Đề tài Thực trạng cạnh tranh ở Việt Nam

Cạnh tranh là một quy luật của nền KTTT. Canh tranh cũng có nhược điểm của nó, đó là dẫn đến độc quyền. Tuy nhiên cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế, có cạnh tranh thì mới có sự chạy đua về khoa học kĩ thuật giữa các doanh nghiệp. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với nhau sẽ làm nguồn lực của xã hội được phân bố và sử dụng có hiệu quả hơn. Những mặt trái của cạnh tranh sẽ có thể khác phục một cách dễ dàng nếu như chúng ta có những chính sách cạnh tranh đúng đắn. Nhiều nước trên thế giới đã áp dụng tốt chính sách cạnh tranh trong phát triển kinh tế và đem lại hiệu quả cao. Thực trạng môi trường cạnh tranh ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Nói tóm lại, cạnh tranh trong nền KTTT có thật sự trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào sự vận dụng quy luật này. Nếu có chính sách cạnh tranh hợp lý thì Việt Nam sẽ được lợi to do cạnh tranh đem lại, còn ngược lại nếu không nó sẽ có thể khiến cho nền kinh tế "phát triển" theo chiều "đi xuống". Là nước đi sau nên chúng ta có thể được thừa hưởng nhiều kinh nghiệm của những nước đi trước, từ đó chúng ta hy vọng Việt Nam là nơi mà cạnh tranh có thể phát huy hết chức năng của nó.

doc21 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1872 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng cạnh tranh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục lời nói đầu Khi thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường(KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa(XHCN), Việt Nam phải chấp nhận những qui luật của nền KTTT. Và cạnh tranh là một quy luật khách quan, rất cần thiết để phát triển kinh tế. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Nhưng ngoài những thành tựu đó thì nền kinh tế nước ta đang đối mặt với một khó khăn và thách thức khá quan trọng. Đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn non yếu. Việt Nam cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Đặc biệt cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân. Vì vậy mà chúng ta cần có một chính sách cạnh tranh đúng đắn. Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền KTTT, nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhiều nước trên thế giới đã vận dụng tốt qui luật cạnh tranh vào phát triển kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ khi đổi mới nền kinh tế chúng ta cũng đã áp dụng qui luật này và đã thu được một số thành tựu: Đời sống nhân dân được cải thiện, xã hội phát triển hơn, kinh tế phát triển ổn định… những lợi ích ấy chưa phải là lớn lao nhưng cũng đã giúp chúng ta định hướng cho chính sách phát triển kinh tế. Để có một môi trường cạnh tranh lành mạnh đang là vấn đề quan trọng được đặt ra với thực trạng hiện nay của nước ta. I. lí luận về cạnh tranh: 1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường(KTTT) là một tất yếu khách quan Hình thức đầu tiên của nền KTTT là kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi và buôn bán trên thị trường. Nền KTTT là hình thức phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá, mà ở đó mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều được qui định bởi thị trường. Trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng muốn có được những điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất như: thuê được lao động tay nghề cao nhưng lương lại thấp, mua được nguyên vật liệu rẻ, có thị trường tiêu thụ sản phẩm tốt... Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để nắm giữ lấy những điều kiện thuận lợi ấy. Cạnh tranh là sự sống còn của các doanh nghiệp. Muốn tồn tại được buộc các doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh của mình bằng cách: nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, giảm chi phí sản xuất để cạnh tranh về giá cả, cải tiến khoa học kĩ thuật… Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ được chuyển từ nơi sản xuất kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả hơn. Tạo ra lợi ích xã hội cao hơn, mọi người sẽ sử dụng những sản phẩm tốt hơn. Cạnh tranh đem lại sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng, cho người tiêu dùng. Như vậy cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền KTTT. Cạnh tranh giúp cho sự phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại ích lợi lớn hơn cho xã hội. Cạnh tranh có thể được xem như là quá trình tích luỹ về lượng để từ đó thực hiện các bước nhảy thay đổi về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc thang của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển hơn, tốt đẹp hơn. Vậy sự tồn tại của cạnh tranh trong nền KTTT là một tất yếu khách quan. 2. Chức năng của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Cạnh tranh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Trong nền KTTT, cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Do đó mà cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong nền KTTT thể hiện qua một số chức năng sau: