu vực. Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại lớn gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế. Hệ thống giao thông vận tải còn thiếu thốn nhất là ở các vùng chưa phát triển gây ảnh hưởng lớn đến lưu chuyển hàng hoá đặc biệt hệ thống đường xã xuống cấp trầm trọng. Khoa học công nghệ vẫn chưa áp dụng triệt để vào hệ thống thông tin để tạo điều kiện cho các loại thị trường phát triển và gây khó khăn cho thiết lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Cơ sở hạ tầng phục vụ con người như trường học, bệnh viện vẫn còn thiếu nhất là ở vùng sâu vùng xa. Đặc biệt các cơ sở hạ tầng phục vụ cho nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ vẫn chưa được quan tâm. Tất cả các vấn đề trên là nguyên nhân khiến việc sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn và đội giá thành sản xuất lên cao.
2.3. Các loại thị trường vẫn còn ở mức sơ khai
Cho đến nay, thị trường hàng hoá và dịch vụ đã phát triển nhưng không được quản lý chặt chẽ dẫn đến tình trạng gian lận thương mại, làm hàng giả hàng nháidiễn ra. Nhà nước duy trì sự bảo hộ chặt chẽ đối với một số doanh nghiệp gây nên bất bình đẳng trong kinh doanh. Trong khi đó, thị trường công nghệ và các dịch vụ thông tin, pháp lý, tài chính, bảo hiểm, kiểm toán không đáp ứng nhu cầu của hợp tác đầu tư. Thị trường vốn, thị trường chứng khoán chậm phát triển hạn chế khả năng đáp ứng yêu cầu vốn vay của các doanh nghiệp. Hệ thống dịch vụ Tài chính - Ngân hàng dù đã có nhiều chuyển biến tích cực song vẫn còn chưa đáp ứng kịp nhu cầu ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài, khả năng mua-bán, dự trữ ngoại tệ của các ngân hàng Việt Nam còn hạn chế.
2.4. Khả năng chuyển đổi đồng Việt Nam ra ngoại tệ và hoạt động hồi hương vốn đầu tư
lợi nhuận được tự do qua biên giới (hồi hương) là tiền đề quan trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính phủ cho phép nhà đầu tư chuyển vốn và lợi nhuận về nước. Nhưng các doanh nghiệp phải tự lo lấy nguồn ngoại tệ của mình (trừ một số lĩnh vực trong diện khuyến khích như sản xuất hàng thay thế nhập khẩu). Trong khi đó, Nhà nước ta quản lý ngoại hối khá chặt, có một số yêu cầu khiến nhà đầu tư rất khó khăn trong việc chuyển ngoại tệ:
Thứ nhất, các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam đa số phải thực hiện bằng đồng Việt Nam.
Thứ hai, ngân hàng nhà nước quản lý việc mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ, vay, trả, chuyển vốn và ngoại tệ ra, vào lãnh thổ Việt Nam.
2.5. Trình độ nguồn nhân lực hạn chế
Cho đến nay, lực lượng lao động qua đào tạo của ta chỉ chiếm 18%, đây là một tỷ lệ quá thấp để có thể thực hiện công nghiệp hoá đất nước (ở nhiều nước tỷ lệ này là trên 50%). Điều này có ảnh hưởng lớn đến chuyển giao công nghệ, bây giờ các nhà đầu tư muốn đưa công nghệ mới vào Việt Nam thì phải đào tạo lại lao động. Sự phân bố lao động đã qua đào tạo lại không đều, lực lượng lao động ở nông thôn chiếm 77,44% nhưng chỉ chiếm 46,26% lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp, học nghề trở lên. Lao động trình độ cao tập trung đến 50% ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ cấu lao động qua đào tạo thể hiện sự bất hợp lý xét trong tổng số thì có 10,9% sơ cấp, 16,8% công nhân kỹ thuật không bằng, 17% công nhân kỹ thuật có bằng, 30,4% trung học chuyên nghiệp, 24,6% cao đẳng đại học và 0,3% trên đại học (nguồn số liệu: Tạp chí Kinh tế và Dự báo). Như vậy, số lao động trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật không bằng còn chiếm 30% trong tổng lao động đã qua đào tạo. Số lao động cao đẳng và đại học quá nhiều trong khi công nhân kỹ thuật và trình độ trung học chuyên nghiệp lại thiếu nghiêm trọng.
Phần III. Một số giải pháp nhằm thu hút FDI của
các nước ASEAN vào Việt Nam
I. Quan điểm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước ta thời kỳ 2005-2010
1. Về phát triển các ngành và lĩnh vực
Phát triển nhanh những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; Các vùng kinh tế trọng điểm có nhịp độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung, lôi kéo các vùng khó khăn cùng phát triển; Đẩy mạnh ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu, đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành, lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế; Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường.
2. Về tỉ trọng nguồn vốn FDI so với tổng vốn đầu tư xã hội
Kết hợp nguồn lực trong và ngoài nước xây dựng nền tảng của một nước công nghiệp hiện đại với nội dung: Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. Về môi trường đầu tư
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau để phát triển đất nước.
