Công tác tổ chức thực hiện Luật thuế GTGT đóng vai trò quyết định để cho chính sách thuế GTGT thật sự đi vào đời sống kinh tế-xã hội một cách hữu hiệu. Vì vậy cần thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các biện pháp sau:
- Chú trọng thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ thuế và trang bị phương tiện hiện đại cần thiết đáp ứng yêu cầu của dông tác quản lý thu thuế GTGT. Đây là khâu quan trọng quyết định tính thực thi, tính hiệu quả của chính sách thuế GTGT, bởi việc quản lý thu thuế GTGT rất phức tạp nên nếu trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thuế yếu hay thiết bị phương tiện quản lý lạc hậu sẽ không thể quản lý tốt thuế GTGT, làm gia tăng hiện tượng trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Nếu thuế GTGT được quản lý tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy thực hiện nghiêm túc công tác sổ sách, chứng từ hoá đơn, giúp khắc phục được tình trạng thất thu thuế. Có chính sách động viên hợp lý đội ngũ cán bộ ngành thuế, nhất là ở cơ sở, kết hợp công tác giáo dục thường xuyên và quản lý chặt chẽ đội ngũ này để chống tiêu cực lệch lạc.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực tiễn áp dụng luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh doanh độc lập, hộ gia đình, các cá nhân hợp tác với nhau sản xuất kinh doanh không hình thành pháp nhân).
Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.
b/ Xác định thuế GTGT phải nộp
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra là giá bán thực tế bên mua phải thanh toán cho bên bán bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả.
Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với hàng hoá, dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào (giá mua bao gồm cả thuế GTGT) mà cơ sở sản xuất, kinh doanh đã dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên GTGT không được tính giá trị tài sản mua ngoài, đầu tư xây dựng làm tài sản cố định vào doanh số hàng hoá, dịch vụ mua vào để tính GTGT.
GTGT xác định đối với một số ngành nghề như sau:
Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng, GTGT là số chênh lệch giữa doanh số bán với doanh số vật tư hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh.
Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt, GTGT là số chênh lệch giứa tiền thu về xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư nguyên liệu, chi phí động lực, vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình.
Đối với hoạt động vận tải, GTGT là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp trừ chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải.
Đối với hoạt động kinh doanh ăn uống, GTGT là số chênh lệch giữa tiền thu về bán hàng ăn uống, tiền phục vụ và các khoản thu khác trừ doanh số hàng hoá, dịch vụ mua ngoài dùng cho kinh doanh ăn uống.
Đối với các hoạt động kinh doanh khác, GTGT là số chênh lệch giữa tiền thu về hoạt động kinh doanh trừ doanh số hàng hoá, dịch vụ mua ngoài để thực hiện hoạt động kinh doanh đó.
Doanh số hàng hoá, dịch vụ bán ra bao gồm cả các khoản phụ thu, phí thu thêm ngoài giá bán mà cơ sở kinh doanh được hưởng, không phân biệt đã thu tiền hay chưa thu được tiền.
Doanh số hàng hoá, dịch vụ mua vào bao gồm cả các khoản thuế và phí đã trả tính trong giá thanh toán hàng hoá, dịch vụ mua vào hoặc hàng hoá nhập khẩu.
c/ Phương pháp xác định GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh như sau:
Đối với từng cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác định căn cứ vào giá mua, bán ghi trên chứng từ.
Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ hoá đơn, chứng từ bán hàng hoá, dịch vụ, xác định được đúng doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ theo đơn bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ thì GTGT được xác định bằng doanh thu nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu.
Đối với cá nhân (hộ) kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định mức doanh thu tính thuế GTGT được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu.
Tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu sẽ được tổng cục thuế hướng dẫn các cục thuế xác định phù hợp từng nghành nghề kinh doanh và hợp lý giữa các địa phương.
IV/ Quy định về hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ.
1. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế phải sử dụng hoá đơn GTGT (trừ trường hợp được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT)
2. Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế trực tiếp trên GTGT và các cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT sử dụng hoá đơn thông thường. Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn là giá thực thanh toán đã có thuế GTGT (đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT).
3. Cơ sở kinh doanh muốn sử dụng hoá đơn, chứng từ khác với mẫu quy định chung (kể cả loại hoá đơn tự phát hành) phải đăng ký với Bộ Tài chính (Tổng cục thuế) và chỉ được sử dụng khi đã được thông báo bằng văn bản cho sử dụng.
4. Cơ sở kinh doanh trực tiếp bán lẻ hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ có giá trị thấp dưới mức quy định phải lập hoá đơn thì có thể không phải lập hoá đơn. Nếu cơ sở không lập hoá đơn thì phải lập bảng kê bán lẻ theo mẫu số 05/GTGT để làm căn cứ tính thuế GTGT; trường hợp người mua yêu cầu lập hoá đơn bán hàng thì phải lập hoá đơn theo đúng quy định.
5. Cơ sở kinh doanh mua các mặt hàng là nông sản, lâm sản, thuỷ sản của người sản xuất trực tiếp bán ra hoặc ngưòi không kinh doanh bán, nếu không có hoá đơn theo chế độ quy định thì phải lập bảng kê hàng hoá mau vào theo mẫu số 04/GTGT.
Cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc quản lý , sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định về chế độ hoá đơn, chứng từ do Bộ tài chính ban hành.
V. Hoàn thuế GTGT
1. Đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế GTGT
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế đựơc xét hoàn thuế nếu có số thuế đầu vào được khấu trừ của 3 tháng liên tục lớn hơn số thuế đầu ra. Những cơ sở kinh doanh xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng thời kỳ với số lượng lớn, nếu phát sinh số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá xuất khẩu lớn hơn so với thuế đầu ra thì đựơc xét hoàn thuế GTGT từng kỳ.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nợp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, có đầu tư mua sắm TSCĐ, có số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn:
Đối với cơ sở đầu tư mới đã đăng ký nộp thuế nhưng chưa có doanh thu bán hàng phát sinh để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên đựơc xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Trường hợp số thuế được hoàn lớn thì được xét hoàn thuế từng quý.
Trường hợp cơ sở mới đầu tư nhưng chưa thành lập doanh nghiệp hoặc chưa đăng ký nộp thuế thì không thuộc đối tượng được hoàn thuế.
Đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư đã khấu trừ sau 3 tháng mà chưa được khấu trừ hết thì được hoàn lại số thuế chưa được khấu trừ này.
Cơ sở thuộc đối tượng quy định được hoàn thuế trên đây phải lập hồ sơ theo quy định chung, cơ sở phải gửi kèm theo luận chứng hay dự án đầu tư.
Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thế, phá sản có thuế GTGT nộp thừa.
Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế trong trường hợp có quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Quyết định của bộ trưởng bộ tài chính yêu cầu phải hoàn lại thuế cho cơ sở kinh doanh.
2. Thẩm quyền giải quyết hoàn thuế.
Chi cục thuế giải quyết hoàn thuế đối với các cá nhân kinh doanh do chi cục quản lý; Cục thuế giải quyết hoàn thuế đối với các đối tượng do cục thuế quản lý; Bộ trưởng Bộ Tài chính giải quyết đối với các trường hợp đặc biệt và các Tổng công ty 90/TTg, 91/TTg.
