Đề tài Thực hiện hợp đồng kinh tế – Thực trạng và kiến nghị

Với quy định hiện hành đòi hỏi hợp đồng kinh tế ít nhất phải có một bên là pháp nhân và cả hai bên đều nhằm mục đích kinh doanh, pháp luật hợp đồng kinh tế không đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế với nhiều quan hệ đa dạng, phong phú, với nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh. Theo hai tiêu chí về mục đích và quan hệ của Hợp đồng dân sự, quy định bên ký Hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân và bên kia có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là quá cứng nhắc. Việc đòi hỏi một bên ký hợp đồng kinh tế là pháp nhân gây ra khó khăn cho toà án khi nhận định thẩm quyền xét xử. Trước đây, công văn số 14/KHXH ngày 13/02/1996 của TANDTC cho rằng một hợp đồng được ký kết giữa pháp nhân với cá nhân và nhóm kinh doanh với mức vốn pháp định quy định cho doanh nghiệp tư nhân thì không phải hợp đồng kinh tế, quan điểm này không phù hợp với pháp lệnh HĐKT năm 1989 và không phù hợp với kinh tế thị trường. Chính vì vậy thông tư số 04/TTLN của TANDTC và VKSNDTC ngày 26/08/1996 đã hướng dẫn lại: Cần áp dụng quy định của điều 2 Pháp lệnh HĐKT để coi hợp đồng có mục đích kinh doanh được ký kết giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh dù không phải là doanh nghiệp tư nhân cũng là HĐKT, do đó các vụ án về tranh chấp hợp đồng kinh tế thuộc loại hợp đồng này do toà án giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án kinh tế. Thông tư số 04/TTLN ngày 26/08/1996 vẫn chưa giải quyết triệt để vấn đề điều kiện HĐKT, hơn nữa nó chỉ là văn bản hướng dẫn áp dụng quy định pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Nó không thể hướng dẫn trái với quy định của pháp lệnh HĐKT năm 1989 .

doc72 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực hiện hợp đồng kinh tế – Thực trạng và kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tiền cho A. nhưng A không biết khi giao hàng rồi B có thanh toán cho A hay không. Nên khi thiết lập HĐKT A yêu cầu B phải dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của B để đảm bảo cho nghĩa vụ thanh toán đối với A. Khi giao hàng xong đến thời hạn thanh toán mà B không có tiền thanh toán thì A có quyền bán tài sản thế chấp của B để lấy tiền trả số hàng đòi bán cho B. Vậy một trường hợp đặt ra. Giả sử B là một doanh nghiệp Nhà nước mặc dù B không phải là chủ sở hữu đối với tài sản nhưng Nhà nước cho phép để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh doanh nghiệp B vẫn có quyền dùng tài sản của mình để thế chấp. Nhưng bên cạnh đó theo quy định của Chính phủ thì những thiết bị nhà xưởng quan trọng chỉ được thế chấp khi được sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Vậy trong trường hợp người nhận thế chấp không tìm hiểu hoặc không biết được tài sản mà doanh nghiệp B đem thế chấp có được thế chấp hay không mà doanh nghiệp A nhận thế chấp tài sản đó thì sẽ sử lý như thế nào? Thông thường thì việc thế chấp tài sản bên thế chấp vẫn giữ tài sản thế chấp còn bên nhận thế chấp gửi toàn bộ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu đối với tài sản thế chấp còn có hiệu lực pháp luật. Bên thế chấp cũng không thể dùng tài sản đã thế chấp cho một nghĩa vụ khác vì không có giấy tờ gốc để chứng nhận quyền sở hữu (giấy tờ gốc đã giao cho người thế chấp trước) song thực tế đã có tình trạng dùng tài sản thế chấp cho nhiều nghĩa vụ khác nhau trong khi giá trị tài sản thế chấp không đủ đảm bảo cho tổng giá trị các nghĩa vụ được đảm bảo, bởi vì bên thế chấp đã không giao giấy tờ gốc cho bên nhận thế chấp. Mà pháp luật về HĐKT không quy định như vậy là sai mà chỉ quy định văn bản thế chấp phải được công chứng xác nhận mà công chứng chỉ biết xác nhận còn việc tài sản đó đã được thế chấp hay chưa thì laị không phải là nghĩa vụ của công chứng. Rõ ràng đây là những sơ hở trong thủ tục thế chấp tài sản. Chính vì thế mà biện pháp thế chấp tài sản chưa mang lại tính tích cực trong việc đảm bảo thực hiện HĐKT. Hay chẳng hạn: biện pháp cầm cố tài sản thông thường bên cầm cố phải giao lại tài sản cho bên nhận cầm cố. Như vậy bên nhận cầm cố thực sự yên tâm vì giữ trong tay tài sản cầm cố, khi bên cầm cố không thực hiện nghĩa vụ bên nhận cầm cố đã có trong tay tài sản để sử lý và lấy lại món nợ của mình. Đây là một biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT có độ an toàn cao, song việc cầm cố tài sản không tiện lợi đối với bên nhận cầm cố thậm trí còn bất lợi đối với bên nhận cầm cố. Vì bên nhận cầm cố phải bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố do đó bên nhận cầm cố phải có nơi để chứa tài sản cầm cố mà nếu bên nhận cầm cố có thể xảy ra tình trạng mất mát hư hỏng thì phải chịu trách nhiệm. Nó chỉ quy định nghĩa vụ của người cầm cố là phải đảm bảo nguyên giá trị của vật cầm cố không được chuyển dịch sở hữu cho người khác trong thời gian văn bản cầm cố có hiệu lực pháp luật. Do đó trên thực tế cầm cố tài sản hiện nay cũng bị biến dạng. Bên nhận cầm cố không nhất thiết phải giao tài sản cho bên cầm cố mà vẫn giữ được tài sản cầm cố khi bên nhận cầm cố giữ giấy tờ sở hữu tài sản cầm cố. Trong trường hợp này cầm cố cũng giống như thế chấp. Chính vì thế mà biện pháp cầm cố tài sản ít được người ta sử dụng, mà người ta thường sử dụng các biện pháp thế chấp tài sản. Biện pháp thế chấp tài sản tuy độ an toàn không cao như biện pháp cầm cố tài sản song biện pháp thế chấp tài sản lại tiện lợi hơn. Đối với các biện pháp bảo lãnh tài sản thì pháp luật không quy định khi nào quyền và nghĩa vụ của người bảo lãnh phát sinh đồng thời cũng không quy định giá trị tài sản bảo lãnh. Và pháp luật hiện hành còn quy định người nhận tài sản thế chấp, cầm cố phải giữ nguyên giá trị tài sản thế chấp, cầm cố. Việc sử lý tài sản cầm cố, thế chấp bảo lãnh khi có sự vi phạm HĐKT được thực hiện cùng với việc giải quyết tranh chấp HĐKT tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đây là một quy định phi thực tế không thể thực hiện được. Thông qua một vài chứng minh trên đây rõ ràng các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế còn nhiều sơ hở bất cập. Pháp luật nước ta cần phải sửa đổi bổ sung để các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT có độ an toàn cao, cải tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia trong quan hệ hợp đồng. Trên đây là những biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT mà Pháp lệnh HĐKT đã ghi nhận để các bên thỏa thuận với nhau. Sự thoả thuận về các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT đó chỉ là những điều khoản tuỳ nghi. Nếu các bên có thoả thuận với nhau thì đó mới là nội dung của hợp đồng và các bên mới phải thực