Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị truờng đã và đang làm thay đổi nhiều vấn đề về nhận thức và phương thức điều tiết của nhà nước trong hoạt động kinh tế.
Cùng với quá trình đổi mới, cạnh tranh đã từng bước được tiếp nhận như là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế quốc dân. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của nền kinh tế song ở phương diện khác thì cạnh tranh lại gây ra nhiều hậu quả về kinh tế - xã hội mà pháp luật, với tư cách là công cụ hữu hiệu của nhà nước phải được sử dụng để điều chỉnh kịp thời những sai lệch đó.
Việc tiếp cận, nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống về cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh, góp phần tham gia xây dựng một chế định pháp lý điều chỉnh vấn đề này là mục đích xuyên suốt của luận văn.
Từ kết quả tiếp cận, nghiên cứu cho phép tác giả của luận văn đưa ra một số kết luận như sau:
1. Cạnh tranh là hoạt động thực tiễn của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường . Cạnh tranh vừa là quy luật khách quan, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khác vừa là hoạt động chủ quan của chủ thể sản xuất kinh doanh xuất phát từ mục đích kinh doanh chi phối nhưng phải có sự quản lý, điều tiết của nhà nước một cách phù hợp, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia nói riêng và thế giới nói chung.
102 trang |
Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh, nhu cầu, phương hướng, nội dung xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luật khác điều chỉnh quan hệ và hành vi xâm phạm trật tự sản xuất, kinh doanh lành mạnh ở nhiều lĩnh vực.
a) Các quy định pháp luật về sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ.
Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ của Việt nam đã phát triển có hệ thống từ pháp lệnh bảo hộ sở hữu công nghiệp, pháp lệnh chất lượng hàng hoá, pháp lệnh nhãn hiệu hàng hoá, pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt nam ... và được pháp điển hoá tập trung tại phần quyền sở hữu trí tuệ của Bộ Luật dân sự và các nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành bộ luật này.1
Điều 780 Bộ luật dân sự quy định : "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hoá và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định".
Các đối tượng sở hữu công nghiệp được nhà nước bảo hộ theo như quy định tại điều 781 gồm : "Sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và các đối tượng khác do pháp luật quy định, trừ các đối tượng được quy định tại điều 787 của Bộ luật này" tức là "các đối tượng sở hữu công nghiệp trái với lợi ích xã hội, trật tự công cộng, nguyên tắc nhân đạo và các đối tượng khác mà pháp luật về sở hữu công nghiệp quy định không được bảo hộ".
Theo điều 805 Bộ luật dân sự, những hành vi sau đây được coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp :
- Sản xuất sản phẩm theo sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp tại Việt nam;
- Sử dụng, nhập khẩu, quảng cáo, lưu thông, bán sản phẩm mà sản phẩm đó được được sản xuất theo sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp tại Việt Nam;
- Áp dụng các phương pháp mà phương pháp đó được bảo hộ tại Việt nam là sáng chế giải pháp hữu ích;
-Gắn nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt nam của người khác hoặc nhãn hiệu tương tự lên bao bì, sản phẩm của mình;
- Nhập khẩu, bán hoặc chào hàng các sản phẩm có gắn nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ tại Việt nam trên thị trường Việt nam.
Tại điều 54 nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp đã quy định rõ : Mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý theo các quy định của pháp luật.
Các quy định pháp lý nói trên đã góp phần điều tiết hoạt động kinh doanh trung thực trên thị trường, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp của mọi tổ chức, cá nhân, chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ.
Mặc dù vậy, pháp luật vể sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ cần phải được bổ sung hoàn chỉnh theo các hướng như :
- Cần quy định đầy đủ, chi tiết các trường hợp, hành vi bị coi là vi phạm quyền của chủ văn bằng bảo hộ, các hành vi vi phạm quyền của các đối tác cạnh tranh nhất là về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, bí mật công nghệ, bí mật thương mại;
- Cần quy định rõ những biểu hiện cụ thể và biện pháp xử lý đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như gây nhầm lẫn, lừa dối, dèm pha, làm mất uy tín đối thủ cạnh tranh, vi phạm bí mật thương mại, lợi dụng không chính đáng thành quả kinh doanh của người khác.
- Cần có những quy định tạo cơ sở pháp lý cho sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan bảo vệ, quyền sở hữu trí tuệ và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này.
b) Các quy định pháp luật về quảng cáo.
Quảng cáo hàng hoá, dịch vụ là một biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh bằng việc thu hút khách hàng nhằm chiếm lĩnh thị trường. Để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động văn hoá xã hội khác cho mọi tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, cảnh quan môi trường và bản sắc dân tộc, Chính phủ đã ban hành nghị định 94/CP ngày 31/12/1994 quy định về các hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ Việt nam (Bộ văn hoá -thông tin cũng đã ban hành thông tư số 37/VHTT-TT ngày 01/7/1995 hướng dẫn thi hành nghị định). Theo nghị định này, nhà nước thống nhất quản lý các hoạt động quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động quảng cáo, nghiêm cấm các hành vi cản trở hoạt động quảng cáo hợp pháp, lợi dụng quảng cáo dưới mọi hình thức gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của xã hội và công dân. Quảng cáo có nội dung và hình thức sau đây đều bị nghiêm cấm :
- Trái với pháp luật Việt nam, có hại tới giá trị nhân phẩm, thuần phong mỹ tục, sức khoẻ và nếp sống thanh lịch của người Việt nam, làm lộ bí mật quốc gia;
- Sai chất lượng hàng hoá đã đăng ký, nói xấu người khác và hàng hoá của người khác;
- Quảng cáo các mặt hàng bị cấm kinh doanh hoặc hạn chế tiêu dùng trong từng thời gian;
- Quảng cáo báo chí, tác phẩm chưa được phép xuất bản, công diễn ...
Người quảng cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự trung thực, chính xác của từng nội dung quảng cáo. Sản phẩm, hàng hoá muốn quảng cáo phải có giấy chứng nhận chất lượng của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cung cấp. Nhãn hiệu hàng hoá, biểu tượng mà cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ muốn quảng cáo phải có giấy chứng nhận đã đăng ký ở Việt nam do cơ quan có thẩm quyền của Việt nam cấp. Người quảng cáo, người tổ chức dịch vụ quảng cáo vi phạm pháp luật về hoạt động quảng cáo thì tuỳ theo mức độ thiệt hại gây ra mà bị xử lý hành chính, bồi thường thiệt hại, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa dối khách hàng và các tội khác có liên quan.
Người có trách nhiệm quản lý hoạt động quảng cáo mà vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các quy định của pháp luật.
