Đề tài Thúc đẩy xuất khẩu cao su của Việt Nam

Trong quá trình phát triển, đi đôi với việc tập trung đẩy mạnh phát triển ngành cao su thiên nhiên đã góp phần xây dựng một mạng lưới cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, các vùng khó khăn, bao gồm sự cải thiện về hệ thống trường học, bệnh viện, nhà ở, các tuyến đường liên xã, liên huyện, hệ thống điện lưới quốc gia, hệ thông cấp nước công cộng, và các chợ cùng các hoạt động khác phục vụ cho công nhân sản xuất. Nhiều thị trấn, vùng đô thị hóa mới được hình thành cùng với sự phát triển của ngành cao su. Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng còn đem lại những thành quả to lớn khác, nó được thể hiện ở việc nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho những người lao động và con em họ trong vùng trồng cao su và sản xuất cao su. Trồng cây cao su còn góp phần phủ xanh những vùng đất trống, đồi núi trọc đem lại giá trị bền vững cho môi trường và con người. Ngoài ra nếu so sánh về hiệu quả kinh tế của cây cao su so với các cây trồng khác khi được trồng ở những vùng đất nghèo thì cây cao su cho hiệu quả kinh tế hơn hẳn.

doc71 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1023 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy xuất khẩu cao su của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc đứng đầu như Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Việt Nam cần phải tăng cường hơn nữa đến việc ổn đinh sản lượng cao su thiên nhiên để tạo một thị phần đáng kể trên thị trường thế giới. Hiện nay sản lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam không hoàn toàn là mủ cao su sản xuất trong nước mà phụ thuộc một phần vào thị trường bên ngoài. Việt Nam nhập khẩu mủ của các nước như Indonesia, Campuchia để sơ chế và xuất khẩu ngược trở lại. Thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc Trong những năm qua thì thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam không ngừng gia tăng với việc có mặt tại rất nhiều thị trường nhưng Việt Nam vẫn xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Trung Quốc, những năm vừa qua thì Trung Quốc chiếm tới 60% cao su xuất khẩu của Việt Nam. Xuất khẩu sang các thị trường khác rất nhỏ bé và khiêm tốn. Nếu so sánh giữa thị trường xuất khẩu thứ nhất của Việt Nam là Trung Quốc với thị trường xuất khẩu thứ hai của Việt Nam là Đức trong năm 2006 thì xuất khẩu sang Trung Quốc là 465,8 nghìn tấn còn sang Đức chỉ là 30,1 nghìn tấn. Chúng ta bị phụ thuộc quá nhiều vào thị trường này do đó rủi ro sẽ rất cao. Khi có biến động ở thị trường này sẽ làm cho các sản phẩm cao su của Việt Nam khó tiêu thụ có thể gây thừa cao su và ảnh hưởng rất lớn đến ngành cao su nói riêng và đến nền kinh tế nói chung. Hơn nữa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc mang lại giá trị thấp hơn vì chúng ta xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là dòng sản phẩm SVR 3L có giá trị thấp và các thị trường khác gần như không nhập. Do đó xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua hoàn toàn phụ thuộc vào thì trường này. Phần lớn cao su xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở dạng thô Chúng ta xuất khẩu cao su với khối lượng lớn nhưng phần lớn các sản phẩm cao su xuất khẩu của Việt Nam là những sản phẩm thô chỉ mới qua sơ chế, chỉ có khoảng 13% được chế biến. Chính vì thế mà giá trị của cao su xuất khẩu mang lại thấp. Cơ cấu sản phẩm chưa phù hợp nếu nhìn vào cơ cấu sản phẩm cao su của Việt Nam thì ta có thể thấy phần lớn vẫn là sản phẩm SVR 3L, 5L chiếm tới trên 50% sản phẩm cao su. Đây là những sản phẩm có chất lượng thấp ít được các nước phát triển nhập về mà chủ yếu chỉ xuất được sang thị trường Trung Quốc. Tuy trong những năm qua đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng của các sản phẩm này nhưng tốc độ chuyển dịch vẫn còn chậm. Nếu không tích cực chuyển dịch mạnh hơn nữa thì ngành cao su Việt Nam vẫn chỉ mang lại giá trị thấp. Thương hiệu cao su Việt Nam vẫn còn yếu Dù Việt Nam đã xuất khẩu cao su từ rất sớm nhưng thương hiệu cao su Việt Nam vẫn còn rất yếu và chưa được chú ý trên thị trường dẫn đến cao su của Việt Nam thường bán với giá thấp hơn các nước khác. Việt Nam là quốc gia xuất khẩu cao su lớn thứ tư trên thế giới nhưng khi nhắc đến cao su thì người ta sẽ nghĩ ngay đến cao su của Thái Lan hay của Malaysia chứ không phải là cao su của Việt Nam. Chính vì không có thương hiệu nên cao su Việt Nam thường bị các đối tác ép giá thấp khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam chịu rất nhiều thua thiệt. Các doanh nghiệp Việt nam không xây dựng được một thương hiệu nào mang tính cạch tranh trên thị trường thế giới. Công nghiệp chế biến cao su của Việt Nam còn rất yếu kém. Ngành công nghiệp chế biến mủ cao su xuất hiện từ rất sớm với các sản phẩm như săm lốp xe, nệm giầy và các dụng cụ thể thao nhưng đến nay xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp cao su của Việt Nam còn rất ít. Trong năm 2007 xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp cao su của Việt Nam mới chỉ đạt 150 triệu đôla đây là một con số quá khiêm tốn. Công nghiệp chế biến mủ cao su của Việt Nam vẫn còn hết sức lạc hậu. Các cơ sở gia công sơ chế với công nghệ cũ và chủ yếu do tư nhân làm nên dẫn đến chất lượng của thành phẩm rất thấp. Các doanh nghiệp nhà nước đã xây dựng từ rất lâu nhưng khả năng chế biến vẫn còn rất hạn chế. Chỉ khoảng 10% mủ cao su dùng để phục vụ cho ngành sản xuất trong nước. Năng suất cao su của Việt Nam còn thấp Tuy đã có những bước cải tiến để nâng cao năng suất của cây cao su nhưng cao su của Việt Nam vẫn cho năng suất thấp hơn nhiều so với các nước Thái Lan hay Malaysia. Điều này làm cho khả năng tăng sản lượng của ngành cao su Việt Nam hạn chế mà phần lớn tăng sản lượng nhờ mở rộng quy mô sản xuất. Trong nền kinh tế hiện nay với sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật nếu chỉ tăng sản lượng bằng tăng diện tích trồng và tăng quy mô theo chiều rộng thì sẽ không ổn định và khó có thể phát triển bền vững. Và tình hình này lại đang diễn ra đối với ngành cao su của Việt Nam. Phần lớn cao su Việt Nam là cao su đại điền thuộc nhà nước Do từ sau khi giải phóng tiếp nhận các đồn điền cao su từ thời thực dân Pháp để lại chủ yếu là các đồn điền cao su lớn. Nhà nước đứng ra tổ chức hoạt động sản xuất của các đồn điền theo hướng các đại điền. Mặc dù đã có nhiều lỗ lực để phát triển cao su tiểu điền nhưng cho đến nay phần lớn cao su tại Việt Nam vẫn là các tranh trại cao su lớn do nhà nước làm chủ. Những trang trại cao su nhỏ (tiểu điền) của nông dân chưa được chú trọng phát triển hài hòa. Chưa khuyến khích được các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất vào ngành cao su Hiện nay ở