hiện. Song bên cạnh đó còn biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế mang tính chất chế tài đó là: Phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Biện pháp này do pháp luật quy định, bên nào không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng sẽ đương nhiên bị phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại do hành vi, vi phạm của mình gây ra cho bạn hàng mà không cần phải thoả thuận. Biện pháp này được quy định cụ thể rõ ở chương II. Qua tìm hiểu các quy định hiện hành về trách nhiệm tài sản đối với vi phạm hợp đồng kinh tế đã quy định khá cụ thể và chi tiết song vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết thoả đáng cần phải hoàn thiện thêm. Điều 30 Pháp lệnh HĐKT quy định: Bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán phải bị phạt vị phạm hợp đồng. Mức phạt có thể bằng mức lãi suất tín dụng quá hạn theo quy định của pháp luật. Pháp lệnh HĐKT cũng quy định mức phạt chung của các HĐKT là từ 2% - 12% giá trị phần HĐKT bị vi phạm sẽ được giải quyết như thế nào? Theo quy định tại khoản 2 điều 29 “Tiền bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tài sản mất mát, hư hỏng, số chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm gây ra tiền phạt vi phạm hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hại mà bên bị vi phạm phải trả cho bên thứ 3 là hậu quả trực tiếp của sự vi phạm gây ra”. Vậy có thể thấy rằng điều này có nhiều điểm hợp lý song vẫn chưa hoàn chỉnh thể hiện ở chỗ. Nếu bên bị vi phạm HĐKT chứng minh được tổng số thiệt hại (trực tiếp hoặc gián tiếp do vi phạm HĐKT gây ra lớn hơn nhiều so với tổng số tiền phạt cộng với số tiền bồi thường thiệt hại nhận được do vi phạm HĐKT gây ra thì quy định đó không đảm bảo thoả đáng quyền lợi cho bên bị vi phạm hơn nữa không đảm bảo được nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Ngược lại có trường hợp thiệt hại gián tiếp, trong đó lợi nhuận đã bị bỏ lỡ có thể thấp hơn nhiều so với mức tiền phạt vi phạm – HĐKT thì bên bị vi phạm vẫn có quyền tính phạt vi phạm và đòi bồi thường thiệt hại như quy định tại điểm a khoản 2 Điều 29 Pháp lệnh HĐKT. Do vậy nên có thêm quy định: Về nguyên tắc, bên vi phạm có thể lựa chọn hoặc là đòi bồi thường toàn bộ thiệt hại (kể cả số thiệt hại trực tiếp và gián tiếp) khi chứng minh được rằng số thiệt hại đó là do vi phạm HĐKT gây ra, hoặc có thể tính tiền phạt vi phạm hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại như quy định của điều 29 Pháp lệnh HĐKT. Như vậy sẽ thoả đáng và công bằng hơn. Vấn đề miễn giảm trách nhiệm tài sản đã được quy định khá chi tiết, khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh HĐKT và NĐ 17/HĐBT ngày 16/01/1990 quy định đã nêu ra 3 cơ quan có thẩm quyền ra lệnh khẩn cấp: Chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng Chính phủ) Trưởng ban chống bão lụt Trung Ương. Chủ tịch UBND tỉnh, Thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương. Quy định như vậy là chưa công bằng và chưa thật phù hợp với cơ chế thị trường. Quy định bên vi phạm HĐKT được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản trong trường hợp do bên thứ 3 vi phạm HĐKT với bên vi phạm là không hợp lý. Sự vi phạm HĐKT của bên thứ ba không thể được coi là căn cứ để xét miễn, giảm trách nhiệm tài sản. Về mức phạt do vi phạm nghĩa vụ thanh toán Điều 30 pháp lệnh HĐKT có thể bằng mức lãi suất tín dụng quá hạn theo quy định của pháp lệnh và theo điều 13 NĐ 17/HĐBT ngày 16/01/1990 thì trường hợp này không giới hạn mức phạt tối đa. Vấn đề dặt ra ở đây là nếu lãi suất tín dụng quá hạn sẽ thấp hơn mức tối thiểu quy định chung là 2% giá trị phần HĐKT bị vi phạm thì giải quyết như thế nào? Và loại vi phạm nghĩa vụ thanh toán cũng chỉ là một dạng vi phạm, tại sao lại phải tách riêng ra. Để giải quyết những vướng mắc này, theo tôi cần quy định mức phạt do vi phạm nghĩa vụ như các hợp đồng khác. Tiếp theo một vấn đề mà chúng ta phải đề cập đến đó là thủ tục ký kết HĐKT và căn cứ ký kết HĐKT. Về thủ tục ký kết HĐKT là cách thức, các bước và các hành vi mà các bên phải tiến hành nhằm xác lập mối quan hệ hợp đồng có hiệu lực pháp lý. Có 2 cách ký kết hợp đồng kinh tế. Ký kết hợp đồng trực tiếp diễn ra các trường hợp đại diện của các bên trực tiếp gặp nhau để trao đổi bàn bạc thương lượng thoả thuận, thống nhất ý chí, xác định các điều khoản của hợp đồng và cùng ký vào văn bản hợp đồng được coi là hình thành và có hiệu lực pháp lý từ thời điểm 2 bên ký vào văn bản. Ký kết hợp đồng gián tiếp là cách thực ký kết mà theo đó, các bên gửi cho nhau các tài liệu giao dịch (công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng) chứa đựng nội dung của công việc giao dịch và đòi hỏi phải tuân theo một trình tự nhất định thông thường trình tự này gồm hai bước: Bước 1: Một bên đề nghị hợp đồng thông báo ý định bên định mời ký kết. Trong đề nghị phải đưa ra được những yêu cầu về nội dung giao dịch. Thí dụ: Tên hàng, tên công việc, số lượng, chất lượng, giá cả, thời gian, địa điểm, phương thức giao nhận, phương thức thanh toán. Lời đề nghị gửi đi cho bên kia phải rõ ràng và có tính xác định. Bước 2: Bên nhận được đề nghị hợp đồng, có nghĩa vụ trả lời bằng văn bản và gửi cho bên đề nghị hợp đồng, trong đó nghi rõ nội dung chấp nhận nội dung không chấp nhận và những điều bổ sung. Bên kia cũng phải trả lời là có đồng ý phần bổ sung hay không? Hợp đồng ký kết gián tiếp được coi là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận về tất cả các điều khoản chủ yếu của hợp đồng. Căn cứ để xác định là con dấu của bưu điện hoặc ngày ký sổ nhận công văn trực tiếp của bên kia, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với từng loại HĐKT. Qua xem xét các quy định hiện hành về thủ tục ký kết HĐKT có thể thấy các quy định này còn rất sơ sài chưa đủ sức ràng buộc các bên trong việc đề nghị và chấp nhận đề nghị ký kết hợp đồng. Trong các quy định này chúng ta còn thấy dấu ấn của cơ chế cũ. Việc ký kết hợp đồng là một kỷ luật. Nếu các bên không ký thì đã có cơ quan trọng tài kinh tế đôn đốc, kiểm tra và buộc các bên phải ký kết. Do vậy những quy định này không còn phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường khi ký kết hợp đồng là quyền của chủ thể kinh doanh. Do quy định sơ sài mà có thể có hai trường hợp xảy ra mà pháp luật HĐKT chưa dự liệu được. Thứ nhất: Bên đề nghị hợp đồng tuỳ tiện huỷ bỏ lời đề nghị. Thứ hai: Bên nhận đề nghị không trả lời của bên đề nghị. Khiếm khuyết này đã được Bộ luật Dân sự khắc phục trong các Điều 396-398. Được coi là một đề nghị giao kết hợp đồng nếu trong đề nghị ấy nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng. Một lời đề nghị không có nội dung về đối tượng, hợp đồng, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, quyền và nghĩa vụ của các bên và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thì không thể được coi là đề nghị giao kết hợp đồng. Khi một bên đề nghị bên kia giao kết hợp đồng có nêu nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời, thì không được mời người thứ ba giao kết trong thời hạn chờ trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời, thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thể hiện trong thời gian đó, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi hết hạn trả lời, thì lời chấp nhận này được coi là lời đề nghị mới của bên chậm trả lời. Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trường hợp nói qua điện thoại và các phương tiện khác, thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thoả thuận về thời hạn trả lời. Trong trường hợp việc trả lời được chuyển qua bưu điện, thì thời điểm trả lời là ngày gửi đi theo dấu bưu điện. Vấn đề thay đổi hoặc rút đề nghị giao kết hợp đồng cũng đã được đề cập trong Bộ luật Dân sự. Bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau. Bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị. Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị. Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp: Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận hoặc chậm trả lời chấp nhận. b) Hết thời hạn trả lời chấp nhận. Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới. Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị, thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới. Thay mặt cho chủ thể HĐKT để ký HĐKT theo quy định của Pháp lệnh HĐKT và NĐ 17/HĐBT ngày 16/01/1990 là đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh. Đại diện hợp pháp của cá nhân hoặc người được bổ nhiệm hay được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và đang giữ chức vụ đó. Nếu là cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật thì người ký hợp đồng phải là người đứng tên xin giấy phép kinh doanh, được cấy giấy phép kinh doanh và đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong tất cả các trường hợp đều không bắt buộc kế toán trưởng cùng phải ký vào bản hợp đồng. (Đây là điểm khác với điều quy định kế toán trưởng phải cùng ký vào HĐKT trong Điều lệ về chế độ HĐKT ngày 10/03/1975). Trong trường hợp một bên là người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân thì người ký HĐKT phải là người trực tiếp thực hiện công việc trong hợp đồng. Nếu có nhiều người cùng làm thì người ký vào HĐKT phải do những người cùng làm cử ra bằng văn bản trong có chữ ký của tất cả những người đó và phải đính kèm HĐKT. Trường hợp một bên là hộ kinh tế, hộ gia đình, hộ nông dân ngư dân thì đại diện phải là chủ hộ. Khi một bên là tổ chức nước ngoài tại VIệt Nam thì đại diện tổ chức đó phải được uỷ nhiệm bằng văn bản, nếu là cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì bản thân họ là người ký các HĐKT. Người đại diện hợp pháp của pháp nhân và các cá nhân có đăng ký kinh doanh có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình ký kết HĐKT, làm đại diện ký kết trong quá trình thực hiện hợp đồng, cũng như trong tố tụng khi có tranh chấp hợp đồng. Người đại diện theo uỷ quyền chỉ được ký kết HĐKT trong phạm vi uỷ quyền. Nếu người đại diện theo uỷ quyền ký kết HĐKT vượt quá phạm vi uỷ quyền thì phần vượt quá phạm vi uỷ quyền bị coi là vô hiệu. Việc uỷ quyền phải được làm thành văn bản trong đó nghi rõ họ tên, chức vụ, nơi làm việc, giấy chứng minh của người được uỷ quyền, phạm vi uỷ quyền, thời hạn uỷ quyền. Các quy định về ký kết HĐKT trong đó được bỏ khuyết bằng các quy định của BLDS song vẫn còn có một số điểm phải được bổ sung, hoàn thiện. Chẳng hạn, trong trường hợp bên đề nghị không nêu ra thời hạn trả lời thì họ có bị ràng buộc đối với lời đề nghị ký kết hợp đồng hay không? Theo chúng tôi trong việc thành lập HĐKT vấn đề này cần làm rõ. Cần có một quy định sau đây. Trong trường hợp bên đề nghị thì bên đề nghị bị ràng buộc đối với lời đề nghị trong một khoảng thời gian hợp lý trên cơ sở xem xét điều kiện thị trường và tập quán ngành, trong mọi trường hợp khoảng thời gian này không vượt quá 30 ngày kể từ ngày đề nghị có hiệu lực. Việc đưa vào quy định này có mục đích làm cho bên đề nghị bị ràng buộc bởi lời đề nghị, nhưng sự ràng buộc chỉ có hiệu lực trong một khoảng thời gian hợp lý. Không nên bị ràng buộc trong một khoảng thời gian dài và giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ có biến động gây thiệt hại cho các bên. Các quy định về người đại diện ký kết HĐKT của pháp lệnh HĐKT năm 1989 và NĐ số 17/ HĐBT ngày 16/01/1990 của HĐBT (nay là Chính Phủ) có một số điểm không chưa rõ ràng, chính xác. Điều 5 NĐ 17/HĐBT có đưa ra khái niệm đại hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hoặc được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân là người được bổ nhiệm hoặc được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân và đang giữ chức vụ đó. Nếu hiểu đại diện hợp pháp như vậy thì phải chăng những người đại diện theo uỷ quyền thì không phải là đại diện hợp pháp? Khái niệm đại diện hợp pháp theo cách hiểu như vậy chỉ có trong NĐ 17/HĐBT còn trong văn bản pháp luật khác không thấy có. Việc sử dụng thuật ngữ này gây ra khó khăn trong cách hiểu về đại diện hợp pháp trong các quan hệ pháp luật cụ thể, nhất là trong các quan hệ với các tổ chức kinh tế nước ngoài vì có sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Vậy cần phải hiểu khái niệm đại diện một cách đầy đủ như trong các quy định của Bộ luật Dân sự (từ điều 148 đến 157) đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người đứng đầu pháp nhân theo quy định điều lệ của pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân cũng như các chủ thể HĐKT khác có thể uỷ quyền cho người ký kết HĐKT. Riêng ở phần này ta còn thấy quy định hiện hành có khiếm khuyết là không quy định rõ trách nhiệm đối với việc thực hiện hợp đồng là của người được uỷ quyền ký hay của người đứng đầu pháp nhân. Các văn bản pháp luật HĐKT trước pháp lệnh năm 1989 quy định rất rõ; “Thủ trưởng đơn vị ký kết có thể uỷ quyền cho người khác ký thay, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm như chính mình ký (chẳng hạn Điều 9 Điều lệ về chế độ HĐKT ngày 10/03/1975). Có một vấn đề nữa phát sinh: Trong chế định uỷ quyền để ký kết HĐKT có chấp nhận cả hai loại: uỷ quyền theo vụ việc và uỷ quyền thường xuyên hay chỉ chấp nhận uỷ quyền theo vụ việc. Theo quan điểm của chúng tôi cần phải chấp nhận cả hai loại uỷ quyền này với điều kiện mỗi khi ký kết người được uỷ quyền phải xuất trình văn bản uỷ quyền để bên đối tác biết được phạm vi uỷ quyền của người được uỷ quyền. Tiếp đó pháp luật cần quy định hậu quả pháp lý của HĐKT do người không có thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện, cũng như hậu quả pháp lý của HĐKT do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền đại diện. Vấn đề căn cứ ký kết HĐKT, được quy định tại điều 10 Pháp lệnh HĐKT. Theo quy định của điều này, HĐKT được ký kết dựa trên các căn cứ sau đây: Định hướng kế hoạch của Nhà nước, các chính sách, chế độ, các chuẩn mực, kinh tế kỹ thuật hiện hành. Đối với mỗi đơn vị kinh tế ký kết HĐKT là cơ sở để xây dựng kế hoạch, đồng thời HĐKT cũng là phương thức để thực hiện kế hoạch. Kế hoạch của các đơn vị kinh tế dù muốn hay không đều được xây dựng trên cơ sở kế hoạch định hướng của Nhà nước. Đồng thời để đảm bảo tính hiện thực, hợp lý và hợp pháp trong việc xây dựng nội dung của HĐKT, khi ký kết HĐKT các chủ thể phải căn cứ vào các chính sách, chế độ các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành đối với từng loại sản phẩm ngành nghề. - Nhu cầu thị trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng HĐKT luôn luôn gắn liền với quan hệ cung cầu, với sự vận động của thị trường. Trong điều kiện hiện nay nhu cầu thị trường trở thành căn cứ quan trọng nhất để các bên ký kết HĐKT. Chỉ có trên cơ sở nắm vững yêu cầu của thị trường thì các hợp đồng kinh tế mới có tính thực tế, bảo đảm cho đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả, kiếm lời cho mình và thoả mãn nhu cầu của xã hội. - Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của mình. Khi ký kết HĐKT các đơn vị kinh tế phải căn cứ vào các điều kiện chủ quan của mình về tiền vốn, vật tư, năng lực sản xuất năng xuất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng khi ký kết HĐKT các bên cần tìm hiểu xem bạn hàng của mình có hoạt động đúng chức năng, việc ký kết HĐKT có nhằm thực hiện chức năng kinh doanh của mình hay không. - Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng đảm bảo về tải sản của các bên cùng ký kết HĐKT. - Đây là những căn cứ quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp của quan hệ hợp đồng, cũng như đảm bảo khả năng thanh toán của các bên nhằm làm cho HĐKT có đầy đủ cơ sở pháp lý và cơ sở kinh tế để thực hiện trong thực tế cuộc sống. Vấn đề vô hiệu của HĐKT và việc sử lý những HĐKT vô hiệu: quy định tại điều 39 Pháp lệnh HĐKT đã được phân tích ở phần chương I – từ thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế của trọng tài kinh tế Nhà nước và toà án kinh tế, cũng như từ sự nghiên cứu lý luận chúng tôi thấy chế định hợp đồng kinh tế vô hiệu còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót mà vào năm 1989 các nhà soạn thảo pháp lệnh HĐKT không thể lường trước được sự phức tạp của vấn đề này. ở đây chúng tôi đề cập đến một số hạn chế, thiếu sót: Thứ 1: Các văn bản pháp luật về HĐKT chưa quy định các điều kiện có hiệu lực của HĐKT. Trong lúc đó các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là cơ sở không thể thiếu để quy định và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu. Thứ 2: Quy định một HĐKT bị coi là vô hiệu toàn bộ khi nội dung của HĐKT vi phạm điều cấm của pháp luật là qúa rộng, chỉ nên nói đến những điều khoản chủ yếu của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật. Thứ 3: Quy định: “Một trong các bên ký HĐKT không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng” là không phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, chỉ nên coi đây là điều kiện để xác định chủ thể của HĐKT. Thứ 4: Cụm từ “hành vi lừa đảo” dùng không chính xác khi nói về sự vô hiệu của HĐKT, nên thay bằng thuật ngữ “Hành vi lừa dối”. Thứ 5: Các quy định về sử lý hợp đồng vô hiệu khó có thể đem áp dụng đối với sử lý hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và hợp đồng vận chuyển hàng hoá. Thứ 6: Khái niệm “thu nhập bất hợp pháp” là gì chưa được làm rõ. Thứ 7: Quy định thiệt hại phát sinh các bên phải chịu là không hợp lý và công bằng, nên quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên có lỗi. Thứ 8: Pháp lệnh HĐKT chưa phân biệt hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối (có thể vô hiệu) trong lúc đó sự phân biệt này là cần thiết để từ đó xử lý đối với mỗi loại hợp đồng vô hiệu được khách quan và công bằng hơn. Từ sự nghiên cứu thực trạng chúng tôi nêu ra một số kết luận: - Pháp lệnh HĐKT năm 1989 và các văn bản khác về HĐKT được ban hành trong thời đoạn chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy bên cạnh những điểm tiến bộ vượt bậc các văn bản pháp luật hiện hành về HĐKT còn nhiều thiếu sót, bất cập với nhu cầu của đời sống kinh tế đất nước. ở đây có nguyên nhân về mặt chủ quan và về mặt khách quan. +) Về mặt chủ quan đó là nhận thức của chúng ta về kinh tế thị trường và pháp luật trong kinh tế thị trường chưa được đầy đủ. +) Về mặt khách quan là các quan hệ kinh tế ở Việt Nam đang thay đổi và phát triển rất nhanh, do vậy pháp luật về hợp đồng kinh tế chóng trở nên lạc hậu. Với việc ban hành Bộ luật Dân sự ngày 18/10/1995 trong hệ thống pháp luật hợp đồng đã có một văn bản gốc. Các quan hệ hợp đồng kinh tế vẫn do pháp lệnh HĐKT năm 1989 và các văn bản khác về HĐKT điều chỉnh. Nếu trong các văn bản này chưa quy định, hoặc có quy định nhưng chưa đầy đủ thì các chủ thể áp dụng các quy định cảu Bộ luật Dân sự khi ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế. Những thiếu sót bất cập HĐKT đặt ra yêu cầu xây dựng, đổi mới và hoàn thiện các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh giữa các chủ thể. II. Kiến nghị Việc xây dựng đổi mới và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về công việc rất nặng nề và phức tạp song vấn đề quan trọng không kém là phải đưa pháp luật vào đời sống, được mọi người tôn trọng và chấp hành đầy đủ. Nhiệm vụ hiện nay của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN là phải biết kết hợp làm tốt tất cả hai mặt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân đi đôi với nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân làm cho mọi người tự giác sống và làm việc theo pháp luật, kỷ cương xã hội được tôn trọng. Xuất phát từ căn cứ và yêu cầu thực tiễn cuộc sống của Việt Nam và yêu cầu giao lưu kinh tế quốc tế. Việc nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật phải đáp ứng yêu cầu sau: Một là, đường lối đổi mới kinh tế của Đảng cộng sản Sản Việt Nam. Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ chế kinh tế mới cần được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện theo hướng tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường. Phát triền mạnh hàng hoá và dịch vụ, quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản, xây dựng thị trường vốn và từng bước hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh doanh phải căn cứ vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng và góp phần đắc lực vào việc phảt triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường và tạo yếu tố đồng bộ của thị trường. Hai là, về phát triển và thực tiễn hình thành của nền kinh tế thị trường Việt Nam. Chúng ta cần thấy rõ những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nước ta, xu hướng phát triển trong thời gian tới. Nền kinh tế nước ta hiện nay đang ở trong quá trình chuyển đổi giữa hai cơ chế kế hoạch hoá tập chung và cơ chế thị trường. Chúng ta xây dựng kinh tế thị trường trên cơ sở nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, và con đường đi nên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường ở nước ta trong điều kiện hiện nay vẫn là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển. Trong lúc đó tri thức của chúng ta về kinh tế thị trường còn quá ít ỏi. Những nhân tố mới đang trong qua trình hình thành và phát triển kiểm toán, tư vấn, bảo hiểm kinh doanh nhiều vấn đề đã có chủ trương và quy định của Nhà nước nhưng triển khai rất chậm (Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, giải quyết phá sản...) nhiều vấn đề còn đang trong quá trình thử nghiệm (tổ chức thị trường vốn, thị trường chứng khoán Việt Nam...). Từ hoàn cảnh thực tế của Việt Nam có thể thấy rằng chúng ta chưa có đầy đủ các tiền đề cần thiết để xây dựng một khung pháp luật hợp đồng đồng bộ và hoàn chỉnh. Hệ thống pháp luật hợp đồng còn mang tính quá độ. Trong bước chuyển sang kinh tế thị trường hệ thống pháp luật hợp đồng phải linh hoạt mềm dẻo có tính thích nghi cao. Trong việc xây dựng hệ thống pháp luật hợp đồng kinh doanh chúng ta cần tính đến cả nhu cầu phát triển thị trường và yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Ba là, hiện trạng pháp luật hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam và nhu cầu tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật hợp đồng. Như đã phân tích trong chương II, III luận văn này, cho đến thời điểm hiện nay pháp lệnh HĐKT năm 1989 vẫn là văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh doanh. Ngoài pháp lệnh hợp đồng kinh tế các quan hệ hợp đồng kinh doanh còn được điều chỉnh bởi các quy định của nhiều văn bản pháp luật. Chẳng hạn Bộ luật Hàng hải Việt Nam ngày 30/06/1990 có nhiều quy định điều chỉnh các loại hợp đồng vận chuyển bằng tầu biển, hợp đồng cho thuê tàu biển, hợp đồng cứu hộ hàng hải, hợp đồng bảo hiểm hàng hải... Luật hàng không dân dụng Việt Nam ngày 26/12/1991 có quy định điều chỉnh các quan hệ vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn đối với các tổ chức kinh tế và quyết định số 367/QĐNH ngày 21/12/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành thể lệ tín dụng trung và dài hạn đã quy định về hợp đồng tín dụng. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế do ban hành vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới nên chưa theo kịp được sự phát triển nhanh của các quan hệ hợp đồng kinh doanh. Nó chưa thực sự đóng vai trò là văn bản pháp luật chung, văn bản pháp luật chủ yếu về hợp đồng kinh doanh. Sự bất cập của các văn bản pháp luật HĐKT là rõ ràng. Điều này đã được chúng tôi phân tích kỹ trong chương II và III của luận văn này. yêu cầu đặt ra là cần phải đổi mới từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế, làm cho pháp luật về hợp đồng điểu chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ kinh doanh giữa các chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Từ những thực trạng đã nêu ở phần trước, tôi xin nêu một vài ý kiến kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn HĐKT ở nước ta hiện nay và trong tương lai. 1. Khái niệm HĐKT Với quy định hiện hành đòi hỏi hợp đồng kinh tế ít nhất phải có một bên là pháp nhân và cả hai bên đều nhằm mục đích kinh doanh, pháp luật hợp đồng kinh tế không đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế với nhiều quan hệ đa dạng, phong phú, với nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh. Theo hai tiêu chí về mục đích và quan hệ của Hợp đồng dân sự, quy định bên ký Hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân và bên kia có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là quá cứng nhắc. Việc đòi hỏi một bên ký hợp đồng kinh tế là pháp nhân gây ra khó khăn cho toà án khi nhận định thẩm quyền xét xử. Trước đây, công văn số 14/KHXH ngày 13/02/1996 của TANDTC cho rằng một hợp đồng được ký kết giữa pháp nhân với cá nhân và nhóm kinh doanh với mức vốn pháp định quy định cho doanh nghiệp tư nhân thì không phải hợp đồng kinh tế, quan điểm này không phù hợp với pháp lệnh HĐKT năm 1989 và không phù hợp với kinh tế thị trường. Chính vì vậy thông tư số 04/TTLN của TANDTC và VKSNDTC ngày 26/08/1996 đã hướng dẫn lại: Cần áp dụng quy định của điều 2 Pháp lệnh HĐKT để coi hợp đồng có mục đích kinh doanh được ký kết giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh dù không phải là doanh nghiệp tư nhân cũng là HĐKT, do đó các vụ án về tranh chấp hợp đồng kinh tế thuộc loại hợp đồng này do toà án giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án kinh tế. Thông tư số 04/TTLN ngày 26/08/1996 vẫn chưa giải quyết triệt để vấn đề điều kiện HĐKT, hơn nữa nó chỉ là văn bản hướng dẫn áp dụng quy định pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Nó không thể hướng dẫn trái với quy định của pháp lệnh HĐKT năm 1989 . Để phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm cho rằng HĐKT chỉ cần đáp ứng hai điều kiện: - Có một bên tham gia quan hệ hợp đồng là cơ sở kinh doanh (cả doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh). - Cơ sở kinh doanh giao kết hợp đồng nhằm thoả mãn các nhu cầu phát sinh từ hoạt động kinh doanh của mình. Trong qúa trình nghiên cứu về HĐKT có nhiều tác giả đề nghị thay thuật ngữ “HĐKT” bằng thuật ngữ “Hợp đồng Kinh doanh”. điều đáng lưu ý là các tác giả mới đưa ra kiến nghị mà chưa phân tích, lập luận cho sự cần thiết phải thay đổi khái niệm này. Như đã phân tích ở phần chương I, II của luận văn này, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung Nhà nước đã thiết lập chế độ HĐKT. Tên gọi HĐKT phản ánh đúng mục đích của ciệc thiết lập các quan hệ hợp đồng là nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước, đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, chứ không phải nhằm mục đích thu kiếm lợi nhuận, không phải nhằm mục đích “kinh doanh thuần tuý”. Phản ánh đúng phạm vi điều chỉnh của pháp luật HĐKT là các quan hệ hợp đồng vừa mang tính chất tài sản giữa các cơ quan Nhà nước với nhau, giữa các đơn vị kinh