3. Thời hạn giải quyết hoàn thuế.
Thời hạn xét giải quyết hoàn thuế cho cơ sở đối với cơ quan thuế là 15 ngày, kể từ này nhận được đầy đủ hồ sơ, trường hợp đặc biệt cũng không được kéo dài quá 30 ngày. Nếu cần bổ sung hồ sơ hoặc xét thấy không được hoàn thuế thì cơ quan thuế phải thông báo cho cơ sở biết trong thời hạn là 10 ngày, kể từ ngày nhận đựơc hồ sơ. Kho bạc có trách nhiệm làm thủ tục hoàn trả tiền thuế cho cơ sở trong thời hạn là 5 ngày, kể từ ngày nhận đựơc quyết định hoàn thuế của cơ quan thuế.
VI. Đăng ký, kê khai nộp thuế, quyết toán thuế
1. Đăng ký nộp thuế.
Các cơ sở kinh doanh, kể cả các đơn vị, chi nhánh cửa hàng trực thuộc các cơ sở kinh doanh chính phải đăng ký nộp thuế với cục thuế (hoặc chi cục thuế nếu là cá nhân kinh doanh) về địa điểm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, lao động, tiền vốn, nơi nộp thuế và các chỉ tiêu liên quan khác theo mẫu quy định.
Đối với cơ sở mới thành lập, thời gian đăng ký chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày cơ sở được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Cơ sở hoạt động ở một số địa phương nhưng có trụ sở, văn phòng giao dịch làm thủ tục bán hàng ở một địa phương khác thì cơ sở bán hàng cũng phải đăng ký nộp thuế GTGT với cơ quan thuế địa phương nơi bán hàng (địa phương được xác định là tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).
Những cơ sở kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ có chi nhánh cửa hàng ở các địa phương khác nhau thì từng chi nhánh cửa hàng phải đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi đặt chi nhánh, cửa hàng.
Các tổ chức, cá nhân thực hiên dịch vụ tư vấn, khảo sát, thiết kế đăng ký, kê khai nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi xây dựng công trình.
Cơ sở thực hiện cơ chế khoán cho tập thể, cá nhân kinh doanh theo phương thức tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh thì tập thể, cá nhân khoán phải trực tiếp đăng ký, kê khai, nộp thuế GTGT với cơ quan thuế nơi kinh doanh.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên GTGT, nếu thực hiện đúng, đủ các điều kiện mua, bán hàng hoá, dịch vụ có đầy đủ hoá đơn, chứng từ, ghi chếp hạch toán sổ kế toán đúng chế độ, kê khai nộp thuế GTGT đúng chế độ và tự nguyện đăng ký thực hiện hình thức nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế thì có thể được áp dụng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
2. Kê khai thuế GTGT phải nộp NSNN.
Các cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT phải lập và gửi tờ khai tính thuế GTGT từng tháng kèm theo bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra theo các mẫu quy định (mẫu 01/GTGT, 02/GTGT, 03/GTGT, 04/GTGT, 05/GTGT, 06/GTGT). Thời gian gửi tờ khai của tháng cho cơ quan thuế chậm nhất là trong 10 ngày đầu của tháng tiếp theo. Trường hợp không phát sinh doanh số bán hàng hoá, dịch vụ, thuế đầu vào, thuế đầu ra, cơ sở kinh doanh vẫn phải kê khai và nộp tờ khai cho cơ quan thuế.
Cơ sở nhận thầu xây dựng mà thời gian xây dựng kéo dài, việc thanh toán tiền thực hiện theo tiến độ hoặc theo khối lượng công việc hoàn thành bàn giao thì phải kê khai và xác định thuế tạm nộp phát sinh hàng tháng tính theo số tiền tạm thanh toán. Khi lập hóa đơn thanh toán khối lượng xây lắp bàn giao cũng phải xác định rõ phần doanh thu chưa có thuế và thuế GTGT. Nếu không xác định rõ thì thuế GTGT đầu ra tính trên tổng doanh thu đã thanh toán.
Cơ sở xuất hàng bán thông qua các đại lý, ký gửi phải lập hoá đơn ghi rõ giá giao và thuế GTGT hàng giao cho các đại lý, ký gửi làm cơ sở tính thuế đầu ra và thuế phải nộp của tháng (coi là tạm nộp). Khi kết thúc hợp đồng hoặc kết thúc năm tài chính, cơ sở thực hiện kê khai quyết toán hàng thực tế đã bán để xác định thuế GTGT phải nộp theo thực tế.
Cơ sở bán hàng đại lý, ký gửi kê khai thuế GTGT phải nộp tính trên doanh thu của hoạt động đại lý, ký gửi theo phương pháp áp dụng đối với cơ sở.
Đối với đại lý bán vé xổ số kiến thiết hưởng hoa hồng, thuế GTGT do các công ty xổ số kiến thiết kê khai nộp tập trung tại công ty.
Đối với các Tổng công ty, công ty có các đơn vị trực thuộc:
Các đơn vị hạch toán độc lập và các đơn vị hạch toán phụ thuộc xác định được thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào phải kê khai, nộp thuế tại địa phương nơi cơ sở kinh doanh.
Các đơn vị hạch toán phụ thuộc, thực hiện hạch toán giá mua, bán hàng hoá, dịch vụ theo giá điều chuyển nội bộ, không xác định được doanh thu, thuế GTGT phải nộp thì Công ty hoặc Tổng công ty kê khai, nộp thuế tập trung thay cho các đơn vị hạch toán phụ thuộc.
Các đơn vị trực thuộc như: bệnh viện, trạm xá, nhà nghỉ điều dưỡng, viện, trường .. không trực tiếp kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT không phải kê khai, nộp thuế và không được khấu trừ hay hoàn trả thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ do cơ sở mua để dùng cho hoạ động của cơ sở. Nếu đơn vị có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thì phải hạch toán riêng và kê khai, nộp thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế.
2. Các tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hoá dịch vụ chịu thuế tại Việt Nam nhưng không có văn phòng hay trụ sở điều hành tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân ở Việt Nam trực tiếp ký hợp đồng tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ với tổ chức, cá nhân nước ngoài phải thực hiện kê khai, nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài trước khi thanh toán tiền trả cho phía nước ngoài.
3. Cơ sở nhập khẩu có hàng hoá chịu thuế GTGT phải kê khai và nộp tờ khai thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu với cơ quan thu thuế nhập khẩu.
4. Cơ sở kinh doanh buôn chuyến kê khai và nộp thuế theo từng chuyến hàng với cơ quan thuế nơi mua hàng, trước khi chuyển hàng đi. Số thuế phải nộp đối với kinh doanh buôn chuyến tính theo phương pháp trực tiếp trên GTGT.