Việt Nam các công ty nhà nước vẫn là chủ yếu và chiếm đa số trong ngành cao su. Các doanh nghiệp tư nhân sản xuất rất khó khăn và khó có cơ hội phát triển. Do phần lớn là các công ty sản xuất theo các đồn điền cao su lớn nên những người trồng cao su như là những người công nhân làm thuê do đó không khuyên khích được họ tích cực trong sản xuất. Ngoài ra còn không thu hút được các nguồn lực khác trong nước để đầu từ phát triển ngành cao. Cac doanh nghiệp tư nhân rất khó tiếp cận được với các nguồn vốn ưu đãi để phát triển do đó họ không có nhiểu động lực để tham gia. Nguyên nhân của những hạn chế Ngành cao su còn là ngành chịu ảnh hưởng nhiều bởi thời tiết nên sản lượng cao su không ổn định Cao su là một cây công nghiệp nhưng vẫn là thuộc ngành nông nghiệp do đó việc sản xuất cao su và xuất khẩu sản phẩm cao su phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Nếu thời tiết không thuận lợi sẽ dẫn đến sản lượng cao su sút giảm. Ngoài ra sản lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam còn phụ thuộc vào nguồn cung của thị trường các nước khác. Việt Nam không chỉ xuất khẩu từ những lượng mủ sản xuất trong nước mà còn nhập khẩu cao su từ các nước khác để tái xuất. Cao su thiên nhiên của Việt Nam có chất lượng không cao nên chưa đáp ứng được nhu cầu của những thị trường khó tính Một nguyên nhân quan trọng mà cao su Việt Nam hiện nay chỉ xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Trung Quốc đó là do chất lượng cao su của Việt Nam còn kém không đáp ứng được những thị trương khó tính. Các thị trường như Mỹ, Nhật Bản hay EU là những thị trường đòi hỏi cao về chất lượng, các nước này nhập khẩu cao su chủ yếu từ Thái Lan, Malaysia và Indonesia và nhập khẩu những dòng sản phẩm như mủ ly tâm (latex), SRV 10 – 20 những sản phẩm này của Việt Nam cũng bắt đầu được sản xuất nhưng do chất lượng không đồng bộ và không hoàn toàn đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng nên họ vẫn ít nhập khẩu từ Việt Nam. Việc chú trọng xây dựng và phát triển thương hiệu vẫn chưa được đầu tư và quan tâm đúng mức và còn bị coi nhẹ. Công tác xúc tiến thương mại còn hạn chế Có lẽ không ở đâu mà thương hiệu sản phẩm bị coi nhẹ như ở Việt Nam, việc xây dựng thương hiệu gần như không được các doanh nghiệp quan tâm và chú ý. Mặc dù Việt Nam xuất khẩu cao su từ rất sớm và đây là một ngành cũng có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay Việt Nam vẫn chưa có một thương hiệu nào xứng tầm quốc tế. Công tác xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất hạn chế. Chỉ chú trọng đến việc xuất khẩu ra thị các nước bạn hàng cũ chưa có sự xúc tiến mạnh mẽ vào thị trường các nước khác đặc biệt là tại Mỹ và các nước EU. Chính vì công tác xúc tiến thương mại kém nên không quảng bá được thương hiệu cao su Việt Nam ra thị trường thế giới. Sự hỗ trợ xúc tiến thương mại của các cơ qua nhà nước cho các doanh nghiệp cung rất hạn chế. Để tiếp cận được thông tin thị trường rất khó khăn và thường phải đi vòng qua nhiều bên. Thông tin cũng không thật sự chính xác. Đầu tư cho các ngành công nghiệp chế biến còn yều và thiếu Để xuất khẩu mang lại giá trị cao không chỉ xuất khẩu sản phẩm thô mà phải chế biến và xuất khẩu các sản phẩm thô thành những thành phầm để mang lại giá trị thặng dư lớn hơn. Dù biết nhưng thế nhưng dường như việc đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến cao su của Việt Nam là rất hạn chế. Các máy móc công nghệ chế biến lạc hậu chỉ chế biên ra những dòng sản phẩm với chất lượng thấp. ngành công nghiệp cao su Việt Nam gần như không phát triển được. Việt Nam là nước xuất khẩu cao su lớn nhưng lại phải nhập rất nhiều những sản phẩm công nghiệp chế biến từ cao su. Thêm vào đó một hạn chế của việc đầu tư cho ngành công nghiệp sản xuất cao su là cơ cấu sản phẩm và định hướng đầu tư quá thiên về các loại săm lốp xe đạp, xe máy, ô tô, trong khi khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới còn yếu. Những mặt hàng chế biến từ mủ ly tâm như condom, ống xông, găng tay y tế... chưa được các doanh nghiệp chú trọng đầu tư. Công tác đào tạo công nhân cũng như cán bộ quản lý chưa thực sự hợp lý Công tác đào tạo của Việt Nam trong những năm qua đã được chú trọng nhưng hiểu quả của việc đào tạo chưa cao. Trình độ tay nghề cũng như kĩ năng của công nhân vẫn còn nhiều hạn chế dù đã được cải thiện. Đặc biệt là cán bộ quản lý. Do năng lực thấp không có kĩ năng về chuyên môn nên khăn năng điều hành không thực sự hiệu quả. Việc nghiên cứu những giống cây cao sản chưa thực sự hiệu quả Công tác nghiên cứu là một trong những mấu chốt qua trọng để phát triển ngành cao su nói riêng và các ngành khác nói trung. Dù nước ta đã có nhưng đầu tư cho công tác này nhưng thật sự chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Việc nghiên cứu các giống cây cao su cao sản cho năng suất cao vẫn chưa thực sự thành công. Ngoài ra còn nghiên cứu ứng dụng nhưng thành tựu của khoa học kĩ thuật vào sản xuất vẫn chưa có. Phần lớn các khâu của Việt Nam vẫn là lao động chân tay. Chưa có những phát minh mới để ứng dụng trong sản xuất cao su và các sản phẩm từ cao su. Chưa huy động được các nguồn lực đầu tư phát triển ngành cao su Nếu như ở các nước khác nguồn lực để phát triển được huy động từ tất cả các nguồn trong dân thì ở nước ta việc huy động từ các nguồn khác cho việc phát triển của ngành còn rất hạn chế. Dẫn đến thiếu nguồn lực cả về vốn cũng như công nghệ và con người để phát triển. ngoài ra còn chưa huy động được nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế. Chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia của nhà nước chưa thật sự hợp lí. Chủ yếu dành ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước còn các doanh nghiệp tư nhân rất khó tiếp cận các nguồn ưu đãi này. Cơ sở hạ tầng của ngành còn yếu và chưa đồng bộ, chưa ứng dụng công nghệ hiện đại vào trong sản xuất Cơ sở hạ tầng về giao thông đi lại chưa thuận tiện cho hoạt động sản xuất. Thông tin liên lạc vẫn hạn chế nhất là việc nối internet để cập nhật thông tin. Các dịch vụ phục vụ cho đời sống của người sản xuất vẫn thiếu gây khó khăn cho những người sản xuất. Lao động chân tay vẫn là phổ biến trong hoạt động sản xuât và chế biến dẫn đến chi phí sản xuất cao và chất lượng sản phẩm không đồng đều. Đặc biệt trong các ngành công nghiệp chế biến việc ứng dụng công nghệ hiên đại vào sản xuất là chưa có nên không thể sản xuất những dòng sản phẩm chất lượng cao đòi hỏi độ chính xác cao để đáp ứng nhu cầu của các thị trường lớn khó tính. CHƯƠNG 3. Định hướng và các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cao su của Việt Nam Định hướng xuất khẩu cao su thiên nhiên của Việt Nam Định hướng xuất khẩu cao su của Việt Nam đến năm 2015 Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mang lại những ảnh hưởng tích cực và tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu các sản phẩm cao su của Việt Nam. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi về thuế khi xuất khẩu sang nhiều nước và có nhiều cơ hội tốt để thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Các doanh nghiệp sản xuất cao su của Việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng các nhà máy chế biến cao su để có thể sản xuất cao su có giá trị cao, tạo điều kiện chuyển đổi thị trường. Đầu tư vào Việt Nam đang phát triển mạnh sẽ làm tăng giá trị cho ngành cao su, giảm tỉ lệ xuất khẩu cao su nguyên liệu thô và thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm cao su có giá trị kinh tế cao. Đầu tư đẩy mạnh vào việc trẻ hóa và thay đổi giống cây cao su; trong lĩnh vực công nghiệp thì củng cố và tiếp tục phát triển ngành chế biến gỗ cao su và xăm lốp ô tô với mục tiêu cuối cùng kỳ kế hoạch sản lượng các sản phẩm công nghiệp chế biến từ cao su tương đương với sản phẩm nông nghiệp. Song song với phát triển các ngành nông và công nghiệp cao su thì cũng phải phát triển dịch vụ theo hướng phát triển lĩnh vực dịch vụ khoa học kĩ thuật: đẩy mạnh thu mua các sản phẩm mủ cao su để chế biến xuất khẩu, phát triển các dịch vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, tiếp tục cổ phần hóa các doanh nghiệp cao su của nhà nước và tham gia vào thị trường chứng khoán để huy động nguồn vốn đầu tư, tập trung vào đầu tư cho công tác nghiên cứu đào tạo để đáp ứng cho nhu cầu phát triển đa ngành nghề, tăng cường đầu tư hạ tầng kĩ thuật để hiện đại hóa quy trình quản lý sản xuất, cải thiện các điều kiện về vốn, về cơ chế, về phương thức tổ chức sản xuất để đẩy mạnh kinh tế hộ gia đình công nhân. Chiến lược của ngành cao su Việt Nam đến năm 2015 là đầu tư, khai thác một cách hiệu quả nguồn lực chính của ngành là các vườn cây cao su, nhà máy chế biến, đa dạng hóa các sản phẩm để đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu. Tiếp tục đầu tư phát triển cao su ở Tây Nguyên và Duyên Hải Miền Trung để đạt được diện tích cao su của cả nước lên đến 800.000 ha vào năm 2015. Để thúc đẩy phát triển ngành chế biến cao su, cao su Việt Nam cần phải đa dạng hoá sản phẩm, giảm xuất khẩu nguyên liệu thô, phát triển chế biến sản xuất, thay đổi cơ cấu ngành hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các thị trường như EU, Bắc Mỹ và giảm phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Định hướng cho sự phát triển của ngành cao su Việt Nam tới năm 2015 bao gồm chuyển đổi sản xuất cao su nguyên liệu và định hướng phát triển sản xuất cao su công nghiệp, xuất khẩu cao su thành phẩm kết hợp cùng với cao su nguyên liệu. Ngành cao su Việt Nam cần phải thay đổi cấu trúc sản xuất theo tiến trình phát triển của ngành để khai thác triệt để những thế mạnh của cây cao su; tăng cường năng lực cạnh tranh cho sản phẩm cùng với kế hoạch chung cho toàn ngành đến năm 2015 và định hướng tới năm 2020. Các doanh nghiệp cần phải ưu tiên cho đầu tư và phát triển các sản phẩm cao su có giá trị cao. Nhằm nâng cao giá trị cây cao su của Việt Nam, việc nghiên cứu thị trường, lựa chọn công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư cho sản phẩm cao su công nghiệp, thúc đẩy phát triển sản xuất săm lốp xe để phục vụ cho ngành ôtô là những việc làm cấp thiết. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải triển khai các hoạt động marketing, phát triển công nghệ, và tiến hành đa dạng hoá phương thức sản xuất nhằm thúc đẩy mở rộng sản xuất cao su công nghiệp. Tới năm 2015, Việt Nam sẽ phát triển khu vực trồng cao su lên tới 800.000 ha, gấp 1,5 lần so với diện tích hiện tại và sản lượng được mong đợi có thể lên tới 640.000 tấn cao su. Định hướng xuất khẩu cao su của Việt Nam đến năm 2020 Từ định hướng của năm 2015 chúng ta đề ra tầm nhìn chiến lược đến năm 2020 với mục tiêu đến năm 2020 chúng ta phải có một ngành cao su phát triển với trình độ cao. Tiến tới không xuất khẩu các sản phẩm mủ cao su nguyên liệu như hiện năm để phục vụ cho sản xuất công nghiệp cao su trong nước nhằm thu được giá trị cao hơn cho ngành cao su Việt Nam và phát triển ngành theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Đến năm 2020 Việt Nam sẽ là một trong những nước xuất khẩu cao su hàng đầu theo đúng nghĩa tức là tăng cả tỉ trọng xuất khẩu và giá trị xuất khẩu của chúng ta trên thị trường thế giới để được như vậy thì trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020 tăng trưởng xuất khẩu hàng năm của cao su Việt Nam đạt 4% một năm. Tiếp tục mở rộng diện tích cây trồng đến năm 2020 tăng thêm 180.000 ha so với năm 2015 bằng cách nghiên cứu những vùng đất mới thích hợp với cây cao su, phát triển các vùng trồng ở Tây Nguyên, Duyên Hải Miền Trung thay thế cho những vùng rừng nghèo hiệu quả kinh tế thấp, từng bước nghiên cứu triển khai trồng ở các tỉnh miền núi phía bắc đây là những vùng có điều kiện đất đai phù hợp cho cây cao su. Nâng cao năng suất thu hoạch cao su tăng lên 2 tấn/ha, đầu tư đổi mới công nghệ chế biến mủ hướng tơi mục tiêu không chế biến mủ SVR 3L và SVR 5L và thay và đó là các loại mủ SVR 20 và mủ ly tâm Phát triển các ngành công nghiệp cao su như xăm lốp ô tô với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn là nước xuất khẩu xăm lốp ô tô; ngoài ra còn phát triển các ngành công nghiệp khác như đệm mút, găng tay cao su, găng tay y tế, giày thể thao và các dụng cụ thể thao Phát triển các ngành dịch vụ của ngành như dịch vụ tài chính, bảo hiểm, dịch vụ nghiên cứu, đào tạo nhằm hỗ trợ một cách tích cực và có hiệu quả cho ngành phát triển bền vững và hiệu quả. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng vùng trồng cao su nhằm có một cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại phù hợp đẻ phát triển ngành cao su. Cơ hội và thách thức đối với hoạt động xuất khẩu cao su của Việt Nam trong điều kiện hiện nay Cơ hội Đầu năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, tổ chức thương mại thế giới. Đây là một dấu mốc quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và các ngành nghề kinh tế nói riêng, trong đó đặc biệt phải nói đến ngành cao su một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Việt Nam gia nhập WTO đem lại những cơ hội lớn cho ngành cao su Việt Nam: Được đối xử bình đẳng như các nước khác: Đối với sản phẩm lớn thứ hai (cao su chế biến và các sản phẩm cao su), Việt Nam hiện phải chịu mức thuế phân biệt đối xử trên thị trường Đài Loan trong khi hầu hết các đối thủ cạnh tranh được miễn thuế trên thị trường này do trước đây Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO. Việc gia nhập WTO chắc chắn sẽ khiến cho sản phẩm cao su của