tế với nhau. Thuật ngữ “HĐKT” ra đời trong cơ chế cũ không phản ánh đúng thực chất của quan hệ hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau trong việc xác lập các quan hệ hợp đồng. *Trong nền kinh tế thị trường nên thay thế thuật ngữ “HĐKT” bằng thuật ngữ “HĐKD” phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Vì: Thuật ngữ này phản ánh đúng chính xác nội dung và tính chất của quan hệ hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế diễn ra trong lĩnh vực kinh doanh, có tính chất kinh doanh và nhằm mục đích sinh lời. Trong pháp luật hiện hành khái niệm kinh doanh đã được định nghĩa là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, tư sản luật đến tiêu thụ hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời Điều 3 Luật công ty ngày 21/12/1990, Điều 2 Luật doanh nghiệp tư nhân ngày21/12/1990. Việc dùng khái niệm “Hợp đồng kinh doanh“ chứng tỏ đã thực sự quan điểm mới về vai trò của hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, từ đó có những giải pháp thích hợp về việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh doanh. Về hình thức HĐKT, pháp lệnh HĐKT năm 1989 quy định hình thức hợp đồng là văn bản hoặc tài liệu giao dịch như đơn chào hàng, đơn đặt hàng... Tuy nhiên, trường hợp xét về thực chất các bên có quan hệ hợp đồng kinh tế với nhau cũng do không được ký kết với những hình thức của hợp đồng nên không được coi là HĐKT. Trong điều kiện hiện nay kỹ thuật thông tin rất phát triển, các doanh nghiệp tiết kiệm thời gian thường dùng phương tiện thông tin hiện đại để giao tiếp, ký kết hợp đồng. Do vậy nếu chỉ quy định hình thức của hợp đồng là một văn bản và một số tài liệu giao dịch là không phù hợp. Chúng ta cần có cách quy định bao quát hơn. HĐKT được giao kết dưới hình thức văn bản và bằng lời (theo nghĩa rộng). Ngoài ra, một số quy định của pháp luật về HĐKT và HĐDS chưa rõ ràng và thiếu tính thống nhất. Bên cạnh yếu tố chủ thể thì mục đích của việc xác lập quan hệ hợp đồng kinh tế cũng có thể được xem là căn cứ để phân biệt HĐKT và HĐDS. Trước khi có Bộ luật dân sự thì vấn đền này được quy định rất rõ ràng trong pháp lệnh HĐKT và pháp lệnh HĐDS. Hiện nay, khi mục đích của giao dịch dân sự nói chung của HĐDS nói riêng không được quy định cụ thể là nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng mà được quy định chung ở mục đích “lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được”. Điều 132 BLDS thì sự HĐKT với HĐDS dựa vào tiêu chí mục đích của sự thảo thuận sẽ trở nên khó khăn hơn. Khi pháp lệnh HĐKT vẫn có hiệu lực, để xác định một quan hệ trao đổi có phải HĐKT hay không thì bên cạnh các yếu tố chủ thể, hình thức giao dịch ta vẫn phải xác định mục đích kinh doanh hay không kinh doanh của chủ thể trong quan hệ đó. Nhưng chính cơ sở pháp lý cần thiết đó lại chưa được quy định rõ trong các quy định của pháp luật về HĐKT. Điều 1 Pháp lệnh HĐKT quy định mục đích kinh doanh chưa rõ đòi hỏi cho cả 2 bên hay chỉ một bên. Mục đích của sự thoả thuận nếu không phải kinh doanh, sinh hoạt, tiêu dùng thì đó là mục đích gì? Ngoài ra cũng cần có quy định rõ hơn giá trị pháp lý của hợp đồng khi vi phạm hình thức ký kết. Tính thiếu thống nhất trong các quy định của pháp luật về hợp đồng biểu hiện trước tiên ở quy định về chủ thể HĐKT Điều 2 Pháp lệnh HĐKT và điều 2 mục I Thông tư 11 TT-PL ngày 25/05/1992. HĐKT được mở rộng phạm vi chủ thể không nhất thiết phải có sự tham gia của pháp nhân. Tính thiếu thống nhất còn phản ánh trong các quy định khác nhau của pháp luật về cùng vấn đề trong nội dung của hợp đồng. 2. Nội dung của HĐKT: Trong một văn bản pháp luật chung về HĐKT như Pháp lệnh HĐKT để có thể bao quát nhiều loại HĐKT theo chúng tôi thì chỉ nên quy định những nội dung chủ yếu của một HĐKT như: đối tượng của hợp đồng, số lượng, giá, phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm phương thức thực hiện hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Trong các văn bản về từng loại HĐKT sẽ quy định những điều khoản cụ thể của loại HĐKT đó. Các văn bản về từng loại HĐKT phải cụ thể và đầy đủ để ngăn ngừa việc lợi dụng ký hợp đồng vì mục đích kiếm lời cá nhân, đơn vị mình làm thiệt hại cho Nhà nước, xã hội trong hoàn cảnh Việt Nam việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Chính phủ, các Bộ) đưa ra những mẫu hợp đồng với những điều khoản đầy đủ, cụ thể là rất cần thiết. 3. Hợp đồng kinh tế vô hiệu: Pháp lệnh HĐKT đã được Nhà nước ta ban hành ngày 25/09/1989, pháp lệnh ra đời là một bước phát triển mới của pháp luật về HĐKT của nước ta. Nó đã thể chế hoá được những tư tưởng lớn về đổi mới quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước. Pháp lệnh HĐKTvà các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo thành một hệ thống các quy phạm pháp luật, làm cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ HĐKT trong cơ chế kinh tế mới hiện nay. Trong pháp lệnh, vấn đề HĐKT vô hiệu đã được đề cập tới trong đó quy định các trường hợp HĐKT vô hiệu toàn bộ và từng phần. Để góp phần hoàn thiện việc xây dựng hệ thống pháp luật và HĐKT vô hiệu, hạn chế sự vi phạm pháp luật, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến nhằm góp phàn sửa đổi, bổ sung các quy định về HĐKT vô hiệu và các văn bản hướng dẫn liên quan. Về hình thức: Điều 8 Pháp lệnh HĐKT chưa quy định các trường hợp hợp đồng kinh tế vô hiệu về hình thức. Vì vậy cần bổ sung các trường hợp HĐKT vô hiệu như: HĐKT không được ký kết dưới hình thức văn bản, không đựơc đăng ký công chứng, xin phép tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà pháp luật bắt buộc. Về nội dung: HĐKT còn một số vấn đề cần thống nhất cụ thể là: + Đối với điểm A khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT, Nhà nước cần ban hành văn bản pháp lệnh hướng dẫn cụ thể, thống nhất về quy định nội dung HĐKT vi phạm điều cấm của pháp luật. Vì nhân dân HĐKT vi phạm điều cấm của pháp luật ở đây là gì, điểm chung nhất là gì? Trên thực tế có nhiều cách hiểu về quy định này. Cụ thể về nội dung vi phạm điều cấm của Pháp lệnh hiện nay còn tồn tại ba quan điểm khác nhau. Vi phạm toàn bộ nội dung, vi phạm điều khoản chủ yếu, vi phạm điều khoản về đối tượng. Từ đó dẫn đến việc trong thực tiễn áp dụng pháp luật theo nhiều cách khác nhau, dẫn đến mâu thuẫn nhau. + Đối với điểm b khoản 1 điều 8 Pháp lệnh HĐKT. Để thực hiện công việc trong hợp đồng theo quy định của pháp luật. Cơ quan có thẩm quyền cần quy định rõ trường hợp nào cần có các bên có đăng ký kinh doanh phù hợp với công việc có trong hợp đồng. Vì hiện nay trên thực tế các hợp đồng liên doanh, liên kết với nước ngoài đòi hỏi phải có sự năng động, nhạy bén, thời cơ của các chủ thể HĐKT. Do vậy pháp