4. Về hội nhập khu và quốc tế
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của thế thù địch; Chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu lực, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ, nâng cao hiệu quả hợp tác với bên ngoài, tăng cường vai trò và ảnh hưởng của nước ta với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta, một mặt cần huy động tối đa các nguồn lực trong nước, mặt khác tiếp tục tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam luôn coi đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế. Quan điểm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhất quán, lâu dài và được cụ thể hoá trong các quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2. Định hướng thu hút FDI
Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến; công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Khuyến khích và dành ưu đãi tối đa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng, địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp tập trung hình thành theo quy hoạch đã phê duyệt.
II. Phương hướng thu hút FDI của các nước ASEAN vào Việt Nam
1. Mục tiêu thu hút FDI của các nước ASEAN thời kỳ 2006-2010
* Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội từ 2006-2010, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài phải phát triển ổn định hơn đạt kết quả cao hơn, cụ thể như sau:
- Vốn đăng ký của các dự án cấp giấy phép khoảng 15 tỷ USD.
- Vốn thực hiện khoảng 13 tỷ USD.
- Đến năm 2010 tổng đóng góp khoảng 18% GDP, 30% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 15% tổng thu ngân sách nhà nước.
* Vốn đầu tư trực tiếp các nước ASEAN vào Việt Nam thời kỳ 2000-2005 chiếm 22% tổng FDI đầu tư đăng ký, vốn thực hiện chiếm 18,36% nếu không có những biến động lớn về đầu tư của các nước vào Việt Nam thì trong 5 năm 2006-2010 thì thu hút đầu tư của các nước ASEAN cả nước cần đạt được những chỉ tiêu sau:
Tổng vốn đăng ký các dự án phải đạt từ 3,2 đến 3,7 tỉ USD, vốn thực hiện đạt từ 2,24 đến 2,6 tỉ USD. Như vậy trung bình mỗi năm Việt Nam phải thu hút được khoảng 750 triệu USD/năm. Đây là con số không quá lớn so với với thời kỳ 1995-1997 nhưng trong điều kiện giai đoạn từ 2006-2010 thì đó là một con số đáng kể.
* Đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam tính theo vùng lãnh thổ trong giai đoạn 2006-2010 sẽ không mấy thay đổi so với các năm trước đây. Vốn đầu tư chủ yếu tập trung ở các tỉnh có cơ sở hạ tầng tốt như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Lâm Đồng. Các tỉnh này chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư ở các vùng địa phương trong cả nước tức chiếm từ 2,2 đến 2,4 tỉ USD. Các tỉnh Đà Nẵng, Cần Thơ sẽ được các nước ASEAN đầu tư nhiều hơn so với giai đoạn trước đây và chiếm tỉ trọng ngày càng đáng kể.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN vào Việt Nam theo ngành kinh tế sẽ chuyển dần sang các ngành công nghiệp thực phẩm, khách sạn và du lịch, đô thị mới. Những ngành không đòi hỏi công nghệ quá cao và nhiều vốn vì các nước ASEAN cũng không có trình độ công nghệ nổi trội hơn Việt Nam. Đầu tư vào ngành công nghiệp nặng tỉ trọng ngày càng giảm. Ước tính đầu tư vào các ngành dịch vụ như xây dựng khu đô thị mới, văn phòng, căn hộ sẽ là số vốn hơn 1,3 tỉ USD. Ngành công nghiệp nhẹ sẽ ước đạt 1,2 - 1,4 tỉ USD trong giai đoạn 2006-2010.
2. Triển vọng đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam
Từ thực trạng trên cũng như trước những phát triển, sau đây chúng ta có thể dự đoán rằng FDI của ASEAN vào Việt Nam vẫn có thể tăng trở lại tuy không mấy dễ dàng:
Trong điều kiện hội nhập như ngày nay, một nước có trình độ phát triển chưa cao, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu vẫn có khả năng vừa thu hút FDI từ các quốc gia phát triển hơn vừa có thể đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các nước ASEAN dù đang khó khăn trong vấn đề thu hút FDI vào nước mình, vẫn có thể đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Tiềm năng của các nước ASEAN còn khá lớn so với mức độ đầu tư của họ vào Việt Nam hiện nay, nhất là của các nước có trình độ phát triển khá hơn như Singapore, Brunei.
Có khả năng bổ sung cơ cấu thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước ASEAN chắc chắn sẽ chuyển dịch những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động mà đối với họ đã mất dần lợi thế so sánh do giá cả sức lao động tăng cao. Còn Việt Nam trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trình độ phát triển thấp, với nguồn lực lao động dồi dào, tài nguyên sẵn có, sẽ sẵn sàng tiếp nhận đầu tư vào lĩnh vực đó trong giai đoạn trước mắt.
Việt Nam xây dựng lộ trình thu hút đầu tư trực tiếp từ các quốc gia ASEAN, phát triển nhiều khu kinh tế quan trọng khắp cả nước: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đà Nẵng, Đồng bằng sông Cửu Long Đây là điều khá hấp dẫn các nhà đầu tư ASEAN.
Từ năm 2003, Việt Nam cắt giảm 760 dòng thuế theo CEPT để đến năm 2006 hoàn thành AFTA, thương mại và đầu tư nội bộ khu vực sẽ tự do, các nước ASEAN có thể đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn.
