Tiền lệ pháp về thương mại quốc tế là các quy tắc pháp luật hình thành thông qua thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp thương mại quốc tế của toà án. Tuy nhiên việc áp dụng tiền lệ pháp phụ thuộcvào hệ thống luật pháp của từng nước. Tại các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ, các toà án cóthể sử dụng những phán duyệt của toà án đã được công bố từ các bản án trước để làm khuôn mẫu áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp, các vụ việc tương tự.
Ở Việt Nam , tiền tệ pháp không được công nhận là nguồn luật điều chỉnh, nhưng do các văn bản luật và dưới luật của Nhà nước quy định chưa đầy đủ, chi tiết nên việc giải quyết tranh chấp thương mại có thể dựa vào thông tư liên tịch, giữa toà án nhân dân tối cao với viện kiểm sát nhân tối cao.
2.4. Luật quốc gia
80 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực tiễn kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
háp của mỗi bên trong điều kiện nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu đa dạng và phức tạp.
+ Về nội dung của hợp đồng nhập khẩu
Tính hợp pháp của hợp đồng nhập khẩu về nội dung được thể hiện thông qua hai vấn đề về những điều khoản chủ yếu và những điều khoản thông thường.
Luật pháp của các nước đều qui định về những điều khoản chủ yếu của hợp đồng nhập khẩu. Đây là những điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng. Nếu khi kí kế hợp đồng các bên không thoả thuận hoặc thoả thuận không đầy đủ chính xác về những điều khoản chủ yếu thì hợp đồng nhập khẩu sẽ không có giá trị pháp lý. Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng nhập khẩu là: Tên hàng, số lượng, quy cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng.
Ngoài các điều khoản chủ yếu trên còn có các điều khoản khác trong hợp đồng nhập khẩu gọi là điều khoản thông thường. Việc các bên thoả thuận đưa vào các điều khoản thông thường phụ thuộc vào khả năng, điều kiện của mỗi bên.
Trong việc kí kết hợp đồng nhập khẩu Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng luôn tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về nội dung của hợp đồng. Một hợp đồng nhập khẩu của Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng gồm những nội dung sau:
+ Số hợp đồng
+ Ngày và nơi kí kết hợp đồng.
+ Tên và địa chỉ của bên bán, bên mua
Các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu:
Điều khoản 1: Tên hàng, mã kí hiệu, năm sản xuất, nơi sản xuất, số lượng, điều kiện mua hàng, dẫn chiếu luật áp dụng.
Điều khoản 2: Giá cả
Điều khoản 3: Quy cách - chất lượng
Điều khoản 4: Phương thức thanh toán
Điều khoản 5: Điều kiện giao hàng
Điều khoản 6: Vận chuyển
Điều khoản 7: Điều khoản chung
Chữ kí của các bên.
Sau hơn 3 năm hoạt động Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng đã kí tổng số trên 110 hợp đồng nhập khẩu, nhưng chưa có hợp đồng nào xảy ra tranh chấp, điều này chứng tỏ trong quá trình kí kết hợp đồng công ty đã tuân thủ triệt để pháp luật của Việt Nam cũng như pháp luật của các nước đối tác trong quan hệ hợp đồng.
2.3.2. Những điều khoản chủ yếu của hợp đồng
Các điều khoản liên quan đến nội dung của hợp đồng:
+ Tên hàng: Chủ yếu được thể hiện bằng tiếng Anh, ghi kèm tên thương mại hãng sản xuất và nước sản xuất.
+ Số lượng: Vì mặt hàng nhập khẩu là máy công trình xây dựng nên đơn vị tính là chiếc.
+ Quy cách - chất lượng: Chất lượng hai bên thoả thuận là còn trên 80% giá trị sử dụng, theo đúng mã kí hiệu mà hai bên thoả thuận.
+ Giá cả: Được thể hiện dưới dạng số kèm theo dưới dạng chữ. Giá cả có thể là giá CIF cảng/sân bay Việt Nam hoặc giá FOF cảng/sân bay người bán theo Incoterms 2000. Đồng tiền dùng tính giá là đô la Mỹ (USD).
+ Phương thức thanh toán: Tuỳ theo tình chất của hợp đồng nhập khẩu. Công ty đã áp dụng một số phương thức thanh toán sau:
+ Phương thức chuyển tiền trực tiếp
+ Phương thức tín dụng chứng từ (L/C)
+ Phương thức nhờ thu
Nhưng việc thanh toán tại Công ty chủ yếu áp dụng phương thức tín dụng chứng từ (L/C) và bằng USD.
+ Về thời gian, địa điểm giao hàng: phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa công ty với bên đối tác, thường thời gian giao hàng được chỉ định vào một ngày cụ thể. Còn địa điểm giao hàng tuỳ thuộc vào điều kiện mua hàng mà hai bên thoả thuận: nếu theo điều kiện CIF thì địa điểm giao hàng sẽ là cảng Hải Phòng Việt Nam. Còn nếu theo điều kiện FOB thì địa điểm giao hàng sẽ là cảng người bán.
Ngoài ra điều khoản về luật áp dụng thường được Công ty thoả thuận với đối tác luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng sẽ là luật Việt Nam. Tất cả các tranh chấp phát sinh nếu hai bên không thương lượng, hoà giải được sẽ giải quyết theo thủ tục Trọng tài Việt Nam.
2.3.3. Trình tự kí kết hợp đồng nhập khẩu
Đối với trường hợp công ty đàm phán trực tiếp với đối với nước ngoài, sau khi hai bên đã thống nhất hoàn toàn về các vấn đề nêu trong quá trình đàm phán, thì giám đốc công ty hoặc người được giám đốc uỷ quyền cùng với người đại diện theo pháp luật cuả bên đối tác cùng kí kết vào bản dự thảo hợp đồng nhập khẩu do Công ty soạn thảo.
Đối với những trường hợp Công ty đàm phán gián tiếp với đối tác thì hợp đồng nhập khẩu được coi là kí kết khi hai bên đồng ý hoàn tất mọi điều kiện về chào hàng mà bên kia đưa ra, trường hợp này thường ít được sử dụng tại Công ty.
3. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Khi hợp đồng nhập khẩu đã được kí kết thì quyền và nghĩa vụ của các bên đã được xác định. Công việc tiếp theo là các bên phải tổ chức thực hiện đúng và đầy đủ những nội dung mà các bên đã cam kết thoả thuận trong hợp đồng.
Việc tổ chức thực hiện hợp đồng là công việc quan trọng và phức tạp, đòi hỏi các bên phải có kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ ngoại thương và am hiểu pháp luật nhằm đảm bảo việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu được diễn ra thuận lợi, không để xảy ra tranh chấp đáng tiếc bảo đảm quyền và lợi ích hai bên cũng như quyền và lợi ích của hai quốc gia.
Trên cơ sở tư tưởng chung của việc thực hiện hợp đồng là hợp tác hai bên cùng có lợi, trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu của mình. Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng đã luôn luôn tuân thủ triệt để pháp luật của Nhà nước và những nội dung mà hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng. Mặt khác Công ty cũng đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước như: Bộ thương mại, cơ quan Hải quan, bảo hiểm để tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu đúng với quy định của Nhà nước và đúng với nội dung của hợp đồng.
Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng có thể được khái quát theo sơ đồ sau:
Làm thủ tục thanh toán toán mở L/C
Làm thủ tục Hải quan
Nhận hàng từ tàu
chuyên chở
Kiểm tra hàng hoá
Khiếu nại (nếu có)
Do Công ty kí hợp đồng mua hàng theo điều kiện CIF cảng/Hải phòng. Nên trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu Công ty không phải thực hiện việc thuê tàu chuyên chở và mua bảo hiểm cho hàng hoá, mà công việc này thuộc phía người bán.
3.1. Làm thủ tục thanh toán
Hình thức thanh toán chủ yếu được Công ty sử dụng là thanh toán bằng L/C. Ngay sau khi hợp đồng nhập khẩu được kí giữa Công ty với đối tác nước ngoài. Công ty gửi đơn xin mở L/C theo mẫu có sẵn tại ngân hàng ngoại thương quận Hai Bà Trưng. Khi mở L/C Công ty căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu để điền vào một mãu gọi là: Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu".
Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu kèm theo bản sao hợp đồng nhập khẩu và một số lượng chứng từ khác được chuyển đến ngân hàng ngoại thương cùng với hai uỷ nhiệmchi, một để kí quỹ theo qui định về việc mở L/C và một để trả thủ tục phí cho ngân hàng về việc mở L/C.
Bên xuất sau khi đã hoàn tất các thủ tục cần thiết phải gửi Bộ chứng từ gốc đến ngân hàng ngoại thương quận Hai Bà Trung. Ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ này có phù hợp với bộ chứng từ mà bên nhập khẩu dùng mở L/C hay không, nếu không phù hợp thì ngân hàng báo lại cho bên xuất khẩu để sửa chữa, nếu ngân hàng thấy phù hợp thì thực hiện việc chuyển tiền trả cho bên xuất khẩu. Sau khi Công ty cầm bộ chứng từ mà bên xuất khẩu gửi cho để đi nhận hàng tại cảng.
(6)
Sơ đồ trình tự nghiệp vụ phương thức thanh toán bằng L/C
(5)
Ngân hàng mở L/C
(Ngân hàng ngoại thương ở Việt Nam)
Ngân hàng thông báo mở L/C
(Ngân hàng nước ngoài)
(6)
(5)
(3)
(8)
(7)
(1)
(2)
(4)
Bên xuất khẩu
Bên nhập khẩu
Giải thích sơ đồ:
(1) Bên nhập khẩu (Công Ty thương mại xây dựng Bạch Đằng) làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng ngoại thương của Việt Nam yêu cầu mở một tín dụng thư cho bên xuất khẩu hưởng.
(2) Căn cứ vào yêu cầu và nội dung đơn xin mở L/C, ngân hàng ngoại thương sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước bên xuất khẩu để thông báo việc mở tín dụng thư và chuyển thư tín dụng đến bên xuất khẩu.
(3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng đại lý sẽ thông báo cho bên xuất khẩu toàn bộ nội dung về việc mở thư tín dụng đó khi nhận được thư tín dụng thì chuyển ngay đến bên nhập khẩu.
(4) Bên xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không chấp nhận thì đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng để sửa đổi, thư tín dụng cho phù hợp với hợp đồng.
(5) Sau khi giao hàng, bên xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu của thư tín dụng, xuất trình thông qua ngân hàng đại lý để thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán.
(6) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả tiền cho bên xuất khẩu, nếu thấy không phù hợp thì từ chối thanh toán và trả lại toàn bộ chứng từ cho bên xuất khẩu.
(7) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền bên nhập khẩu và chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá cho bên nhập khẩu.
(8) Bên nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả tiền cho ngân hàng, nếu thấy không phù hợp thì có thể từ chối trả tiền.
Đây là phương thức thanh toán chủ yếu được thực hiện tại Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng. Phương thức thanh toán này hạn chế được những rủi ro trong thương mại quốc tế, nó bảo đảm quyền lợi cho cả hai bên. Tuy nhiên việc thanh toán bằng L/C rất phức tạp, nói đòi hỏi nhiều khâu trung gian, nếu thay đổi bất kỳ nội dung nào đó của hợp đồng đều phải làm thủ tục sửa đổi L/C cho ngân hàng mở L/C.
3.2. Làm thủ tục Hải quan
Sau khi làm thủ tục thanh toán, Công ty tiến hành thủ tục Hải quan cho hàng hoá nhập khẩu. Việc làm thủ tục Hải quan được căn cứ theo quy định trong Pháp lệnh Hải quan ngày 20/02/1992 và Luật hải quan ngày 29/6/2001. Thủ tục hải quan gồm các bước cơ bản sau:
+ Khai báo hải quan
Công ty phải khai báo chi tiết về hàng hoá nhập khẩu trên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra. Nội dung của tờ khai bao gồm những mục: Tên hàng, mã kí hiệu hàng năm sản xuất, nơi sản xuất, số lượng hàng, tổng giá trị của hàng nhập khẩu, nước xuất khẩu Tờ khai hải quan phải kèm theo một số chứng từ khác như: Hoá đơn, bảng kê chi tiết về hàng hoá.
+ Xuất trình hàng hoá:
Công ty phải xuất trình nhập khẩu cho cơ quan hải quan kiểm tra xem có đúng với nội dung trong tờ khai hải quan hay không, mọi chi phí phát sinh từ việc kiểm tra sẽ do Công ty chịu.
+ Thực hiện các quyết định của Hải quan.
Sau khi kiểm tra giấy tờ và hàng hoá, cơ quan Hải quan sẽ đưa ra các quyết định đối với hàng hoá như cho hàng hoá thông qua hoặc không thông qua. Thì Công ty luôn phải có nghĩa vụ thực hiện quyết định đó của cơ quan hải quan.
3.3. Nhận hàng từ tàu chuyên chở và kiểm tra hàng hoá
Tất cả các hợp đồng nhập khẩu do Công ty trực tiếp thực hiện và đa số hợp đồng nhập khẩu đều được công ty mua theo giá CIF. Công ty nhận hàng tại cảng Hải Phòng từ tàu chuyên chở. Sau khi bốc dỡ từ tàu, Công ty làm thủ tục lưu kho, lưu bãi cho hàng hoá nhập khẩu và thanh toán những cước phí đó với cơ quan quản lý kho bãi của Hải Phòng.
Trong quá trình tiếp nhận hàng hoá Công ty phải thực hiện việc kiểm tra hàng hoá xem có phù hợp với thoả thuận hay hợp đồng hay không. Với tất cả những hợp đồng nhập khẩu mà Công ty đã kí và thực hiện trong hơn 3 năm qua đều được thực hiện một cách thuận lợi, các bên thực hiện nghĩa vụ của mình đúng với thoả thuận trong hợp đồng.
4. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng nhập khẩu tại Công ty
Khi hàng về đến cảng Hải Phòng, Công ty tiến hành thủ tục nhận hàng. Việc kiểm tra chất lượng hàng hoá là khâu bắt buộc khi nhận hàng mà Công ty thực hiện. Thông thường kiểm tra chất lượng hàng hoá do cơ quan hải quan thực hiện. Nếu trong khi kiểm tra thấy chất lượng hàng hoá không như thoả thuận trong hợp đồng thì công ty sẽ lập biên bản và lập tức thông báo, yêu cầu bên xuất khẩu thực hiện đúng hợp đồng. Nếu bên xuất khẩu chậm trễ trong việc gửi hàng thay thế hàng không đúng chất lượng thì Công ty có quyền khiếu nại và phạt bên xuất khẩu 7% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Nếu khi nhận hàng xong Công ty không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán cho bên xuất khẩu, nếu trả chậm sau 5 ngày kể từ ngày đến hạn trả tiền thì mức lãi suất là 1,5%.năm. Các trường hợp miễn trách nhiệm của Công ty và bên xuất khẩu được quy định trong điều khoản về trường hợp bất khả kháng của hợp đồng. Công ty và đối tác không phải chịu trách nhiệm về các tổn thất, chậm trễ hay do lỗi khác trong việc thực hiện hợp đồng do nguyên nhân bất khả kháng. Điều kiện bất khả kháng là các sự kiện vượt quá sức kiểm soát của Công ty và đối tác. Vì vậy khi soạn thảo hợp đồng xuất khẩu Công ty liệt kê một số lượng tối đa những trường hợp có thể xảy ra ra như: Thiên tai, bão lụt, chiến tranh, dịch bệnh, hoả hoạn
Khi gặp trường hợp bất khả kháng thì thời hạn thực hiện hợp đồng được kéo dài trong thời gian tương ứng với thời hạn xảy ra trường hợp bất khả kháng, cộng với thời gian khắc phục hậu quả của nó.
Tuy nhiên nếu trường hợp bất khả kháng kéo dài quá một thời gian nào đó đã được thoả thuận, quy định thì một trong hai bên có quyền xin huỷ hợp đồng mà không phải bồi thường. Thời hạn này bao lâu là tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của Công ty với phía đối tác, nó phụ thuộc vào tính chất của hàng hoá.
Trong trường hợp bất khả kháng trách nhiệm của bên gặp trường hợp đó là: phải lập tức báo cho bên kia bằng văn bản về tình hình xảy ra sự kiện bất khả kháng trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đồng thời hai bên có thể thoả thuận chỉ định một tổ chức có thể chứng nhận về diễn biến của sự kiện đó.
Nói tóm lại, sự tranh chấp trong hợp đồng nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào kỹ thuật soạn thảo hợp đòng. Trong giai đoạn soạn thảo nếu hai bên đưa ra thoả thuận chi tiết mọi vấn đề thì sẽ hạn chế được tranh chấp có thể xảy ra. Điều này phụ thuộc vào trình độ hiểu biết, mức độ kinh nghiệm trong khi đàm phán, kí kết hợp đồng nhập khẩu của Công ty. Chính vì vậy, Công ty đã linh hoạt trong quá trình đàm phán với đối tác. Đối với những hợp đồng có giá trị nhỏ và đối tác lâu năm của Công ty sử dụng phương thức đàm phán gián tiếp rất đơn giản và nhanh chóng thông qua hình thức chào hàng. Đối với những hợp đồng có giá trị lớn thì Công ty thực hiện phương thức đàm phán trực tiếp. Do đặc điểm của kinh doanh thương mại quốc tế là hợp đồng được kí kết giữa các bên có quốc tịch khác nhau, nên việc đàm phán hợp đồng rất khó khăn và phức tạp
Nhận thức được vấn đề này Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng đã tổ chức một đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ hiểu biết cao về nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu pháp luật và có kinh nghiệm trong đàm phán.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng luôn đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, thanh toán, tiếp nhận, bảo quản hàng hoá đúng quy định. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện chức năng nhập khẩu máy công trình xây dựng mà Tổng công ty giao. Công ty chưa để xảy ra tranh chấp nào dẫn đến phải giải quyết bằng Trọng tài hay Toà án, mà một số tranh chấp phát sinh đã được Công ty và phía đối tác giải quyết thông qua con đường thương lượng hoặc hoà giải trên tinh thần hợp tác hai bên cùng có lợi.
Chương III
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ kí kết
và thực hiện hợp đồng nhập khẩu
I. Nhận xét chung về pháp luật kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam
Trong xu hướng quốc tế hoá - toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, với sự tham gia, thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào nền kinh tế, điều này đòi hỏi pháp luật về lĩnh vực hoạt động ngoại thương của mỗi nước phải chặt chẽ, đồng bộ và mang tính thông dụng, phổ biến, chính sách pháp luật của Nhà nước phải thông thoáng tạo điều kiện cho các công ty trong nước tham gia một cách thuận lợi nhất trong lĩnh vực hoạt động ngoại thương để thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển vốn đã trì trệ lạc hậu so với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thực hiện chủ trương đổi mới chính sách xuất nhập khẩu, trong những năm qua chính sách quản lý nhập khẩu của nước ta khá toàn diện và mang lại hiệu quả tích cực, thủ tục hành chính được đơn giản hoá hơn rất nhiều so với trước và phù hợp với tập quán thương mại quốc tế, chúng ta mạnh dạn thay đổi công cụ điều tiết hoạt động nhập khẩu, thay thế dần các biện pháp quản lý hành chính mệnh lệnh bằng các công cụ kinh tế.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý hoạt động nhập khẩu trong cơ chế mới là:
+ Quản lý chặt chẽ nhập khẩu, bảo đảm phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH và nhu cầu cơ bản, cần thiết của sản xuất trong nước, nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất với chi phí cao hơn nhập khẩu.
+ Đơn giản hoá các thủ tục hành chín, tăng cường các công cụ kinh tế trong việc quản lý hoạt động nhập khẩu.
+ Điều chỉnh pháp luật ở mức cần thiết cho phù hợp với các Điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế về thương mại, để tạo môi trường đồng nhất về mặt pháp lý cho hoạt động nhập khẩu. Nhưng việc sửa đổi phải mang tính chất sách lược không bị thụ động.
Nhờ những quan điểm đúng đắn đó, trong thời gian qua, hệ thống pháp luật về kinh doanh ngoại thương ở nước ta ngày càng hoàn thiện. Một loại các văn bản pháp quy đã được ra đời, điều chỉnh một cách hữu hiệu đối với hoạt động nhập khẩu. Tiêu biểu là sự ra đời của Luật Thương mại ngày 10/5/1997, Luật Hải quan ngày 29/6/2001, Nghị định số 101/2001/NĐ-CP đã lập ra một hành lang pháp lý thuận lợi, hướng dẫn các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào lĩnh vực kinh tế ngoại thương, tạo hiệu quả kinh tế cao.