Việt Nam được đối xử công bằng hơn như các nước thành viên khác và đó là cơ hội để Việt Nam có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trên thế giới và gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Một trong những ví dụ điển hình khác của việc phân biệt đối xử là trước đây phí hạn ngạch được cấp cho những doanh nghiệp Trung Quốc nhập khẩu cao su của Thái Lan, Malaysia, Indonesia chỉ bằng 60-65% so với lệ phí hạn ngạch nhập khẩu cao su của Việt Nam. Chính tình trạng này đã khiến cho một số doanh nghiệp của Trung Quốc tìm cách ép giá cao su của Việt Nam. Tuy nhiên, khi Việt Nam tham gia vào WTO, sự phân biệt đối xử này sẽ bị loại trừ hoàn toàn bởi khi đó Trung Quốc phải thực hiện nguyên tắc MFN. Vì vậy có thể nói gia nhập WTO sẽ mở ra một cánh cửa lớn cho cao su Việt Nam thâm nhập vào thị trường của các nước trong tổ chức một cách dễ dàng hơn. Thu hút được các nguồn vốn FDI đầu tư vào ngành cao su: Bên cạnh đó, cơ hội về tăng thu hút đầu tư, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao từ các nước phát triển và đang phát triển cho Việt Nam sẽ tăng lên. Việc tham gia và chấp nhận các luật lệ, quy tắc của WTO sẽ như một chứng chỉ giúp cho Việt Nam tạo dựng được lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài đến từ các nước thành viên WTO. Trên cơ sở đó, những nhà đầu tư này sẽ yên tâm đầu tư vào Việt Nam mà cao su là một ngành chắc chắn sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư bởi lẽ việc chế biến cao su ở Việt Nam có thể được nói là còn nhiều tiềm năng và cơ hội để phát triển như đã phân tích ở trên. Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp chế biến cao su tại Việt Nam còn ít, khả năng cạnh tranh còn chưa cao, do vậy, đây có thể được coi là một lĩnh vực mới mẻ cho nhà đầu tư nước ngoài. Và là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, với công nghệ hiện đại và kinh nghiệm sản xuất các nhà đầu tư nước ngoài sẽ dễ dành xâm nhập thị trường Việt Nam và tiến tới xuất khẩu sang các nước khác. Về phía mình, các nhà sản xuất cao su việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài để liên doanh, liên kết xây dựng các nhà máy chế biến mủ cao su để tạo ra cao su chế biến có hàm lượng cao, chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, tạo điều kiện dịch chuyển thị trường. Việc các nhà đầu tư tích cực đầu tư vào Việt Nam sẽ tạo điều kiện tăng giá trị gia tăng của ngành cao su Việt Nam, giảm bớt tỉ lệ xuất khẩu cao su thô, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu từ xuất k hẩu thô sang xuất khẩu tinh. Bên cạnh đó, việc các nhà đầu tư tham gia vào thị trường Việt Nam còn có hiệu ứng dẫn đến việc nhập khẩu các máy móc, công nghệ, kỹ thuật chế biến cao su tại Việt Nam. Việc chuyển giao công nghệ giữa các nhà đầu tư nước ngoài với các nhà sản xuất Việt Nam qua đó cũng được phát triển. Hệ quả là Việt Nam có thể chế biến, sản xuất ra các loại cao su có chất lượng cao, nâng cao giá thành, cạnh tranh với các đối thủ truyền thống như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, xuất khẩu sang các thị trường đòi hỏi chất lượng như Nhật Bản, Mỹ, EU. Ngoài ra, việc đầu tư chuyển giao công nghệ diễn ra không chỉ ở khâu chế biến mà còn ở khâu trồng và khai thác. Với công nghệ và kỹ thuật mới, chắc chắn rằng Việt Nam có thể tạo ra những chủng loại cao su phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới hiện nay (SVR 10, 20) nâng cao chất lượng mủ cao su, tăng năng suất, sản lượng, khắc phục được nhược điểm cố hữu tồn tại bấy lâu nay của ngành trồng và khai thác cao su, góp phần cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thu hút các khoản viện trợ của các tổ chức quốc tế để phát triển ngành cao su của Việt Nam: Việc gia nhập WTO cũng tạo ra cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, các hình thức tín dụng, tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF, Hiện nay, Tổng công ty cao su Việt Nam và các công ty khác còn hạn chế về vốn trong việc xây dựng, đầu tư, mở rộng các nhà máy cao su trong nước, mua máy móc công nghệ hiện đại để sản xuất ra các loại cao su có giá trị cao như SVR 10, 20 và mủ latex phù hợp với nhu cầu của các nước phát triển như EU, Mỹ, Nhật. Việc này đã hạn chế rất nhiều khả năng cạnh tranh của cao su Việt Nam trên thị trường thế giới. Do vậy, với việc có thêm nguồn vốn vay, hỗ trợ từ các tổ chức tài chính nói trên, ngành cao su Việt Nam sẽ có một bước tiến mới trong việc sản xuất và xuất khẩu. Kinh nghiệm từ các nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia và Thái Lan cho thấy việc tiếp cận được các nguồn vốn vay ưu đãi và các khoản viện trợ sẽ góp phần quan trọng để phát triển ngành cao su. Các doanh nghiệp có nhiều cơ hội kí kết hợp đồng với các thành viên khác trong tổ chức WTO: Với việc Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội ký kết hợp đồng với các đối tác ở nhiều nước là thành viên của WTO, tránh được việc lệ thuộc xuất khẩu phần lớn vào một thị trường (như Trung Quốc hiện nay), dễ gây ra nhiều nguy cơ tiềm ẩn khi việc xuất khẩu vào nước đó không thuận lợi hoặc có những khó khăn bất ngờ không tiên liệu trước sẽ gây ra những cú sốc lớn, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của ngành và các chiến lược, chính sách phát triển trong nước của ngành. Thách thức Bên cạnh những thuận lợi thì hoạt động xuất khẩu cao su của Việt Nam cũng gặp không ít các thách thức: Các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh và hơn hẳn chúng ta về khả năng cạnh tranh: Việt Nam là quốc gia xuất khẩu cao su đứng thứ tư trên thế giớ nhưng xuất khẩu cao su của Việt Nam cũng như sản lượng sản xuất cao su của Việt Nam so với các nước Thái Lan, Malaysia hay Indonesia vẫn còn rất nhỏ bé và chiếm rất ít thị phần thế giơi. Với kinh nghiệm xâm nhập thị trường thế giới từ rất sớm các nước này đã chiếm lĩnh hầu hết các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản đây là những thị trường đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao nhưng xuất khẩu thu được nhiều lợi nhuận. Hơn nữa các nước này với trình độ công nghệ hiện đại hơn hẳn Việt Nam nên họ sản xuất ra những sản phẩm có phẩm chất tốt đáp ứng được yêu cầu của các thị trường. Có thể nói đây là những khó khăn hàng đầu đối với ngành cao su của Việt Nam. Thách thức vượt qua ba đối thủ lớn trên là một vấn đề lớn mà Việt Nam phải đặt ra ngay từ lúc này. Thách thức do của khủng hoảng kinh tế đang diễn ra làm giảm nhu cầu tiêu thụ ô tô dẫn đến nhu cầu cao su thiên nhiên cũng giảm. Trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 xuất khẩu cao su của Việt nam nói riêng và các mặt hàng nông sản của Việt Nam nói chung đều tăng mạnh nhờ giá cả trên thị trường thế giới tăng mạnh. Nhưng hiện