Ngoài ra, hoạt động quảng cáo cũng được đề cập ở nhiều văn bản Luật và văn bản khác của chính phủ như : Luật báo chí, Luật xuất bản, Bộ luật dân sự, Luật thương mại, nghị định 88/CP ngày 14/12/1995 và nghị định 36/CP ngày 19/6/1996, quyết định số 322/BYT-QĐ ngày 28/02/1997 của Bộ Y tế về việc ban hành quy chế thông tin, quảng cáo thuốc và mỹ phẩm dùng cho người; thông tư 1191/TT-LB ngày 29/6/1991 của uỷ ban khoa học nhà nước và Bộ văn hoá -thông tin về việc quy định quản lý nhãn và quảng cáo sản phẩm hàng hoá....
Rõ ràng, những quy định pháp luật về quảng cáo nằm rải rác ở rất nhiều văn bản và nội dung bị hạn chế mới chỉ chủ yếu trong phạm vi an ninh quốc gia, an toàn xã hội, thuần phong mỹ thục chứ chưa có nhiều hạn chế đối với nội dung cạnh tranh không lành mạnh nhất là vi phạm đạo đức kinh doanh.
c) Các quy định pháp luật về giá.
Khi chuyển đổi sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước thì công tác quản lý giá cả các mặt hàng, sản phẩm cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp. Nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp và người tiêu dùng, góp phần ổn định kinh tế xã hội. Chính phủ đã ban hành quyết định số 137/HĐBT ngày 27/4/1992 quy định về quản lý giá, theo đó, nhà nước định giá chuẩn cho các hoạt động sau :
- Điện, cước điện thoại, điện báo trong nước, cước thư;
- Thuỷ lợi phí đối với việc sử dụng nước từ công trình thuỷ lợi đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước;
- Tài nguyên nhượng, bán hoặc cho thuê;
- Đất cho thuê;
- Nhà thuộc sở hữu nhà nước cho thuê hoặc bán;
Nhà nước sẽ định giá giới hạn trong một số lĩnh vực sau :
- Giá tối đa hàng chuẩn : Xăng dầu, kim loại, u rê, giấy in báo, cước vận chuyển đường sắt, đường biển đối với lương thực, phân bón từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc, đưa một số mặt hàng quan trọng lên miền núi;
- Giá trị tối đa mức sinh hoạt ở thành phố và khu công nghiệp;
- Giá tối thiểu mua thóc, giá tối đa bán gạo tại các thị trường trọng điểm khi có biến động về giá;
- Giá để tính thuế đối với đất, một số hàng nhập khẩu.
Ngoài ra, nhà nước còn quy định cơ chế quản lý giá đối với công trình xây dựng cơ bản thuộc sở hữu nhà nước, tài sản cố định thuộc sỏ hữu nhà nước nhượng bán, giá cước bưu chính viễn thông quốc tế. Nhà nước thực hiện các biện pháp kinh tế để bình ổn giá cả thị trường xã hội, đẩy lùi lạm phát, bình ổn giá lương thực, vàng, tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt nam đối với các ngoại tệ mạnh.
Trong cơ chế thị trường, đại bộ phận hàng hoá, dịch vụ mua bán, trao đổi trên thị trường do các doanh nghiệp tự định giá hoặc thoả thuận giá. Nhà nước định giá chuẩn và giới hạn giá chỉ đối với một số ít hàng hoá, dịch vụ thiết yếu cho sản xuất đời sống. Tuy nhiên, muốn kiểm soát được diễn biến của giá cả thị trường, phải áp dụng các biện pháp mang tính vĩ mô để nắm được sự vận động của các yếu tố hình thành giá cả, mức giá thị trường trong và ngoài nước, ngăn chặn các hành vi tiêu cực như đầu cơ, lũng đoạn ... Vì thế uỷ ban vật giá nhà nước đã có quy định về đăng ký giá, hiệp thương giá và niêm yết giá (thông tư số 04/VGVN-KHCS ngày 06/7/1992).
Mục đích cơ bản của các quy định này cũng nhằm mục tiêu khi tình hình thị trường, giá cả đi vào thế ổn định, sẽ thu hẹp dần danh mục hàng hoá, dịch vụ do nhà nước định giá chuẩn hoặc giới hạn, chuyển dần những hàng hoá kinh doanh độc quyền do nhà nước định giá hiện nay sang hình thức đăng ký giá.
Những doanh nghiệp kinh doanh buôn bán vật tư, hàng hoá quan trọng, có sản lượng lớn chi phối giá cả thị trường thì phải áp dụng chế độ đăng kỳ giá mua hoặc giá bán buôn.
Hiệp thương giá là hình thức quản lý giá phát sinh từ thực tiễn, khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Các cơ quan quản lý giá của nhà nước được quyền tổ chức hiệp thương giá khi đơn vị kinh doanh đề nghị hiệp thương do giữa họ không thoả thuận được mức giá ký hợp đồng hoặc khi cơ quan quản lý độc quyền hoặc liên minh độc quyền để tăng giá, hạ giá, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khác, người tiêu dùng và lợi ích củanhà nước. Trong trường hợp đã tổ chức hiệp thương mà các bên vẫn không thoả thuận được mức giá thì cơ quan quản lý giá quyết định giá nhằm phục vụ kịp thời cho các hoạt động sản xuất, lưu thông.
Niêm yết giá là việc các doanh nghiệp phải thông báo rõ giá hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục nhà nước định giá tại quầy bán hàng, phù hợp với chủng loại, quy cách, chất lượng, trọng lượng, số lượng để người tiêu dùng được thuận lợi khi lựa chọn và quyết định việc mua bán hàng hoá dịch vụ.
Đối với các hàng hoá và dịch vụ khác, khuyến khích các doanh nghiệp niêm yết giá do các doanh nghiệp tự đặt ra. Việc niêm yết giá giúp cho cơ quan thuế căn cứ theo giá niêm yết để xác định đúng mức thuế phải nộp của các doanh nghiệp.
Một sự kiện rất đáng chú ý là, từ tháng 4/1993, chính phủ đã quyết định thành lập quỹ bình ổn giá, huy động nguồn thu một phần chênh lệch giá cả của hàng hoá nhập khẩu và sản xuất trong nước do gía cả thị trường thế giới và thị trường trong nước biến động tăng lên hoặc giảm xuống đem lại.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mọi hành vi vi phạm pháp luật về giá đều bị xử lý như : cảnh cáo, thu hồi toàn bộ số tiền chênh lệch sai giá (tăng hoặc giảm giá), phạt tiền đến mức tối đa là 3% tổng số tiền chênh lệch sai giá (trong trường hợp không phát sinh chênh lệch giá thì phạt tiền tối đa đến 3 triệu đồng đối với mỗi lần vi phạm); thu hồi có thời hạn hoặc vô thời hạn giấy phép kinh doanh; buộc chấm dứt ngay hành vi vi phạm; nếu vi phạm nghiêm trọng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Có lẽ do tính chất qúa khó khăn, phức tạp trong "quản lý giá" nên chỉ bằng một quyết định của Chính phủ chưa thể giải quyết được các vấn đề thực tiễn đặt ra ngay từ khi nó mới được ban hành cũng như quá trình biến động của tình hình kinh tế xã hội từ đó đến nay, vì thế chính phủ đã tính đến việc phải xây dựng thành Pháp lệnh giá.