Cùng với việc ban hành Luật Thương mại. Bộ Thương mại đã ban hành một số văn bản khác quản lý hoạt động thương mại trong và ngoài nước. Bộ Thương mại đã trình Chính phủ dự thảo cắt giảm hạn chế định lượng và hàng rào phi thuế quan trong tiến trình thực hiện Hiệp định CEPT/AFTA, xây dựng, bổ sung chế độ Tối huệ quốc gia (TN). Quyết định số 41/2000/QĐ-BTC ngày 17/3/2000 về việc sửa đổi bổ sung tên và thuế suất của một số nhóm, mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi Bên cạnh đó, Bộ Thương mại còn lập tổ công tác liên Vụ - Bộ Thương mại về WTO để xây dựng phương án đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ là điều kiện thuậnlợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào kí kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Để tăng cường quản lí Nhà nước về Hải quan, đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, giảm ách tắc trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Chính phủ ban hành Nghị định số 16/CP ngày 20/03/1996 và Nghị định số 54/1998/NĐ-CP ngày 21/7/1998 và Tổng cục Hải quan cũng đã ra Thông tư số 05/1998/TT-TCHQ ngày 29/8/1998 về hướng dẫn thi hành Nghị định số 16/CP và Nghị định số 54/1998/NĐ-CP.
Những văn bản này ra đời đã góp phần quan trọng vào đấu tranh ngăn ngừa các vi phạm hành chính xảy ra trong lĩnh vực hải quan, qua đó giảm bớt được thủ tục phiền hà và khắc phục được những biểu hiện chồng chéo, tiêu cực trong quyết định xử phạt, thi hành trong quyết định xử phạt. Ngoài ra để thuận tiện cho các doanh nghiệp hoạt động nhập khẩu, cơ quan Hải quan cũng đã ban hành mẫu tờ khai Hải quan để các doanh nghiệp kê khai một cách chi tiết đầy đủ các yêu cầu của cơ quan Hải quan, tạo thuận lợi cho cơ quan Hải quan khi tiến hành kiểm tra hàng nhập khẩu có phù hợp với tờ khai hải quan hay không. Như vậy sau khi kiểm tra giấy tờ hàng hoá, nếu thấy phù hợp thì cơ quan Hải quan sẽ quyết định cho phép hàng hoá nhập khẩu được thông qua.
Cùng với chính sách quản lý hải quan thì chính sách thuế cũng là một công cụ quản lý quan trọng đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Cùng với việc ban hành một loạt các sắc thuế khác nhau đã tạo thành hệ thống khá đầy đủ tác động đến hoạt động nhập khẩu và khắc phục được nhược điểm của việc áp dụng riêng biệt mỗi loại.
Chính sách thuế nhập khẩu giữ vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo vệ sản xuất trong nước, kích thích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động nhập khẩu tốt cũng như đóng góp một phần lớn trong ngân sách của Nhà nước.
Trong những năm qua với sự phát triển của hoạt động thương mại, sự biến động nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, các sắc thuế và biểu thuế cũng thường xuyên được sửa đổi bổ sung kịp thời. Luật thuế xuất nhập khẩu được Quốc hội bổ sung và thông qua ngày 26/12/1991 có hiệu lực ngày 1/4/1993. Tiếp đó là các văn bản hướng dẫn chi tiết như: Nghị định 110/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 31/12/1992 quy định chi tiết thi hành Luật thuế xuất nhập khẩu, Thông tư 89/TCT của Bộ Tài chính ban hành ngày 31/03/1992 hướng dẫn thi hành Nghị định số 110/HĐBT, Quyết định số 383/1998/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 30/3/1998 về việc bổ sung tên và thuế suất của một số mặt hàng trong biểu thuế xuất nhập khẩu. Công văn số 238/CP-KTTH ngày 10/3/2000 quy định về việc tăng thuế suất nhập khẩu và thu chênh lệch giá một số mặt hàng nhập khẩu khi áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu. Việc ban hành các văn bản pháp lý này đã tác động tích cực đến các hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế đất nước, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiến sâu hơn vào tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
Mặc dù chúng ta có những chính sách mới nhưng vẫn chưa thoát khỏi quan điểm Nhà nước độc quyền hàng ngoại thương, thống nhất quản lý ngoại thương, nên nhiều cơ chế và chính sách hoạt động chưa được hợp lý, lúc mở, lúc đóng gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Đặc biệt chúng ta vẫn duy trì cơ chế xin cho trong việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Hệ thống văn bản pháp lý trong quản lý xuất nhập khẩu quá phức tạp trong khi đó Thông tư hướng dẫn chưa thể hiện được tính hiệu lực. Sự bất lợi này đã làm cho các doanh nghiệp lúng túng khi Luật và Nghị định có hiệu lực nhưng hướng dẫn cụ thể lại chưa có. Đây là điểm hạn chế của pháp luật, chính điểm hạn chế này đã tạo điều kiện cho một số phần tử lợi dụng để trục lợi gây thiệt hại cho các doanh nghiệp.
Luật Thương mại Việt Nam có hiệu lực tờ 01/1/1998 thì có một tiêu chí để xác định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đó là hợp đồng được kí kết giữa thương nhân Việt Nam với một thương nhân nước ngoài. Khái niệm này hiện đang bộc lộ nhiều thiếu sót.
Thứ nhất về vấn đề quốc tịch: Nếu chỉ quy định chủ thể của hợp đồng có quóoc tịch khác nhau thì chưa đủ: Ví dụ, một Công ty có trụ sở ở nước ngoài nhưng vẫn mang quốc tịch Việt Nam, khi Công ty này kí hợp đồng bán cho một công ty trong nước một lô hàng. Nếu theo quan điểm của Luật Thương mại thì hợp đồng này phải là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Thứ hai về vấn đề vận chuyển hàng hoá qua biên giới: Theo quy chế về khu chế xuất, Chính phủ quy định rõ, hợp đồng xuất nhập khẩu bao gồm hợp đồng mua bán hàng hoá được kí kết giữa doanh nghiệp Việt Nam ngoài khu chế xuất và trong khu chế xuất. Như vậy hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá với khu chế xuất, hàng hoá không dịch chuyển qua biên giới, nhưng nó vẫnlà hoạt động ngoại thương. Vậy căn cứ vào dịch chuyển hàng qua biên giới thì cũng chỉ là một khái niệm tương đối.
Thứ ba là đồng tiền thanh toán không nhất thiết là ngoại tệ đối với một bên mà có thể trả bằng hàng hoá có giá trị tương đương và tiền chỉ lấy làm phương tiện tính toán chứ không làm phương tiện thanh toán.
Mặt khác chính sách thuế hiện hành quá cao, Luật thuế xuất nhập khẩu được Nhà nước ta ban hành ngày 1/4/1992 là một tiến bộ trong quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên cho đến nay Luật thuế xuất nhập khẩu đã bộc lộ những hạn chế nhất định, nó chưa thể hiện được là công cụ hữu hiệu để điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó danh mục các mặt hàng và thuế suất của từng mặt hàng chưa phản ánh được đúng nhu cầu khó khăn hay hạn chế đối với việc xuất hay nhập khẩu mặt hàng đó. Cơ chế thuế nhập khẩu còn quá phức tạp với nhiều mức khác nhau, một số mức thuế xuất còn quá cao.