nay các mặt hàng nông sản đang phải đối mặt với một thách thức rất lớn đó là sự giảm giá mạnh mẽ trên thị trường thế giới, đặc biệt là giá cao su thiên nhiên có sự sụt giảm mạnh nhất trong tháng 10 năm 2008 vừa qua: Đặc biệt, từ đầu tháng 10, khi giá mủ cao su tươi giảm từ 50.000 đồng xuống còn 23.000 đồng/kg thì hầu hết các hộ nông dân đều đồng loạt ngưng cạo mủ để dưỡng cây vì giá bán không đủ chi phí nhân công, lại khó bán. Nguyên nhân giá cao su giảm mạnh như vậy là do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến nhu cầu tiêu thụ cao su thiên nhiên trên thế giới giảm mạnh. Đồng thới với đó là do giá dầu thô giảm mạnh khiến cho giá của cao su tổng hợp cũng giảm theo vì thế tạo áp lực rất lớn lên giá cao su thiên nhiên. Dự báo trong những năm tới nến kinh tế thế giới cũng không mấy khả quan nên sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu cao su của Việt Nam. Đây là một thách thức rất lớn đối với ngành cao su trong những năm tới. Cùng với quá trình hội nhập Việt Nam phải mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài vào có nguy cơ bị lấn áp thị phần các sản phẩm công nghiệp cao su ngay trên sân nhà. Cùng với nhưng thuận lợi từ việc gia nhập WTO thì ngành cao su của Việt Nam cũng gặp một thách thức không nhỏ đó là các cam kết hội nhập. Việt Nam sẽ phải mở cửa cho hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam trong đó có các mặt hàng công nghiệp cao su. Vì thế mà sản phẩm công nghiệp cao su của nước ngoài sẽ tràn vào và cạnh tranh với các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu không có sự thay đổi để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước thì các sản phẩm của Việt Nam sẽ nhanh chóng bị thay thế bởi các sản phẩm của nước ngoài ở ngay trên sân nhà. Ngoài ra ngành cao su của Việt Nam còn phải đối phó với một số thách thức nhỏ: Việc giảm thuế nhập khẩu của cao su, tuy nhiên thì việc giảm thuế xuất khẩu này sẽ không có ảnh hưởng nhiều tới ngành cao su trong nước bởi hiện Việt Nam là nước xuất khẩu cao su lớn thứ tư trên thế giới. Hơn nữa, hiện nay giá mủ cao su trong nước cũng như giá xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn so với giá cao su của các nước xuất khẩu khác như Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Về trợ cấp trực tiếp cho xuất khẩu cao su, hiện nay, nhà nước không có biện pháp trợ cấp xuất khẩu trực tiếp cho ngành cao su. Do vậy, khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ khong phải bãi bỏ biện pháp trợ cấp xuất khẩu trực tiếp nào và như vậy sẽ không ảnh hưởng tới việc xuất khẩu cao su. Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cao su của Việt Nam Giải pháp mang tầm vĩ mô Nhà nước phải quy hoạch tổng thể các vùng trồng cao su trọng điểm, và định hướng phát triển các vùng nguyên liệu mới: Từ trước đến nay hoạt động trồng cây cao su của nước ta thường phát triển theo hướng tự phát không có quy hoạch vùng nguyên liệu và vùng trồng cây cao một cách tổng thể. Nhà nước cần đứng ra quy hoạch một cách tổng thể các vùng trồng và có định hướng phát triển dài hạn đối với hoạt động trồng cây cao su. Nghiên cứu một cách chi tiết những vùng đất phù hợp những khu rừng nghèo hiệu quả kinh tế thấp để chuyển sang trồng cây cao su. Từng địa phương dự trên quy hoạch tổng thể của nhà nước và định hướng phát triển đó xây dựng một cách chi tiết vùng trồng cây cao su để hướng các doanh nghiệp đầu tư sản xuất tạo sự chủ động tránh hoạt động trồng từ phát thiếu quy hoạch gây lãng phí nguồn tài nguyên đất. Nhà nước phải đứng ra ban hành và kiểm tra các quy trình về kĩ thuật, công nghệ, chất lượng sản phẩm cao su để có sự kiểm soát đẩu ra của sản phẩm. Nhà nước đứng ra các viện nghiên cứu, các trường đại học để nghiên cứu những giống cao su cao sản cho chất lượng mủ tốt và thời gian sinh trưởng ngắn: Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cao su của Việt Nam hiện nay khi chào giá cao su thường bị các nhà thu mua nước ngoài ép giá do chất lượng của chúng ta thấp. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm thì nhà nước phải đứng ra thành lập các viện nghiên cứu về cao su và tổ chức tại các trường đại học như đại học nông nghiệp nghiên cứu để lai tạo những giống cây cao su mới với năng suất mủ cao hơn nhưng lại sinh trưởng trong thời gian ngắn hơn và cho chất lượng mủ tốt hơn để các doanh nghiệp đưa vào sản xuất. Đây là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Nếu để các doanh nghiệp tự nghiên cứu thì rất khó vì phần lớn các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cao su của Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiềm lực về tài chính và vốn rất khó khăn đồng thời tiềm lực con người đặc biệt các nhà khoa học do đó nếu không có sự hỗ trợ của nhà nước và các viện nghiên cứu cùng các trường đại học thì các doanh nghiệp khó lòng có thể nghiên cứu thành công và đưa vào sản xuất các giống cây cao su mới. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành cao su, đặc biệt là các cán bộ quản lý Để phát triển trong thời gian tới thì ngành cao su Việt Nam đòi hỏi một nguồn nhân lực tương đối lớn. Vì thế nhà nước phải đứng ta giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành cao su đặc biệt là các doanh nghiệp rất thiếu các lao động trình độ cao phục vụ cho các ngành công nghiệp chế biến cao su và các bộ quản lý. Nhà nước đứng ra mở các trường đào tạo nghề, đào tạo công nhân kĩ thuật cho ngành cao su. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào nhưng phần lớn là chưa qua đào tạo và ngành cao su cũng vậy vì thế để nâng cao được khả năng sản xuất các sản phẩm cao su chất lượng cao và các sản phẩm công nghiệp cao su thì đòi hỏi phải nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực. Không chỉ thiếu và yếu công nhân có trình độ tay nghề mà ngành cao su của Việt Nam còn thiếu cả cán bộ quản lý. Để đáp ứng được quá trình phát triển lâu dài đòi hỏi cán bộ quản lý cũng phải có trình độ tương ứng với sự phát triển của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ của nhà nước trong lĩnh vực này. Có những chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia và trồng cây cao su nhằm phát triển cao su tiểu điền Phần lớn các đồn điền cao su ở Việt Nam là các đại điền thuộc quản lý của cac doanh nghiệp nhà nước, cao su tiểu điền ở Việt Nam chưa phát triển. Cao su tiểu điền có rất nhiều lợi thế như phát triển nhanh, tận dụng được đất đai và lao động. Do đó cần có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển cao su tiểu điền để tận dụng được nguồn vốn và lao động dư thừa trong xã hội để phát triển ngành cao su của Việt Nam. Có các chính sách như giao đất cho các hộ nông dân để họ trồng cây cao su nhất là những hộ đồng bào thiểu số ở những vùng