Tuy nhiên, các dự thảo pháp lệnh giá được hình thành trong vòng gần 10 năm qua vẫn chưa thể đệ trình lên Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét ban hành vì còn nhiều vấn đề bức xúc chưa giải quyết được như:
+ Giải quyết như thế nào đối với việc kiểm soát giá ở các doanh nghiệp nhà nước độc quyền (chẳng hạn như các tổng công ty 90, 91).
Quy định của chính phủ cho các tổng công ty 91 được phép không chịu trách nhiệm báo cáo giá thành với các cơ quan quản lý nhà nước mà chỉ có trách nhiệm trước chính phủ về định mức kinh tế kỹ thuật, chi phí giá thành... thì liệu cơ quan quản lý giá có biết được chi phí thực là bao nhiêu không ? ...
+ Có nên quy định việc cấm bán phá giá trong nước không ?
Có ý kiến cho rằng không nên đặt vấn đề về bán phá giá trong nước bởi vì theo hiệp định chung buôn bán về thuế quan (GATT), việc bán phá giá chủ yếu chỉ được xem xét với hàng nhập khẩu. Có ý kiến lại ủng hộ việc phải quy định chống bán phá giá trong nước vì hiệp định GATT là hiệp định quốc tế điều tiết mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau, còn chúng ta phải có luật của chúng ta.
d) Các quy định của Luật thương mại trực tiếp điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Luật thương mại được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt nam khoá IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10/5/1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1998 đã ghi nhận nguyên tắc cạnh tranh trong thương mại là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất trong hoạt động thương mại. Khoản 1, điều 8, Luật thương mại quy định rõ : "Thương nhân được cạnh tranh hợp pháp trong các hoạt động thương mại" . Pháp luật chỉ nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh gây tổn hại lợi ích quốc gia và các hành vi sau đây :
- Đầu cơ để lũng đoạn thị trường;
- Bán phá giá để cạnh tranh;
- Dàm pha, nói xấu thương nhân khác;
- Ngăn cản, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa nhân viên hoặc kháng hàng của thương nhân khác;
- Xâm phạm quyền và nhãn hiệu hàng hoá, các quyền về sở hữu công nghiệp của thương nhân khác.
Từ góc độ bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng, Luật thương mại có những quy định nhằm chống cạnh tranh không lành mạnh, quy định thương nhân phải có các nghĩa vụ như :
- Thông tin đầy đủ, trung thực về hàng hoá và dịch vụ mà mình cung ứng;
- Đảm bảo tính hợp pháp của các hàng hoá bán ra.
Đồng thời cấm thương nhân thực hiện các hành vi sau đây :
- Nâng giá, ép giá, gây thiệt hại cho người sản xuất và người tiêu dùng;
- Lừa dối khách hàng, gây nhầm lẫn cho khách hàng;
- Bán hàng giả, hàng kém chất lượng, sau quy cách với hàng đã đăng ký;
- Quảng cáo dối trá và khuyến mại bất hợp pháp (khoản 3 điều 9 Luật thương mại).
Đáng lưu ý là, lần đầu tiên các hoạt động khuyến mại và quảng cáo thương mại được quy định rất chặt chẽ và chi tiết trong Luật thương mại.
Điều 185 Luật thương mại nghiêm cấm thương nhân thực hiện các hoạt động khuyến mại như sau :
- Khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ kinh doanh, hàng hoá chưa được phép lưu thông;
- Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng;
- Khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá kém chất lượng làm phương hại đến sản xuất, lợi ích và sức khoẻ con người, làm ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường;
- Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan, tổ chức và đơn vị vũ trang nhân dân;
- Khuyến mại các mặt hàng rượu, bia, thuốc là đối với các đối tượng trẻ em dưới 16 tuổi;
- Hứa hẹn tặng phẩm, giải thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng.
Ngoài việc liệt kê các loại hình quảng cáo bị cấm tương tự như quy định tại nghị định 194/CP ngày 31/12/1994 như : quảng cáo hàng hoá, dịch vụ mà nhà nước cấm kinh doanh hoặc cấm quảng cáo; quảng cáo sản phẩm, hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép kinh doanh trên thị trường Việt nam tại thời điểm quảng cáo; lợi dụng quảng cáo thương mại gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, cá nhân và các thương nhân khác; quảng cáo có sử dụng hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng trái với truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt nam và trái với quy định của pháp luật , Luật thương mại còn cấm quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của một thương nhân khác, gây nhầm lẫn cho khách hàng (điều 192).
Luật thương mại cũng quy định nguyên tắc xử lý đối với các vi phạm trên là : Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra, chủ thể vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong quan hệ thương mại, Luật thương mại thừa nhận các bên có thoả thuận người đại diện không được thực hiện các hoạt động thương mại cạnh tranh với người được đại diện và không được làm đại diện cho đối thủ cạnh tranh của người được đại diện (điều 91).
Luật thương mại Việt nam, lần đầu tiên giao trách nhiệm xử lý các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp (còn gọi là cạnh tranh không lành mạnh) cho một số cơ quan nhà nước. Cụ thể :
- Hệ thống cơ quan quản lý về thương mại, bao gồm : Chính phủ, Bộ thương mại, các bộ, ngành có liên quan, uỷ ban nhân dân các cấp ... có quyền xử phạt đối với các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp bị coi là vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động thương mại (điều 246 và 259).
- Thanh tra thương mại : Có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền, kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm trên. Tuy nhiên, trách nhiệm đấu tranh chống các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp chỉ là một trong số nhiều nội dung hoạt động của các cơ quan quản lý thương mại và thanh tra thương mại. Các cơ quan này chưa phải là cơ quan chuyên trách về cạnh tranh.
đ) Các quy định pháp luật về chứng khoán.