Trong quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch của Nhà nước còn có những bất hợp lý và không ổn định. Cụ thể ngày 9/5/1997 Bộ Thương mại ban hành thông báo số 5071/TM-XNK về việc ngừng nhập 12 mặt hàng sau đó 2 tháng, ngày 23/07/1997 Bộ Thương mại ra công văn số 7681/TM-XNK bác bỏ thông báo trên và đúng 1 tuần sau đó ngày 1/8/1997 Văn phòng Chính phủ ban hành Công văn số 254/KHTN yêu cầu Bộ Thương mại, các Bộ, các ngành, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW chấp hành nghiêm túc Thông tư số 5071/TM-XNK. Việc thay đổi chính sách không nhất quán đã làm cho các doanh nghiệp nước ngoài dè dặt khi kí kết hợp đồng với các công ty trong nước. Đặc biệt là các chính sách mặt hàng của chúng ta thiếu ổn định, điều này đã gây ra sự thụ động, khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xác định chiến lược mặt hàng của mình. Trong tương lai việc quản lý bằng biện pháp hành chính cần được giảm bớt, thay thế vào đó bằng việc quản lý bằng thuế quan. Đây thực sự là công cụ hữu hiệu để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu.
II. Những thuận lợi và khó khăn trong kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng
Trong những năm qua, kể từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương đổi mới chính sách kinh tế, xoá bỏ cơ chế kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Xóa bỏ chính sách độc quyền của Nhà nước trong hoạt động ngoại thương sang cơ chế tự do, mọi doanh nghiệp đều có quyền tham gia tạo cho các doanh nghiệp chủ động hơn, năng động hơn trong hoạt động kinh tế của mình. Điều này đã thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua có những bước phát triển đáng kể, cùng với tình hình chính trị, xã hội ổn định đã tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến tình hình sản xuất, đời sống, xã hội. Nhập khẩu để bổ sung cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất với chi phí cao hơn nhập khẩu. Như vậy nhập khẩu sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về vốn,lao động, cơ sở vật chất, tài nguyên, khoa học kĩ thuật.
Trong những năm gần đây, việc thay đổi đơn giản thủ tục hành chính, cùng với chính sách thuế quan và hạn ngạch cũng được cắt giảm, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi co các doanh nghiệp Việt Nam trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Hiện nay, công tác kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu máy công trình xây dựng ở Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng cũng gặp nhiều thuận lợi và khó khăn nhất định do nhiều nguyên nhân khác nhau.
1. Thuận lợi
Do có sự đổi mới trong chính sách hải quan, chính sách thuế, và sự ra đời của một loạt các văn bản pháp luật về hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung trong đó có Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng nói riêng khi tham gia vào lĩnh vực hoạt động kinh tế ngoại thương. Công ty được chủ động tìm bạn hàng, chủ động đàm phán, kí kết và thực hiện hợp đồng. Mặt khác công việc làm thủ tục để nhập khẩu cho hàng hoá cũng được đơn giản rất nhiều. Mặt hàng nhập khẩu của Công ty là máy xây dựng công trình, đay là mặt hàng nằm trong diện không phải xin giấy phép nhập khẩu, mà Công ty chỉ cần làm thủ tục Hải quan cho hàng hoá nhập khẩu là đủ. Điều này đã làm cho Công ty tiết kiệm được thời gian và chi phí trong khâu làm thủ tục nhập khẩu cho hàng hoá.
Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng có đội ngũ cán bộ nhan viên có trình độ hiểu biết về hoạt động kinh tế ngoại thương, có kinh nghiệm trong đàm phán, kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Cho nên sau hơn 3 năm, thực hiện hơn 100 hợp đồng nhập khẩu, Công ty chưa để xảy ra tranh chấp nào dẫn đến kiện tụng. Đây là thành tích đáng kể của tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty.
Sau hơn 3 năm đi vào hoạt động Công ty đã tạo cho mình sự uy tín, tin tưởng của các bạn hàng nước ngoài cũng như các bạn hàng trong nước, khách hàng tìm đến kí kết hợp đồng với Công ty ngày càng nhiều, đã mở ra cơ hội làm ăn mới đối với Công ty.
Dưới sức ép của nền kinh tế thị trường, Công ty tìm mọi cách để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của khách hàng trong nước và khách hàng nước ngoài. Bằng cách Công ty tích cực nghiên cứu mở rộng quy mô, chủng loại mặt hàng, kinh doanh nhiều ngành nghề với chất lượng ngày càng được nâng cao. Tích cực thâm nhập, đi sâu vào thị trường các nước EU, Mỹ
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng cũng gặp phải những khó khăn nhất định trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Thứ nhất, do cơ chế kinh tế của chúng ta mới mở cửa được hơn 10 năm, cho nên kinh nghiệm trong hoạt động kinh tế ngoại thương còn thiếu. Điều này đã gây ra sự thiệt thòi cho Công ty trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Qua thực tế cho thấy những điều bất lợi luôn thuộc về phía các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, chính sách quản lý xuất nhập khẩu của nhà nước luôn thay đổi và thiếu đồng bộ, thủ tục hải quan còn rườm rà, chính sách thuế xuất nhập khẩu còn cao. Những điều này đã gây ra trở ngại cho hoạt động nhập khẩu của Công ty.
Thứ ba, việc kí kết hợp đồng nhập khẩu ngày càng đa dạng và phức tạp, đặc biệt là khi xuất hiện các phương tiện truyền tin hiện đại như Telex, Fax, Email Điều này làm cho việc vận dụng pháp luật trong nước cũng như quốc tế vào công tác kí kết hợp đồng nhập khẩu của công ty cũng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay các thông tin về thị trường, pháp luật, về chính sách ngoại thương của nước đối tác còn rời rạc và phân tán do nước ta chưa có những kênh thông tin chính xác. Đây là một thiệt thòi lớn đối với Công ty. Công ty phải tự mình tìm hiểu, nắm bắt thông tin về đối tác, do đó gây ra tốn kém về thời gian và chi phí về đối tác, do đó gây ra tốn kém về thời gian và chi phí.
Nguyên nhân của những khó khăn trên là do:
Thứ nhất: Hệ thống văn bản pháp luật về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu còn khá phức tạp và thiếu đồng bộ. Luậttm có hiệu lực từ năm 1998, nhưng thực sự chưa phát huy nhiều tác dụng. Một số chính sách của Nhà nước không phù hợp với tình hình thực tế. Thủ tục hành chính hiện nay còn rườm rà ảnh hưởng đến tiến trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu gây lãng phí thời gian và chi phí, làm mất cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai: Do thiếu kênh thông tin đầy đủ, chính xác về đối tác, đội ngũ cán bộ của Công ty thực sự còn thiếu kinh nghiệm trong hoạt động ngoại thương. Trong đàm phán kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty và đối tác thường thoả thuận chọn đồng tiền thanh toán là USD. Cho nên khi tỉ giá đồng USD tăng lên dẫn đến giá thành nhập khẩu của máy móc tăng lên, điều này đã gây khó khăn cho Công ty đối với thị trường trong nước.