núi. Ngoài ra còn khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào khai thác những vùng đất mới để trồng cao su. Hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua hoạt động marketing, xúc tiến thương mại, ký kết các hiệp định hợp tác với các nước Nhà nước thành lập các tổ chức xúc tiến thương mại tại các thị trường lớn để thu thập thông tin cung cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu cao su của Việt Nam. Đây là một hoạt động rất quan trọng khi thương hiệu cao su của Việt Nam vẫn chưa được biết đến trên thị trường thế giới. Các cục xúc tiến thương mại phải tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận thông tin đây là vấn đề rất yếu ở Việt Nam hiện nay. Phần lớn các doanh nghiệp khó tiếp cận với các nguồn thông tin của các tổ chức xúc tiến thương mại đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy phải công bố thông tin rộng rãi cho các doanh nghiệp trên thông qua các phương tiện như truyền hình, mạng internet hay các tạp chí Ngoài ra các tổ chức xúc tiến thương mại còn nên hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia và các hội chợ quốc tế về cao su và các sản phẩm công nghiệp cao su để các doanh nghiệp của Việt Nam tiếp cận được với khách hàng. Không chỉ hỗ chợ trong hoạt động cung cấp thông tin nhà nước còn hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong hoạt động marketing nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam quảng bá được hình ảnh của mình ra nước ngoài. Như kinh nghiệm của các nước là hỗ trợ một phần chi phí cho các doanh nghiệp trong marketing. Như chúng ta biết chi phí marketing là một chi phí tương đối lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tuy nhiên nếu có hoạt động marketing tốt doanh nghiệp sẽ có những bạn hàng tốt và quảng bá được hình ảnh của mình. Kí kết các hiệp định hợp tác về thương mại và đầu tư tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp Nhà nước cần tăng cường kí kết các hiệp định thương mại và đầu tư tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của Việt Nam xuất khẩu sang các nước được thuận lợi và tránh bị đánh thuế cao và được đối xử công bằng hơn. Đặc biệt là kí các hiệp định hợp tác đầu tư với các nước như Lào và Campuchia để các doanh nghiệp sản xuất cao su của Việt Nam có điều kiện thuận lợi để sang đây đầu tư khai thác nguồn nguyên liệu tại đây để phục vụ cho xuất khẩu. Ngoài ra chính phủ còn xúc tiến đầu tư để thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến cao su tại Việt Nam. Chính phủ kêu gọi viện trợ của các tổ chức quốc tế để các tổ chức này hỗ trợ cho sự phát triển của ngành cao su tại Việt Nam như các nước đã làm. Có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm từ cao su thiên nhiên để xuất khẩu: Ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm từ cao su của Việt Nam hiện nay còn rất yếu. Do đó rất cần sự hỗ trợ của nhà nước để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển. Nếu chỉ xuất khẩu cao su dưới dạng thô thì sẽ mang lại giá trị rất thấp cho nền kinh tế và dần sẽ mất lợi thế. Trong tương lai chúng ta cần phải hạn chế xuất khẩu cao su dưới dạng nguyên liệu thô mà thay vào đó xuất khẩu những sản phẩm cao su đã qua chế biến nhờ đó sẽ mang lại giá trị cao hơn và chuyển dịch được cơ cấu kinh tế. Muốn vậy thì ngành công nghiệp chế biến của chúng ta cần phải phát triển thì mới đáp ứng được. Vì vậy nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất vào ngành công nghiệp chế biến. Không chỉ khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mà còn các doanh nghiệp nước ngoài. Nhằm thu hút vốn và công nghệ để phát triển ngành. Nhà nước có các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong những năm đầu hoạt động hay thuế thuê đất đặc biệt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào những nơi gần vùng nguyên liệu. Ngoài ra còn hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình lien kết với các doanh nghiệp trồng và sản xuất mủ cao su để có nguồn nguyên liệu ổn định. Vì có một thực tế diễn ra ở nước ta là các doanh nghiệp xuất khẩu cao su không muốn bán cho các doanh nghiệp chế biến cao su trong nước, và các doanh nghiệp chế biến phải đi nhập khẩu nguyên liệu từ các nước khác. Đây là một nghịch lý gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp cao su. Phát triển cơ sở hạ tầng vùng trồng cao su: điện, nước tưới tiêu, thủy lợi, đường, thông tin viễn thông Các vùng trồng cao su ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở những vùng như Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Duyên Hải Miền Trung. Tại các vùng trồng cao su này phần lớn ở các địa bàn miền núi điều kiện giao thông đi lại khó khăn và cơ sở hạ tầng yếu kém. Để phát triển được bền vững và lâu dài thì chúng ta phải phát triển cơ sở hạ tầng của các vùng trồng cây cao su như: xây dựng các tuyến đường giao thông sao cho ô tô có thể đi lai dễ dàng và thuận tiện, cải tạo và nâng cấp hệ thống thủy lợi của vùng trồng cây cao su để đảm bảo nước tưới tiêu hợp lý và đặc biệt là ở khu vực Miền Trung phải có hệ thống thoát nước tốt vì ở đây hay có bão lũ mà cây cao su không chịu được ngập úng và mưa lâu ngày. Có mạng lưới điện quốc gia và mạng thông tin viễn thông cũng như internet đến các vùng trông cây cao su đảm bảo cho hoạt động sản xuất và thông tin liên lạc cho các doanh nghiệp sản xuất tại đó. Đồng thời phải xây dựng các trồng học, bệnh viện và chợ để phục vụ cho cuộc sống của các công nhân và con em của họ tại vùng trồng cây cao su. Đây là những nhu cầu thiết yếu của người dân và hướng tới từng bước đáp ứng tốt hơn. Có những chính sách ưu đãi về đất đai và hỗ trợ về vốn tín dụng cho các doanh nghiệp Cần khuyến khích các doanh nghiệp trồng cây cao su đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trồng tại những vùng khó khăn thông qua các hỗ trợ về vốn vay ưu đãi, thuế thuê đất hay thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp này để các doanh nghiệp đầu tư sản xuất có lãi đồng thời phát triển được kinh tế của những vùng sâu vùng xa nhưng vùng có dân tộc thiểu số. Thực hiện chính sách lãi suất thấp cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cao su đăn biệt trong tình hình năm 2008 này lãi suất của các ngân hàng rất cao và đã có thời điểm lên tới trên 20% một năm đây là một khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp và các hộ dân có thể tiếp cận với các nguồn vốn vay. Đặc biệt nhà nước phát triển hoạt động bảo hiểm nông nghiệp nói chung và bảo hiểm cho ngành cao su nói riêng. Phát triển một số loại hình bảo hiểm chính như bảo hiểm về giá đây là một loại hình mà các doanh nghiệp rất cần hiện nay trong điều kiện giá của các loại mủ cao su đang xuống thấp dưới mức giá thành sản xuất như