Trong trường hợp cơ sở kinh doanh và người nhập khẩu không gửi tờ khai thuế hoặc kê khai không đúngquy đinh, cơ quan thuế có quyền căn cứ vào tình hình kinh doanh của cơ sở và các số liệu điều tra để ấn định doanh thu và tiền thuế GTGT phải nộp, thông báo cho cơ sở thực hiện.
3. Nộp thuế GTGT.
Đối với cơ sở kinh doanh thực hiện nộp thuế hàng tháng theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế, thời hạn nộp thuế chậm nhất của tháng không quá ngày 25 của tháng tiếp theo.
Đối với những cơ sở có số thuế nộp hàng tháng lớn thì thực hiện tạm nộp thuế phát sinh trong tháng theo định kỳ 10 ngày hoặc 15 ngày 1 lần. Khi kê khai số thuế phải nộp của cả tháng, trừ số thuế đã tạm nộp, cơ sở sẽ nộp số thuế còn thiếu. Kỳ nộp do cơ quan thuế xác định và thông báo cho cơ sở.
Cơ sở kinh doanh và người nhập khẩu hàng hoá phải nộp thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu. Thời hạn thông báo và thời hạn nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu thực hiện theo thời hạn thông báo nộp thuế nhập khẩu. Đối với hàng hoá không phải nộp thuế nhập khẩu hoặc có thuế suất thuế nhập khẩu bằng 0% thì thời hạn nộp thuế GTGT thực hiện như quy định đối với hàng hoá phải nộp thuế nhập khẩu. Đối với hàng hoá nhập khẩu thuộc diện không phải nộp thuế GTGT khi nhập khẩu như: Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu, quà biếu, quà tặng, hàng viện trợ nhân đạo... nếu đem bán hoặc xuất dùng vào mục đích khác thì phải kê khai, nộp thuế GTGT với cơ quan thuế trực tiếp quản lý cơ sở như quy định đối với hàng hóa do cơ sở kinh doanh.
Cơ sở kinh doanh cố định đi mua nguyên liệu, hàng hoá, vận chuyển hàng của cơ sở đi bán hoặc trao đổi với cơ sở khác, vận chuyển trong nội bộ cơ sở phải có đủ hoá đơn, chứng từ theo quy định, nếu không sẽ phải nộp thuế GTGT tính trên giá trị hàng hoá; hàng nhập khẩu còn bị truy thu thuế nhập khẩu và thuế GTGT khâu nhập khẩu.
Trong một kỳ tính thuế, nếu cơ sở kinh doanh có số thuế nộp thừa kỳ trước được trừ vào số thuế phải nộp của kỳ tiếp theo, nếu kỳ trước nộp thiếu thì phải nộp đủ số thiếu đó.
Thuế GTGT nộp vào NSNN bằng đồng Việt nam. Trường hợp cơ sở kinh doanh có doanh thu hoặc mua hàng hoá, dịch vụ thanh toán bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt nam theo tỷ giá mua, bán thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt nam công bố tại thời điểm phát sinh hoạt động mua, bán hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ để xác định số thuế GTGT phải nộp.
4. Quyết toán thuế GTGT.
Các cơ sở (trừ hộ kinh doanh vừa và nhỏ nộp thuế theo mức ấn định doanh thu, hộ kinh doanh buôn chuyến) đều phải thực hiện quyết toán thuế GTGT
Thời hạn cơ sở kinh doanh phải nộp quyết toán thuế chậm nhất không quá 60 ngày, kể từ ngày 31 tháng 12 của năm quyết toán thuế.
Cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán tài chính theo chế độ Nhà nước quy định; trên cơ sở quyết toán tài chính, cơ sở kinh doanh có trách nhiệm kê khai toàn bộ số thuế phải nộp, số đã nộp của năm hoặc thời hạn quyết toán, số còn thiếu hay nộp thừa tính đến thời điểm quyết toán thuế. Mẫu quyết toán thuế là mẫu số 10/GTGT.
5. Xử lý các vi phạm về thuế GTGT
Cảnh cáo hoặc phạt tiền nếu không thực hiện đúng những quy định về thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký kê khai, nộp thuế, kê khai lập sổ kế toán và giữ chứng từ, hoá đơn liên quan đến việc tính và nộp thuế.
Phạt chậm nộp thuế: Nộp tiền thuế hoặc tiền phạt ghi trong thông báo thu thuế, lệnh thu thuế hoặc quyết định xử phạt thì ngoài việc nộp đủ số thuế hoặc tiền phạt theo luật định, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp phạt bằng 0,1% số tiền chậm nộp.
Thời hạn tính phạt chậm nộp thuế hàng tháng kể từ ngày 26 của tháng tiếp theo; đối với hàng hoá nhập khẩu và các trường hợp khác là sau ngày quy định phải nộp theo luật định.
Phạt tiền từ 1 đến 5 lần số thuế gian lận, truy cứu trách nhiệm hình sự nếu trốn thuế với số lượng lớn hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng.
Không nộp thuế hoặc nộp phạt sẽ bị xử lý như sau:
Trích tiền gửi của đối tượng nộp thuế tại NH, kho bạc, tổ chức tín dụng để nộp thuế, nộp phạt.
Giữ hàng hoá, tang vật để bảo đảm thu đủ số thuế, số tiền phạt.
Kê biên tài sản theo quy định của pháp luật.
6. Tổ chức quản lý thu thuế.
Tổng cục thuế chịu trách nhiệm tổ chức thu thuế GTGT và hoàn thuế GTGT đối với cơ sở kinh doanh.
Tổng cục hải quan chịu trách nhiệm thu thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu.
Chương III: Thực tiễn áp dụng luật thuế GTGT ở Việt Nam và kiến nghị một số vấn đề cần xem xét.
I/ Tình hình áp dụng luật thuế GTGT ở nước ta trong thời gian vừa qua.
Những kết quả bước đầu.
Thuế GTGT được áp dụng ở nước ta từ năm 1999, trong thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam á tác động mạnh đến nền kinh tế nước ta, gây ra những bất lợi, nhưng tính đến nay đã đạt được nhiều kết quả tốt và đang phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế.
Thứ nhất, thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là không thu trùng lắp thuế nên đã có tác động tích cực đối với sản xuất, dịch vụ. Có một số ngành nghề, mặt hàng trong thời gian đầu áp dụng Luật thuế GTGT đã không tránh khỏi gặp khó khăn, lúng túng ban đầu do chậm chuyển đổi phù hợp với mức thuế mới như than, cơ khí (trừ cơ khí tiêu dùng), luyện cán - kéo kim loại, máy vi tính, hoá chất cơ bản, vận tải, bốc xếp, xây dựng, khách sạn, ăn uống, du lịch... Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản pháp quy tháo gỡ khó khăn như: cho bổ xung một số hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế, mở rộng việc khấu trừ thuế... Đến cuối năm 1999, các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng trên đã đi vào ổn định, sản phẩm tăng, nộp được thuế và có lãi. Có nhiều sản phẩm, tính chung cả năm 1999, tăng cao hơn so với năm 1998 như phân hoá học tăng 14%, sứ vệ sinh tăng 52,9%, gạch lát tăng 25%, thép cán tăng 12,9%, máy biến thế tăng 23,2%, động cơ đi-ê-zen gấp hơn 2,5 lần. Đối với một số doanh nghiệp đã bị thua lỗ lớn từ trước, qua hơn một năm áp dụng các luật thuế mới, chưa kịp chuyển biến nên sản xuất kinh doanh vẫn trì trệ và chưa hết lỗ.