Thông qua những nguyên nhân này đòi hỏi Ban giám đốc Công ty phải có những biện pháp khắc phục để hoạt động nhập khẩu của Công ty có những bước phát triển mới và đạt hiệu quả kinh tế.
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng
1. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước
Để thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển mạnh trong những năm tới , thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Đòi hỏi nhà nước phải tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, đơn giản nhưng chặt chẽ về hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Việc tạo ra hành lang pháp lý chặt chẽ sẽ hạn chế được những tranh chấp phát sinh trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Từ đó sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí, tạo hiệu quả kinh tế cao cho các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu. Để làm được điều này Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể sau:
1.1. Ban hành văn bản pháp luật có tính đồng bộ và ổn định
Hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước ta hiện nay còn thiếu tính đồng bộ, không thống nhất giữa các văn bản, có sự chồng chéo nhau gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi áp dụng. Do đó khi ban hành văn bản pháp luật cần phải tuân thủ nguyên tắc thống nhất. Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản pháp luật. Hiến pháp là Luật cơ bản của Nhà nước, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất. Tất cả các văn bản pháp luật được ban hành phải phù hợp với hiến pháp. Nếu văn bản ban hành không phù hợp với hiến pháp đều phải huỷ bỏ và có hình thức xử lý đối với chủ thể ban hành văn bản trái pháp luật đó.
Khi xây dựng ban hành văn bản pháp luật phải đảm bảo sự tham gia đóng góp ý kiến của các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội và sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân. Có như vậy khi văn bản pháp luật được ban hành thì mới thực sự có hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhất là đối với những quan hệ kinh tế vốn đã rất nhạy bén và phức tạp.
Các văn bản pháp luật phải thể hiện được tính cụ thể, hạn chế trường hợp chỉ quy định chung rồi bỏ lửng, sau đó không có văn bản hướng dẫn chi tiết hoặc có những ban hành hướng dẫn quá muộn và không thống nhất. Để đảm bảo nguyên tắc ban hành văn bản pháp luật có tính đồng bộ, có hiệu lực thi hành ngay, thì văn bản hướng dẫn chi tiết phải được soạn thảo đồng thời với dự án Luật để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kịp thời ban hành văn bản này khi Luật đã có hiệu lực. Có như vậy các doanh nghiệp khi áp dụng Luật trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu mới được chính xác, hạn chế những nhầm lẫn đáng tiếc gây tranh chấp không đáng có.
1.2. Quản lý hoạt động nhập khẩu
Để hoạt động nhập khẩu thực sự phát huy hiệu quả đối với sản xuất và tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế - thương mại với nước ngoài góp phần đẩy mạnh kinh tế đất nước phát triển ngang tầm với khu vực và thế giới. Nhà nước phải có chính sách quản lý hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả kinh tế cao.
1.2.1. Chế độ hải quan
Trong những năm qua thủ tục Hải quan đã được Nhà nước quan tâm và sửa đổi có nhiều tiến bộ, giảm bớt những thủ tục phức tạp không cần thiết và gây nhiều cản trở cho hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên trong thủ tục hải quan vẫn còn nhiều hạn chế tiêu cực, một số cán bộ hải quan đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để gây phiền nhiễu cho doanh nghiệp khi làm thủ tục Hải quan, thủ tục hành chính còn phức tạp. Chính vì vậy trong quản lý hoạt động nhập khẩu về thủ tục Hải quan cần giảm bớt những thủ tục gây cản trở cho hoạt động nhập khẩu, Nhà nước cần có những biện pháp xử lý thích đáng đối với một số cán bộ ngành hải quan tha hóa, biến chất, có hành vi tiếp tay cho bọn buôn lậu và cố tình gây cản trở ăn tiền của các doanh nghiệp khi làm thủ tục Hải quan cho hàng hoá nhập khẩu của doanh nghiệp.
1.2.2. Chế độ thuế nhập khẩu
Luật thuế xuất nhập khẩu được ban hành đầu tiên năm 1987 được hoàn thiện và được áp dụng cho đến nay. Tuy nhiên trong Luật thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều điểm hạn chế như: Biểu thuế nước ta còn quá cao so với biểu thuế của các nước và việc phân loại hàng hoá còn chưa được cụ thể, nên việc thực hiện còn nhiều khó khăn, vì vậy thuế nhập khẩu chưa thực sự là công cụ điều tiết hữu hiệu đối với hoạt động nhập khẩu.
Thuế cũng là công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế nên đòi hỏi phải có sự nhanh nhạy, song thực tế hiện nay rất khó điều chỉnh theo sự biến động của thị trường vì phải xin ý kiến của Quốc hội. Do vậy, trong thời gian tới Chính phủ cũng cần nới rộng quyền của Chính phủ trong việc điều chỉnh thuế suất, miễn giảm thuế, cần có những chính sách thuế ưu tiên cho những doanh nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công cộng.
1.2.3. Hạn ngạch và cấp giấy phép
Để quản lý bằng hạn ngạch có hiệu quả, Nhà nước cần ban hành bổ sung các văn bản quy định chi tiết về việc phân bổ quota theo nguyên tắc một cửa, chỉ phân bổ cho doanh nghiệp có đủ quyền xuất nhập khẩu trực tiếp theo nhóm hàng xuất nhập khẩu đem lại hiệu quả kinh tế không những cho doanh nghiệp mà còn đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
Các quy định về thủ tục cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu còn nhiều gò bó và mang tính chất hành chính. Hậu quả là một số doanh nghiệp không có khả năng kinh doanh xuất nhập khẩu vẫn có giấy phép, không tuân thủ các quy định kiểm tra, giám sát xuất nhập khẩu của cơ quan Hải quan, Bộ thương mại. Bộ thương mại cần phối hợp với cơ quan kiểm toán Nhà nước kiểm tra các đơn vị có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, cần thu hồi giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu đối với những doanh nghiệp không đủ năng lực. Nhà nước cần có những quy định chi tiết hơn về việc phép, giám sát kiểm tra việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu.
1.3. Quy định về nội dung và hình thức của hợp đồng nhập khẩu
Trong quan hệ thương mại quốc tế hiện nay, Nhà nước cần có những quan điểm đầy đủ hơn về hợp đồng nhập khẩu.