luật cần quy định cụ thể trong một số trường hợp HĐKT được ký kết và thực hiện, nhưng không có đăng ký kinh doanh vẫn có hiệu lực pháp luật và tiếp tục được thực hiện. Quy định như vậy sẽ tạo sự chủ động cho các bên trong hoạt động kinh doanh đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên, đặc biệt là trong thời kỳ mở cửa, làm ăn với các cá nhân nước ngoài hiện nay. Khi xử lý cần tính đến trường hợp: Khi ký kết hợp đồng không có đăng ký kinh doanh (chỉ có giấy phép thành lập) nhưng khi thực hiện lại có giấy phép kinh doanh, mà mục đích đạt đến của các bên hoàn toàn phù hợp với lợi ích xã hội: + Đối với điểm c khoản 1 điều 8 - Pháp lệnh HĐKT quy định “người ký kết HĐKT không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo ...” Thuật ngữ lừa đảo mới chỉ được dùng trong pháp luật hình sự, còn trong pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về hợp đồng kinh tế nói riêng chưa có quy định. Trong Bộ luật dân sự có thuật ngữ “lừa dối”. Tuy nhiên thuật ngữ “lừa dối” hẹp hơn thuật ngữ “lừa đảo” theo chúng tôi cần thay đổi thuật ngữ “lừa đảo” bằng thuật ngữ “gian dối” để tránh nhầm lẫn trong công tác xét xử của Toà án. Trong thực tế hiện nay các chủ thể tham gia ký kết HĐKT còn có một số trường hợp ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng, cụ thể như ký kết HĐKT do một bên bị cưỡng bức, đe doạ, ký kết HĐKT do nhầm lẫn, ký kết HĐKT do người xác lập không nhận thức được hành vi của mình, người ký HĐKT bị hạn chế năng lực hành vi. Đối với những trường hợp trên NLHV của họ được xác lập. Tuy nhiên vào đúng thời điểm không nhận thức và điều khiển được hành vi của mình hoặc do nhầm lẫn về mặt nội dung chủ yếu của hợp đồng, hoặc một bên cố ý cưỡng bức đe doạ mà bên kia phải ký kết hợp đồng kinh tế, theo chúng tôi đối với những trường hợp như vậy, tư cách chủ thể không đảm bảo dẫn đến việc ký kết HĐKT không được khách quan. Cần xác định đây là HĐKT vô hiệu cần áp dụng biện pháp chế tài theo quy định của pháp luật. 4. Trách nhiệm tài sản do vi phạm HĐKT. Các quy định hành về trách nhiệm tài sản do vi phạm HĐKT được pháp lệnh HĐKT quy định khá cụ thể, chi tiết và nhiều điểm mới. Tuy nhiên như đã phân tích ở phần trước có một số điểm cần được sửa đổi, xem xét lại. Khoản 2 Điều 40 Pháp lệnh HĐKT quy định: Khi đã phải thi hành lệnh khẩn cấp thì các bên tham gia hợp đồng đã thực hiện một hành vi phục vụ lợi ích chung của xã hội nên được miễn hoặc giảm trách nhiệm vật chất. Tuy nhiên vấn đề này cần được xem xét lại dưới góc độ thị trường, các cơ quan ra lệnh khẩn cấp cũng cần tính đến khả năng bồi hoàn, bù đắp từ ngân sách cho các phí tổn và thiệt hại cho các bên phải gánh chịu do HĐKT không thực hiện được. Nghị định 17 - HĐBT ngày 16/01/1990 đã nêu ra ba cơ quan có thẩm quyền ra lệnh khẩn cấp thì cũng cần phải quy định rõ những trường hợp nào là trường hợp khẩn cấp, mà chỉ trong những trường hợp đó các chủ thể có thẩm quyền mới có quyền ra lệnh khẩn cấp. Có quy định chư vậy thì mới đảm bảo được lợi ích của các chủ thể kinh doanh. Khoản 3 Điều 40 Pháp lệnh - HĐKT quy định: “Bên vi phạm hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản trong trường hợp do bên thứ ba vi phạm”. Trong cơ chế thị trường, quy định trên là hoàn toàn không phù hợp. Không thể coi sự vi phạm HĐKT do nguyên nhân bị bên thứ 3 vi phạm HĐKT khác là cơ sở sở miễn giảm trách nhiệm HĐKT. Nếu quy định như vậy sẽ là cơ sở để một bên vin vào lý do bên thứ ba gây thiệt hại để lẩn tránh trách nhiệm với bên kia. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng không thể xác định được trách nhiệm HĐKT khi nó bị vi phạm. Do vậy cần loại bỏ khoản 3 Điều 40 Pháp lệnh HĐKT. Theo quy định của khoản 2 điều 29 Pháp lệnh HĐKT đã trình bảy ở phần Chương II có thể thấy rằng công thức này đã có những điểm hợp lý, nhưng chưa hoàn chỉnh thể hiện ở chỗ. Nếu bị vi phạm HĐKT chứng minh được tổng số thiệt hại (trực tiếp hoặc gián tiếp) do vi phạm HĐKT gây ra lớn hơn nhiều so với tiền phạt cộng... thì quy định như trên chưa thật thoả đáng, chưa thực hiện triệt để nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi đã ghi trong điều 3 Pháp lệnh HĐKT. Vì vậy, theo chúng tôi nên có thêm quy định: bên bị vi phạm có thể lựa chọn hoặc đòi hỏi bồi thường toàn bộ thiệt hại (kể cả thiệt hại trực tiếp và gián tiếp) khi chứng minh được rằng số thiệt hại đó là do vi phạm HĐKT và bồi thường thiệt hại như quy định tại Điều 29 Pháp lệnh HĐKT. Như vậy sẽ thoả đáng và công bằng hơn. 5. Các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT: Trong các văn bản pháp luật HĐKT của nước ta có quy định về các biện pháp bảo đảm về mặt tài sản cho việc thực hiện HĐKT. Tuy nhiên các quy định này còn chưa rõ ràng cụ thể, có nhiều điểm có thể gây nhầm lẫn khi áp dụng. Các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT chưa được quy định rõ là một điều kiện của hợp đồng hay là một bộ phận phụ của hợp đồng gây ra sự áp dụng một cách tuỳ tiện. Do đó, theo chúng tôi các biện pháp này phải được quy định cụ thể, chính xác, để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện hợp đồng đã ký một cách nghiêm chỉnh. Đối với biện pháp cầm cố thế chấp tài sản chúng tôi có một số ý kiến sau: Theo quy định của pháp luật thì nghĩa vụ của người gửi tài sản thế chấp và cầm cố được quy định không cụ thể, không chính xác. Chẳng hạn Pháp lệnh HĐKT quy định: Người nhận tài sản thế chấp hoặc cầm cố phải giữ nguyên giá trị tài sản cầm cố hay thế chấp. Điều này không thể thực hiện được bởi lẽ dưới sự tác động của thời gian, môi trường, sự phát triển thay đổi tự nhiên của động sản, bất động sản các tài sản cầm cố và thế chấp sẽ không còn nguyên giá trị ban đầu. Quy định trên dẫn đến việc người nhận cầm cố, thế chấp phải chịu trách nhiệm về sự mất mất hư hỏng của tài sản do những nguyên nhân khách quan hoàn toàn không thuộc về lỗi của họ. Các quy định này hạn chế hoạt đồng cầm cố, thế chấp với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế. Điều 334 - điều 353 BLDS đã khắc phục được nhược điểm trên. Nghĩa vụ của người gửi tài sản, thế chấp, cầm cố được quy định một cách cụ thể rõ ràng và hợp lý. Cụ thể là bên nhận cầm cố thế chấp tài sản không phải có nghĩa vụ giữ nguyên giá trị tài sản thế chấp, cầm cố nữa mà có thể khai thác công dụng hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản đó nếu được bên cầm cố, thế chấp đồng ý, yêu cầu. Quy định của pháp luật HĐKT và Bộ luật dân sự đòi hỏi tài sản đem thế chấp, cầm cố phải thuộc quyền sở hữu của chính người đem thế chấp, cầm cố. Điều này có thể gây khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cảu các chủ thể. Trên thực tế, có những cơ quan đơn vị, tổ chức (ví dụ doanh nghiệp Nhà