Các hoạt động dịch vụ có khá hơn, giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 3,5% so với năm 1998.
Việc thực hiện thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp còn đòi hỏi các doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế phải tăng cường quản lý, thực hiện tốt công tác hạch toán kế toán như: ghi chép ban đầu, mở sổ sách kế toán và mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ; đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trong tình hình mới.
Về lưu thông hàng hoá, tuy trong bối cảnh nền kinh tế giảm phát kéo dài, nhưng vì thuế GTGT chỉ điều tiết trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên đã thúc đẩy việc lưu thông hàng hoá thuận lợi. Tính chung cả năm 1999, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng 5,1% (bao gồm cả yếu tố trượt giá 4,7%).
Thứ hai, Luật thuế GTGT và các Luật thuế mới đã khuyến khích đầu tư trong nước, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp. Đồng thời, trong quá trình thực hiện, Chính phủ còn có những biện pháp khuyến khích thêm như: đối với những công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành bàn giao trong năm 1998 sang năm 1999 mới thanh toán thì được nộp thuế theo mức thuế doanh thu cũ; từ 01/09/1999 đã giảm 50% mức thuế GTGT cho xây dựng, lắp đặt. Nhờ đó, trong năm 1999, tuy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện chỉ bằng 77,7% so với thực hiện năm 1998 nhưng vốn đầu tư xã hội vẫn tăng khoảng 9% so với năm trước.
Thứ ba, thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, giải quyết nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Luật thuế GTGT quy định hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và được hoàn thuế GTGT đầu vào, giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu nên đã khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện để hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh về giá với hàng hoá tương tự của các nước trên thị trường quốc tế. Số tiền hoàn thuế gần 1800 tỷ đồng trong năm 1999 cho hàng xuất khẩu đã góp phần quan trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu. Một số mặt hàng xuất khẩu được hoàn thuế đầu vào tăng cao như: gạo tăng 12%; hàng dệt may tăng 14%; giày dép tăng 31%; thuỷ hải sản tăng 11%; hàng điện tử tăng 16%; rau quả tăng 31%; hàng thủ công mỹ nghệ tăng 33%. Kết quả cho thấy năm 1999 là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của nước ta vừa đạt tốc độ tăng trưởng cao, vừa vựơt mức kế hoạch. Trong điều kiện kinh tế thế giới lâm vào tình trạng giảm phát, hàng hoá ứ đọng, thị trường tiêu thụ hàng hoá bị co lại, nhiều mặt hàng liên tục giảm giá, nhưng tính chung cả năm 1999, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại đạt 115,2% kế hoạch năm và tăng 23,1% so với năm 1998 (năm 1998 tăng 1,9%).
Thuế GTGT có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việc đánh thuế vào hàng hoá nhập khẩu. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước, bảo hộ được thị trường tiêu thụ hàng hoá nội địa, kích thích sản xuất trong nước phát triển, tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới khi nước ta phải cắt giảm thuế nhập khẩu, thực hiện thuế suất ưu đãi khi tham gia các hiệp định thương mại đa phương, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Kết hợp với cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 1999, thuế GTGT đã góp phần hạn chế hàng tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng cao cấp từ nước ngoài, thực hiện tiết kiệm cho sản xuất. Đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu vẫn thực hiện thu thuế GTGT khi hàng nhập về, nhưng đã có xem xét, điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu để ổn định sản xuất trong nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó phải kể đến tác động của thuế GTGT, mà tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1999 chỉ tăng 1% so với năm 1998.
Thuế GTGT còn góp phần cơ cấu lại nền kinh tế từ sản xuất thay thế nhập khẩu chuyển mạnh sang sản xuất hướng nhập khẩu. Thuế GTGT khuyến khích việc sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng nước ta có thế mạnh như nông sản, lâm sản, thuỷ sản... bằng các quy định cụ thể như: không thu thuế GTGT đối với hàng do người sản xuất bán ra; cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các cơ sở chế biến, thương mại mua các mặt hàng trên; hoàn thuế đầu vào cho các cơ sở xuất khẩu các mặt hàng này nếu có hoá đơn GTGT đầu vào... Nhờ vậy, trong năm 1999, lượng gạo xuất khẩu đạt 4,55 triệu tấn, tăng hơn 80 vạn tấn so với năm trước; lượng thuỷ sản xuất khẩu cả năm đạt giá trị 979 triệu USD, bằng 11,4% so với năm 1998. Hầu hết các nông sản xuất khẩu chủ yếu tăng về khối lượng như chè tăng 13,0%; cà phê tăng 27,6%; cao su 37,2%; hạt tiêu tăng 2,3 lần.
Thứ tư, thuế GTGT không làm tăng giá cả hàng hoá. Bản chất của thuế GTGT là không làm tăng giá vì nó thay thế thuế doanh thu đã được kết cấu vào trong giá. Một vài tháng đầu thực hiện Luật thuế GTGT, một số doanh nghiệp và hộ kinh doanh đã cộng thêm thuế vào giá cũ để bán làm giá cả hàng hoá đã nhích lên chút ít. Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã có biện pháp quản lý kịp thời; mặt khác, hàng hoá dồi dào, còn sức mua hạn chế nên giá cả sớm ổn định trở lại. Theo tài liệu của Tổng cục Thống kê thì chỉ số giá tiêu dùng cả năm 1999 chỉ tăng 0,1% so với tháng 12 năm 1998, trong đó giá lương thực và thực phẩm giảm (thực phẩm giảm 7,8%). Nếu trừ nhóm lương thực và thực phẩm thì giá các nhóm hàng công nghệ phẩm và dịch vụ trong năm tăng 3% là mức bình thường và phổ biến của nhiều nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Về cơ bản, giá cả hàng hoá trong năm 1999 vẫn dừng ở mức cuối năm 1998 mặc dù trong đó có cả thuế GTGT. Năm 1999 là năm chỉ số giá tiêu dùng có tốc độ tăng thấp nhất từ 1990 đến nay.