Chính phủ còn tiếp tục cải thiện chính sách, môi trường đầu tư, bổ sung vào danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư nước ngoài đối với dự án cần đầu tư vốn lớn, công nghệ hiện đại, có khả năng sáng tạo ra thiết bị máy móc, vật tư, cho ngành sản xuất hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng, bao gồm các dự án sản xuất máy móc, thiết bị, cụm chi tiết khai thác dầu khí, mỏ Chính phủ điều chỉnh một số lĩnh vực hiện đang tạm dừng hoặc hạn chế cấp giấy phép như xi măng, rượu bia Đây là yếu tố tạo hấp dẫn đầu tư của ASEAN vào Việt Nam.
Việt Nam có chế độ chính trị ổn định, Luật đầu tư sửa đổi được các nhà đầu tư quốc tế thừa nhận, một môi trường đầu tư ngày càng trong sạch, minh bạch và công bằng hơn sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư.
III. Giải pháp thu hút FDI của các nước ASEAN vào Việt Nam
1. Đẩy nhanh thực hiện hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN
Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) được ký kết tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 30 ngày 7 tháng 10 năm 1998 tại Manila-Philippin nhằm tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của các nước ASEAN để thu hút hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tại điều 7 của Hiệp định, ngoài các biện pháp hoặc lĩnh vực được liệt kê trong các danh mục loại trừ tạm thời và danh mục nhạy cảm của nước mình, tất cả các thành viên ASEAN sẽ mở cửa tất cả các ngành nghề và dành chế độ đối xử quốc gia ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN. Danh mục loại trừ tạm thời của Việt Nam sẽ được bỏ vào giai đoạn 2010 đến 2013. Trong thời gian từ này đến năm 2013, Việt Nam cần nhanh chóng loại dần các hạn chế trong danh sách này nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư đến từ ASEAN. Cùng với đó, cần thực hiện các biện pháp tích cực để:
- Đơn giản hoá và làm nhanh chóng các thủ tục xin và phê duyệt các dự án đầu tư ở mọi cấp.
- Mở rộng số lượng các Hiệp định song phương về tránh đánh thuế hai lần với các quốc gia thành viên ASEAN còn lại.
- Thiết lập cơ sở dữ liệu về các ngành công nghiệp phụ trợ của ASEAN và về các nhà cung cấp công nghệ ASEAN.
- Thiết lập cơ sở dữ liệu ASEAN để tăng cường trao đổi dữ liệu đầu tư và thông tin về các cơ hội đầu tư ở ASEAN xác định các trở ngại đầu tư trong và ngoài ASEAN và kiến nghị các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư ASEAN.
- Xác định các lĩnh vực trọng tâm để hợp tác kỹ thuật, như phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp phụ trợ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ thông tin, công nghệ công nghiệp, nghiên cứu và phát triển.
2. Hoàn thiện hệ thốn pháp luật phù hợp với tiến trình thực hiện các cam kết
2.1. Cải thiện hệ thống văn bản pháp quy
- Tuân thủ nguyên tắc chặt chẽ, dễ hiểu và trong sáng của Luật pháp, tránh đưa ra những quy định gây ra bất ngờ, những cú sốc đối với môi trường đầu tư. Xuất bản các thông tin về Luật đầu tư một cách thường xuyên và làm cho các thông tin đó có thể tiếp cận một cách rộng rãi. Tăng cường tham khảo ý kiến cộng đồng trong quá trình xây dựng Luật.
- Kịp thời đưa và điều chỉnh các văn bản pháp luật nhằm thực hiện các cam kết về khu vực đầu tư ASEAN cũng như các cam kết liên quan đến thuế quan, rào cản phi thuế quan (NTBs), tuyên bố tầm nhìn 2020 của hải quan ASEAN.
- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hiện hành phù hợp với chiến lược kinh tế xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các Luật: Luật đầu tư nước ngoài, Luật thương mại, Luật đất đai tạo hành lang pháp lý cho đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Ban hành Luật cạnh tranh và Kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, Luật thuế thu nhập cá nhân:
+ Luật cạnh tranh ra đời nhằm tạo cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, trung thực, công bằng giữa các chủ thể cạnh tranh; điều tiết cạnh tranh theo mức độ, phạm vi phát triển đối với từng loại thị trường hàng hoá; bảo vệ lợi ích người sản xuất, lợi ích người tiêu dùng, lợi ích của Nhà nước và xã hội; làm cho cạnh tranh thực sự trở thành động lực phát triển của các nhà sản xuất và động lực phát triển nền kinh tế quốc dân.
Xây dựng luật thuế thu nhập cá nhân vừa đảm bảo sự phát triển công bằng vừa khuyến khích người lao động tự làm giàu cho mình và làm giàu cho đất nước.
- Kịp thời ban hành các văn bản dưới Luật hướng dẫn thực hiện các chính sách, quy định của Nhà nước như: Nghị định của Chính phủ quy định cụ thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài có dự án đầu tư và thường trú tại Việt Nam được mua nhà ở, các hướng dẫn về thuế VAT, chế độ kê toán, quy định về việc kê khai nộp thuế và quyết toán thuế, quy định về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nhập khẩu, dịch vụ
- Huỷ bỏ các Luật và Nghị định không còn cần thiết và không còn tác dụng trên phạm vi quốc gia. Sửa đổi các văn bản dưới Luạt do các Bộ, ban, ngành ban hành chồng chéo lên nhau và đi ngược lại Luật đầu tư.