Tư tưởng về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực giao dịch chứng khoán được thể hiện trong nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực này như : bán khống chứng khoán, mua bán nội gián, thông tin sai sự thật, lũng đoạn thị trường bị cấm trong giao dịch chứng khoán (các điều 69, 71, 73 của nghị định). Nghị định 22/2000/NĐ-CP ngày 10/7/2000 cũng có những quy định cụ thể hơn hình thức trách nhiệm do vi phạm các quy định về giao dịch cứng khoán trong đó có vi phạm phát sinh từ những hành vi cạnh tranh không lành mạnh như : Tạo ra cung cầu hoặc giá giả tạo, mua bán giả tạo để thay đổi giá chứng khoán, sử dụng thông tin nội bộ được tiết lộ để giao dịch, lũng đoạn giá chứng khoán (điều 5 của nghị định)...
Việc ban hành các quy định nói trên thực chất nhằm xử lý các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán nhưng cũng đã chỉ ra được những hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình trong lĩnh vực này.
Tóm lại : Những quy định pháp luật của Luật Hình sự, Dân sự, Hành chính, Kinh tế... đã nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam thời gian qua góp phần tạo môi trường pháp lý đảm bảo cạnh tranh và cạnh tranh bình đẳng, trung thực đối với mọi chủ thể sản xuất, kinh doanh trên thị trường.
Tuy nhiên, nếu chỉ với tất cả các quy định của pháp luật hiện hành đã liệt kê, phân tích ở trên, kể cả khi chúng được thực thi nghiêm chỉnh vẫn chưa đủ mạnh để duy trì cạnh tranh và chống lại mọi dạng biểu hiện của cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường nước ta hiện nay và sau này.
3.2- Nhu cầu, phương hướng, nội dung xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.
3.2.1- Nhu cầu xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay.
Tuy mức độ gay gắt, quyết liệt của thực trạng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường nước ta thời gian qua chưa thể như ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển nhưng cũng đã gây ra rất nhiều tiêu cực cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, của người tiêu dùng và lợi ích xã hội nói chung. Các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh ngày càng phức tạp, tinh vi, xảo quyệt rất khó kiểm soát. Trật tự kinh doanh công bằng đang có nguy cơ bị phá vỡ, nền kinh tế quốc gia sẽ phải đối phó với những khủng hoảng nghiêm trọng bởi sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Trong cuộc chiến không lành mạnh giữa các đối thủ cạnh tranh, không thể không ảnh hưởng đến lợi ích người tiêu dùng - đối tượng mà người ta vẫn gọi là "thượng đế". Có cảm giác là người tiêu dùng Việt nam hiện nay đang bị lừa dối nhiều bởi sự quảng cáo thiếu trung thực, bởi lượng hàng giả, hàng nhái nhiều vô kể trên thị trường. Những "thượng đế" này, tự mình không đủ sức xác định một cách chính xác chất lượng hàng hoá đang lưu thông, trừ phi họ đã sử dụng và phải gánh chịu hậu quả . Quyền lợi của họ đang rất cần được bảo vệ từ phía các cơ quan nhà nước, các quy định của pháp luật và các công cụ trấn áp của quyền lực công.
Các nhà kinh doanh vừa và nhỏ, các nhà kinh doanh lành mạnh đang bị sức ép nặng nề từ các đối thủ đầy tiềm năng về sức mạnh kinh tế và những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh.
Không chỉ lợi ích nhà kinh doanh và lợi ích người tiêu dùng bị xâm hại mà lợi ích công cũng bị tổn thất bởi các hành vi kinh doanh trái phép, trốn thuế, buôn lậu... Những hành vi phạm vi phạm pháp luật như thế đương nhiên là không lành mạnh. Kèm theo đó là đạo đức kinh doanh của nhà kinh doanh, sự tha hoá biến chất của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước bởi hành vi tham nhũng (đặc biệt là hối lộ) của họ đến mức là một quốc nạn.
Như đã nói phần trên, nếu chỉ với những quy định pháp luật hiện hành, dù cho có được thực thi một cách nghiêm chỉnh cũng chưa đủ điều kiện về tiền đề pháp lý để chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã, đang và sẽ diễn ra.
Bởi vì : Các quy định pháp luật đó vừa nằm rải rác ở rất nhiều văn bản thuộc các lĩnh vực khác nhau, vừa không nêu rõ những dấu hiệu đặc trưng của hành vi vi phạm , vì thế việc thực thi có nhiều hạn chế, hay nói cách khác, hiệu quả không cao. Chẳng hạn :
Một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định một cách liệt kê tại điều 8, điều 9 của Luật thương mại nhưng cho đến nay chúng vẫn chưa được giải thích và hiểu một cách rõ ràng. Trong trường hợp nào, việc bán hàng với giá thấp hơn so với chi phí không bị xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh?; Giới hạn của quảng cáo so sánh đến đâu là được phép? Hơn nữa các quy định hiện hành cũng chưa xác định được đầy đủ những hành vi cạnh tranh không lạnh mạnh khác như : đút lót cho nhân viên của người cung cấp hàng hoá, của người làm đại lý để nhận được sự ưu đãi hơn các đại lý khác trong việc cung cấp hàng hoá; cung cấp tài liệu, tiết lộ bí mật kinh doanh của người đại diện hay người giúp việc cho đối tác cạnh tranh; lợi dụng phá sản để bán các loại hàng hoá nằm ngoài danh mục tài sản bị phá sản có bị coi là cạnh tranh không lành mạnh không?
Trên một số lĩnh vực như quảng cáo, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá thương mại ... tuy đã có các văn bản pháp luật có liên quan điều chỉnh nhưng mục đích chính của các văn bản đó không phải là nhằm duy trì cạnh tranh không lành mạnh nên nội dung chống cạnh tranh không lành mạnh còn sơ lược, chung chung.
Bên cạnh những thiếu sót của pháp luật, cơ chế đảm bảo trật tự cạnh tranh lành mạnh cũng chưa được xác lập phù hợp, vững chắc. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, ngay cả khi xây dựng được một hệ thống cơ quan chuyên trách việc đấu tranh chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì kết quả vẫn còn nhiều hạn chế, trong khi đó, ở nước ta lại chưa có cơ quan nào chuyên trách. Thực tế đang tồn tại một nghịch lý là, nhiều cơ quan phụ trách các lĩnh vực kinh tế có liên quan như cơ quan quản lý giá, cơ quan quản lý hoạt động thương mại... trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình đã "vô tình" góp phần vào công tác chống cạnh tranh không lành mạnh vì công tác này không phải là nhiệm vụ cuả họ hoặc nếu có cũng chỉ là nhiệm vụ nhỏ nên họ ít quan tâm đến hiệu quả đạt được, ít có sự chủ động phối hợp đấu tranh.