hiện nay. Hiệp hội cao su Việt Nam phải là nơi thực sự gắn kết các doanh nghiệp với nhau, là cầu lối giữa doanh nghiệp với nhà nước Phát triển hiệp hội cao su Việt Nam nhằm để hiệp hội thật sự là cầu lối giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa doanh nghiệp với nhà nước. Thông qua các hoạt động của hiệp hội như cung cấp các thông tin về giá cả và thị trường cho các doanh nghiệp, cung cấp các thông tin về chính sách mới của nhà nước và phổ biến cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có thể nắm rõ và thực hiện đúng phù hợp với các chủ trương chính sách của nhà nước. Không chỉ vậy hiệp hội còn là nơi phản ánh những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp đối với nhà nước. Như các khó khăn về vốn vay, khó khăn về cơ chế chính sách để nhà nước có sự điều chỉnh cho phù hợp. Đồng thời hiệp hội còn là nơi gắn kết các doanh nghiệp với nhau giúp các doanh nghiệp vượt qua những khó khăn đặc biệt là trong tình hình hiện nay khi giá của các sản phẩm cao su đã giảm rất thấp. Nếu các doanh nghiệp trong hiệp hội không liên kết với nhau sẽ dễ bị đối tác ép giá gây rất nhiều khó khăn. Giải pháp mang tầm vi mô Trên là những giải pháp vĩ mô của nhà nước. Để ngành cao su của Việt Nam phát triển và thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất khẩu cao su thì những giải pháp chính sách của nhà nước chỉ là một phần mà phần quan trọng là phải tự bản than các doanh nghiệp. Chính vì lý do đó mà tôi xin đề xuất một số giải pháp đối với các doanh nghiệp như sau: Tiến hành lai tạo những giống mới, khôi phục các vùng sản xuất kém hiệu quả bằng những giống cây cao sản: Các doanh nghiệp không nên chỉ ỷ lại và nhà nước mà phải tiến hành liên kết với các trường đại học, các viên nghiên cứu thông qua việc gửi cán bộ và giành những vùng thí nghiệm cho các viện và các trường đại học để họ nghiên cứu lai tạo những giống cây mới nhằm đưa vào trồng. Các doanh nghiệp phải tiến hành khôi phục lại sản xuất ở những vùng cây cao su lâu năm cho năng suất thấp và chất lượng mủ kém hiệu quả. Thay vào đó bằng những giống cây cao su mới cho năng suất cao và chất lượng mủ tốt hơn để nâng cao năng suất và chất lượng đầu ra. Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên lao động bằng việc mở các lớp đào tạo kĩ năng trồng và khai thác nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Nâng cao trình độ của công nhân thông qua việc mở các lớp đào tạo cải tiến kĩ thuật trồng chăm sóc và khai thác mủ ngay tại nơi sản xuất cho công nhân giúp cho công nhân từng bước nâng cao tay nghề phù hợp với điều kiện sản xuất và yêu cầu hiện nay của thị trường từ đó giúp nâng cao chất lượng đầu ra của sản phẩm và mang lại được giá trị cao hơn từ xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Không chỉ đào tạo công nhân mà các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng của các bộ quản lý là những cán bộ chuyên trách, phải đảm bảo mỗi một cán bộ phải có đủ các kĩ năng chuyên môn nghề nghiệp và phải có kiến thức sâu về cây cao su. Đồng thời phải có kinh nghiệm trong các hoạt động xuất khẩu với nước ngoài tránh bị thụ động trước những tình huống xấu. Tăng cường thu hút những công nhân có kĩ thuật cao, khuyến khích công nhân phát huy sáng kiến cải tiến kĩ thuật để tạo ra một môi trường thật sự thích hợp cho sự phát triển. Liên doanh liên kết để mở rộng diện tích trồng cao su đặc biệt là với những nước trong khu vực. Các doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong phạm vi trong nước mà còn tiến hành liên doanh liên kết đầu tư sang các nước bạn như Lào và Campuchia để sản xuất trồng cao su để xuất khẩu sang các nước khác. Tại Lào và Campuchia có những vùng đất rất tốt cho cây cao su phát triển nhưng chưa được khai thác vì vậy các doanh nghiệp có thể đầu tư sang đây để phát triển vùng nguyên liệu phục vụ cho chế biến và xuất khẩu đây là một hướng đi hoàn toàn phù hợp và giúp cho các doanh nghiệp tăng sản lượng. Đầu tư đổi mới công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất là trong các khâu chế biến và khai thác. Công nghệ là yếu tố đầu vào quan trọng của hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng công nghệ lại đang là một trong những yếu điểm lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Các công nghệ sản xuất và chế biến cao su mà các doanh nghiệp sử dụng hiện nay đã khá lạc hậu so với thế giới và khu vực dẫn đến chất lượng cao su xuất khẩu của chúng ta thấp và thường phải bán với giá thấp hơn so với các nước khác trong khu vực. Các doanh nghiệp phải tích cực tiến hành đổi mới công nghệ sản xuất và chế biến nhập khẩu những công nghệ mới và hiện đại để phục vụ cho sản xuất. Do các doanh nghiệp của chúng ta phần lớn là thiếu vốn để đổi mới công nghệ nên các doanh nghiệp có thể thông qua sự bảo lãnh của nhà nước để vay vốn của các tổ chức quốc tế và tiếp nhận các khoản viện trợ của họ để phục vụ cho việc đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất. Ngoài ra các doanh nghiệp trong nước có thể liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài để thu hút được những công nghệ hiện đại của họ nhằm phục vụ cho sản xuất tốt hơn và xuất khẩu. Nhập công nghệ sản xuất về các doanh nghiệp cũng phải chú ý đến vấn đề nguồn nhân lực sao cho có thể làm chủ được công nghệ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu trồng trọt, chế biến, sản xuất các sản phẩm công nghiệp cao su. Mối liên kết của các doanh nghiệp Việt Nam với nhau hiện nay rất yếu. Để phát triển hoạt động sản xuất và xuất khẩu của ngành cao su được tốt hơn thì các doanh nghiệp cần phải liên kết chặt chẽ với nhau và liên kết ở tất cả các khâu từ trồng trọt, chế biến đến xuất khẩu. Khi liên kết như vậy sẽ tạo ra sự đồng bộ cho sản phẩm nhờ thế sẽ tăng chất lượng của sản phẩm tạo uy tín trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng phải liên kết với nhau khi thực hiện hoạt động xuất khẩu nhất là trong những lúc giá của cao su đang xuống mạnh như hiện nay. Các doanh nghiệp không lên vì lợi nhuận mà bán phá giá khiến cho giá xuống thấp hơn mà phải cùng nhau liên kết lại để tránh bị các nhà đầu cơ nước ngoài ép giá. Đặc biệt là sự liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu mủ với các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm công nghiệp cao su. Trong những năm vừa qua có một thực tế đó là các doanh nghiệp thích xuất khẩu mủ cho nước ngoài hơn là bán cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuât cũng đồng thời sẽ tạo ra một sự lãng phí lớn vì chúng ta chỉ xuất khẩu sản phẩm thô mà không để chế biến thành những thành phẩm. Lập văn phòng đại diện tại các nước nhập khẩu cao su lớn của Việt Nam. Các doanh nghiệp cần có các văn phòng đại diện tại các thị trường lớn