- Quy định rõ về: Các quy tắc, quy định và chính sách liên quan đến đầu tư; các quy tắc về điều kiện cấp phép, các quy tắc liên quan đến viện tiếp cận nguồn vốn trong nước và các quy tắc để tạo thuận lợi cho việc thanh toán, tiếp nhận và chuyển lợi nhuận của các nhà đầu tư ra nước ngoài.
2.2. Loại bỏ một số loại giấy phép và quy trình không cần thiết
- Việc cấp phép chỉ phù hợp với một số lĩnh vực như: ngân hàng, truyền thông, viễn thông và khai thác tài nguyên. Khi cần có giấy phép, chúng nên tập trung ở cấp Trung ương càng nhiều thì càng tốt để tránh thủ tục trùng lặp. Việc cấp giấy phép nên dựa trên cơ sở những tiêu chí khách quan và rõ ràng theo quy định được áp dụng nhất quán và thống nhất chứ không phải theo ý kiến chủ quan của cán bộ thi hành Luật.
- Loại bớt những yêu cầu không cần thiết trong hồ sơ xin cấp phép như: nghiên cứu khả thi, lợi ích kinh tế dự án gồm thông tin về sự cần thiết của dự án, phân tích sản phẩm, kế hoạch sản xuất, dự báo, văn thư nói rõ mục đích sử dụng đất do Uỷ bàn nhân dân địa phương phê duyệt, thông tin về lao động, kê hoạch đào tạo lao động Chỉ nền có xác nhận của Ngân hàng về khả năng tài chính của nhà đầu tư, không nên yêu cầu về tiến độ thực hiện vì điều này không thực tế
- Mọi Luật và quy định nên hoàn toàn tự thực thi càng nhiều càng tốt. Điều này có nghĩa là cần giảm số lượng phê duyệt của Chính phủ và nếu có thể thay thế yêu cầu phê duyệt cho mọi doanh nghiệp bằng hệ thống chế tài phạt đối với bộ phận thiểu số không tuân thủ pháp luật.
2.3. Phát triển các hình thức đầu tư
- Xây dựng quy chế thực hiện điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này được đăng ký tại thị trường chứng khoán.
- Sửa đổi và bổ sung Nghị định số 103/1999/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước, theo hướng cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua, nhận, khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước.
- Nghiên cứu và thí điểm các hình thức đầu tư khác như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn, nghiên cứu mô hình khu kinh tế mở.
2.4. Mở rộng lĩnh vực cho phép đầu tư nước ngoài
- Ban hành các quy định về việc cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài được đầu tư vào dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ trong nước. Thu hẹp danh mục hàng hoá không thuộc đối tượng doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài mua để xuất khẩu.
- Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt Nam. Xây dựng cơ chế để doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được phép xây dựng, kinh doanh nhà ở và xdn, kinh doanh phát triển khu đô thị mới.
- Cho phép đầu tư 100% vốn nước ngoài trong các lĩnh vực trồng rừng, thông tin, thương mại, dịch vụ, du lịch
2.5. Tăng cường hơn nữa ưu đãi thuế quan
Nhất là những dự án có vốn đầu tư lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ mới, dự án nghiên cứu khoa học công nghệ, dự án đầu tư vào vùng sâu, vùng xa. Chuyển hệ thống thuế phức tạp hiện thời thành 2 loại: thuế thông thường và thuế ưu đãi (ví dụ như thuế ưu đãi với các hàng hoá có xuất xứ ASEAN)
3. Thúc đẩy thực hiện "Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm tăng cường liên kết ASEAN"
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 34 tổ chức tại Hà Nội từ ngày 23 đến 25 tháng 7 năm 2001 đã thông qua "Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm tăng cường liên kết ASEAN" cam kết dành nguồn lực đặc biệt để thúc đẩy sự phát triển của Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam. Sự trợ giúp ưu tiên vào 3 lĩnh vực: phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ thông tin và viễn thông. Đẩy nhanh sự phát triển của các lĩnh vực này không những gắn kết Việt Nam và các nước với nhau một cách chặt chẽ hơn thông qua hệ thống giao thông xuyên á mà còn nâng cao khả năng tiếp thu công nghệ và xây dựng nền kinh tế tri thức. Đây là một cơ hội tốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đuổi kịp các nước trong khu vực.
3.1. Hợp tác với các nước ASEAN trong nâng cao trình độ nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là chìa khoá cho tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội và thành đạt của con người. Để có thể nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần xây dựng nền kinh tế đất nước nói riêng cũng như nền kinh tế của toàn bộ ASEAN nói chung cần phải có sự phối hợp giữa các nước trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Bên cạnh sự giúp đỡ của một số nước thành viên cũ như Thái Lan, Singapore trên cơ sở hợp tác song phương, Việt Nam cũng cần tham gia vào hợp tác khu vực nhằm: hợp tác thiết lập hệ thống các trường đại học Đông Nam á, thiết lập hệ thống giáo trình chung; hợp tác trong đào tạo sinh viên và nghiên cứu sinh trình độ thạc sĩ, tiến sĩ; Xây dựng quỹ tài trợ cấp học bổng để hỗ trợ nghiên cứu sinh trong khu vực; Cùng nghiên cứu các dự án khoa học giữa các nhà khoa học trong khu vực, tăng cường sự trao đổi tài liệu khoa học và các nhà khoa học trong khu vực, gắn việc nghiên cứu quốc gia, khu vực thế giới.