nước) được Nhà nước cấp hoặc giao một bộ phận tài sản thuộc sở hữu Nhà nước cho các đơn vị này sử dụng phcụ vụ hoạt động sản xuất kinh doanh như đất đai, nhà cửa, kho tàng,bến bãi... Các đơn vị này không là sở hữu đối với những tài sản trên mà chỉ có quyền sử dụng chúng. Theo pháp luật HĐKT, khi ký kết HĐKT, họ không được phép đem những tài sản đó thế chấp, cầm cố để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Nhưng theo doanh nghiệp Nhà nước ngày 20/04/1995 họ lại có các quyền này. Do vậy để giải quyết mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật về HĐKT có thể quy định tài sản đem thế chấp, cầm cố không những là những bất động sản, bất động sản thuộc sở hữu của mình mà còn có thể là những quyền về tài sản. Quy định này sẽ phản ánh đựơc các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, và thực tế của xã hội, nền kinh tế nước ta nhất là sở hữu về đất đai. Chẳng hạn hiện nay để đảm bảo cho việc thực hiện HĐKT, các đơn vị kinh tế thường đem thế chấp đất đai (loại tài sản chỉ được Nhà nước giao cho quyền sử dụng chứ không giao cho quyền sở hữu). Điều 360 BLDS giải quyết được phần nào vướng mắc trên khi quy định tại khoản 2: “Trong trường hợp sử lý tài sản thế chấp để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn, thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký thế chấp”. Trong pháp luật HĐKT cũng cần có những quy định tương tự. Các nhận xét, kiến nghị của chúng tôi về khái niệm hợp đồng, chủ thể hình thức hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng và sử lý hợp đồng vô hiệu, các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng... có thể là những gợi ý để soạn thảo pháp lệnh hợp đồng kinh tế (sửa đổi) theo chúng tôi không nên chỉ sửa đổi một số điều của Pháp lệnh HĐKT mà phải sửa đổi theo hướng đổi mới tương đối toàn diện, đồng bộ, do vậy ít ra chúng ta cần xây dựng Pháp lệnh HĐKT. Hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh bao gồm: BLDS, Pháp lệnh HĐKT (sửa đổi) các luật về từng lĩnh vực hoạt động kinh tế (chẳng hạn : trong luật Ngân hàng, luật hàng không dân dụng... có những quy định liên quan đến hợp đồng trong hoạt động tín dụng, xây dựng cơ bản và vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không...) các nghị định về từng loại HĐKT cụ thể. Khi soạn thảo các văn bản về từng loại HĐKT cần căn cứ vào các quy định chung của BLDS, pháp lệnh HĐKT (sửa đổi) và các đạo luật có liên quan. Hiện nay các quy định pháp luật về từng loại HĐKT còn rất sơ sài chung chung, không cụ thể và đầy đủ, do đó một số người đã lợi dụng sở hở của pháp luật để ký kết HĐKT nhằm phục vụ lợi ích riêng cho cá nhân, đơn vị mình gây thiệt hại lớn cho bên đối tác, cho Nhà nước và cho xã hội. Do vậy việc ban hành các quy định chi tiết về từng loại hợp đồng, trong hoàn cảnh hiện nay là việc làm rất cần thiết. Từ thực trạng và kiến nghị vừa được trình bày là cơ sở để tác giả luận văn rút ra những kết luận sau đây: Việc xây dựng đổi mới và hoàn thiện HĐKT ở Việt Nam cần xuất phát từ đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam thực tiễn hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường Vịêt Nam, hiện trạng pháp luật HĐKT. Để phù hợp với kinh tế thị trường HĐKT cần được xây dựng, đổi mới và hoàn thiện các quy định về khái niệm HĐKT, nội dung HĐKT, trách nhiệm tài sản do vi phạm HĐKT, các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT. Đây chính là nội dung chủ yếu của HĐKT cần được đổi mới và hoàn thiện. Hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh bao gồm BLDS, pháp lệnh HĐKT (sửa đổi) các luật về từng lĩnh vực hoạt động kinh tế, các nghị định về từng loại HĐKT cụ thể. Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam luật thương mại chưa thể điều chỉnh tất cả các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh. Do vậy cần sửa đổi pháp lệnh HĐKT và ban hành Nghị định về từng loại HĐKT. Kết luận Qua việc nghiên cứu, phân tích và hệ thống hoá lại các tài liệu tham khảo tôi có thể đưa ra các kết luận chủ yếu sau đây. Trong mọi chế độ xã hội hợp đồng tồn tại với tính cách là hình thức của mối quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể trong xã hội. Pháp luật hợp đồng chính là sự ghi nhận về mặt pháp lý các mối quan hệ trao đổi giữa các chủ thể. HĐKT và pháp luật HĐKT lệ thuộc vào cơ chế kinh tế, mà trong xã hội cơ chế kinh tế quyết định HĐKT. Mỗi một cơ chế kinh tế có một loại hợp đồng thích hợp với mình. Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường HĐKT có sự thay đổi về chất. Tự do hợp đồng dần dần được khẳng định như là một trong những nội dung không thể thiếu của tự do kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần với đa dạng về hình thức sở hữu, HĐKT cần được ký kết theo các nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi, HĐKT trong lĩnh vực kinh doanh phải thực sự là thoả thuận, thống nhất ý chí của các chủ thể kinh doanh. Trong nhiều năm ở Việt Nam nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp đã được hình thành và phát triển. HĐKT xét về cội nguồn là "con đẻ" của cơ chế quản lý tập trung và bao cấp. Hợp đồng được sử dụng như một công cụ để hợp thức hoá kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước trong hợp đồng kinh tế, ý chí của Nhà nước chi phí ý chí của các bên, yếu tố kế hoạch lấn át yếu tố quan hệ hàng hoá tiền tệ, yếu tố mệnh lệnh hành chính từ phía Nhà nước làm cho sự thoả thuận của các bên hầu như không đáng kể. Việc xây dựng đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật về HĐKT đã trở thành nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế nước ta. Để xây dựng được một hệ thống các văn bản pháp luật về HĐKT đồng bộ và chất lượng cần căn cứ vào thực tiễn hình thức và phát triển kinh tế ở Việt Nam, hiện trạng pháp luật hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh và nhu cầu tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật hợp đồng. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế phải được đặt trong công cuộc đổi mới toàn bộ hệ thống pháp luật hợp đồng kinh tế của Việt Nam. Điều kiện hiện nay của Việt Nam hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng kinh tế bao gồm: BLDS, Luật Thương mại, Pháp luật HĐKT (sửa đổi), các luật về từng lĩnh vực hoạt đông kinh tế và các văn bản dưới luật về từng loại hợp đồng cụ thể. Khi soạn thảo pháp lệnh hợp đồng kinh tế (sửa đổi) và các văn bản pháp luật khác về HĐKT thì các nhận xét, kiến nghị của chúng tôi có thể là tài liệu tham khảo hữu ích để góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế nói riêng và hệ thống pháp luật của nước ta nói chung. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0057.doc
Tài liệu liên quan