Đề tài Thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ của Việt nam

Chúng ta thấy rằng, xuất khẩu thuỷ sản Việt nam tuy chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước nhưng bản thân nó chứa ẩn những vấn đề hạn chế. Để khắc phục những hạn chế như đã phân tích ở trên, thúc đẩy hơn nữa xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam ra thế giới nói chung và ra Mỹ nói riêng, theo em cần đưa ra các biện pháp sau: Thứ nhất Đảng và chính phủ cần phải mở rộng hơn nữa chính sách đầu tư nước ngoài. Trong hệ thống pháp luật còn nhiều cứng nhắc, giáo điều, chưa đi sát thực tế . Teo em việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài hay liên doanh liên kết với nước không nhất thiết phải thông qua những bước đăng ký rườm rà. Cần thông thoáng hơn trong cơ chế chính sách. Việt nam có lợi thế về điều kiện tự nhiên khí hậu, thuận lợi trong việc nuơi trồng thuỷ sản. Chúng ta phải khai thác triệt để lợi thế to lớn đó. Hiện nay theo em được biết còn rất nhiều diện tích mặt nước còn chưa sử dụng đúng mục đích hoặc có chăng việc nuôi trồng còn mang tính tự phát, chưa có hhen thống nhất quán.Chúng ta không chỉ trú trọng nuôi trồng thuỷ hải sản trên biển, vùng đầm hồ ven biển mà còn phải tận dụng hệ thống sông ngòi dày đặc để nuôi trồng thuỷ sản. Trong nền kinh tế thị trường việc sản xuất kinh doanh phải gắn liền với thị trường, chúng ta nuôi trồng, chế biến thuỷ sản phải quan tâm xem thị trường cần loại nào ưa chuộng loại nào. Việc nghiên cứu phân tích nhu cầu thị trường cần phải chú ý đặc biệt. Theo em việc sản xuất kinh doanh thuỷ hải sản cần xây dựng có hệ thống, đồng loạt. Hàng thuỷ sản là loại hàng khó bảo quản, dễ hư hỏng, vì vậy sản xuất ra cần phải tiêu thụ ngay. Nhà nước cần xây dựng thêm những khu công nghiệp với công nghệ hiện đại, đáp nhu cầu xuất khẩu. Hiện nay số tàu đánh bắt xa bỡ còn thấp, yếu về công nghệ chế biến, đóng hộp tại chố. Phần lớn chúng ta mới chỉ đánh bắt hải sản trong vùng nội thuỷ ven bờ chưa khai thác được vùng đặc quyền kinh tế biển. Như vậy Nhà nước hay ngành thuỷ sản cần đầu tư nâng cấp, mua sắm thêm tàu đánh bắt có công suất lớn, có thể đánh bắt dài ngày trên biển, khai thác được những tiềm năng sẵn có từ biển. Mặt khác nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho các tổ chức, doanh nghiệp trong việc sản xuất ,đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. Để hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu thì các doanh nghiệp tổ chức không htể làm ăn manh mún, phải có dây chuyền công nghệ chế biến hiện đại, đạt tiêu chuẩn và đáp ứng nhu cầu thị trường. Nhà nước cần có chính sách ưu tiên hỗ trợ cá doanh nghiệp tư nhân, giúp họ trong khâu tiêu đầu ra cho sản phẩm, có như vậy họ mới yên tâm đầu tư sản xuất. Cần tổ chức các buổi họp ,thảo kuận ,ý kiến chuyên gia về lĩnh vực thuỷ sản; giúp các doanh nghiệp trong nước tiếp xúc ,làm quen với phong cách kinh doanh của nướ ngoài, đặc biệt là các tập đoàn Mỹ. Nhà nước làm thế nào để cho doanh nghiệp hai bên trực tiếp gặp nhau, ký kết hợp đồng mua bán, cùng nhau hợp tác phát triển sản xuất, nuôi trồng , chế biến thuỷ hải sản. Hiệp định thương mại được ký kết và đi vào hoạt động tạo điều kiện cho hàng hoá Việt nam có cơ hội cạnh tranh cùng hàng hoá các khác trên thị trường Mỹ. Chúng ta phải lắm lấy cơ hội này để đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo các sản phẩm của ta trên thị trường Mỹ. Với điều kiện về nhân công rẻ, điều kiện sản xuất, nuôi trồng, đánh bắt thuận lợi, các doanh nghiệp cần tối thiểu hoá chi phí sản xuất cảu mình để tạo ra trên thị trường Mỹ. Hiên nay việc đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản của ta còn manh mún, tự phát, chưa có tổ chức chặt chẽ, và theo lối mạnh ai người đó làm đẫn đến dễ bị ép giá trong xuất khẩu, tình trạng tranh mua, tranh bán có thể diễn ra. Vấn đề đặt ra là Nhà nước luôn quan tâm giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc xác định giá cả tương đối, luôn cập nhật thông tin cho các doanh nghiệp , các tổ chức về cung cầu của thị trường. Tóm lại, theo em việc đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ không thể do một cá nhân, một tổ chức có thể làm được mà cần có sự hợp tác, thống nhất, thông suất giữa Nhà nước,các tổ chức và doanh nghiệp. Họ phảicùng nhau hành động thống nhất từ chính sách vĩ mô cho đến các chính sách của doanh nghiệp. Nhà nước lo công tác thị trường, đối tác còn doanh nghiệp cần trú trọng sản xuất sản phẩm. Hành động của họ phải đồng bộ, nhất quán và cùng nhau giải quyết những khó khăn trên con đường xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Hy vọng rằng, sự đóng góp nhỏ nhoi này có thể góp một phần nào đó thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ của Việt nam

doc23 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ của Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1: Cơ sở lý luận của thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ. Việt Nam có hơn 3260 Km bờ biển, 12 của sông với hơn 2 triệu km2 thềm lục địa, hơn một triệu km2 mặt nước.Diện tích mặt nước chiếm tỷ lệ cao trong diện tích đất tự nhiên , nên ngành thuỷ sản có một thế mạnhvề kinh tế biển hiếm có đối với nước ta .Từ năm 1990 đến nay ngành nghư nghiệp đẫ phát triển mạnh. Hàng năm Việt nam đã đánh bắt từ 1,2 triệu đến 1,7 tấn hải sản trong đó công suất đánh bắt những loại hải có giá trị cao trên thị trường như tôm có thể đạt 50-60 ngàn tấn/năm mực các loại từ 30-40 ngàn tấn, chưa kể hơn 100 ngàn tấn các loại trong đó có nhiều loại có giá trị kinh t ế rất cao.Chính nhờ những lợi thế mà thuỷ Việt đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn và thế mạnh của nước ta. Trong những năm qua ngành thuỷ đã đạt được tốc độ phát triển cao, ổn định và mức tăng tổng bình quân hàng năm về tổng sản lượng thuỷ sản trên 4%/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân chiếm 10-15% trong ttổng kim ngạch xuẩt khẩu của Việt nam hàng năm, đứng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu với 1% giá trị xuất khẩu thuỷ sản của thế giới. So với các nước đông nam á thì Việt nam đứng hàng thứ tư sau Thái Lan, Inđônêsia,Malaisia về đánh bắt và xuất khẩu thuỷ sản. Xuất khẩu thuỷ sản không ngừng tăng lên từ năm 1990 đến nay. Mặt hàng xuất khẩu về thuỷ sản khá phong phú về chủng loại . Sản lượng tôm đông lạnh chiếm từ 80-90% khối lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu , về giá xuất khẩu thì tôm cũng là mặt hàng được giá nhất trong ba chủng loại chính xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt nam. Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt nam thì thuỷ sản là ngành có vị trí rất quan trọng với những phân tích ở trên. Để tăng hơn nữa kim ngạch xuất khẩu ngành thuỷ sản đòi hỏi chúng ta cần có chiến lược phát triển ngành đúng đắn trong nền kinh tté mới. Theo báo của tổng cục hải quan năm 1998, mặt hàng thuỷ sản Việt nam đã có mặt trên 34 nước trên thế giới với tổng kim ngạch 856,6 triệu USD.Thị trường nhập khẩu thuỷ sản của Việt nam là các nước Châu Âu, 13 nước Châu á và Mỹ, trong đó Mỹ đang là thị trường mục tiêu mà chúng ta hướng vào. Nhất là sau khi Hiệp định thương mại Việt nam-Hoa kỳ được thông qua, cơ hội cho các ngành xuất khẩu của Việt nam đưa hàng vào thị trường Mỹ, trong đó có thuỷ sản. Thị trường thuỷ sản Mỹ càng có ý nghĩa hơn đối với Việt nam. Tuy nhiên Việt nam không phải là đối tác duy nhất của Mỹ,, xuất khẩu thuỷ sang Mỹ có nhiều đối thủ rất mạnh so với chúng ta như Canađa, Trung Quốc...Thị phần thuỷ sản của Việt nam trên thị trường Mỹ còn rất khiêm tốn. Đó là một đòi hỏi, thách thức rất lớn đối với nhà hoạch định chiến lược của Việt nam. Ngành thuỷ sản Việt nam bắt đàu xuất khẩu sang Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban đầu còn thấp , mới chỉ có 6 triệu USD. Từ đó giá trị thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm . Năm1998 lên tới 82 triệu USD và đưa Việt nam lên vị trí thứ 19 trong các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Năm 1999 Mỹ nhập khẩu từ Việt nam 130 triệu USD thuủy sản các loại, năm 2000 đạt 302,4 triệu USD và trong 6 tháng đầu năm 2001 xuất khẩu thuỷ Việt nam vẫn tiếp tục tăng trưởng đạt 31 nghìn tấn về khối lượng, với giá trị 210,4 triệu USD. Hang thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ chủ yếu là tôm đông lạnh . Mặt hàng xuât khẩu lớn thứ hai là cá ngừ tươi đạt 6,3 triệu USD trong 2 tháng đầu năm 2001 tăng vượt bậc so với cùng kỳ năm 2000 (chỉ có 1,5 triệu USD) ,cá biển đông lạnh có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 với giá trị 2,5 triệu USD trong hai tháng đầu năm 2001. Như vậy, qua số liệu trên ta thấy xuât khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ đang tiếp tục tăng nhanh về kim ngạch và giá trị. Tuy nhiên thi trường tiêu thụ của Mỹ là rất lớn với 280 triệu dân. Vấn đề đặt ra hiện nay, đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ, chiếm lĩnh nhiều hơn nữa thi trường Mỹ. Chúng ta phải khai thác triệt về lợi thế tự nhiên sẵn có đẻ phát triển ngành thuỷ sản theo hướng xuât khẩu là chủ yếu mà thi trường Mỹ là thị trường mục tiêu. Phần 2:Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ qua những năm qua 2.1 Xuất khẩu thuỷ sản sang Mý của Việt nam gặp một số trở ngại và cơ hội . Việt nam tuy có lợi thế về nuôi trồng thuỷ hải sản, nhưng để hàng thuỷ sản xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường Mỹ vẫn còn là vấn đề nan giải. Hàng hoá từ nước ngoài xuất khẩu vào Mỹ sẽ phải trải qua một thủ tục hải quan khá chặt chẽ . Hệ thống thuế quan của Mỹ (gọi tắt là HTS ) hiện không chỉ được thi hành ở Mỹ, mà hầu hết các quốc gia thương mại lớn của thế giới đang áp dụng.. Nhiều loại thuế của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị hàng hoá, tức là mức thuế được xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng nhập khẩu, mức thuế suất biến động từ 1-40%, trong đó mức thông thường từ 2-7% giá trị hàng nhập khẩu. Một số hàng hoá khác phải chịu thuế gộp- tức là loại thuế kết hợp cả mức thuế tỷ lệ trên giá trị và mức thuế theo số lượng. Có những hàng hoá phải chịu thuế định ngạch-đó là loại thuế suất cao hơn được áp dụng đối với hàng nhập khẩu sau khi một lượng hàng hoá cụ thể thuộc loại đó đã được nhập khẩu vào Mỹ trong cùng năm đó . Hỗu hêt các đối tác thương mại của Mỹ được hưởng quy chế đối xử thương mại bình thường(NTR). Hàng hoá của các nước thuộc diện NTR khi xuât khẩu vào Mỹ chỉ phải chịu mức thuế thấp hơn nhiều so với hàng hoá của các nước không có NTR của Mỹ. Khi có sự điều chỉnh giảm hay huỷ bỏ một loại thuế quan nào đó thì sự thay đổi đó sẽ được áp dụng bình đẳng đối với tất cả các nước được hưởng NTR của Mỹ. Hiện nay, các nước tham gia WTO đều được hưởng NTR của Mỹ. Các nước đang được hưởng NTR của mỹ phải đáp ứng hai điều kiện cơ bản: đã ký hiệp định thương mại sonh phương với Mỹ, phải tuân thủ các điều kiện Jacson-Vanik trong luật thuơng mại năm 1974 của Mỹ. Việt nam chuyển sang nền kinh tế thị trương hơn 10 năm qua. Hoạt đọnh xuất nhập khẩu theo đó cũng mới phát triển. Xuất khẩu thuỷ sản của Viêtn nam sang Mỹ bắt đầu từ năm 1994. Bởi vậy chúng còn gặp rất nhiều khó khăn, sức ép từ thị trường, đối thủ cạnh tranh. Phải nói rằng chúng ta chưa có kinh nghiệm trên thị trường quốc tế , đặc biệt thị trường Hoa Kỳ. Khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, mà ở đây là thuỷ sản vấn đè thị trường có tác động mạnh nhất đén sự tồnh tại của hàng Việt nam trên đất Mỹ. Trở ngại lớn nhất là chúng ta đang phải đối chọi với những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn chúng ta rất nhiều. Sức mạnh của đối thủ cạnh tranh thẻ hiện ở thâm niên chất lượng sản phẩm và các yếu tố khách quan khác. Thị trường Mỹ tuy rộng lớn nhưng chúng ta chưa mở rộnh được quy mô, nguyên nhân ở đây có thể là chúng ta yếu kém về khâu tổ chức bán hàng, marketing sản phẩm, do chất lượng hàng hoá chưa bằng một số đối thủ cạch tranhở một khía cạch nào đó, cũng có thể do nguyên nhân khách quan xuất phát từ thi trường Mỹ. Chúng ta thấy rằng để hàng vào thị trường Mỹ một cách hợp pháp phải trải qua nhiều khâu kểm ta, kiểm định chất lượng đặc biệt đó là loại hàng hoá thực phẩm liên quan trực tiếp đến sức khoẻ của công dân Mỹ. Tiêu chuẩn chât lượng đối với thực phẩm là rất cao đòi hỏi các nhà xuât khẩu phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Hàng thuỷ sản của chúng ta từ khâu sản xuất, đóng gói, bảo quản còn nhiều hạn chế do trìng độ công nghệ, kỹ thật của ta còn yếu, đây là một khó khăn thách thức lớn đối với Việt nam. Như đã phân tích ở trên , việc xuât khẩu hàng thuỷ sản sang Mỹ của Việt nam đang gặp nhiều khó khăn không chỉ có khách quan đem lại mà cũnh chính chủ quan của ta gây trở ngại cho ta . Để tồn tại trong nền kinh tế thị trường có sự cạch tranh gay gắt này, đặc là trên thị trường mỹ thì vấn đề chất lượng hàng hoá dược đặt lên hàng đầu. Hàng thuỷ sản của ta có thể không kém về chất lượng, nhưng do dây chuyền công nghệ của ta còn yếu kém. Tuy nhiên từ năm 1986, Việt nam có 41 nhà máy chế biến thuỷ sẩn với công suất 280 