Thứ năm, về số thu ngân sách, thuế GTGT thu được từ 1999 đến nay đạt kết quả như sau:
Đơn vị tính: Nghìn tỷ đồng
Năm
1999
2000
2001
2002
(dự tính)
Tổng số thu ngân sách
76,128
88,721
95,600
103,200
Tổng thu về thuế
63,942
72,787
80,305
102,530
Thu thuế GTGT
17,239
17,072
18,916
23,015
Tỷ lệ % thuế GTGT trong tổng thu NS
22,64
19,24
18,196
23,015
Tỷ lệ % thuế GTGT trong tổng thu về thuế
26,96
23,45
23,55
26,30
Theo số liệu ở trên ta thấy rằng thuế GTGT là một nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, từ khi ban hành đến nay thuế GTGT luôn chiếm khoảng 20% tổng số thu cho ngân sách nhà nước và khoảng 25% trong tổng số thu từ thuế. Năm 1999, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm đạt 95,9% so với dự toán năm, thu thuế GTGT tương đương với thu thuế doanh thu trước đây; trong đó, thu thuế GTGT hàng nhập khẩu đạt 113,1% so với dự toán năm. Có được kết quả này còn nhờ vào sự tích cực, chủ động và phối hợp chặt chẽ của các ngành, đơn vị chức năng như ngành thuế, hải quan, quản lý thị trường, bộ đội biên phòng, công an... với các địa phương trong việc tính thuế và thu thuế hàng hoá, giám sát kiểm tra hàng hoá, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Các số liệu minh hoạ trên phần lớn đều là các số liệu của năm 1999, năm đầu tiên nước ta triển khai áp dụng Luật thuế GTGT, nhưng nhìn chung từ đó đến nay, qua hơn ba năm thực hiện Luật thuế GTGT đã đảm bảo được yêu cầu của Nhà nước đề ra là góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc thực hiện mua, bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ tạo điều kiện chống thất thu thuế, bảo đảm nguồn thu ổn định, lâu dài và ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, nó góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta, phù hợp với sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Những tồn tại trong quá trình thực hiện.
Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được, trong thời gian triển khai thực hiện Luật thuế GTGT đã nổi lên những khó khăn, tồn tại, vướng mắc sau đây:
Một là, về thuế suất thuế GTGT: đang từ thuế doanh thu có 11 mức thuế suất đến áp dụng thuế GTGT có 4 mức thuế suất không thể tránh khỏi sự chênh lệch số thuế gián thu phải nộp giữa hai loại thuế này. Những sản phẩm trước đây chịu thuế doanh thu với mức thấp 0,5%, 1%, 2% nay lên 10% trên giá chưa có thuế, mặc dù được khấu trừ thuế đầu vào nhưng số thuế GTGT phải nộp vẫn cao hơn thuế doanh thu phải nộp trước kia rất nhiều. Vì vậy, khi áp dụng thuế GTGT, một số ngành, một số doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, nếu nộp đủ thuế GTGT thì bị lỗ. Chẳng hạn, các doanh nghiệp ngành chế tạo cơ khí trước đây đang nộp thuế doanh thu từ 1% - 2% (trừ nhóm hàng điện dân dụng và lắp ráp ô tô dưới 24 chỗ có mức thuế suất 4%) nay áp dụng thuế suất thuế GTGT 10% đã gặp rất nhiều khó khăn. Với 4 mức thuế suất như hiện nay, ngành thuế liên tục nhận được đơn xin giảm thuế và đã điều chỉnh giảm thuế đối với nhiều nhóm hàng. Nhưng điều chỉnh giảm thuế tạo ra những phản ứng dây chuyền, lan rộng, gây nhiều tiêu cực.
Hai là, về việc khấu trừ thuế, hoàn thuế.
Nghị định 102/1998/NĐ-CP ngày 21/12/1998 và Nghị định số 78/1999/NĐ-CP ngày 20/08/1999 của Chính phủ đã cho phép mở rộng điều kiện khấu trừ thuế cho các hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản, phế liệu, hàng hoá chịu thuế TTĐB của cơ sở thương mại mua trực tiếp của người sản xuất... thực chất là khuyến khích sản xuất, chế biến hàng nông, lâm, thuỷ sản, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, để các doanh nghiệp không phải nộp thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã nảy sinh các mâu thuẫn mới:
Có quá nhiều tỉ lệ khấu trừ, gây phức tạp cho quá trình thực hiện và không khuyến khích thực hiện hoá đơn, chứng từ. Việc cho phép khấu trừ khống, dựa vào bảng kê đã tạo khe hở cho việc kê khai không trung thực để được khấu trừ hoặc hoàn thuế, gây thất thu cho NSNN.
Chính sách thuế chưa thống nhất, chưa công bằng giữa các đối tượng nộp thuế như chưa cho khấu trừ thuế đối với dịch vụ chịu thuế GTGT có hoá đơn bán hàng thông thường như: vận tải, bốc xếp, sửa chữa... trong khi các hàng hoá dịch vụ khác được khấu trừ hoặc hoàn thuế.
Quá trình xét hoàn thuế chậm, gây khó khăn ách tắc vốn sản xuất kinh doanh cho nhiều doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của tình hình trên một phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan thuế chưa quen, văn bản hướng dẫn lại chưa rõ ràng. Việc xác định số thuế được khấu trừ và số thuế hoàn lại khiến ngành thuế phải mất một thời gian để xác minh. Năm 2000, theo kế hoạch, ngành thuế sẽ tiến hành hoàn thuế khoảng 3.260 tỷ đồng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến hết năm 2000, thực tế số thuế được hoàn lên tới 4.000 tỷ đồng tăng 740 tỷ đồng so với kế hoạch.
Ba là, về hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. Thực tế nền kinh tế nước ta có khoảng 4 vạn doanh nghiệp có khả năng tổ chức hạch toán và gần 1,6 triệu hộ chủ yếu sản xuất, kinh doanh nhỏ, cho nên khi thực hiện thuế GTGT đã áp dụng hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. áp dụng phương pháp khấu trừ và hoá đơn GTGT đối với các doanh nghiệp đủ điều kiện hạch toán kế toán và áp dụng phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng và sử dụng hoá đơn thông thường đối với các hộ kinh doanh nhỏ. Việc áp dụng đồng thời 2 cách tính thuế GTGT và 2 loại hoá đơn trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết, song trên thực tế lại nảy sinh những điều bất cập, gây trở ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh.
Việc tồn tại hai phương pháp tính thuế GTGT tạo ra sân chơi không bình đẳng, công bằng giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh. Theo số liệu của ngành thuế hiện nay, riêng TP HCM có trên 120.000 đơn vị thực hiện thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và 10.000 đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế. Số đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ chỉ chiếm khoảng 8% trong tổng số các đơn vị được cấp mã số thuế, song hiện đang thực hiện các giao dịch về hàng hoá, dịch vụ đầu vào với các đơn vị, cá nhân thực hiện theo phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT khá lớn nên nhiều doanh nghiệp có hoá đơn bán hàng (đã có thuế GTGT) mà không được khấu trừ thuế. Do đó, trong các khoản chi phí và việc hình thành giá bán có một phần thuế không được khấu trừ, nhưng khi đơn vị tiêu thụ sản phẩm vẫn phải nộp 10% trên tổng giá trị hàng hoá. Như vậy là thuế đánh chồng lên thuế, các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ sẽ mất đi một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngược lại, khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp có quan hệ giao dịch, cung ứng dịch vụ, hàng hoá với các đơn vị hiện theo phương pháp khấu trừ thì hàng hoá không được khấu trừ thuế GTGT, thực chất các đơn vị phải trả phần thuế GTGT chìm trong giá bán mà các đơn vị trực tiếp đã nộp. Từ cách thực hiện như trên ta thấy hiện đang tồn tại hai sân chơi khác nhau mà mỗi bên chỉ chơi theo một loại hình, chính vì vậy đang hình thành 2 xu hướng là một số đơn vị đang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ chuyển sang nộp theo phương pháp trực tiếp và ngược lại, tuỳ thuộc vào chiến lược khách hàng của họ và dĩ nhiên là ngành thuế sẽ khó lòng giải quyết ngay được. Hơn nữa trong thực tế, tiến hành thu thuế tính theo phương pháp trực tiếp rất khó chính xác, vẫn chủ yếu tính theo phương pháp khoán (đối với hộ nhỏ) như thuế doanh thu trước đây, chính điều này đã gây không ít lúng túng, khó khăn cho thương nghiệp quốc doanh một khi họ phải cạnh tranh trực tiếp với các hộ buôn bán thuế theo phương pháp trực tiếp.