3.2. Phát triển cơ sở hạ tầng và công nghệ tin học - viễn thông tạo điều kiện cho xây dựng các tiểu vùng kinh tế
Phát triển cơ sở hạ tầng trong những năm tới tập trung vào 3 mảng lớn. Đó là:
- Tập trung nâng cấp và hoàn thiện bước cơ bản các trục đường giao thông trên tuyến Bắc - Nam, các tuyến từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đi các khu công nghiệp, các vùng kinh tế quan trọng. Phát triển con đường xuyên á nối liền Việt Nam với các trung tâm kinh tế trong khu vực, tạo điều kiện cho quan hệ thương mại và đầu tư giữa các nước. Phát triển các tuyến giao thông nối Việt Nam với các nước còn lại trong Tiểu vùng MêKông (Thái Lan, Lào, Campuchia). Tiến tới hợp tác với các nước ASEAN triển khai nhanh mạng lưới năng lượng xuyên ASEAN gồm mạng lưới điện và khí đốt. Trong tương lai có thể hình thành tam giác tăng trưởng có sự tham gia của một số tỉnh miền Tây Nam Bộ của Việt Nam , các tỉnh duyển hải phía năm Campuchia và một số tỉnh phía đông Thái Lan.
- Hoàn thành các dự án cải tạo và nâng cấp hạ tầng đô thị ở thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng như cấp thoát nước, xử lý chất thải, nâng cao năng lực giao thông đô thị
- Phát triển kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và mạng lưới thông tin liên lạc quốc gia và đặc biệt là hợp tác xây dựng hệ thống thông tin giữa các nước trong khối ASEAN hiện đại, dung lượng lớn, chất lượng cao. Phối hợp thiết lập hệ thống phát thanh, truyền hình của các nước trong khu vực. Thiết lập mạng lưới báo chí, thông tin Đông Nam á. Hợp tác trong đào tạo các kỹ thuật viên ngành thông tin, phát thanh viên, biên tập viên của đài phát thanh, vô tuyến truyền hình và phóng viên báo chí. Đầu tư để nâng dần tỷ lệ nội địa hoá trong việc sản xuất, lắp ráp thiết bị thông tin liên lạc.
Xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn với công nghệ hiện đại và sự quy hoạch tổng thể tầm cỡ quốc gia mà không một cá nhân nào có thể thực hiện nổi mà phải có sự tham gia và phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành. Cần phải cân nhắc tíh toán hiệu quả kinh tế - xã hội của những dự án xây dựng trong thời gian tới, xây dựng các dự án khả thi và tính toán cụ thể để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước thực hịên.
Để có nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng nhà nước cần tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư thông qua phát hành các loại trái phiếu chính phủ và khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua các loại hợp đồng BOT, BTO, BT
4. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường phù hợp với yếu cầu của hội nhập kinh tế
Xúc tiến hình thành đồng bộ các loại thị trường đi đôi với việc tạo lập khung pháp luạt bảo đảm sự quản lý và giám sát của Nhà nước. Coi trọng công tác tiếp thị và tổ chức thị trường . Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức và cá nhân tiếp cận thị trường; giảm đến mức tối đa sự can thiệp hành chính của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động của thị trường; thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong kinh doanh; tôn trọng và thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật. Có thể học tập kinh nghiệm xây dựng và phát triển thị trường của các nước đi trước như Singapore, Malaysia.
4.1. Phát triển thị trường vốn và tiền tệ
Cải thiện hệ thống ngân hàng thương mại, tách chức năng tín dụng chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động trong môi trường cạnh tranh. Giảm mạnh các hình thức bao cấp về vốn và tín dụng. Hiện đại hoá và đổi mới công nghệ của hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin, phấn đấu để hệ thống tài chính ngân hàng đạt trình độ trung bình của khu vực.
Từng bước mở rộng phạm vị hoạt động của thị trường chứng khoán. Thành lập các công ty cổ phần, công ty tài chính để huy động vốn góp ban đầu cũng như để mua lại dần phần vốn góp của bên nước ngoài.
4.2. Mở rộng và phát triển thị trường lao động
Hoàn thiện khung chính sách và pháp luật về lao động, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề, dịch vụ giới thiệu việc làm, tạo điều kiện thuận lợi cho lao động có thể tự do dịch chuyển, khuyến khích người sử dụng lao động tạo thêm việc làm. Giải quyết thoả đáng quyền lợi của người lao động và sử dụng lao động. Phổ biến rộng rãi thông tin về thị trường lao động đến mọi tổ chức cá nhân.
4.3. Phát triển các loại thị trường dịch vụ
Các dịch vụ như khoa học công nghệ, dịch vụ tư vấn pháp luật, tư vấn quản lý, thị trường sản phẩm trí tuệ, dịch vụ tài chính tiền tệ, dịch vụ bảo hiểm Xúc tiến nhanh việc ứng dụng thương mại điện tử. Khuyến khích và cho phép đầu tư nước ngoài tham gia ở mức có thể.
5. Cải cách các chính sách kinh tế vĩ mô trong tiến trình thực hiện AFTA
5.1. Chính sách tiền tệ
Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Đổi mới chính sách tiền tệ theo hướng vận dụng các công cụ chính sách gián tiếp. Thực hiện chính sách tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo hướng cung cầu trên thị trường, từng bước nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, trước hết là đối với tài khoảng vãng lai. Nâng cao vai trò của ngân hàng Nhà nước trong điều hành, quản lý tiền tệ.