Theo như quy định trong Luật Thương mại 1997 thì hình thức của hợp đồng nhập khẩu phải nhất định được thể hiện dưới hình thức văn bản. Điều này, hiện nay không còn phù hợp nữa, trong quan hệ kinh doanh giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài. Thì có những mối quanhệ kinh doanh lâu dài, các bên hiểu biết rất rõ về nhau, tin tưởng ở nhau và thoả thuận những hợp đồng mua bán hàng hoá không lớn, thì các bên có thể kí hợp đồng dưới hình thức phi văn bản. Điều này sẽ làm cho các doanh nghiệp Việt Nam tiết kiệm được thời gian chi phí và tranh thủ được thời cơ nhanh chóng, tạo ưu thế cạnh tranh vượt trội với các bạn hàng khác. Vì vậy Nhà nước cần quy định lại hình thức của hợp đồng nhập khẩu cho phù hợp với tình hình mới.
Mặt khác trong phần nội dung của hợp đồng nhập khẩu, chúng ta mới chỉ quy định các điều khoản bắt buộc bao gồm: Tên hàng, số lượng, quy cách- chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng. Đối với hợp đồng nhập khẩu sẽ có nhiều nguồn luật khác nhau để điều chỉnh, do đó các nguồn luật này không thống nhất giữa các quốc gia kí kết hợp đồng nhập khẩu. Chính vì vậy trong điều khoản bắt buộc của hợp đồng nhập khẩu cần quyđịnh thêm các bên phải thoả thuận nguồn luật điều chỉnh của hợp đồng. Để khi có xảy ra tranh chấp giữa các bên thì lấy nguồn luật đó làm cơ sở, phương tiện để áp dụng giải quyết.
1.4. Phổ biến kiến thức pháp luật
Nhà nước cần mở rộng các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật trong nứoc cũng như kiến thức pháp luật quốc tế cho các cán bộ thực hiện chức năng xuất nhập khẩu thuộc các cơ quan quản lý của Nhà nước và cho những cán bộ thuộc các doanh nghiệp trực tiếp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó nhà nước cần phải quy định đối với những cán bộ trực tiếp tham gia vào công việc đàm phán, kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu phải đạt một trình độ hiểu biết về pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế nhất định. Nếu đạt trình độ Nhà nước sẽ cấp giấy phép, nếu không đạt sẽ không được tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
Có như vậy mới đảm bảo được quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu. Đồng thời hạn chế được những tranh chấp có thể xảy ra.
1.5. Phê chuẩn các Điều ước quốc tế về thương mại
Nhà nước cần có các biện pháp xúc tiến để gia nhập các Công ước quốc tế đa phương cũng như việc kí kết các Hiệp định thương mại song phương. Những văn bản pháp luật này không những là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu mà còn tạo cơ sở tự do hoá thương mại, mở rộng thị trường, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế.
2. Kiến nghị với Công ty
Qua nghiên cứu tìm hiểu về Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng trong thời gian thực tập tại Công ty, cùng với việc nghiên cứu những lý luận cơ bản của pháp luật về hoạt động nhập khẩu. Có một vài kiến nghị với công ty như sau:
2.1. Đối với các nghiệp vụ đàm phán:
Vì chức năng chính của Công ty là thực hiện việc nhập khẩu các máy công trình xây dựng. Cho nên Công ty thường xuyên phải kí các hợp đồng nhập khẩu với đối tác nước ngoài. Chính vì vậy, để cho quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu được diễn ra thuận lợi, thì khâu đàm phán phải được đặc biệt quan tâm chú ý tới. Để khâu đàm phán đạt hiệu quả tốt, Công ty cần phải chuẩn bị tốt những điểm sau:
+ Thứ nhất: Phải tổ chức những kênh thông tin chính xác về đối tác, xem xét về tình hình tài chính, khả năng cung ứng hàng hoá cũng như mức độ uy tín của đối tác. Đồng thời Công ty phải luôn cập nhật thông tin về thị trường giá cả, tỉ giá hối đoái, mức lãi suất, cước phí vận chuyển, bảo hiểm Nắm bắt được sự thay đổi của pháp luật trong nước cũng như pháp luật quốc tế để có những phản ưngs kịp thời cho phù hợp.
+ Thứ hai: Tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên của Công ty chuyên làm về nhiệm vụ nhập khẩu có trình độ hiểu biết về pháp luật kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam là pháp luật của Nhật Bản và Hàn Quốc. Cần đào tạo đội ngũ này phải nhạy bén, linh hoạt xử lý trong các tình huống phức tạp của quá trình đàm phán, đưa ra những quyết sách đúng đắn trong quá trình đàm phán.
Thứ ba: Phải đặt ra mục đích yêu cầu cho việc đàm phán, đặc biệt là giá cả và chất lượng của hàng hoá nhập khẩu.
Thứ tư: Phải có sự chuẩn bị về thời gian để trao đổi về hợp đồng nhập khẩu với các phòng, ban trong toàn Công ty để lấy ý kiến trước khi tiến hành đàm phán.
2.2. Đối với việc kí hợp đồng nhập khẩu
Trong kí kết hợp đồng nhập khẩu, Công ty cần tuân thủ triệt để những quy định của pháp luật về kinh doanh xuất nhập khẩu.
+ Khi kí kết hợp đồng phải đảm bảo hợp đồng được thể hiện đúng hình thức và nội dung so với quy định của pháp luật Việt Nam. Vì hợp đồng nhập khẩu sẽ làm căn cứ để xác định trách nhiệm quyền hạn của các bên trong việc thực hiện hợp đồng. Đồng thời nó còn làm căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
+ Trong quá trình soạn thảo hợp đồng nhập khẩu không nên dùng những từ ngữ mập mờ, khó giải thích, hoặc có nhiều cách giải thích nghĩa của từ gây ra sự hiểu nhầm giữa các bên, gây cản trở cho quá trình thực hiện hợp đồng.
+ Không cam kết những gì mà mình không biết hoặc không đủ thẩm quyền để quyết định việc đó.
+ Trong hợp đồng nên thoả thuận luật điều chỉnh của hợp đồng là luật Việt Nam để thuận tiện cho quá trình giải quyết tranh chấp (nếu có). Đồng thời liệt kê tối đa những trường hợp bất khả kháng để hạn chế bớt trách nhiệm khi rủi ro xảy ra.
2.3. Đối với khâu thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Thực hiện hợp đồng nhập khẩu là khâu phức tạp, đòi hỏi người làm công tác nhập khẩu phải hiểu biết sâu sắc về pháp luật và kinh nghiệm trong hoạt động nhập khẩu,
+ Khi làm thủ tục Hải quan cho hàng hoá nhập khẩu, Công ty phải chuẩn bị những giấy tờ cần thiết theo đúng yêu cầu của Hải quan. Đồng thời phải xếp hàng đúng trật tự, tạo thuận tiện cho công tác kiểm tra của cơ quan Hải quan. Làm tốt việc này sẽ tạo được mối quan hệ totó với cơ quan Hải quan từ đó tiết kiệm được thời gian và chi phí cho việc kiểm tra hàng hoá nhập khẩu.
+ Khi tiếp nhận hàng hoá, Công ty phải chuẩn bị những chứng từ cần thiết để nhận hàng một cách thuận lợi nhất. Đồng thời khi nhận hàng phải kiểm tra hàng về số lượng, chất lượng, mã kí hiệu, xem có phù hợp với thoả thuận trong hợp đồng hay không. Nếu phát hiện có sai sót, phải thông báo ngay cho bên đối tác, tốt nhất Công ty nên thương lượng với bên đối tác để tiết kiệm thời gian và chi phí đồng thời duy trì được mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa hai bên.