Ngoài ra, để quản lý cơ sở áp dụng phương pháp tính trực tiếp phải huy động gần một nửa số cán bộ thuế với chi phí tương ứng, nhưng thu cho ngân sách Nhà nước chỉ chiếm gần 10% trong tổng thuế GTGT.
Bốn là, tình trạng trốn thuế ngày càng trở nên phổ biến, nghiêm trọng và ngày càng tinh vi. Chế độ hoá đơn chứng từ là cơ sở xác định số thuế sát đúng với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Việc không ít đơn vị lập hai hệ thống sổ sách kế toán chứng từ, hoá đơn, hợp đồng kinh tế: một để sử dụng nội bộ, một để kê khai thuế không còn là chuyện lạ. Kinh doanh không giấy phép hoặc ngoài nội dung giấy phép, không kê khai doanh số phát sinh ... cũng thường xuyên xảy ra. Ngành thuế đang lên tiếng báo động là việc xuất hiện hoá đơn giả, khống về tình trạng các doanh nghiệp khi mua hàng không có hoá đơn, đã mua hoá đơn ngoài, tự ghi số lượng, giá cả để tránh thuế đầu vào, đồng thời hợp thức hoá hàng hoá đầu vào để được khấu trừ thuế GTGT kết hợp với việc kìm hãm thuế GTGT đầu ra thấp hơn để không phải nộp thuế, không những thế có những trường hợp còn được hoàn lại thuế. Việc sử dụng hoá đơn giả khá phổ biến, hầu như khu vực kinh tế nào cũng có sử dụng hoá đơn giả. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn lợi dụng sự lỏng lẻo trong quản lý của cán bộ thuế, làm đơn xin tạm ngưng kinh doanh, hoặc xin giải thể, dùng hoá đơn GTGT mua được bán cho các doanh nghiệp khác, thực chất vẫn hoạt động thông đồng với cán bộ thuế để kinh doanh trốn thuế.
Năm là, về việc ban hành hệ thống văn bản pháp lý: qua hơn ba năm thực hiện luật thuế GTGT, Bộ Tài chính đã có hàng trăm văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế, phần lớn các văn bản ban hành sau chỉ điều chỉnh bổ xung hoặc sửa đổi một số nội dung của văn bản trước. Do vậy, hàng trăm văn bản đều có hiệu lực thi hành. Việc làm này gây nhiều khó khăn, phức tạp trong điều hành, tổ chức và quản lý thu thuế, chưa nói đến giữa các văn bản lại phát sinh mâu thuẫn, không nhất quán.
Nguyên nhân sâu xa của những khó khăn, vướng mắc chính nêu trên là do nước ta mới chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, hệ thống tài chính và ngân hàng chưa phát triển kịp với đà tăng trưởng kinh tế, nên việc thanh toán tiền hàng trong mua bán trao đổi hàng hoá chủ yếu là ngoài luồng ngân hàng, rất khó kiểm soát. Theo số liệu thống kê, tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng trong năm 1999 tăng 17% so với năm 1998. Mặt khác, người dân chưa có thói quen sử dụng hoá đơn, chứng từ trong mua bán. Thêm vào đó, thuế GTGT ở nước ta còn chứa đựng nhiều quy định bất cập, không hợp lý so với thực tiễn nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay.
III/ Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện Luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay.
Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, thuế GTGT đã chứng tỏ những ưu việt hơn hẳn so với hình thức thu cũ của nó là thuế doanh thu.
Thực tế cho thấy ngay cả các nước từ lâu đã áp dụng thuế GTGT và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng đều phải trải qua những giai đoạn nhất định để hoàn thiện dần những quy định pháp lý về loại thuế này. Trong điều kiện Việt Nam, áp dụng thuế GTGT là việc làm có tính chất đột phá trong tiến trình cải cách căn bản và lâu dài hệ thống thuế nên không thể tránh khỏi những bất cập ban đầu.
Trong hơn ba năm thực hiện Luật thuế GTGT, Ban chỉ đạo các luật thuế mới của Chính phủ cùng các bộ, các ngành và các địa phương đã bám sát tình hình thực tế, đề xuất và triển khai các biện pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện thuế GTGT và các luật thuế mới khác. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định và quyết định về thực hiện thuế GTGT và các luật thuế mới. Trong đó, Nghị quyết số 90/1999/NQ-UBTVQH10 ngày 03/09/1999; nghị quyết số 240/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 27/10/2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X đã bổ xung thêm một số danh mục hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT và thuế suất thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ. Để giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp, chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 1999, cơ quan chức năng đã điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu cho 850 mặt hàng là vật tư, nguyên liệu và cho kéo dài thời gian nộp thuế nhập khẩu, thuế GTGT thêm 30 ngày đối với hàng là nguyên vật liệu nhập khẩu.
Bộ Tài chính cũng có các thông tư hướng dẫn việc áp dụng thuế GTGT cho các ngành đặc thù như: điện, bưu chính viễn thông, hàng không, hàng hải; các lĩnh vực như: cho thuê tài chính, tín dụng, ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, xổ số kiến thiết, đầu tư nước ngoài, gia công xuất khẩu...
Để phát huy những mặt tích cực của Luật thuế GTGT trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu, bổ xung, hoàn thiện chính sách thuế GTGT và thực hiện có hiệu quả một số giải pháp mang tính chất kiến nghị sau đây:
Về đối tượng chịu thuế:
Mở rộng các đối tượng chịu thuế GTGT, giảm bớt tối đa hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế. áp dụng thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB cho phù hợp nguyên tắc chung của thuế GTGT (thuế đánh trên tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ).
Về thuế suất thuế GTGT:
Mức thuế suất là bao nhiêu phụ thuộc vào yêu cầu điều tiết của từng quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác nó phụ thuộc vào cơ cấu điều tiết của hệ thống thuế. Thuế GTGT chiếm phần chủ yếu trong cơ cấu thuế đánh vào tiêu dùng xã hội. Việc điều tiết này chỉ đảm bảo được yêu cầu công bằng theo chiều ngang song lại dễ thu, ít gặp phản ứng. Cho nên nếu một quốc gia coi trọng điều tiết vào tiêu dùng xã hội, sẽ quy định mức thuế suất thuế GTGT cao. Ngược lại, nếu coi trọng điều tiết vào thu nhập, bảo đảm yêu cầu công bằng theo chiều dọc thì có thể giảm nhẹ mức thuế suất thuế GTGT để nâng tổng thu về thuế thu nhập lên.