5.2. Xây dựng chính sách thương mại phù hợp với AFTA
Dần loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (NTBs) là việc cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước. Tuy Việt Nam đã có các cam kết thực hiện AFTA nhưng dường như bảo hộ của Việt Nam vẫn còn rất chặt, chính sách kinh tế về cơ bản vẫn là chính sách cơ cấu kinh tế hướng nội, khuyến khích thay thế nhập khẩu và do vậy môi trường đầu tư cạnh tranh thấp, kém hiệu quả. Trong những năm tới cần đưa ra một thời gian biểu cho tiến trình giảm thuế, loại bỏ các hạn chế về só lượng và NTBs. Cần phải chuyển mạnh sang chính sách cơ cấu kinh tế hướng ngoại, khuyến khích hướng về xuất khẩu, đặt các nhà đầu tư vào thế cạnh tranh gay gắt càng hấp dẫn họ.
Để tăng năng lực xuất khẩu, bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước, giảm bớt khó khăn về cân đối ngoại tệ và cán cân thanh toán, cần tiếp tục duy trì yêu cầu xuất khẩu đối với một số sản phẩm mà doanh nghiệp trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, cần xử lý linh hoạt vấn đề này theo hướng thu hẹp hoặc giảm bớt mức độ yêu cầu xuất khẩu trên nguyên tắc chỉ áp dụng đối với những sản phẩm mà doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, không yêu cầu lan tràn, gây tâm lý ta muốn duy trì lâu dài việc bảo hộ toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, cần nghiên cứu ban hàng chính sách và các biện pháp ưu đãi hỗ trợ xuất khẩu hơn là thực hiện biện pháp hành chính như hiện nay. Đối với các dự án đang hoạt động, gặp khó khăn về thị trường xuất khẩu do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực có thể cho phép nâng tỷ lệ tiêu thụ trong nước hoặc chuyển đổi mặt hàng kinh doanh.
5.3. Về chính sách thuế
Thuế là nội dung quan trọng của việc xây dựng khu vực Thương mại tự do ASEAN, Việt Nam đã cam kết đến năm 2013 hoàn thành thực hiện AFTA vào năm 2006. Theo đó, Việt Nam sẽ tối đa hoá số dòng thuế suất từ 0% - 5% vào năm 2003 và mở rộng một số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm 2006. Một trong các biện pháp mà các nhà lãnh đạo ASEAN đưa ra để phát triển khu vực đầu tư là mở rộng số lượng cá hiệp định song phương về tránh đánh thuế hai lần với các Quốc gia thành viên ASEAN.
Các ưu đãi về thuế là sự khuyến khích quan trọng về tài chính để thu hút các nhà đầu tư, hướng đầu tư vào những dự án thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách thuế của Việt Nam hiện nay phải đạt được hai mục tiêu: cố gắng hạn chế phần giảm thu ngân sách do thực hiện các cam kết về giảm thuế nhập khẩu; đồng thời sử dụng thuế như một công cụ kinh tế vĩ mô khuyến khích sản xuất và xuất khẩu góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
Có thể sử dụng một số biện pháp như:
- Đối với xuất khẩu: Thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu bằng việc giảm thuế chẳng hạn những doanh nghiệp đạt tỷ lệ xuất khẩu trên 80% được miễn toàn bộ thuế nhập khẩu nguyên liệu (kể cả phần tiêu thụ trong nước); Đối với những doanh nghiệp buộc phải xuất khẩu sản phẩm cần quy định thời hạn hợp lý (khoảng 2-3 năm) để doanh nghiệp tìm kiếm thị trường xuất khẩu.
- Đối với nhập khẩu: Cần phải thay thế phương pháp xác định trị giá tính thuế hiện nay bằng phương pháp thống nhất dựa trên nền tảng quy định của WTO; Thống nhất đối tượng miễn giảm thuế nhập khẩu, lượng hoá mức độ miễn giảm; Thay đổi hình thức nợ thuế hiện nay bằng hình thức bảo lãnh ngân hàng; Cho phép các doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài chủ động trong việc nhập khẩu thiết bị phù hợp với mục tiêu sản xuất kinh doanh và đem lại hiệu quả cao nhất cho các doanh nghiệp; Cho phép các doanh nghiệp được quyền chủ động thay thế thiết bị mới, tiên tiến so với thiết bị đã đề cập trong luận chứng kinh tế kỹ thuật xin giấy phép đầu tư; Xử lý thích đáng các doanh nghiệp vi phạm pháp luật theo hướng tăng cường các biện pháp kinh tế.
- Đối với thuế lợi tức, chúng ta cần tạo nên sự bình đẳng về tỷ lệ thuế cho cả hai khu vực đầu tư trong và ngoài nước bởi cho đến nay, nếu so sánh với các thành viên ASEAN khác, tổng thuế mà các nhà đầu tư nước ngoài phải trả cho Chính phủ khi kinh doanh tại Việt Nam là 64% lợi nhuận ròng, rất cao so với các nước khác (tỷ lệ này ở Singapore, Thái Lan và Philippin chỉ là từ 29% đến 44% theo tài liệu của Ngân hàng Thế giới). Có một khoản thuế cần được loại bỏ là thuế chuyển lợi nhuận về nước.