Cùng với những đòi hỏi của thực tiễn thị trường, Việt nam cũng cần phải có luật cạnh tranh để thuận lợi cho quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Chúng ta hiện đã là thành viên của khối ASEAN, APEC và đang tích cực đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), chuẩn bị tham gia AFTA, điều đó có nghĩa là, chúng ta vừa có cơ hội thúc đẩy giao lưu kinh tế, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ... vừa phải cam kết thực hiện mọi tuyên bố, mọi hiệp định về kinh tế của các tổ chức đó như thoả thuận về cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hạn chế sản lượng hàng nhập khẩu, mở cửa thị trường... (Ví dụ như hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung của ASEAN). Đây là vấn đề mới và rất khó khăn đối với nước ta vì trình độ kinh tế của nước ta còn thấp, các doanh nghiệp và hàng hoá Việt nam khó đương đấu với hàng hoá của các nước trong khu vực và các nước khác đã có nền kinh tế phát triển.
Cùng với việc tự do hoá về mậu dịch là việc đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế khổng lồ đã có quá nhiều kinh nghiệm trong cạnh tranh và chắc chắn họ không thiếu các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh mà hiện nay chúng ta chưa thể lường trước được.
Chính vì thế, ngay từ bây giờ, chúng ta phải thiết lập và duy trì được trật tự cạnh tranh, chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh để sẵn sàng ứng phó với những "luồng gió mới" trong cạnh tranh tràn vào, khi các hiệp định về tự do thương mại và thuế quan nước ta tham gia ký kết có hiệu lực thi hành. Nếu không, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ hàng ngoại, thành nơi để các doanh nghiệp nước ngoài mặc sức tung hoành.
Hơn thế nữa, 82 nước trên thế giới đã ban hành luật cạnh tranh và kinh nghiệm cho thấy, đây là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, phát huy mặt tích cực của cạnh tranh, làm cho nó thật sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Rõ ràng, đã đến lúc Việt nam cần phải có một văn bản pháp luật chung, thống nhất điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra trên thị trường. Đó là luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt nam.
3.2.2 - Phương hướng xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.
Như trên đã phân tích : trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá hiện nay mà Việt nam đang tích cực và chủ động tham gia thì không thể không tính tới việc xây dựng pháp luật cạnh tranh . Thông thường, những nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, việc chống và giám sát độc quyền rất phức tạp nên trong thời gian đầu họ thường hướng vào chống cạnh tranh không lành mạnh nhiều hơn.1 Vấn đề đặt ra là, khi xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt nam cần phải xuất phát từ những quan điểm, nguyên tắc gì ? để đạt được mục tiêu là duy trì và khuyến khích cạnh tranh, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong khi vẫn bảo vệ sự tự do hoạt động kinh tế của những thành phần tham gia thị trường.
Trên tinh thần đó, có thể nêu ra một số phương hướng chủ yếu khi xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở nước ta hiện nay như sau :
- Xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh phải phù hợp với mức độ phát triển và cấu trúc thị trường nước ta, phù hợp với các nguyên tắc hiến định mà cụ thể là nguyên tắc tự do kinh doanh, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật và đạo đức, truyền thống, tập quán thương mại lành mạnh của Việt nam. Khác với những nước có thị trường phát triển, thị trường ở các nước đang phát triển đặc biệt là ở những nước chuyển đổi như nước ta còn ở dạng sơ khai. Cấu trúc thị trường có nét đặc trưng nổi bật và dễ nhận thấy nhất là sự độc quyền và chi phối thị trường của các doanh nghiệp nhà nước trong rất nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ. Hiện trạng "chủ đạo" thị trường của khu vực doanh nghiệp nhà nước lại được tăng cường thêm bằng sự ra đời của một loạt tổng công ty 90 và 91 và các liên doanh với nước ngoài vốn chủ yếu làm ăn với doanh nghiệp nhà nước. Hiện tượng tham nhũng tương đối phổ biến, , các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ở nhiều lĩnh vực với những thủ đoạn tinh vi nhằm lấn át đối thủ để giành vị thế cao trên thị trường. Vì thế những quy định chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh không nhất thiết chỉ có trong luật chống cạnh tranh không lành mạnh mà còn có thể có ở nhiều đạo luật khác nhau, chẳng hạn : Biện pháp của doanh nghiệp nào đó thông đồng với cơ quan chức năng của nhà nước để cản trở hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp khác là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhưng có thể phải xử lý theo luật hình sự ...
Thực tiễn cho thấy, cạnh tranh chỉ tồn tại và phát huy vai trò đối với nền kinh tế khi quyền tự do, sự bình đẳng của các chủ thể kinh doanh được tôn trọng và bảo đảm.
Có thể nói, nếu không có tự do kinh doanh sẽ không có cạnh tranh và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế không được tôn trọng chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác để đảm bảo quyền tự do kinh doanh, pháp luật không chỉ tạo điều kiện cho sự tự do gia nhập thị trường, tự do thiết lập các mối quan hệ kinh tế mà còn phải duy trì cạnh tranh trung thực, lành mạnh. Ở góc độ này, việc chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là góp phần bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể trên thị trường. Pháp luật không được vì mục đích ngăn ngừa các tiêu cực trọng cạnh tranh lại hạn chế quyền tự do tiến hành các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.... Đồng thời, việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải bình đẳng đối với mọi chủ thể, mọi thành phần kinh tế, không có bất kỳ một sự phân biệt đối xử nào.
Truyền thống, tập quán thương mại lành mạnh là những quy ước thông lệ không thành văn được hình thành, phát triển của xã hội Việt Nam, phù hợp với cách suy nghĩ của con người, khi nói lên ai cũng có thể hiểu ngay được. Song cần phải thấy rằng, những quy ước, thông lệ đó cũng có sự thay đổi tuỳ thuộc vào mức độ phát triển của xã hội đặc biệt là sự phát triển về kinh tế.
Khó có thể đưa ra khái niệm đầy đủ về đạo đức kinh doanh nhưng một cách chung nhất có thể hiểu như sau : Đạo đức kinh doanh là tập hợp các nguyên tắc, các chuẩn mực kiểm soát hành động, hành vi kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh, trong nhiều trường hợp tác động mạnh mẽ tới thị trường, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm thị trường ở một mức độ nhất định. Nguyên tắc xác định chuẩn mực đạo đức kinh doanh được xem xét dưới hai khía cạnh :
Một là : Đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh phát huy đầy đủ quyền năng của mình trong việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh; được sử dụng mọi nguồn lực vào hoạt động kinh doanh hợp pháp, đưa ra các quyết định nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh;
Hai là : Đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh hoạt động trong khuôn khổ luật định, quan tâm đến lợi ích xã hội, lợi ích của chủ thể kinh doanh khác và của người tiêu dùng.