Số lượng thuế suất: Số lượng thuế suất càng ít càng đơn giản hoá quá trình tính và thu thuế, thể hiện tính chính xác bản chất của thuế GTGT và đảm bảo tính trung lập của loại thuế này.
Kinh nghiệm các nước trong khu vực và trên thế giới chỉ áp dụng hai mức thuế suất thuế GTGT (bao gồm cả mức thuế suất 0%).
Giải pháp cho vấn đề này ở nước ta trong thời gian tới là: giảm số lượng thuế suất tối đa còn 2 mức (trong đó thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu; 10% áp dụng cho tất cả ). Tuy nhiên để thực hiện được điều này thì phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Xác định mức thuế suất phải đảm bảo không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước, đồng thời phải nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Mức thuế suất phải bảo hộ được sản xuất trong nước do phải giảm thuế nhập khẩu vào năm 2006 theo hiệp định AFTA.
Mức thuế suất phải đảm bảo công bằng quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp, đảm bảo ổn định thị trường trong nước, không có biến động lớn về giá cả và không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.
Mức thuế suất dự kiến là 8% và 10% (vào năm 2005). Trong đó, sắp xếp lại để hạn chế các sản phẩm, dịch vụ, thuộc nhóm thuế suất 8%, còn lại là nhóm thuế suất 10%, tiến tới áp dụng một mức thuế suất là 10%.
Về phương pháp tính thuế:
Hiện nay, luật thuế cho phép sử dụng hai phương pháp tính thuế tùy theo đặc điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trình độ hạch toán kế toán của các cơ sở kinh tế. Điều này tuy phù hợp với trình độ phát triển chưa cao của nền kinh tế nước ta hiện nay, nhưng lại tạo nhiều bất cập, nhiều khe hở cho việc gian thuế, lậu thuế...như đã đề cập ở trên. Giải pháp kiến nghị là:
Thực hiện thống nhất một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế vì nó có nhiều ưu điểm; ít nhất nó cũng tránh được sự vận động không cần thiết của tiền thuế từ đối tượng nộp thuế vào kho bạc Nhà nước và ngược lại.
Phân loại các hộ kinh doanh có quy mô nhỏ, thu nhập thấp ra khỏi diện phải nộp thuế GTGT do chi phí quản lý cao so với lượng thuế thu được. Quy định mức doanh số xác định đối tượng là hộ kinh doanh nhỏ để chuyển sang áp dụng nộp thuế theo mức tỷ lệ % ấn định trên doanh thu.
Đẩy mạnh thực hiện chế độ kế toán đối với các hộ kinh doanh có quy mô lớn để chuyển những đối tượng này sang áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. Trên cơ sở đó, mở rộng diện tính theo phương pháp khấu trừ thuế tạo điều kiện cho việc sử dụng một phương pháp tính thuế GTGT duy nhất là phương pháp khấu trừ thuế.
Đối với các đối tượng khác như HTX, công ty trách nhiệm hữu hạn... bắt buộc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ là căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
Về hoàn thuế GTGT.
Đẩy nhanh hơn nữa tốc độ hoàn thuế cho các doanh nghiệp, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Để rút ngắn thời gian hoàn thuế và hạn chế gian lận thuế, ngành thuế cần phải nhanh chóng vi tính hoá trong công tác quản lý thuế. Điều này có thể thực hiện được khi cấp hoá đơn cho mặt hàng hoặc lĩnh vực kinh doanh và mã số thuế. Tất cả các dữ liệu này sẽ được nối mạng cho tất cả các cục thuế và mỗi cục thuế sẽ có bộ phận kiểm tra nguồn gốc của hoá đơn, giá trị của hoá đơn trên mạng máy tính.
Cần đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ sở trước những hồ sơ xin được hoàn thuế, đồng thời đơn giản hoá các thủ tục xin được hoàn thuế và tăng cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế.
Cải cách hành chính thuế.
Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. Để đẩy mạnh công tác cải cách hành chính thuế cần thực hiện:
Hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế, đặc biệt là thuế GTGT. Hệ thống văn bản pháp luật sẽ được tách riêng ra thành hệ thống văn bản thuế và hệ thống văn bản hành chính đảm bảo các mục tiêu đơn giản, công bằng và không làm thiệt hai cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp tự tính, tự kê khai và nộp thuế tại kho bạc nhà nước. Cơ quan thuế chỉ có chức năng kiểm tra, giám sát việc chấp hành nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế.
Hoàn chỉnh chế độ xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế, đảm bảo tính nghiêm minh trong thực hiện nghĩa vụ thuế.
Cải cách hệ thống kế toán thuế GTGT cho đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện.
Nâng cao tính hiệu quả trong công tác quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ. Hiện nay, cho phép các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn thuế GTGT. Đối với hộ kinh doanh lớn tính thuế theo phương pháp trực tiếp, hộ kinh doanh nhỏ nộp thuế theo phương pháp khoán, sử dụng hoá đơn bán hàng không ghi thuế GTGT.
Trong thời gian tới Bộ Tài chính cần nghiên cứu loại giấy in hoá đơn, chứng từ và ký hiệu, mã hiệu để chống in giả. Hạn chế tối đa thiệt hại do tình trạng sử dụng hoá đơn giả gây ra.
áp dụng mẫu hoá đơn thống nhất trên toàn quốc và hạn chế cho đăng ký sử dụng hoá đơn đặc thù.
Có đủ số lượng chứng từ, hoá đơn thống nhất trên toàn quốc để áp dụng cho các ngành nghề, các khu vực kinh tế khác nhau.
Nhanh chóng nối mạng về quản lý sử dụng hoá đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính trong toàn quốc nhằm quản lý chặt chẽ hơn việc phát hành và sử dụng hoá đơn chứng từ của các đối tượng nộp thuế.
Ngành thuế phối hợp với các cơ quan pháp luật khác kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm hơn nữa các trường hợp vi phạm.
Hình thành và phát triển các nhóm tư vấn thuế
Hình thành nhóm tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết đối với các đối tượng chịu thuế, nộp thuế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhiều nước trên thế giới coi dịch vụ tư vấn thuế là một nghề, đây là dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. Bộ phận này có tính độc lập tương đối với bộ phận trực tiếp quản lý thu thuế. Đồng thời, để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn thuế, nên có quy định chấp nhận chi phí tư vấn thuế là một loại chi phí hợp lý, hợp lệ để tính thu nhập chịu thuế.
Về tổ chức thực hiện thuế GTGT.