Kết luận
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, vai trò của hoạt động ngoại thương nói chung và của hoạt động nhập khẩu nói riêng đã và đang đóng góp to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Thực hiện chủ trương mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, sau hơn 10 năm thực hiện, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế đã được thay đổi, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Một loạt các chính sách kinh tế về hoạt động ngoại thương, các văn bản pháp luật của Nhà nước điều chỉnh về lĩnh vực này đã được ban hành. Tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng, đơn giản cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia hoạt động trong lĩnh vực này.
Với chức năng, nhiệm vụ được Tổng Công ty Thương mại xây dựng giao cho Công ty là phải thực hiện việc nhập khẩu các máy móc công trình xây dựng từ Nhật Bản và Hàn Quốc, Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng đã tổ chức thực hiện nhiệm vụ này một cách có hiệu quả. Sau hơn 3 năm thực hiện nhiệm vụ của mình, Công ty đã kí kết và thực hiện trên 110 hợp đồng nhập khẩu, nhưng chưa để xảy ra tranh chấp phải dẫn đến kiện tụng. Đây là kết quả cần ghi nhận về sự cố gắng của Công ty đối với lĩnh vực kinh doanh mới mẻ này. Tuy nhiên trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu Công ty đã gặp phải những khó khăn nhất định, song Công ty không ngừng tìm tòi các biện pháp để giải quyết, khắc phục các khó khăn đó.
Với những kiến thứuc đã được nghiên cứu học tập ở trường, cùng với những kiến thức thu nhận được qua quá trình thực tập ở Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp như đã trình bày ở trên, với mong muốn góp phần nào vào việc tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động nhập khẩu nói chung hiện nay và việc nhập khẩu máy công trình xây dựng tại Công ty.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Th.s Đinh Hoài Nam, cô Nguyễn Thu Ba, thầy cô đã giúp đỡ em rất nhiều trong khi làm đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú ở Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em được tìm hiểu về hoạt động nhập khẩu tại Công ty trong suốt thời gian thực tập. Do thời gian và kiến thức còn hạn chế, nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn sinh viên.
Tài liệu tham khảo
Bộ Luật dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX thông qua ngày 28/10/1995.
Luật Thương mại Việt Nam (10/5/1997)
Luật thuế xuất nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 26/12/1991.
Luật Hải quan được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001.
Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài.
Nghị định số 33/TTg của Thủ tướng Chính phủ về quản lý Nhà nước đối với hợp đồng xuất nhập khẩu ban hành ngày 19/4/1994.
Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan.
Thông tư số 20/2001/TT-BTM ngày 17/8/2001 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 2/8/2001 của Chính phủ về sửa đổi bổ xung một số điều của Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài.
Quyết định của Thủ tướng số 40/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kì 2001-2005.
Thông tư liên tịch số 37/2001/TTLT-BKHCNMT-TCHQ ngày 28/6/2001 hướng dẫn thủ tục Hải quan và kiểm tra chất lượng đối với hàng hoá xuất nhập khẩu phải kiểm tra nhà nước về chất lượng.
Giáo trình Luật thương mại quốc tế.
Ths. Trần Văn Nam, TS. Trần Thị Hoà Bình - NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1999.
Giáo trình thương mại quốc tế
PGS.TS Nguyễn Duy Bột - NXB Thống Kê 1999.
Một số tài liệu nội bộ của Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I: Chế độ pháp lý về hợp đồng nhập khẩu 3
IQuản lý Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu 3
1. Vai trò của nhập khẩu 3
2. Các quy định về hàng nhập khẩu 4
3. Chế độ giấy phép 5
4. Thủ tục hải quan 6
5. Chế độ kiểm tra, giám sát hoạt động nhập khẩu 7
II. Khái quát chung về hợp đồng nhập khẩu 8
1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng nhập khẩu 8
2. Nguồn luật điều chỉnh 9
2.1. Các điều ước quốc tế 10
2.2. Các tập quán quốc tế về thương mại 11
2.3. Tiền lệ pháp (án lệ) về Thương mại quốc tế.
2.4. Luật quốc gia 12
3. Các nhân tố tác động tới
III. Chế độ kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 13
1. Chế độ kí kết hợp đồng nhập khẩu 13
1.1. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng 13
1.2. Trình tự kí kết hợp đồng 15
1.3. Những điều khoản chủ yếu 15
2. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu 18
2.1. Nguyễn tắc thực hiện hợp đồng 18
2.2. Thực hiện hợp đồng về nội dung 18
IV. Giải quyết các tranh chấp 22
1. Thương lượng trực tiếp giữa hai bên 23
2. Giải quyết theo thủ tục hoà giải 24
3. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài 25
4. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tư pháp tại Toà án 25
Chương II: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu máy công trình xây dựng tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng 27
I. Tình hình sản xuất kinh doanh tại công ty 27
1. Khái quát về công ty 27
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 27
1.2. Địa vị pháp lý của Công ty 28
2. Tình hình hoạt động của Công ty 29
2.1. Mặt hàng kinh doanh của Công ty 29
2.2. Thị trường hoạt động kinh doanh của Công ty 29
2.3. Hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty 30
2.4. Thuận lợi và khó khăn của Công ty 31
II. Thực tiễn kí kết hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng 33
1. Tình hình nhập khẩu tại Công ty 33
2. Tình hình kí kết hợp đồng nhập khẩu tại Công ty 33
2.1. Tìm hiểu đối tác đàm phán 33
2.2. Phương thức kí kết 34
2.3. Kí kết hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng 36
3. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu 40
3.1. Làm thủ tục thanh toán 40
3.2. Làm thủ tục hải quan 43
3.3. Nhận hàng từ tàu chuyên chở và kiểm tra hàng 44
4. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng nhập khẩu tại Công ty 45
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 47
I. Nhận xét về pháp luật kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam 47
II. Những thuận lợi và khó khăn khi kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng 52
1. Thuận lợi 52
2. Khó khăn 53
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 55
1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước 55
1.1. Ban hành văn bản pháp luật có tính thống nhất và đồng bộ 55
1.2. Quản lý hoạt động nhập khẩu 56
1.2.1. Chế độ hải quan 56
1.2.2. Chế độ thuế nhập khẩu 57
1.2.3. Hạn ngạch và giấy phép kinh doanh 57
1.3. Quy định về nội dung và hình thức của hợp đồng nhập khẩu 58
1.4. Phổ biến kiến thức pháp luật 58
1.5. Phê chuẩn các Điều ước quốc tế về thương mại 59
2. Kiến nghị với Công ty 59
2.1. Đối với các nghiệp vụ đàm phán 59
2.2. Đối với việc kí kết nhập khẩu 60
2.3. Đối với khâu thực hiện nhập khẩu 61
Kết luận 62
Tài liệu tham khảo 62
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3608.doc