Đây chính là điều kiện quan trọng để duy trì hoạt động cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Có thể dễ dàng nhận thấy đạo đức kinh doanh của người Việt nam là lấy chữ "tín" lên hàng đầu . Điều này hoàn toàn trái ngược với các hành vi gian dối, lừa đảo - những hành vi luôn luôn bị xã hội khinh bỉ, chê trách và lên án... Hoặc truyền thống kinh doanh của người Việt Nam là "đi buôn có bạn, đi bán có phường" , "mình vì mọi người, mọi người vì mình"...
Đạo đức kinh doanh đòi hỏi các chủ thể kinh doanh phải tôn trọng pháp luật, thực hiện sản xuất kinh doanh đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật cũng chỉ là một mức chuẩn của đạo đức kinh doanh. Chủ thể kinh doanh còn phải thoả mãn những đức tính khác - những yêu cầu của tập quán, truyền thống tốt đẹp bất thành văn .
- Xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh phải nhằm và đạt được mục tiêu bảo vệ lợi ích chủ thể cạnh tranh, lợi ích người tiêu dùng và lợi ích xã hội.
Đây là vấn đề thuộc phạm vi chức năng của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh hiện đại như đã trình bày ở phần 2.1.2 .
Lợi ích của chủ thể kinh doanh, của người tiêu dùng và của xã hội có quan hệ mật thiết với nhau và là cơ sở để hình thành, tồn tại và phát triển môi trường cạnh tranh lành mạnh trên thương trường. Lợi ích của từng chủ thể trên bị xâm hại rõ ràng có sự "không lành mạnh" của chủ thể khác. Tuy nhiên lợi ích của người tiêu dùng cần phải được đánh giá trong phạm vi rộng và với mục tiêu lâu dài. Chẳng hạn, không thể coi hành vi bán với giá thấp hơn chi phí sản xuất để "giết chết" đối thủ cạnh tranh trong một thời gian ngắn như là việc làm có lợi cho người tiêu dùng trong thời gian dài.
- Xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh phải phù hợp với thông lệ quốc tế và sự tương thích tối đa với pháp luật cạnh tranh của các nước, phục vụ tốt nhu cầu hội nhập và mở cửa kinh tế.
Trong bối cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế và hoạt động cạnh tranh diễn ra trên quy mô toàn cầu như hiện nay, việc xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam không thể không tính đến các tiêu chuẩn phổ biến về cạnh tranh không lành mạnh đã được thể hiện trong luật pháp quốc tế và pháp luật của các quốc gia. Cho đến nay , chưa hề tồn tại một quy chế pháp lý chung mang tính quốc tế về chống cạnh tranh không lành mạnh trên mọi lĩnh vực nhưng những quan điểm về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã được đề cập trong Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Điều 10 bis (3) Công ước Paris đưa ra các hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh và bị cấm là :
+ Những hành động có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất kỳ hình thức nào đối với cơ sở, hàng hoá hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh của người cạnh tranh;
+ Những khẳng định sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng gây mất uy tín đối với cơ sở, hàng hoá, hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của người cạnh tranh;
+ Những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quy trình sản xuất, tính chất, tính thích hợp đã sử dụng hoặc số lượng của hàng hoá.
Đối với các nước đã có luật cạnh tranh đặc biệt là các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, những chuẩn mực về cạnh tranh không lành mạnh có nhiều điểm tương đồng. Ví dụ như, các hành vi gây nhầm lẫn cho khách hàng, dèm pha đối thủ cạnh tranh, vi phạm các quy định liên quan đến bí mật thương mại, bán phá giá, quảng cáo gian dối, khuyến mại thiếu trung thực ... đều được pháp luật các nước coi là cạnh tranh không lành mạnh.
- Phải đảm bảo tính đồng bộ trong điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh .
Là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật nói chung , pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh phải được xây dựng trên những nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật Việt nam.
Hơn thế nữa, là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật kinh tế trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh cũng phải được xây dựng trên những nguyên tắc với tính cách là điều kiện khung của pháp luật kinh tế Việt nam trong cơ chế thị trường. Đó là: Nguyên tắc về tính đa dạng chủ thể kinh tế (Điều 15, Hiến pháp 1992); Nguyên tắc tự do kinh doanh (Điều 17, Hiến pháp 1992); Nguyên tắc tự do hình thành giá cả; Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế (Điều 21, Hiến pháp 1992); Nguyên tắc đảm bảo cạnh tranh.
Đồng thời pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh phải phù hợp với các bộ phận pháp luật khác có liên quan trong pháp luật kinh tế và pháp luật nói chung.
Nguyên tắc đảm bảo cạnh tranh là nguyên tắc điều kiện cấu trúc khung pháp luật kinh tế trong cơ chế kinh tế thị trường. Nó góp phần định ra khuôn khổ hay chuẩn mực pháp lý để từ đó xây dựng nên chế định pháp lý về cạnh tranh trong hệ thống pháp luật kinh tế vật chất, xác định tính chất của cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ cạnh tranh.
Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể, hệ thống pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng phải giải quyết được các yêu cầu sau :
+ Định ra cơ chế đảm bảo tính chủ động, sáng tạo của các chủ thể kinh doanh, đảm bảo sự tự do tham gia thị trường và thiết lập các quan hệ kinh tế một cách đa dạng, phong phú ;
+ Có giải pháp thích hợp, hiệu quả để ngăn chặn và loại trừ các biểu hiện tự do vô chính phủ, tuỳ tiện, không lành mạnh là những khuyết tật của cơ chế thị trường.
Muốn đáp ứng được các yêu cầu trên, pháp luật kinh tế phải có sự kết hợp đồng thời hai chế định : Hợp đồng và cạnh tranh;
Kinh nghiệm cho thấy, chỉ trên cơ sở ổn định các quan hệ sản xuất, kinh doanh mới đảm bảo được tự do kinh doanh và mới duy trì được cạnh tranh đích thực. Rõ ràng lĩnh vực cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh là lĩnh vực pháp luật có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều đối tượng khác nhau. Khi mà các quan hệ kinh tế trong cơ chế thị trường đầy biến động thì xây dựng một đạo luật hoàn chỉnh đến mức đảm bảo điều chỉnh tất cả các quan hệ cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực không phải là chuyện đơn giản. Vì thế cần phải có sự kết hợp tốt giữa pháp luật cạnh tranh với các bộ phận pháp luật khác của khung pháp luật kinh tế Việt nam hiện nay.
3.2.3 - Nội dung của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Viêt nam .
Có thể nói, mục tiêu cơ bản của chính sách cạnh tranh ở bất kỳ quốc gia nào cũng là duy trì và khuyến khích cạnh tranh nhằm đẩy mạnh việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong khi vẫn bảo vệ sự tự do hoạt động kinh tế cuả những thành phần tham gia thị trường .Vì thế khi xây dựng nội dung pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng ở Việt nam cũng phải đạt được mục tiêu đó.