- Vấn đề thuế thu nhập cá nhân đối với những người có thu nhập cao cũng cần được nhanh chóng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn, tránh tình trạng mức thuế suất quá cao như hiện nay làm nhiều doanh nghiệp FDI không muốn tuyển lao động Việt Nam vì phải trả thuế quá cao.
Cần chú ý là các hướng dẫn về thuế chỉ nên là hướng dẫn có tính diễn giải chứ không phải là các quy định về nội dung bản chất và chỉ có giá trị từ khi ban hành. Hệ thống thuế phức tạp hiện nay có thể đơn giản hoá còn 2 loại: thuế thông thường và thuế ưu đãi.
6. xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất
Phát triển khu công nghiệp và khu chế xuất chính là giải pháp hàng đầu tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên. Các nhà đầu tư bỏ vốn thuận tiện, tiết kiệm được thời gian và tiền bạc mà lại được hưởng nhiều ưu đãi. Về phía Việt Nam thì cũng dễ quản lý hơn do các nhà đầu tư tập trung và cũng thuận lợi trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Để phát triển hệ thống khu công nghiệp và khu chế xuất trên toàn quốc cần phải: Thu hút vốn ngoài nước vào phát triển hạ tầng khu công nghiệp và khu chế xuất. Nhưng tốt nhất là không đầu tư xây thêm các khu công nghiệp mới nữa mà tập trung vốn vào phát triển cơ sở hạ tầng ở các khu công nghiệp cũ. Giảm giá cho thuê đất ở các khu xuống và tăng thêm các ưu đãi cho các nhà đầu tư vào khu công nghiệp
7. Nâng cao chất lượng quản lý Nhà nước và công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài
7.1. Hoàn thiện quy hoạch phát triển và định hướng đầu tư
Để tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác giữa các nước ASEAN trong thương mại và đầu tư, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nước trong công tác ra kế hoạch và hoàn thiện các quy hoạch phù hợp với hợp tác cùng phát triển trong khu vực. Việc quy hoạch thu hút vốn FDI ngay từ đầu phải gắn với công việc phát huy nội lực (gồm cả vốn, tài sản và cơ sở vật chất kỹ thuật đã tích luỹ được cùng với nguồn tài nguyên chưa sử dụng đến, nguồn lực con người, lợi thế về vị trí địa lý và chính trị); gắn với việc đảm bảo về an ninh quốc phòng; phát huy được lợi thế so sánh của sản phẩm Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Trước mắt định hướng quy hoạch cần tập trung xử lý tốt các vấn đề sau:
Thứ nhất, xây dựng quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh, làm cơ sở cho việc định kỳ công bố danh mục các dự án đầu tư. Việc quy hoạch phát triển ngành phải gắn với mỗi vùng, mỗi địa phương, đáp ứng mục tiêu trước mắt là ưu tiên phát triển các ngành khai thác lợi thế so sánh của vùng, của địa phương, đồng thời tăng cường thu hút các dự án có côg nghệ thích hợp, đầu tư vào các ngành mũi nhọn.
Thứ hai, xác lập chủ trương rõ ràng về các vấn đề có tính nguyên tắc làm cơ sở cho công tác quy hoạch thu hút vốn FDI như: chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, các lĩnh vực trong nước tự làm, tỷ lệ vốn góp của bên Việt Nam trong liên doanh
Thứ ba, rà soát và hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể đối với từng ngành, từng vùng lãnh thổ và cả nước với nội dung: Dữ liệu về tiềm năng và thế mạnh của vùng qua điều tra khảo sát về nguồn nhân lực, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng; danh mục những sản phẩm mà trong nước có thể tự làm; danh mục những dự án cần gọi vốn FDI theo hình thức đầu tư, đối tác trong và ngoài nước, địa điểm, tiến độ thực hiện để làm cơ sở dữ liệu, định hướng trong việc thu hút vốn đầu tư, đảm bảo đúng định hướng và nâng cao hiệu quả đầu tư.
7.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước về FDI
- Thực hiện phối hợp giữa các nước ASEAN trong quản lý đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư, tránh xẩy ra những sai lầm không đáng có trong quyết định đầu tư.
Thực hiện các quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ tổng hợp, Bộ chuyên ngành và Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất trong khi giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh, giúp cho doanh nghiệp triển khao dự án thuận lợi; đồng thời khuyến khích họ đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn. Cụ thể: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng chế độ giao ban với Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục Địa chính, Tổng cục Hải quan về tình hình đầu tư nước ngoài; chủ trì giao ban vùng với các địa phương để nắm tình hình đầu tư theo địa bàn. Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh thành phố chủ trì xây dựng chế độ giao ban với các doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài trên địa bàn.
- Triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính. Giảm đầu mối, giảm các thủ tục hành chính không cần thiết như yêu cầu phê duyệt tăng vốn, yêu cầu phê duyệt thay đổi thuế sử dụng đất Nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về cải cách hành chính trong lĩnh vực ĐTNN cần điện tử hoá một số quy trình quản lý như cấp phép hay nộp báo cáo tình hình thực hiện dự án tiến tới xây dựng Nhà nước điện tử (quận 1 thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm hình thức này).