Công tác tổ chức thực hiện Luật thuế GTGT đóng vai trò quyết định để cho chính sách thuế GTGT thật sự đi vào đời sống kinh tế-xã hội một cách hữu hiệu. Vì vậy cần thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các biện pháp sau:
Chú trọng thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ thuế và trang bị phương tiện hiện đại cần thiết đáp ứng yêu cầu của dông tác quản lý thu thuế GTGT. Đây là khâu quan trọng quyết định tính thực thi, tính hiệu quả của chính sách thuế GTGT, bởi việc quản lý thu thuế GTGT rất phức tạp nên nếu trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thuế yếu hay thiết bị phương tiện quản lý lạc hậu sẽ không thể quản lý tốt thuế GTGT, làm gia tăng hiện tượng trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Nếu thuế GTGT được quản lý tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy thực hiện nghiêm túc công tác sổ sách, chứng từ hoá đơn, giúp khắc phục được tình trạng thất thu thuế. Có chính sách động viên hợp lý đội ngũ cán bộ ngành thuế, nhất là ở cơ sở, kết hợp công tác giáo dục thường xuyên và quản lý chặt chẽ đội ngũ này để chống tiêu cực lệch lạc.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế, thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các biện pháp kinh tế, nghiệp vụ và hành chính trong công tác hành thu thuế GTGT; phối hợp chặt chẽ các cơ quan thuế với các cơ quan quản lý thị trường, các cơ quan thực thi pháp luật nhằm ngăn chặn, hạn chế tình trạng hoá đơn chứng từ, hợp đồng giả, khống, thiếu độ tin cậy để trốn thuế, gây thất thu thuế cho ngân sách Nhà nước, thị trường biến động, cơ cấu lao động bị xáo trộn.
Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách thuế GTGT bằng nhiều hình thức sinh động, thiết thực đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Cần tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích thật cụ thể về nội dung chính sách thuế, cách ghi chép hoá đơn chứng từ, cách kê khai thuế, công khai quy trình hoàn thuế tới từng cơ sở tính, nộp thuế. Điều này nhằm giúp cho mọi người hiểu rõ bẩn chất và nắm được những ưu điểm của thuế GTGT, tránh những hiểu lầm, nhận thức không đúng, gây ngộ nhận do không hiểu biết về thuế GTGT tạo nên khe hở cho kẻ khác lợi dụng, gây bất an trong nhân dân, qua đó khuyến khích mọi người an tâm, mạnh dạn đầu tư vốn để giúp nền kinh tế có thêm lượng vốn cần thiết cho nhu cầu phát triển.
Về lâu dài, cần kết hợp với ngành giáo dục nghiên cứu đưa các kiến thức cơ bản về các luật thuế vào chương trình giáo dục công dân trong trường phổ thông để giáo dục cho các công dân tương lai ý thức, trách nhiệm và quyền lợi trong việc tự giác đóng thuế.
Kết luận
Thuế GTGT nhìn từ vĩ mô đến vi mô đã thực sự đi vào cuộc sống. Từ trong Đảng, ra ngoài xã hội, đến các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh đều ủng hộ những ưu điểm, những tiến bộ hơn về nhiều mặt của thuế GTGT so với thuế doanh thu. Thực tế hơn ba năm qua đã khẳng định việc thi hành Luật thuế GTGT và các luật thuế mới là một bước tiến mới trong chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nớc để hội nhập với khu vực và quốc tế.
Thực tế cho thấy ngay cả các nước từ lâu đã áp dụng thuế GTGT và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn cũng đều phải trải qua những giai đoạn nhất định để hoàn thiện dần những quy định pháp lý về loại thuế này. Trong điều kiện Việt nam, áp dụng thuế GTGT là việc làm có tính chất đột phá trong tiến trình cải cách căn bản và lâu dài hệ thống thuế nên không thể tránh khỏi những bất cập ban đầu. Cần biết nắm bắt và kế thừa những nguyên tắc chung cũng như những kinh nghiệm và xu hướng hoàn thiện thuế GTGT của thế giới để vận dụng vào tình hình cụ thể của đất nước.
Những giải pháp được đưa ra trong chương III của đề tài này cũng chỉ là những ý kiến được góp nhặt thông qua quá trình học tập và sách báo nhằm phát huy những tác động tiêu cực và khắc phục những tác động tiêu cực về kinh tế - xã hội của thuế GTGT đồng thời góp phần củng cố, hoàn thiện chính sách thuế GTGT ở nước ta.
Trong thời gian tới, hy vọng những bất hợp lý sẽ được nhanh chóng phát hiện và sửa chữa để cho thuế GTGT và các luật thuế mới góp phần tích cực vào việc đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng đã đề ra.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Giáo trình Thuế, Lê Văn ái, Học Viện Tài Chính - Kế toán Hà Nội, 2000.
Luật thuế GTGT và văn bản hướng dẫn áp dụng, NXB Chính trị quốc gia, 2001.
Thuế VAT và mô hình áp dụng tại Việt Nam, Nguyễn Xuân Nhạt, 1997.
Tạp chí Kinh tế phát triển
Tạp chí Thị trường tài chính
Tạp chí Tài chính ngân hàng
Tạp chí Thương mại
Tạp chí Tài chính
Website bộ Tài chính:
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I: Một số nội dung chung về thuế GTGT
I./ Khái niệm thuế GTGT
II./ Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT trên thế giới
III./ Những điểm giống nhau và khác nhau giữa thuế GTGT và thuế doanh thu
Điểm giống
Điểm khác
IV./ Ưu nhược điểm chủ yếu của thuế GTGT
Ưu điểm
Nhược điểm
Chương II: Nội dung cơ bản của luật thuế GTGT ở nước ta
I. Đối tượng đánh thuế và đối tượng nộp thuế
1/ Đối tượng đánh thuế
2/ Đối tượng nộp thuế
II. Căn cứ tính thuế
1/ Giá tính thuế
2/ Thuế suất
III/ Phương pháp tính thuế
1. Phương pháp khấu trừ thuế
a/ Đối tượng áp dụng
b/ Xác định thuế GTGT phải nộp
2. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
a/ Đối tượng áp dụng
b/ Xác định thuế GTGT phải nộp
c/ Phương pháp xác định gtgt làm căn cứ tính thuế gtgt phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh.
IV. Quy định về hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ.
V. Hoàn thuế GTGT
1. Đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế GTGT
2. Thẩm quyền giải quyết hoàn thuế
3. Thời hạn xét giải quyết hoàn thuế
VI. Đăng ký, kê khai nộp thuế, quyết toán thuế
1. Đăng ký nộp thuế
2. Kê khai thuế GTGT phải nộp NSNN
3. Nộp thuế GTGT
4. Quyết toán thuế GTGT
5. Xử lý các vi phạm về thuế GTGT
6. Tổ chức quản lý thu thuế.
Chương III: Thực tiễn áp dụng luật thuế GTGT ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật thuế GTGT ở nước ta.
I/ Tình hình áp dụng luật thuế GTGT ở nước ta
Những kết quả bước đầu.
Những tồn tại trong quá trình thực hiện.
II/ Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay.
Đối tượng chịu thuế.
Thuế suất.
Phương pháp tính thuế.
Hoàn thuế.
Cải cách hành chính thuế.
Hình thành và phát triển nhóm tư vấn thuế.
Tổ chức thực hiện thuế GTGT.
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0125.doc