Xét về phương diện nội hàm của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, từ thực tiễn nước ta và kinh nghiệm của các nước thì nội dung của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt nam có thể bao gồm các quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau với những yếu tố cấu thành tương ứng như quảng cáo gian dối, quảng cáo so sánh, quảng cáo mang tính nhử mồi, giật gân, mạo nhận thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá để lừa dối khách hàng; Vu khống, nói xấu, lăng mạ, tẩy chay đối thủ cạnh tranh, thông tin sai lệch về nguồn gốc xuất xứ, chất lượng hàng hoá của họ; ngăn cản, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa khách hàng, nhân viên của đối thủ cạnh tranh; Đánh cắp bí quyết công nghệ, bí quyết kinh doanh của người khác; bán phá giá; khuyến mại bất hợp pháp, phân biệt đối xử giữa các đối tác giao dịch...
Trên tinh thần đó, chúng tôi xin đề xuất dự thảo Luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt nam với kết cấu như sau :
a) Tên gọi của Luật : Luật chống cạnh tranh không lành mạnh Việt Nam
Sở dĩ đạo luật có tên gọi như thế vì :
- Phù hợp với xu thế chung của hầu hết các nước trên thế giới, khi ban hành luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều gọi là Luật chống cạnh tranh không lành mạnh ;
- Phù hợp với nhiệm vụ đặt ra khi ban hành luật là đấu tranh chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Viêt nam .
b) Kết cấu các chương cụ thể :
Chương I : Những quy định chung
Chương này bao gồm các quy định về mục đích ban hành luật, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng cũng như xác định rõ một số khái niệm cụ thể, giúp cho việc nhận thức và thi hành luật được rõ ràng, thống nhất.
- Về mục đích cần xác định rõ : Đạo luật này được ban hành nhằm khuyến khích và bảo vệ cạnh tranh lành mạnh, chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể kinh doanh, người tiêu dùng và lợi ích xã hội nói chung, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế thị trường XHCN Việt nam.
- Về phạm vi , đối tượng điều chỉnh : Luật này điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đối với mọi chủ thể sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ hoạt động trên thị trường Việt nam.
- Áp dụng Luật chống cạnh tranh không lành mạnh và các luật có liên quan.
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ trên thị trường Việt nam phải tuân thủ quy định của luật này và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của luật này và quy định của luật chuyên ngành về cùng một vấn đề mà việc áp dụng luật này dẫn đến tình trạng xấu hơn so với việc áp dụng quy định của luật chuyên ngành thì áp dụng quy định của luật chuyên ngành.
- Áp dụng điều ước quốc tế và tập quán thương mại quốc tế. Trường hợp điều ước quốc tế mà Nhà nước CHXHCN Việt nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
- Giải thích các khái niệm nêu trong luật :
+ "Cạnh tranh không lành mạnh" là hành vi của chủ thể sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ trái với quy định của luật này, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ khác tham gia cạnh tranh, của người tiêu dùng, làm rối loạn trật tự kinh tế-xã hội.
+ "Chủ thể sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ" (từ đây gọi tắt là chủ thể kinh doanh) là pháp nhân, thể nhân tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động dịch vụ trên thị trường Viêt nam .
Chương II : Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Chương này gồm các điều luật quy định cụ thể những hành vi cạnh tranh không lành mạnh có tính chất phổ biến đang diễn ra trên thị trường Việt nam phải bị cấm. Theo chúng tôi, đó là những dạng hành vi như sau :
- Làm mất uy tín chủ thể kinh doanh khác khi tham gia cạnh tranh như dèm pha, nói xấu, cung cấp thông tin sai trái hoặc gây hiểu lầm dẫn đến họ bị thiệt hại về lợi ích ;
- Gây nhầm lẫn cho khách hàng (người tiêu dùng).
Đó là hành vi thông tin không đúng về giá cả, tính chất, phương pháp, địa điểm sản xuất, chất lượng của hàng hoá kinh doanh. Mạo nhận, sử dụng một cách sai trái thương hiệu đã đăng ký của người khác. Làm giả biểu tượng, giấy chứng nhận chất lượng hàng hoá, khuyếch trương không đúng gây nhầm lẫn về chất lượng hàng hoá...
- Quảng cáo gian dối, quảng cáo so sánh.
Đó là hành vi đưa tin, so sánh không trung thực gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh.
- Bán phá giá.
Đó là hành vi bán hàng hoá với giá thấp hơn chi phí, thấp hơn giá vốn, trong điều kiện bình thường.
- Khuyến mại không đúng.
Đó là hành vi khuyến mại thiếu trung thực nhằm tiêu thụ hàng hoá nhất là hàng hoá kém chất lượng, hứa hẹn tặng phẩm, giải thưởng nhưng không có hoặc không đúng như đã hứa...
- Xâm phạm bí mật kinh doanh.
Đó là hành vi đánh cắp hoặc tiếp nhận hoặc tiết lộ những bí mật về sản xuất, kinh doanh của một chủ thể kinh doanh đang là đối thủ cạnh tranh.
- Ngăn cản, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa nhân viên hoặc khách hàng của chủ thể cạnh tranh khác buộc họ phải tiết lộ thông tin về bí mật kinh doanh hoặc phải giao dịch với mình.
- Từ chối một cách không chính đáng việc giao dịch hoặc phân biệt đối xử với một đối tác giao dịch nhất định nhằm hạn chế đối thủ cạnh tranh.
- Thực hiện các thoả thuận ngầm trong đấu thầu.
Do điều kiện hạn hẹp của luận văn, chúng tôi không thể đề xuất những mô tả chi tiết đặc trưng của từng hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhưng để luật được hiểu và áp dụng một cách thống nhất, có hiệu quả thì từng hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm phải được nêu rõ dấu hiệu đặc trưng, càng cụ thể càng tốt.
Chương III : Quản lý nhà nước đối với hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.
Chương này bao gồm các điều luật quy định cụ thể về:
- Nội dung quản lý nhà nước đối với các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt nam gồm:
+ Giám sát, điều tra, thẩm định và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật;
+ Đối phó với các vấn đề trong hệ thống phân phối như nghiên cứu về việc bán sản phẩm, hàng hoá (nhất là hàng hoá nhập khẩu) với giá thấp trong điều kiện bình thường;
+ Tạo lập và cùng cố mối quan hệ với các cơ quan chống cạnh tranh không lành mạnh của các nước nhằm ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực trong thương mại quốc tế, phục vụ tốt yêu cầu hoà nhập của thị trường Việt nam với thị trường thế giới;
+ Phối hợp với các cơ quan chức năng khác đấu tranh chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh kịp thời, hiệu quả.