của chúng ta như Trung Quốc, Hàn Quốc như vậy sẽ thuận tiện cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm bạn hàng, giao dịch hợp đồng cũng như trong quá trình nghiên cứu thị trường tại các nước này. Khi đó các doanh nghiệp sẽ có những hiểu biết hơn tại các thị trường này và biết được nhu cầu của thị trường để từ đó có chiến lược phát triển tại các thị trường này hợp lí hơn. Ngoài đặt văn phòng đại diện ở các thị trường này thì các doanh nghiệp cũng nên hướng đến đặt văn phòng đại diện ở các thì trường tiềm năng như Mỹ, Nhật Bản và EU đây là những thị trường rất tiềm năng và nếu xuất khẩu được sang những thị trường này thì sẽ thu được nguồn thu lớn hơn so với thị trường Trung Quốc. Vì thế cần có những văn phòng tại đây để nghiên cứu và tìm những đối tác tiềm năng lớn tại các thị trường này. Xây dựng một thị trường thông tin kĩ thuật khoa học hiện đại phục vụ cho các thành phần kinh tế tham gia sản xuất và xuất khẩu cao su Thông tin là một yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng trong thời đại ngày nay vì thế các doanh nghiệp của Việt Nam cần xây dựng cho mình một kênh thông tin chính xác và tin cậy để có thể đề ra những chiến lược phát triển cho phù hợp. Các doanh nghiệp phải tiến hành đầu tư tranh thiết bị như điện thoại máy tính kết nối internet và kết nối tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất. Hiện nay với công nghệ thông tin phát triển thì các doanh nghiệp có thể tìm kiếm thông tin ngay trên internet với chi phí thấp hơn rất nhiều so vơi chi phí để nghiên cứu tại các nước. Ngoài ra các doanh nghiệp còn có thể tìm kiếm bạn hàng đối tác thông qua mạng internet đây là một kênh rất hiệu quả cho các doanh nghiệp. Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm và cho công ty mình Yếu điểm hàng đầu mà các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu cao su nói riêng đó là khi tham gia vào thương mại quốc tế thường không xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cũng như thương hiệu cho doanh nghiệp trên thị trường thế giới. Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay xây dựng thương hiệu là một điều tối cần thiết và nó quyết định rất lớn đến hoạt động của doanh nghiệp trong lâu dài. Vì thế các doanh nghiệp xuất khẩu cao su của Việt Nam cần chú trọng xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cao su của mình trên thị trường thế giới từ đó sẽ tạo dựng được thương hiệu cao su cho Việt Nam. Chỉ có thương hiệu mạnh thì mới được các công ty lớn trên thế giới chú ý đặc biệt là các nhà nhập khẩu ở các nước Hoa Kỳ và EU họ rất chú trọng đến vấn đề này. Thương hiệu chính là cầu nối các doanh nghiệp xuất khẩu cao su của Việt Nam với thị trường và những nhà nhập khẩu lớn. Khi có thương hiệu thì sản phẩm cao su xuất khẩu của các doanh nghiệp sẽ không còn bị ép giá như hiện nay nữa. Bên cạnh những giải pháp trên thì trong tình hình trước mắt hiện nay các doanh nghiệp cũng phải áp dụng các biện pháp như: Các công ty cao su hiện đang áp dụng một số giải pháp trước mắt như, cắt giảm chi phí để tăng hiệu quả kinh tế, giảm lượng phân bón (khoảng 50%) vườn cây khai thác, giảm cường độ và nhịp độ cạo mủ. Để ổn định giá mủ cao su trên thị trường, Hiệp Hội cao su Việt Nam cảnh báo các công ty cao su không nên vội vàng bán tháo hàng, gây tình trạng tranh bán làm tăng áp lực giảm giá. Đổi lại, các doanh nghiệp nên liên kết để kiểm soát giá ở mức chấp nhận được, không làm thiệt hại người sản xuất. Đồng thời, chú ý việc phát triển ngành công nghiệp chế biến sản phẩm cao su trong nước, giảm xuất nguyên liệu thô để tăng giá trị sản phẩm và giảm ảnh hưởng biến động giá nguyên liệu theo thị trường thế giới. KẾT LUẬN Với nhu cầu cao su thiên nhiên của thế giới được dự báo là sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới đây là một điều kiện để ngành cao su thế giới nói chung và ngành cao su của Việt Nam nói riêng phát triển hơn nữa. Cao su thiên nhiên là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam trong những năm qua và sẽ tiếp tục là mặt hàng chủ lực trong những năm tới. Ngành cao su có nhiều lợi thế để phát triển và có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế như giải quyết công ăn việc làm, tạo nguồn thu lớn cho đất nước, là một trong những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ đô la mỗi năm do đó cần phát triển ngành này hơn nữa trong thời gian tới. Ngành cao su thiên nhiên là ngành có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển tại Việt Nam. Trong thời gian qua thì hoạt động xuất khẩu cao su thiên nhiên của Việt Nam cũng đã đạt được nhưng thành công nhất định như liên tụ tăng trưởng với tốc độ tăng mạnh mẽ qua các năm cả về giá trị và sản lượng xuất khẩu, thị trường cao su xuất khẩu của Việt Nam từng bước được đa dạng hóa, chất lượng các sản phẩm cao su xuất khẩu cũng từng bước được nâng lên đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới. Bên cạnh những thành công thì cao su xuất khẩu của Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế như chưa xây dựng được thương hiệu trên thị trường thế giới, thị trường xuất khẩu của Việt Nam vẫn tập trung chủ yếu ở thị trường Trung Quốc, năng suất cũng như chất lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam còn thấp chưa đáp ứng được các thị trường khó tính, các sản phẩm công nghiệp cao su chưa phù hợp với vị thế của ngành và phần lơn cao su xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở dạng thô Từ nhưng thành công hạn chế, cùng với kinh nghiệm của các nước trong khu vực cẩn phải thực hiện các giải pháp cả ở phía chính phủ và doanh nghiệp để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của ngành cao su và để ngành cao su trở thành một ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong thời gian tới. Danh mục tài liệu tham khảo Nguyễn Đức Bình – Nguyễn Thường Lạng – Giáo trình kinh tế quốc tế - Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật – năm xuất bản 2004 Nguyễn Hữu Khải – Định hướng sản xuất và xuất khẩu cao su thiên nhiên – nghiên cứu châu lục – số 5 năm 2005 Đinh Văn Thọ - Tìm hướng đi cho xuất khẩu cao su của Việt Nam – Tạm chí thương mại – năm 2006 Gải pháp nâng cao hiệu quả vốn tín dụng ngân hàng đối với phát triển cao su thiên nhiên Một số biện pháp hoàn thiện tổ chức quản lý ngành cao su Việt Nam Huỳnh Văn Sáu – luận án tiến sĩ – Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành cao su Việt Nam đến năm 2020 – năm 2008 Trang Web: Trang Web: Trang Web: Trang Web: Trang Web: Trang Web: Trang Web: Trang Web: Trang Web: VnEconomy - Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu cao su đã hoạt động - Xuất nhập khẩu.htm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7345.doc
Tài liệu liên quan