- Việc kiểm tra doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Cần được chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh theo đúng quy định hiện hành, kiên quyết xoá bỏ tình trạng ra quyết định và kiểm tra không đúng pháp luật, lợi dụng kiểm tra để gây phiền hà cho doanh nghiệp. Đồng thời, phải quyđịnh rõ thời hạn giải quyết các yêu cầu của nhà đầu tư đối với tất cả các Bộ, ngành và địa phương, nghiêm trị mọi hành động sách nhiễu gây khó khăn phiền hà cho các nhà đầu tư.
- Chuyên nghiệp hoá đội ngũ công chức: Các cán bộ chịu trách nhiệm thực hiện quản lý Nhà nước cần được đào tạo và có thu nhập thoả đáng phù hợp với kỹ năng và trách nhiệm của những vị trí tương tự trong khu vực tư nhân. Thực hiện chế độ luân chuyển công chức tạo điều kiện cho công chức nâng cao trình độ chuyên môn và sát với dân hơn. Bên cạnh đào tạo trình độ chuyên môn còn phải không ngừng nâng cao nhận thức về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Quyền kháng nghị: Những người phải xin phê duyệt, giấy phép phải có quyền kháng nghị để bảo vệ quyền lợi của mình trước sự lạm dụng quyền lực bừa bãi của các cơ quan công quyền có thể làm tổn hại đến doanh nghiệp. Quyền kháng nghị này không nên chỉ giới hạn đến cơ quan cấp trên của đơn vị ra quyết định mà còn có thể gửi lên cơ quan độc lập của nhà nước như tào án.
- Thực thi độc lập: Kinh nghiêm trong khu vực chỉ rõ cần có một cơ quan độc lập với đủ quyền hạn để chống lại tham nhũng đảm bảo chương trình cải cách hành chính có hiệu quả. Các kinh nghiệm thành công như uỷ ban chống tham nhũng độc lập của Hồng Kông (ICAC) đã góp rất nhiều cho thành tựu kinh tế của họ.
7.3. Phối hợp trong công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài giữa các nước ASEAN
- Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đố ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác AIA, ASEAN,, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước.
- Xây dựng hệ thống thông tin trong khu vực đầu tư ASEAN, mỗi nước đều có trách nhiệm cập nhật các thay đổi trên nguyên tắc trong sáng và minh bạch, làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào hoạt động trang web về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ trương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công
Đổi mới về nội dung và phương thức vận động xúc tiến đầu tư: Triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hướng vào các đối tác có tiềm lực tài chính và công nghệ nguồn. Căn cứ vào danh mục dự án quốc gia kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chuẩn bị kỹ một số dự án đầu tư quan trọng, lựa chọn, mời trực tiếp một vài tập đoàn lớn trong ngành, lĩnh vực đó vào để đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án. Các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tố việc vận động xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương. Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương.
Chú trọng cả xúc tíên đầu tư để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam.
- Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dụng hình ảnh mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội.
Bên cạnh các biện pháp tích cực trong lĩnh vực kinh tế, cũng cần tạo ra một môi trường xã hội ổn định tạo nền tảng cho đầu tư phát triển. Đất nước ta vừa qua khỏi thời kỳ chiến tranh nên rất hiểu tầm quan trọng của một môi trường chính trị ổn định. Trong xu thế hoà bình và hữu nghị hiện nay, cần phải không ngừng mở rộng mối quan hệ với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực, nâng cao vị thế và tiếng nói của mình trên trường quốc tế.
Kết luận
Từ sau khi Luật đầu tư nước ngoài ra đời đến nay nước ta đã thu được những thành công quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời gian qua, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tính đến cuối năm 2004 thì thu hút đầu tư nước ngoài đạt khoảng 45 tỷ USD trong đó các nước ASEAN đạt 11 tỷ USD chiếm gần 25% tổng số vốn FDI của cả nước. Nguồn vốn FDI đã đem lại cho nền kinh tế nước ta những chuyển biến quan trọng, nó góp phần làm tăng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm, chuyển giao công nghệ, đóng góp vào ngân sách Nói cách khác nguồn vốn FDI đã góp phần đem lại bộ mặt mới cho nền kinh tế quốc dân.
Tuy nguồn vốn FDI cũng có những hạn chế của nó là phụ thuộc vào bên ngoài, chịu ảnh hưởng của các nguồn FDI trên thế giới Nhưng chúng ta vẫn khẳng định nguồn vốn FDI là nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.
Sau thời gian thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước ASEAN chúng ta đã được những thành tựu đáng kể, như tổng số vốn thu hút được gần 11 tỷ USD, các nước ASEAN đầu tư vào hầu hết các lĩnh vực và các vùng lãnh thổ tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và các rào cản để thu hút FDI như chính sách thuế, thủ tục hành chính, cơ chế pháp lýdo đó chúng ta cần từng bước hoàn thiện các hạn chế đó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút nhiều hơn ,tích cực và hiệu quả hơn nguồn vốn FDI từ các nước ASEAN.
Tài liệu tham khảo
1. Báo Đầu tư: 3/2006, 10/2007.
2. Hội nhập Kinh tế Việt Nam - ASEAN: những đặc trưng, kinh nghiệm và giải pháp (Trần Quang Lâm - Nguyễn Khắc Thân).
3. Tạp chí Kinh tế và Dự báo: 1/2007.
4. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á: 6/2007.
5. Tạp chí những vấn đề Kinh tế Thế giới: 5/2007.
6. Luận văn Tốt nghiệp K40 - K41 - Trường ĐHKTQD.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2110.doc