- Cơ quan chuyên trách thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động cạnh tranh không lành mạnh và cạnh tranh nói chung.
Từ thực tiễn Việt nam và kinh nghiệm của nhiều nước, chúng tôi cho rằng không nên giao công tác chống cạnh tranh không lành mạnh cho bất kỳ cơ quan nhà nước nào "kiêm nhiệm" thêm mà cần thiết phải thành lập một cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ mới đủ sức thực hiện các nhiệm vụ quản lý hoạt động cạnh tranh. Cơ quan chuyên trách đó có thể là Tổng cục quản lý cạnh tranh thuộc Chính phủ. Ở các địa phương là Cục quản lý cạnh tranh thuộc uỷ ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng quản lý cạnh tranh thuộc uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Chương IV - Thủ tục khởi kiện, thẩm định và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Chương này bao gồm các điều luật về trình tự, thủ tục khởi kiện, thẩm định và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo một số nguyên tắc cơ bản sau đây.
- Tuyệt đối tôn trọng quyền khiếu kiện của các thành viên tham gia thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện quyền này bằng thủ tục đơn giản.
- Trình tự thẩm định đối với hành vi cạnh tranh bị coi là không lành mạnh phải cụ thể, chặt chẽ và phải kết luận chính xác tính lành mạnh hay không lành mạnh, mức độ thiệt hại gây ra... vì không phải mọi hành vi không lành mạnh đều dễ dàng bị phát hiện, trên thực tế nó luôn được "ẩn giấu" dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Cần ưu tiên giải quyết quyền lợi của chủ thể kinh doanh, người tiêu dùng, tránh tình trạng chỉ quan tâm đến việc thực hiện thu tiền phạt, tiền tịch thu...làm như vậy mới gây được niềm tin của các thành viên tham gia thị trường, công cuộc chống tiêu cực trong cạnh tranh sẽ đạt kết quả tốt hơn.
- Quy định các hình thức xử lý vi phạm.
Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra, tổ chức, cá nhân vi phạm bị xử lý theo một trong các hình thức sau đây:
+ Buộc chấm dứt hành vi vi phạm: Biện pháp chế tài này thể hiện thái độ của nhà nước là không chấp nhận bất kỳ hành vi cạnh tranh không lành mạnh nào trên thị trường. Nó được áp dụng độc lập đối với những hành vi vi phạm ít nghiêm trọng hoặc sẽ được áp dụng kèm theo các chế tài khác;
+ Buộc xin lỗi, cải chính công khai: Biện pháp chế tài này được áp dụng trong trường hợp hành vi vi phạm xâm phạm đến uy tín, danh dự của chủ thể cạnh tranh khác;
+ Buộc bồi thường thiệt hại: Biện pháp chế tài này được áp dụng trong trường hợp hành vi vi phạm đã gây thiệt hại thực tế (có thể tính toán được) cho chủ thể cạnh tranh khác hoặc người tiêu dùng, khi những người này yêu cầu. Người yêu cầu phải chứng minh có thiệt hại và mức thiệt hại cụ thể đã xẩy ra.
+ Buộc hoàn trả số tiền thu được: Biện pháp chế tài này được áp dụng đối với các chủ thể cạnh tranh thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã thu được một khoản lợi có thể tính toán được từ việc xâm hại lợi ích của chủ thể khác, của người tiêu dùng mà có.
Giao cho Chính phủ quy định chi tiết việc xử lý vi phạm theo các biện pháp chế tài trên và thẩm quyền xử phạt.
Trường hợp hành vi cạnh tranh không lành mạnh đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự thì người tổ chức và thực hiện sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Quy định về việc khiếu nại, khởi kiện quyết định xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Chương V - Điều khoản thi hành .
Gồm các điều về hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành .
KẾT LUẬN
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị truờng đã và đang làm thay đổi nhiều vấn đề về nhận thức và phương thức điều tiết của nhà nước trong hoạt động kinh tế.
Cùng với quá trình đổi mới, cạnh tranh đã từng bước được tiếp nhận như là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế quốc dân. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của nền kinh tế song ở phương diện khác thì cạnh tranh lại gây ra nhiều hậu quả về kinh tế - xã hội mà pháp luật, với tư cách là công cụ hữu hiệu của nhà nước phải được sử dụng để điều chỉnh kịp thời những sai lệch đó.
Việc tiếp cận, nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống về cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh, góp phần tham gia xây dựng một chế định pháp lý điều chỉnh vấn đề này là mục đích xuyên suốt của luận văn.
Từ kết quả tiếp cận, nghiên cứu cho phép tác giả của luận văn đưa ra một số kết luận như sau:
1. Cạnh tranh là hoạt động thực tiễn của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường . Cạnh tranh vừa là quy luật khách quan, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khác vừa là hoạt động chủ quan của chủ thể sản xuất kinh doanh xuất phát từ mục đích kinh doanh chi phối nhưng phải có sự quản lý, điều tiết của nhà nước một cách phù hợp, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia nói riêng và thế giới nói chung.
Tuy nhiên, nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện và can thiệp vào cạnh tranh như là một công cụ khuyến khích, bảo vệ cạnh tranh, bảo vệ tiền đề cụ thể là nguyên tắc tự do thương mại mà theo đó là tự do kinh doanh, tự do khế ước và quyền tự chủ của cá nhân được hình thành và bảo đảm.
2. Là một bộ phận của pháp luật cạnh tranh, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nhằm vào các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường để bảo vệ lợi ích của chủ thể sản xuất, kinh doanh tham gia cạnh tranh, lợi ích khách hàng (người tiêu dùng) và lợi ích chung của xã hội (lợi ích công)
3. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, xét về phương diện lập pháp là không giống nhau ở các quốc gia có sự thừa nhận chế định pháp luật này nhưng về nội dung, thông thường các hành vi (hoặc nhóm các hành vi ) sau đây bao giờ cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Các hành vi xâm phạm lợi ích của đối thủ tham gia cạnh tranh.
- Các hành vi xâm phạm lợi ích của khách hàng.
4. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà nó còn có tính quốc tế và ngày càng được sự quan tâm đặc biệt của pháp luật quốc tế .
5. Từ thực trạng cạnh tranh không lành mạnh trên thị truờng Việt nam những năm qua và nhu cầu hội nhập quốc tế trong quá trình hội nhập nền kinh tế Việt nam, đã đến lúc nước ta phải xây dựng một chế định pháp lý riêng biệt điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đang diễn ra trên thị trường, kịp thời bảo vệ sự an toàn của nền kinh tế đất nước, lợi ích người cạnh tranh và lợi ích người tiêu dùng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0072.doc