tấn/ngày, năm 1996 số nhà máy chế biến đã tăng lên đến196 chiếc với cong suât chế biến khoảng 1841 tấn/ngày. Số dây chuyền IQF hiện nay là 21, công suất cấp đông lạnh đạt 100 tấn/ngày, kho đông lạnh có sức chứa 25393 tấn, khả năng sản xuất nước đã đạt 3946 tấn/ngày. Bên cạch khó khăn chúng ta có nhưng thuận lợi :đội ngũ công nhân dồi dào về số lượng với bản chất cần cù chịu khó không ngại gian khó. Đội ngũ trong ngành thuỷ sản đã góp phần tạo nên thành công trong hoạt sản xuất-xuất khẩu. Đội ngũ nhân lực trong ngành không ngừng được nâng cao về trình độ kỹ thuật chuyên môn. Tuy nhiên hiên tại, để đáp ứng việc khai thác chế biến thủy sản phục vụ cho xuất khẩu chúng ta còn thiếu một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao. Một khó khăn nữa là công nghệ chế biến thuỷ sản nhập từ nước ngoài vừa cũ vừa lạc hậu. Do đó không đảm bảo được chất lượng sản phẩm phục vụ cho việc việc xuất khẩu. Việt nam được ví như bãi thải công nghiệp, do đó ngành thuỷ sản cũng không tránh khỏi sự lạc hậu, sự cũ kỹ về công nghệ. Như vậy muốn có sản phẩm chế biến từ thuỷ sản đủ tiêu chuẩn chất lượng cho xuât khẩu, chúng ta phải có được công nghệ tiên tiến , vậy để có công nghệ tiên tiến thì phải có lượng vốn lớn, khó khăn về vốn có thể là ngọn ngành của mọi vấn đề. Giải quyết về vốn là bài toán khó đối với mọi quốc gia, đặc biệt là đối với nước nghèo, nước đang phát triển như Việt nam hiện nay. Vốn có thể được huy động từ hai nguồn: Thứ nhất, huy động trong nước , chủ yếu là trong dân và ngân sách nhà nước, nhưng trong đó ngân sách lại có hạn và còn phải chi nhiều cho các lĩnh vực khác, cơ sở hạ tâừng khác. Nguồn vônd t rong dân tuy có đáng kể nhưng chúng ta chưa có chính sách khuyến khích đầu tư thích đáng để huy động. Nhìn chung trong hoạt động đầu tư nươc ngoài chúng ta còn nhiều hạn chế, thủ tục còn rườm rà, qua nhiều bươcd không cần thiết. Đó là vấn đề mà hiện nay Đảng và Nhà nước cần xem xét giải quyết tốt hơn . Khi mà chính sách đầu tưcủa ta còn cứng nhắc, hủ tục thì kỳ vọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài là hạn chế. Nguồn vốn nước ngoài chảy vào Việt nam phần lớn dưới các hình thưc s khác nhau. Xuất từ thực tế khách quan thì thị trường Mỹ quá rộng và lớn, hệ thống luật của mỹ quá phức tạp. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt nam mới tiếp cận thị trường này, sự hiểu biết về nó cũng như kinh nghiệm tiếp cận chưa nhiều. Thi trường Mỹ quá xa Việt nam nên chi phí vận chuyển và boả hiểm chuyên chở hàng hoá rất lớn, điều này làm cho chi phí kimh doanh từ Việt nam sang Mỹ tăng lên. Hơn nữa thời gian vận chuyển dài làm cho hàng tươi sống bị giảm về chất lượng, tỷ lệ hao hụt tăng-đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạch tranh của hàng Việt nam xuât khẩu sang Mỹ so với hàng hoá từ các nươc Châu mỹ la tinh. Tính cạch tranh trên thị trường Mỹ rất cao, nhiều nước trên thế giới có lợi thế tương tự như Việt nam cũng đều coi thị trường mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuât khẩu htuỷ sản cũng như những hàng hoá khác . Ta bước vào thi trường Mỹ chậm hơn so với các đối thủ , khi mà thị trường đã ổn định về: người mua, người bán thói quen sở thích sản phẩm-đây cũng được coi là thách đố đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung, hàng thuỷ sản nói riêng của Việt nam trên thị trường Mỹ. Nột vấn đề đặt ra là sản phẩm xuất khẩu của Việt nam vào thị trường đa số các là các sản phẩm khai thác từ thiên nhiên, đất đai, tài nguyên biển. Thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu được chế biến dưới dạng mới qua sơ chế nên hiệu quả thấp, giá cả còn bấp bênh, giá xuất khẩu không ổn định. Tính cạch tranh sản phẩm xuất khẩu của Việt nam còn thấp trên cả hai khía cạch giá cả và chất lượng so với sản phẩm cùng loại có xuất xư từ các quốc gia khác . Nhìn lại nhân tố thuận lợi của Việt nam , ta thấy rằng đường lối đúng đắn của Đảng và chính phủ đã tạo ra một cơ hội thuận lợi cho mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra thi trường thế giới đặc biệt là thi trường Mỹ mà đặc biệt là hàng thuỷ sản Việt nam.Hiện nay chính phủ đang thông qua cơ chế điều hành xuất –nhập khẩu của Việt nam giai đoạn 2001-2005. Với cơ chế mới này mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tiến tới xoá bỏ các rào cản pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động xuất nhập khẩu. Khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế trong đó có Mỹ của các doanh nghiệp Việt nam sẽ thuận lợi hơn. Môi trường dầu tư của Việt nam: môi trường pháp lý, môi trường hánh chính, môi trường tài chính ngân hàng, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực...ngày càng hoàn thiện, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong đó có các nhà đầu tư Mỹ vào Việt nam sản xuất hàng xuất khẩu thuỷ sản. Chính sách ưu đãi đầu tư đối với Việt kiều ngày càng thể hiện tính ưu việt: thu hút hàng ngàn kiều bào chuyển vốn về nước, tạo ra hàng trăm dự án sản xuất linh hoạt trong đó có nhiều dự án sản xuất hàng xuất khẩu thuỷ sản nhằm tiêu thụ tại thị trường Mỹ. Có khoảng 1,5 triệu người việt kiều sống tại mỹ đa số họ đều có long yêu nước,hướng về cội nguồn, nếu có sự kết hợp tốt thì việt kiều ở Mỹ sẽ là cầu nối cho các doanh nghiệp Việt nam thâm nhập vào thị trường Mỹ. Bản thân nội lực của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thuộc ngàng thuỷ sản nói riêng của Việt nam đã được nâng lên đáng kể sau 10 năm thực hiện chính sách mở cửa hội nhập: trình độ tay nghề công nhân, trang thiết bị, máy móc đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm có chất lượng cao đã đáp ứng được yêu cầu thị trường trong đó có thị trường Mỹ. Như đã phhan tích ở trên thì Việt nam có lợi htế rất lớn về sông, hồ, biển. Hệ thống sông ngòi được phân bố trên cả nước, bờ biển kéo dìa từ bắc vào nam. Những tiềm năng lơin thế này nếu được khai thác triệt để thì khả năng xuẩt thuỷ sang mỹ sẽ được gia tăng. 2.2.ảnh hưởng của hiệp định thương mại Việt nam –Hoa kỳ Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ gắn liền với sự tiến bộ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt nam –Hoa kỳ,đặc biệt sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký vào ngày 13/7/2000. Sự kiện này mở ra những cơ hội kinh doanh mới nhất là sau khi hiệp định được thông qua bởi hai nhà nước Việt nam –Hoa kỳ. Đối với Việt nam và các nước xuất khẩu thuỷ sản khác, thì thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai trên thế giới và cũng là thi trường tiêu thụ đa dạng về mặt hàng, giá trị và chất lượng. Ngay sau khi hiệp định song phương có hiệu lực, quy chế MFN trong thương mại hàng hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng thuỷ sản Việt nam vao thị trường đầy hấp dẫn này với sự ưu đãi về mức thuế nhập khẩu MFN, chẳng hạn đối với thịt cua thuế suất MFN là 7,5% thì MFN là 15%; ốc: thuế suất tương ứng là 5% và 20%; cá philê tươi và đông:0%và 0-5,5% cent/kg; cá khô 4-7% và25-30%. Hiệp định thương mại việt –mỹ khuyến khích việc tổ chức xúc tiến hoạt động thương mại giữa hai nước như: hội chợ, triển lãm, trao đổi thương mại tại lãnh thổ hai nước, cho phép các công dân,công ty hai nước quảng cáo sản phẩm ,dịch vụ bằng cách thoả thuận trực tiếp với các tổ chức thông tin quản cáo bao gồm: truyền hình, phát thanh , đơn vị kinh doanh in ấn và bảng hiệu. Mỗi bên cũng cho liên hệ và cho bán trực tiếp hàng hoá dịch vụ giưũa công dân, công ty của bên kia tới người sử dụng cuối cùng. Đây là cơ hội cho cả doanh nghiệp Việt nam và Mỹ có diều kiện tìm hiểu sâu về thị trường của nhau để mở rộng buôn bán giữa hai nước. Hiệp định thương mại Việt –Mỹ khẳng định cơ chế chính sách mới của Việt nam, đánh dấu bước ngoặc trong quan hệ việt nam –hoa kỳ. Việc chúng ta thực hiện các điều khoản của hiệp định là điều kiện ban đầu cho việc gia nhập WTO sau này.Kể từ khi ký kết đến khi có hiệu lựchiệp định trải một thời gian thử thách hơn một năm. Nó được quốc hội hai nươc phê chuẩn rất kỹ trước khi thông qua, có thể nói đó là nỗ lực rất của Đảng và chính phủ ta, cũng như thượng hạ viện Hoa kỳ. Tuy nhiên bên cạch những cơ hội mà hiệp định thương mại Việt nam Hoa kỳ mở ra, nó còn đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức đồi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng , toàn dân ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thứ nhất việc được hưởn quy chế MFN chưa phải là điểm quyết định để tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng thuỷ sản Việt nam, vì Mỹ đã áp dụng quy chế MFN với 136 nước thành viên WTO, ngoài ra còn có ưu đãi dặc biệt đối với các nước chậm phát triển, nhưng việt nam chưa được hưởng chế đọ này. Mức thuế trung bình là 5%, nhưng nếu được hưởng ưu đãi thì mức thuế này tiến tới 0%. Hiện nay có hơn 100 nước xuất khẩu đủ các mặt hàng thuỷ sản vào Mỹ, trong đó có nhiều nước có truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ sản với Mỹ như Thái lan(tôm sú đông, đồ hộp thuỷ sản...), Trung quốc(tôm đông cá rô phi..),Canađa(tôm hùm, cua...), Inđônêsia (cua ,cá ngừ, cá rô phi...), philippin(hộp cá ngừ,cá ngừ tươi đông, tôm đông và rong biển...)...nên sự cạnh trên thị trường sẽ ngày càng quyết liệt đặc biệt đối với một số mặt hàng chủ lực như tôm, cá philê, cá ngừ. Trong hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu, Mỹ có nhu cấu cao về các mặt hàng đã qua tinh chế( tôm luộc, tôm bao bột, tôm hùm, cá phi lê, hộp thuỷ sản) trong khi đó hàng xuất khẩu của Việt nam chủ yếu là sơ chế, tỷ lệ sản phẩm giá trị gia tăng thấp (chỉ chiếm khoảng 30% giá trị xuât khẩu của Việt nam). Cụ thể với mặt hàng cá ngừ, hiện nay Việt nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi hoặc đông vào Mỹ(90% gia trị xuất khẩu cá ngừ) trong khi cá ngừ đóng hộp là mặt được tiêu thụ nhiều ở Mỹ thì giá trị xuất khẩu của Việt nam không đáng kể(5%). Mỹ coi trọng cả nhập khẩu thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản, ngọc trai, cá cảnh...(giá trị nhập khẩu năm 2000 đạt 9 tỷ USD, chỉ kém hàng thuỷ sản thực phẩm 1 tỷ USD) nhưng ta chỉ mới trú trọng đến xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm. Vì vậy có thể nói chưa có sự phù hợpcao trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản việt nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường “khó tính” của thế giới. Hàng thuỷ nhập khẩu vàoMỹ phải qua sự kiểm tra chặt chẽ của cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ(FDA) theo các tiêu chuẩn HACCP.vấn đề vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi trường, bảo vệ sinh thái..là những lý do mà Mỹ thường đưa ra để hạn chế nhập khẩu. Mặc dù cơ quan FDA của Mỹ đã công nhận hệ thống HACCP của VIệt nam, nhưng chất lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của việt nam còn hạn chế do trình độ công nghệ chế biến và bảo quản còn thấp, chủ yếu là công nghệ đông lạnh. Một khó khăn trong lĩnh vực tiếp thị là mặc dù đã có trên 50 doanh nghiệp Việt nam đang xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ nhưng hầu như chưa có doanh nghiệp nào mở được văn phòng dại diện tại nước Mỹ. Do vậy các doanh nghiệp Việt nam ít có cơ hội giao thương với những nhà phân phối Mỹ, nhất là tìm hiểu các luậ chơi của thị trường này. Hệ thống luật của Mỹ khá phức tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt nam. Vì vậy nếu không nghiên cứu tìm hiểu rõ thì doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu những thua thiệt nặng nề trong kinh doanh. Có thể đơn cử một số luật sau: luật chống độc quyền đưa ra các chế tài hình sự khá nặng đối với những hành vi độc quyền hoặc cạch tranh không lành mạnh trong kinh doanh, cụ thể là phạt tiền đến 1 triệu USD, hoặc tù 3 năm đối với cá nhân. Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, theo đó người tiêu dùng bị thiệt hại có thể kiện nhà sản xuất về mức bồi thường thiệt hại quy định gấp nhiều lần thiệt thực tế. Luật liên bang và các tiểu bang của mỹ được áp dụng cùng một lúc trong lĩnh vực thuế kinh doanh đòi hỏi ngoài việc nẵn vững luật của tiểu bang mà các doanh nghiệp có quan hệ kinh doanh. Về lâu dài các doanh nghiệp Việt nam phải chuẩn bị cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn trong thu mua nguyên liệu chế biến cũng như xuất khẩu thuỷ sản với các công ty Mỹ vào Việt nam sản xuất kinh doanh thuỷ sản. Vì theo quy định trong thời gian 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của công dân, công ty Mỹ vào các lĩnh vực sản xuất và chế tạo được phép kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản với điều kiện đang hoạt động hợp pháp tại VIệt nam hoặc các công dân và công ty được phép liên doanh với Việt nam đẻ kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản với phần vốn góp không quá 49%. Ba năm đó hạn chế của sở hữu đầu tư Mỹ là 51%. Bảy năm sau khi Hiệp định có hiệu lực thì Mỹ có thể thành lập công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài để kinh doanh xuất nhập khẩu một mặt hàng. Phần 3: Triển vọng, giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ: 3.1 Triển vọng xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ sau hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực. Sau khi hiệp định thương mại Việt nam Hoa kỳ có hiệu lực, ó đem lại cho Việt nam, mà cụt hể là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những cơ hội thâm nhập thị trường Mỹ. Tuy rằng tác động của hiệp định có hai chiều, nhưng ở phần này em chỉ xin phân tích những cơ hội, thuận lợi mà hiệp định đó đem lại ,để từ đó chúng ta đề ra những phương hướng giải pháp nhằm năng cao mô hiệu quả trong quá trình xuất khẩu hàng thuỷ sản vàn thị trường Mỹ. Trước hêt chúng ta phân tích môi trường kinh tế quốc tế và khu vực,qua đó xem xét tác động của nó tới nền kinh tế Việt nam nói chung và khả năng xuất khẩu nói riêng trong đó có hàng thuỷ sản sang Mỹ. Xu hướng toàn cầu hoá khu vực hoá đang diễn râ nhanh chóng và liên tục. Hội nhập kinh tế cũng như phát triển đang là xu hướng phổ biến. Việt nam có cơ hội tham gia các diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực, dưa chúng ta lên một tầm cao mới trong cộng đồng quốc tế. Đó là nhân tố khách quan xuất phát từ yếu tố chủ quan trong nước.Có thể thấy rằng từ cơ chế chính sách, luật pháp đặc biệt luật khuyến khích đầu tư ngày một trú trọng điều chỉnh kịp thời. Nhằm thu hút tối đa vốn đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức. Qua các kỳ Đại của Đảng đã khẳng định con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá là cần thiết, cấp bách . Các chỉ thị của thủ tướng, các hội nghị ,kỳ họp cảu Đảng, chính phủ luôn luôn đề cập trú trọnh đến việc đẩy mạnh nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu, trong đó xuất khẩu là mục tiêu hàng đầu. Bên cạch cơ chế, chính sách, luật pháp ngày càng hoàn thiện , chúng ta có nhuồn tài nguyên phong phú đa dạng, nhiều loại còn ở dangj tiềm năng chưa khai thác. Trong đó phải kể đến nguồn tài nguyên biển dồi dào mà tạo hoá đã ban tặng cho ta. 51/63 tỉnh thành có ngành thuỷ sản, 3260 km chiều dài bờ biển à hơn 4000 hòn đảo lớn nhỏ, hơn 100 cửa sông rạch, 1 triệu km2 độc quyền kinh tế (gấp 3 lần diện tích lãnh thổ Việt nam) và trên 2 triệu ha mặt nước có thể nuoi trồng thuỷ sản. Ngành nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản đang có xu hướng tăng về quy mô , khả năng đánh bắt xa bờ ngày càng được nâng cao phát triển. Vùng biển của chúng ta có nhièu loại hải sản quý có vai trò xuất khẩu cao. Mặt khác ngành thuỷ được hỗ trợ bởi biện pháp chính sách của nhà nước: hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ hỗ trợ xây dựng quy hoạch, hỗ trợ đầu tư xúc tiến thương mại...Những hỗ trợ này tăng khả năng xuất khảu thuỷ sản vào thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt nam. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được thực thi, cánh cửa đi vào thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt nam được mở rộng hơn. Thuế nhập khẩu sẽ giảm đi 30-40% khi Việt nam đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ. Theo phòng thương mại Mỹ tại TP Hồ chí Minh sau khi hiệp thương mại Việt Mỹ có hiệu lực thì năm nhóm ngành trong đó có ngành thuỷ sản được hưởng lợi nhiều nhất vì thuế nhập khẩu vào thị trường Mỹ sẽ giảm mạnh. Môi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện tăng khả năng thu hút vốn đầu tư chẳng những đối với những doanh nghiệp mỹ mà còn thu hút vốn đầu tư từ các quốc gia khác. Vì trước kh hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực thì hàng hoá Việt nam đưa vào thị trường Mỹ không được hưởng quy chế MFN. Cho nên nhiều nhà đầu tư nước muốn sản xuất hàng hoá sang Mỹ không muốn đầu tư vào việt nam. Hiệp định thương mại được thông qua thì hàng xuất khẩu từ Việt nam sang Mỹ được hưởng quy chế MFN, thì vấn đề còn lại là ta tiếp tục hoàn chỉnh môi trường đầu tư mà ta đã cam kết theo tinh thần của hiệp định là: tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng để luồng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế có điều kiện phát triển như nhau. Đơn giản hoá thủ tục và theo lộ trình thì bỏ giấy phép đầu tư, các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp FDI chỉ đăng ký kinh doanh đầu tư. Nhặn định và đảm tính minh bạch của hệ thống pháp lý, để xây dựng một môi trường kinh doanh có thể dự đoán được. Tiến tới quản lý hoạt động nhà nước đối với hoạt động đàu tư theo các chuẩn mực quốc tế, các rào cản thương mại quốc tế giảm bớt. Hoạch định xuất khẩu nói chung trong đó xuất sang thị trường Mỹ nói rêng trong đó có hàng thuỷ sản sẽ tăng nhanh. Cho phép mọi thành phần kinh tế được kinh doanh xuất nhập khẩu với mọi hàng hoá. Xoá bỏ dần quản lý xuất khẩu bằng giấy phép hạn ngạch. Xây dựng cơ chế quản lý xuất nhập khẩu mang tính dài hạn và công khai hoá các chính sách cơ chế đẻ giúp cho các xây dựng được chiến lược dài hạn thâm nhập thị trường thế giới trong đó có Mỹ. Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực thì quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ sẽ tạo ra động lực kích thích mỗi doanh nghiệp Việt nam để tạo lập được nhưng thương hiệu nổi tiến, đây là cơ sở để hàng Việt nam có chỗ đứng vững chắc và tạo thói quen tiêu dùng hàng Việt nam trên thị trường Mỹ. Hy vọng rằng trong tương lai sẽ có nhiều thương hiệu Việt nam nổi tiếng có thể đứng vững trên thi trường thế giới đặc biệt là thị trường Mỹ., Sau khi hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực chắc chắn rằng ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào thị trường Mỹ. Bởi vì, trước hết các thông tin về thị trường, khách hàng, đối tác sẽ được cập nhật hơn. Sự am hiểu thi trường Mỹ sẽ tăng lên đối vơi các doanh nghiệp Việt Nam hiệp định thương mại như nhịp cầu nối giữa các doanh nghiệp hai nước tạo điều kiện cho sự hợp tác kinh doanh xuẩt khẩu phát triển hơn. Từ những phân tích ở trên về cơ hội mà hiệp định Việt Mỹ đem lại chúng ta có thể nhận xét tình hình khả quan về xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, đặc biệt là hàng thuỷ sản. Mỹ là thị trường tiềm năng đối với Vịêt Nam , kim ngạch xuất khẩu của việt nam 2000 mới đạt khoảng 700 triệu USD nhưng khả năng nhâp khẩu của thị trường nay năm 2000 là 1300triệu USD (Việt nam mới chỉ chiếm 0,06% thị phần nhập khẩu của Mỹ). Dự tính rằng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ ở cuối năm 2005 là 3 tỷ USD và năm 2010 là 6 tỷ USD- dây là dự báo mà một nhóm nghiên cứư đã đề xuất: Năm năm trở lại dây trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế sau hơn một thập kỷ theo đường nối đổi mới của đất nước, ngành thuỷ sản đã có nhiều nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu trên nhiều phương diện. Từ năm 1996 đến năm 2000 ngành luôn hoàn thành kế hoạch nhà nước giao, năm sau cao hơn năm trước và đạt được mức tăng trưởng cao (bình quân 9,17%/năm), giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng 21,85%/năm. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 đạt 1,475 tỷ USD, bằng 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và vươn lên đứng hàng thứ 3 trong các ngành xuất khẩu của Việt nam. Đạt được những thành tựu đó nhớ sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Dảng và Nhà nước, sự phối hợp giúp đỡ của các bộ ban ngành ở trung ương, các cấp chính quyến ở địa phương, có sự nỗ lực chung của các bộ công nhân viên ngành và hàng triệu lao động trong cả nước. Sau năm năm 1996-2000 tổng mức đầu tư của ngành thuỷ sản là 9.185.640 triệu đồngtrong đố đầu tư nước ngoài là 545 tỷ đồng( chiếm5,93%). Trong hơn 9 nghìn tỷ đồng được huy động để đầu tư phát triển, ngành chủ yếu vận dụng nội lực là chủ yếu, vốn đầu tư trong nước là hơn 8600 triệ đồng chiếm tới 90,07% tổng mức đầu tư. Để có được nguồn vốn ngân sách thì nganh đã có biện pháp huy độnh nguồn vồn trong dân đạt 1700 tỷ đồng( chiếm tỷ trọng 18,62%). Tuy vậy có thể thấy đầu tư nươcs ngoài vào ngành thuỷ sản còn hạn chế thị trường thuỷ sản chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhất là các nhà đầu tư Mỹ. Mặc dù tổng số vốn đầu tư vào ngành còn thấp trong năm qua so với tổng mức đầu tư của cả nền kinh tế chỉ chiếm 1,83% nhưng hiệu quả đầu tư qua các năm của ngành thuỷ sản thì cho thấy GDP do ngành này mang lại cho nền kinh tế cả nươc là 3-3,2% cho thấy đầu tư vào thuỷ sẩn rất có hiệu quả. Từ các nguồn vốn đầu tư này thì ngành thuỷ sản đã tập trung đầu tư cho các chương trình của ngành như: đàu tư cho khai thác thuỷ hải sản (27,88%) bao gồm đầu tư đóng mới, cải hoán tàu thuyền phục vụ cho chương đánh bắt hải sản xa bờ và đầu tư cho xây dựng các cảng cá, bến cá , chợ cá và điều tra nguồn lợi thuỷ sản; bằng nguồn vốn vay nước ngoài thì trong đó đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản(25,49%) theo chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản đã được chính phủ phê duyệt cung như chương trình 773: khai thác bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước vùng đồng bằng để nuôi trông thuỷ sản. Đầu tư cho lĩnh vực chế biến thuỷ sản là: 2727.308 triệu đồng, chiếm tỷ 30,45% trong đó nội dung chính là tăng cường củng cố cơ sở hạ tầng các xí nghiệp chế biến thuỷ sảnnhằm nâng cao năng lực sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm đáp ưng tiêu chuẩn xuất khẩu. Nhờ nguồn đầu tư kịp thời qua 5 năm đã đưa lại những kết quả rõ nét: số tàu thuỷ sản tăng thêmlà hơn 1,2 triệu CV(163,36%), trong đó cơ cấu tàu có công suất lớn khai thác xa bờ đã tăng lên rõ rệt, xxay dựng được 27 cảng cá trong đó có nhiều cảng đã hoàn thành và đưa lại hiệu quả cao.Về nuôi trồng thuỷ sản tính đến thang12/2000: diện tích nuôi trồng thuỷ đã tăng lên hàng chục nghìn ha, chuyển đổi cơ bản diên tích trồng lúa năng suất thấp và đất hoang hoá sang nuôi trồng thuỷ sản bước đầu có hiệu quả .Về chế biến thuỷ sản, trong 5 năm đã tăng thêm 80 nhà máy chế biến với công suất chế biến 300 tấn/ngày, đưa tổng số cơ sở chế biến lên 266 cơ sở, trong đó 220 nhà máy có trang bị nhà xưởng hiện đại, trang bị dây chuyền công nghệ cao, có50 doanh nghiệp chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản vao EU, 77 doanh nghiệp xuất khẩu vào Bắc Mỹ. Nhờ vậy, năm 2000, ngành thuỷ sản đã được những thành công lớn cả về sản lượng, diện tích nuôi trồng và dặc biệt là giá trị kim ngạcg xuất khẩu đạt mức kỷ lục 1,475 tỷ USD. Rõ ràng, đầu tư đã được chứng minh là có hiệu quả. Nhìn chung, ngành thuỷ sản của việt nam có bề dày truyền thống sản xuất nuôi trồng thuỷ sản. Lợi thế đó càng được phát huy hơn nữa trong cơ chế chính sách phát triển nhất quán như hiện nay, Đặc biệt sự kiện hiệp định đã đi vào hoạt động thúc đẩy hơn nữa tốc đọ phát triển của ngành thuỷ sản Việt nam cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong thời gian tới để phát huy kết quả đã đạt được, ngành thuỷ sản không ngừng phấn đấu đạt thành tích cao trong sản xuất nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt quan tâm sâu sắc tới ngành chế biến thuỷ sản để phục vụ quá trình xuất khẩu mà thị trường Mỹ là thị trường mục tiêu cần hướng tới. Dự báo trong thới gian tới các doanh nghiệp trong ngành thuỷ sẽ ồ ạt ra quân trong chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ. Đó là tín hiệu đáng mừng cho ngành thuỷ sản nói riêng, đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung. Thực tế cho thấy sản lượng tiêu thụ thuỷ sản trên thi trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng ngày cáng tăng việc đó có nhiều nguyên nhân, nhưng có hai nhuyên nhân chính đó là gia tăng dân số và thu nhập. Dự báo vào năm 2005mức tiêu thụ thực phẩm trên trị trường thế giới là 100 triệu tấn/năm(chưa kể đến thức ăn cho chăn nuôi là 25-30 triệu tấn/năm. Như vậy tổng mức tiêu thụ thuỷ sản của thế giới là 125-135 triệu tấn/năm. Việc buôn bán thuỷ sản trên thế giới vẫn tiếp tục tăng như hiện nay. Các nước xuất khẩu mạnh và năng độnh vẫn các nước đang phát triển là những nước đang cần ngoại tệ, còn những nước nhập khẩu là những nước phát triển. Về giá cả của thuỷ sản có xu hướng biến độnh nhẹ do sự mất cân đối nhẹ giữa cung và cầu, và giá của thuỷ sản khó xác định một cách khi việc định giá cho mặt hàng này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố ; đồng thời xu hướng giảm giá chút ít đẻ tăng cường tính cạch tranh cho hàng thuỷ sản vào nhưng năm toíư sẽ được hình thành. Trong giai đoạn 1999-2000, ngành thuỷ sản của nước ta sẽ phấn đáu đưa tỷ trọng của ngành trong GDP lên 2,5-3% và đảm tốc độ tăng tổng sản lượng bình quân của ngành lên 4,5-5,1%/năm, trong đó khai thác hải sản tăng 1,7%/năm và nuôi trồng thuỷ sản tăng 8,5%/năm.Đến năm 2010 tỷ trọng nuôi trồng thuỷ sản trong tổng sản lượng của ngành cần đạt 50%. Đồng thời phấn đấu đưa tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu htuỷ sản lên tốc độ trung bình là15-20%/năm tốc đọ tăng việc làm trong nghề cá lên trung bình là 2,65%/năm trong cả thời kỳ 1999-2010 . Mục tiêu lớn nhất đưa tổng sản lượng thuỷ sản đạt từ 1,8-1,9 triệu tấn vào năm 2005. Hy vọng trong thời gian tới ngành thuỷ sản sẽ đấp ứng yêu ccầu đặt ra với những tiềm năng sẵn có của mình. Việt nam có thể cải thiên đươc vị trí của mình trên thị trường Mỹ, nhất là hiệp định thương mại Việt mỹ đã bắt đầu có hiệu lực. Nhưng vấn đè là làm thế nào khai thác triệt để tiềm năng sẵn có, tận dụng tối da cơ hội mà hiệp định này đã mang lại, đó là vấn đề em sẽ nói ở phần sau. 3.2 Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ. 3.2.1. Giải pháp mang tầm vĩ mô: Từ khi thự hiện chính sách mở của nền kinh tế tới nay chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá luôn được đế ra trong các văn kiệ của Đảng. Mục tiêu của Đảng, chính phủ là mở rộng giao lưu kinh tế với quốc tế với phương châm hoà nhập chứ không hoà tan. Trong đó đảy mạnh xuất khẩu là mục tiêu hàng đầu. Chúng ta tập trung những phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn hướng xuất khẩu là chủ yếu như: may mặc, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ...Trong đó ngành thuỷ sản được ta quan tâm với thị trường tiềm năng là Mỹ. Đặc biêt sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực thì Đảng và chính phủ cang quan tâm xát xao đến ngành này.Để đạt được mục tiêu mở rộng thị phần, đem lại nguồn thu lớn hơn nữa trong việc xuât khẩu thuỷ sản. Chính sách vĩ mô ở đây là bảo vệ và mở rộng nguồn nguyên liệu thuỷ sản: Nhà nước vá bộ thuỷ sản cần có chính sách giải pháp kịp thời, hiệu quả để tăng nguồn lợi thuỷ sản. Trước hết phải ban hành luật bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản của Việt nam, hỗ trợ vốn và kỹ thuật nuôi trồng thuỷ hải sản cho nhân dân, phát triển lực lượng khai thác thuỷ sản xa bờ. Tập trung vốn và các khoản việ trợ ODA để nâng cấp cơ sở hạ tầng nghế cá, đặc biệt ở những vùng cung cấp nguyên liệu chủ yếu. Ban hành chính sách nhập khẩu nguyên liệu theo hướng miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản, miễn giảm thuế xuất khẩu đối với hàng htuỷ sản chế biến bằng nguyên liệu nhập từ nước ngoài. Quy hoạch và quản lý thống nhất hệ thống chế biến thỷ sản: giao việc cấp giấy phép đầu tư xây dựng mới và nâng cấp nhà máy chế biến thuỷ sản cho một đầu mối duy nhất là bộ thuỷ sản, chuyển việc đầu tư theo lĩnh vực kỹ thuật là chính sang đầu tư theo 4 chương trình mục tiêu đã xây dựng trong chiến lược xuất khẩu thuỷ sản Việt nam. Thực hiên chính sách ưu đãi đẻ khuyến khích các doanh nghiệp thuỷ sản mở rộng quy mô sản xuất mở rộng thị trường kinh doanh. Thực hiện chế độ ưu dãi cho vay vốn hoặc cho giữ lại vốn khấu hao để khuyến khích các doanh nghiệp tái đầu tư , cho trchs một phần thuế xuất khẩu để cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm với gí trị ngày càng tăng. Thành lập cơ quan thông tin tiếp thị thuỷ sản, cho phép ngành thuye sản trích một phàn nào đó trong thuế xuất khẩu để thành lập quỹ xuất khẩu thuỷ sản. Chúng ta cần thấy rằng do đặc diểm sản phẩm của hàng thuỷ sản là khó bảo quản, dễ hư hỏng, cho nên vấn đề đảm chất lượng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu là yếu tố quyết định. Nhà nước ta cần chủ độnh tạo dựng nguồn vốn hơn nữa từ bên trong hay bên ngoài bằng mọi con đường khác nhau. Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải hoàn thiện hơn. Mọi hoạt động sản xuất nuôi trồng thuỷ sản phải gắn trực tiếp với thị trường , luôn luôn thay đổi chính sách cơ chế đầu tư phù hợp với sự thay đỏi của thị trường đặc là thi trường Mỹ. Như vậy chính sách vĩ mô của nhà nước rất quan trọng. Nó có ý nghĩa quyết định đén thành công hay thất bại trên con đường hội nhập kinh tế thế giới. Chính sách vĩ mô của nhà nước đóng vai trò tiên phong, đầu tàu dẫn dắt các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh doanh trên con đường phát triển nền kinh tế của đất nước . 3.2.2.Giải pháp cấp doanh nghiệp. Khi chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước thực hiện tốt thu hút vốn đầu tư nước ngoài hoặc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất hướng xuất khẩu. Nhưng đây mới chỉ là điều kiện cần, còn chủ yếu là sự vận động linh hoạt của mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp trong chiến kược kinh doanh của đơn vị. Thực tế tế thấy rằng tuy Việt nam có nguồn nhân lực dồi dào về số lượng...nhưng trình độ tay nghề ,kỹ năng, kỹ xảo chưa cao không muốn nói rằng còn yếu kém. Để các doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường đầy tính cạch tranh này, các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thuộc ngành thuỷ sản nói riêng cần trang bị cho công nhân những kỹ năng , kỹ xảo cần thiết hay thực hiện thật tốt chính sách đầo tạo và phát triển nguồn nhân lực .Thường xuyên mở các lớp đào tạo ngắn ngày, mở các cuộc hội thảo, thảo luận về các chủ đề đang được nhiều người quan tâm. Trong khâu tuyển dụng tuyển chọn phải đảm bảo tuyển được những nhân viên tốt nhất về kỹ thuật, có tay nghế cao và phỉa có tinh thần trách nhiệm cao. Họ phải được đào tạo qua trường lớp chuyên môn,đặc biệt đối với ngành thuỷ sản. Đẩy mạnh giáo dục phi chính quy cho bà con ngư dân nhằm cung cấp kiến thức phổ thông cho họ. Đó là hoạt động cộng đồng thông qua các câu lạc bộ, các chương trình khuyến ngư qua các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương. Trong chiến lược sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Đào tạo phát triển nhuồn nhân lực phải đặt nên hàng đầu, nó phải được coi là yếu tố đầu tiên quyết định thành công hay thất bại của mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp. Để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ nhân viên , ngoài những việc đào tạo trưc tiếp trong nươc đối với công nhân, còn đội ngũ lao động cao cấp ta có thể gửi đi nước ngoài học tập và nghiên cứu đây chính là điều cần làm đối với mỗi doanh nghiệp. Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đồi hỏi chúng ta không thể tách rời, phát triển độc lập mà luôn luôn hội nhập cùng phát triển. Xu hướng này tạo cho chúng ta những trình độ khoa học công nghệ từ nước ngoài, được học hỏi kỹ năng kinh nghiệm phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần thực hiện tốt phân công lao động xã hội. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi sự vận động linh hoạt khéo léo của mỗi doanh nghiệp . Về cơ bản tính ỷ lại quan liêu còn nặng nề trong suy nghĩ của mõi con người Việt nam, đó là một hạn chế mà chúng ta cần khắc phục trong môi trường kinh doanh đồi hỏi sự sáng tạo, linh hoạt. Mỗi doanh nghiệp cần ccẩn trọng và linh hoạt trong suy nghĩ, hành động tìm bạn hàng và đối tác kinh doanh. Các doanh nghiệp trong ngành thuỷ sản muốn thâm nhập, chiễm lĩnh thị trường Mỹ cần trú trọng hơn nữa trong công tác tiếp thị ,tìm hiểu bạn hàng...Chúng ta không nên ngồi chờ người ta đến bắt tay, hẹn trước làm ăn mà các doanh nghiệp cần chủ động tìm bạn hàng mới để ký kêt hợp đồng sản xuất kinh doanh. Mặt khác yếu tố chất lượng của các donh nghiệp trong ngành thỷ sản hiện nay vẫn là vẫn đề khó khăn và trở ngại nhất, như chúng ta đã biết thị trường Mỹ là thị trường rất khó tính, đòi hỏi sản phẩm chất lượng cao mà còn phải đủ tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm do các cơ quan kiểm định kiểm tra. Các doanh nghiệp phải hết chú ý đến vấn đề bảo đảm chất lượng, bởi vì có như vậy thì hàng thuỷ sản của ta mới có cơ hội vào thị trường Mỹ. Nếu chúng ta sản xuất sản phẩm không đủ tiêu chuẩn chất lượng chẳng những không xuất khẩu được mà còn mất uy tỉntên thị trường về nhãn hiệu việt nam. Thuỷ sản Việt nam vào được thị trường Mỹ đã khó lại còn phải cạch tranh đẻ tồn tại lại càng khó hơn. Các đối thủ cạnh tranh có lợi thế hơn ta rất nhiều về: chất lượng , giá cả , mẫu mã...Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải giảm thiểu chi phí đầu vào. Vấn đề bao bì , đóng gói cần quan tâm sao cho hàng hoá của ta đa dạng về chủng loại, mẫu mã. Tuy nhiên chúng ta cũng cần tạo cho mình phong cách kinh doanh, sản phẩm cá biệt hoá so với đối thủ cạch tranh nhằm đánh vào tâm lý tiêu dùng của khách hàng-muốn dùng sản phẩm mới lạ. Như vậy để thành công trên con đường thâm nhập thị trường Mỹ, nhất là sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu quả. Các doamh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung, và các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu thuỷ sản nói riêng cần thiết lập xây dựng một chiến lược phù hợp với từng thời kỳ nhất định. Họ cần phân tích kỹ mô hình SWOT để tìm điểm yếu, điểm mạnh, những cơ hộivà mối đe doạ trên thị trường từ đó đưa ra các chiến lược hợp lý, đem lại lợi nhuận cao nhất trên thị trường nước Mỹ. Đề xuất bản thân. Chúng ta thấy rằng, xuất khẩu thuỷ sản Việt nam tuy chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước nhưng bản thân nó chứa ẩn những vấn đề hạn chế. Để khắc phục những hạn chế như đã phân tích ở trên, thúc đẩy hơn nữa xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam ra thế giới nói chung và ra Mỹ nói riêng, theo em cần đưa ra các biện pháp sau: Thứ nhất Đảng và chính phủ cần phải mở rộng hơn nữa chính sách đầu tư nước ngoài. Trong hệ thống pháp luật còn nhiều cứng nhắc, giáo điều, chưa đi sát thực tế . Teo em việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài hay liên doanh liên kết với nước không nhất thiết phải thông qua những bước đăng ký rườm rà. Cần thông thoáng hơn trong cơ chế chính sách. Việt nam có lợi thế về điều kiện tự nhiên khí hậu, thuận lợi trong việc nuơi trồng thuỷ sản. Chúng ta phải khai thác triệt để lợi thế to lớn đó. Hiện nay theo em được biết còn rất nhiều diện tích mặt nước còn chưa sử dụng đúng mục đích hoặc có chăng việc nuôi trồng còn mang tính tự phát, chưa có hhen thống nhất quán.Chúng ta không chỉ trú trọng nuôi trồng thuỷ hải sản trên biển, vùng đầm hồ ven biển mà còn phải tận dụng hệ thống sông ngòi dày đặc để nuôi trồng thuỷ sản. Trong nền kinh tế thị trường việc sản xuất kinh doanh phải gắn liền với thị trường, chúng ta nuôi trồng, chế biến thuỷ sản phải quan tâm xem thị trường cần loại nào ưa chuộng loại nào. Việc nghiên cứu phân tích nhu cầu thị trường cần phải chú ý đặc biệt. Theo em việc sản xuất kinh doanh thuỷ hải sản cần xây dựng có hệ thống, đồng loạt. Hàng thuỷ sản là loại hàng khó bảo quản, dễ hư hỏng, vì vậy sản xuất ra cần phải tiêu thụ ngay. Nhà nước cần xây dựng thêm những khu công nghiệp với công nghệ hiện đại, đáp nhu cầu xuất khẩu. Hiện nay số tàu đánh bắt xa bỡ còn thấp, yếu về công nghệ chế biến, đóng hộp tại chố. Phần lớn chúng ta mới chỉ đánh bắt hải sản trong vùng nội thuỷ ven bờ chưa khai thác được vùng đặc quyền kinh tế biển. Như vậy Nhà nước hay ngành thuỷ sản cần đầu tư nâng cấp, mua sắm thêm tàu đánh bắt có công suất lớn, có thể đánh bắt dài ngày trên biển, khai thác được những tiềm năng sẵn có từ biển. Mặt khác nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho các tổ chức, doanh nghiệp trong việc sản xuất ,đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. Để hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu thì các doanh nghiệp tổ chức không htể làm ăn manh mún, phải có dây chuyền công nghệ chế biến hiện đại, đạt tiêu chuẩn và đáp ứng nhu cầu thị trường. Nhà nước cần có chính sách ưu tiên hỗ trợ cá doanh nghiệp tư nhân, giúp họ trong khâu tiêu đầu ra cho sản phẩm, có như vậy họ mới yên tâm đầu tư sản xuất. Cần tổ chức các buổi họp ,thảo kuận ,ý kiến chuyên gia về lĩnh vực thuỷ sản; giúp các doanh nghiệp trong nước tiếp xúc ,làm quen với phong cách kinh doanh của nướ ngoài, đặc biệt là các tập đoàn Mỹ. Nhà nước làm thế nào để cho doanh nghiệp hai bên trực tiếp gặp nhau, ký kết hợp đồng mua bán, cùng nhau hợp tác phát triển sản xuất, nuôi trồng , chế biến thuỷ hải sản. Hiệp định thương mại được ký kết và đi vào hoạt động tạo điều kiện cho hàng hoá Việt nam có cơ hội cạnh tranh cùng hàng hoá các khác trên thị trường Mỹ. Chúng ta phải lắm lấy cơ hội này để đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo các sản phẩm của ta trên thị trường Mỹ. Với điều kiện về nhân công rẻ, điều kiện sản xuất, nuôi trồng, đánh bắt thuận lợi, các doanh nghiệp cần tối thiểu hoá chi phí sản xuất cảu mình để tạo ra trên thị trường Mỹ. Hiên nay việc đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản của ta còn manh mún, tự phát, chưa có tổ chức chặt chẽ, và theo lối mạnh ai người đó làm đẫn đến dễ bị ép giá trong xuất khẩu, tình trạng tranh mua, tranh bán có thể diễn ra. Vấn đề đặt ra là Nhà nước luôn quan tâm giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc xác định giá cả tương đối, luôn cập nhật thông tin cho các doanh nghiệp , các tổ chức về cung cầu của thị trường. Tóm lại, theo em việc đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ không thể do một cá nhân, một tổ chức có thể làm được mà cần có sự hợp tác, thống nhất, thông suất giữa Nhà nước,các tổ chức và doanh nghiệp. Họ phảicùng nhau hành động thống nhất từ chính sách vĩ mô cho đến các chính sách của doanh nghiệp. Nhà nước lo công tác thị trường, đối tác còn doanh nghiệp cần trú trọng sản xuất sản phẩm. Hành động của họ phải đồng bộ, nhất quán và cùng nhau giải quyết những khó khăn trên con đường xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Hy vọng rằng, sự đóng góp nhỏ nhoi này có thể góp một phần nào đó thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ của Việt nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0651.doc
Tài liệu liên quan