Thứ 1: Cạnh tranh trong nền kinh tế có 2 loại cạnh tranh là cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành là sự cạnh tranh nhằm giành giật lấy những điều kiện có lợi cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của sự cạnh tranh này là hình thành nên giá trị thị trường của từng loại mặt hàng. Đó là giá trị của hàng hoá được tính dựa vào điều kiện sản xuất trung bình của toàn xã hội. Nếu như doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất dưới mức trung bình sẽ bị lỗ. Còn những doanh nghiệp có điều kiện sản xuất trên mức trung bình của xã hội sẽ thu được lợi nhuận thông qua sự chênh lệch về điều kiện sản xuất. Ngoài cạnh tranh trong nội bộ ngành còn có cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Đây là tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng khác nhau. Mục đích của cạnh tranh này là tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Các doanh nghiệp tự do di chuyển tư bản của mình từ ngành này sang ngành khác. Cạnh tranh này dẫn đến hình thành nên tỉ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất. Việc hình thành nên giá thị trường của hàng hoá và tỉ suất lợi nhuận bình quân là điều quan trọng trong nền KTTT. Với giá trị thị trường của hàng hoá cho biết doanh nghiệp nào làm ăn có lãi hoặc không có hiệu quả. Từ đó sẽ có những thay đổi trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Với tỉ suất lợi nhuận bình quân cho biết lợi nhuận của các nhà tư bản sẽ là như nhau cho dù đầu tư vào những ngành khác nhau với lượng tư bản như nhau. Thứ hai: Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả nhất. Các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại hay một số loại hàng hoá cạnh tranh nhau về giá cả, hình thức sản phẩm, chất lượng sản phẩm trong quá trình cạnh tranh đó doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có năng suất lao động cao hơn thì doanh nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho việc sử dụng các nguồn nguyên vật liệu của xã hội có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cho xã hội cao hơn. Nếu cứ để cho các doanh nghiệp kém hiệu quả sử dụng các loại nguồn lực thì sẽ lãng phí nguồn lực xã hội trong khi hiệu quả xã hội đem lại không cao, chi phí cho sản xuất tăng cao, giá trị hàng hoá tăng lên không cần thiết. Thứ ba: Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trường, kích thích thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tăng vốn đầu tư vào sản xuất trên thị trường: Khi cung một hàng nào đó lớn hơn cầu hàng hoá thì làm cho giá cả của hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Nếu như giá cả giảm xuống dưới mức hoặc bằng chi phí sản xuất thì doanh nghiệp đó làm ăn không có hiệu quả và bị phá sản. Chỉ có những doanh nghiệp nào có chi phí sản xuất giá cả thanh toán của hàng hoá thì doanh nghiệp đó mới thu được. Điều đó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại được thì phải giảm chi phí sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất lao động bằng cách tích cực ứng dụng đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất. Ngược lại, khi cung một loại hàng hoá nào đó nhỏ hơn cầu hàng hoá của thị trường điều đó dẫn đến sự khan hiếm về hàng hoá điều này dẫn tới giá cả của hàng hoá tăng cao dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên, điều này kích thích các doanh nghiệp sẽ nâng cao năng suất lao động bằng cách ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến hoặc mở rộng qui mô sản xuất để có được lượng hàng hoá tung ra thị trường. Điều này làm tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Điều này quan trọng là động lực này hoàn toàn tự nhiên không theo và không cần bất kỳ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ quan quản lý nhà nước. Thứ tư: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường không chỉ có cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa những người lao động với nhau, để có được một nơi làm việc tốt, công việc phù hợp. Điều đó khiến cho mọi người trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay nghề của mình. Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con người ta hoàn thiện hơn, cạnh tranh đóng góp một phần trong việc hình thành nên con người mới trong xã hội mới thông minh, năng động và sáng tạo. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau tất yếu sẽ dẫn đến có kẻ thắng và người thua. Kẻ mạnh càng ngày càng mạnh lên nhờ làm ăn hiệu quả. Kẻ yếu thì bị phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực. Bởi vì có như vậy thì các nguồn lực của xã hội mới được chuyển sang cho những nơi làm ăn hiệu quả. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn đến sự lãng phí các nguồn lực xã hội. Do đó muốn có hiệu quả sản xuất của xã hội cao buộc chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của những doanh nghiệp yếu kém. Sự phá sản này không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà đó là sự huỷ diệt sáng tạo. 3. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh: a) Điều kiện về các yếu tố pháp lý - thể chế đối với hoạt động kinh doanh Ngày nay trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng thì các thể chế pháp lý không chỉ do nhà nước ban hành mà còn được ban hành bởi các tổ chức kinh tế quốc tế ban hành. Yếu tố pháp lý - thể chế là nhân tố quan trọng hình thành nên môi trường kinh doanh. Mỗi yếu tố pháp lí - thể chế đều tác động vào một lĩnh vực nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chủ thể kinh tế muốn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nào đều phải dựa vào các thể chế - pháp lí đã được ban hành đối với lĩnh vực đó để tham gia hoạt động kinh tế. Mặc dù chỉ có định hướng trong một lĩnh vực nhất định, song trong một nền kinh tế thống nhất để tạo nên sự hoạt động đồng bộ cho guồng máy kinh tế thì các yếu tố thể chế - pháp lí này đều phải đảm bảo các điều kiện sau: Thứ nhất: Đảm bảo sự đồng bộ trong toàn bộ hệ thống thuộc mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. Như vậy mọi lĩnh vực của hoạt động sản xuất kinh doanh đều được điều chỉnh bởi các thể chế - pháp lí. Thứ hai: Các thể chế - pháp lí do Nhà nước ban hành phải phù hợp với tình hình thực tế để có hiệu quả cao trong việc điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra các qui định này phải rõ ràng, dễ hiểu, tránh việc hiểu theo nhiều nghĩa hướng khác nhau, điều đó sẽ dẫn đến những hậu quả trầm trọng. Việc ban hành các thể chế - pháp lí này sát với thực tế, không rõ ràng thì không những thực hiện được mục đích mà còn gây thêm ra những hoạt động sai lệch, làm đảo lộn trật tự. Thứ 3: Hiệu lực pháp luật của các qui định pháp lí - thể chế phải thống nhất trong việc điều chỉnh các hành vi kinh tế, không được có sự phân biệt đối xử khi thực hiện các qui định. Việc này sẽ tạo nên tính công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu lực của các qui định. b) Điều kiện trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế quốc dân Nhà nước dựa vào các qui định để điều hành quản lý nền kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai trò của quản lý, chỉ đạo giám sát thực hiện các qui định pháp lí là hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho việc các qui định pháp lí - thể chế được thực hiện. Do vai trò hết sức quan trọng đó mà việc quản lý kinh tế của nhà nước đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước phải có đủ trình độ chuyên môn, năng lực trong quản lý kinh tế. Trong nền KTTT với môi trường cạnh tranh gay gắt, việc các công ty hoặc các tổ chức độc quyền hình thành là điều dễ dàng. Do vậy để chống độc quyền và tạo nên sự cạnh tranh thì với bộ máy quản lý kinh tế non kém thì nhà nước sẽ không thể quản lí được nền kinh tế. Điều này sẽ gây ra việc làm thất thoát, lãng phí tài sản quốc gia, tình hình kinh doanh bất ổn định, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền hình thành. Thực tế ở Việt Nam cho thấy: Trong xây dựng cơ bản việc đầu tư dàn trải không có trọng điểm gây lãng phí vốn đầu tư. Trong các dự án, công trình xây dựng việc thất thoát vốn là rất lớn do việc câu kết thông đồng với nhau giữa các chủ đầu tư và xây dựng. Tất cả các điều trên phần lớn là do bộ máy quản lý còn non kém, chưa đưa ra được những qui định pháp lí - thể chế để điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Việc các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thuốc đầu cơ, thông đồng với nhau tạo ra sự khan hiếm giả tạo để đẩy giá thuốc lên cao. Điều này cũng tương tự đối với thị trường bất động sản. Ngày nay quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới nên việc nâng cao năng lực quản lý kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng để tạo nên môi trường cạnh lành mạnh. c) Điều kiện về trình độ văn hoá, đạo đức xã hội của nhân dân và các chủ thể kinh doanh Các chủ thể kinh tế là đối tượng tác động của các văn bản pháp lí - thể chế. Nhà nước ban hành và giám sát, chỉ đạo các chủ thể kinh tế thi hanh các qui định của văn bản pháp lí - thể chế. Để các qui định được thực hiện tốt thì ngoài vai trò quản lí tốt của Nhà nước còn có hành vi thực hiện của các chủ kinh doanh và nhân dân. ý thức thực hiện các qui định văn bản của các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh tế là điều kiện đủ để tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền trong kinh doanh. Năng lực của các cơ quan quản lí là có hạn cho nên trong quá trình quản lý không thể không mắc sai lầm, thiếu sót. Đó sẽ là điều kiện tốt cho những tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Trong những tình huống như vậy để tạo nên cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền rất cần có tinh thần, ý thức của các chủ thể kinh doanh cũng như của nhân dân. Tinh thần trách nhiệm, ý thức tốt của các chủ thể kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý. II. Thực trạng cạnh tranh ở Việt Nam 1. Những thay đổi về nhận thức đối với cạnh tranh: Sau khi đất nước thống nhất, cả nước bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, đưa đất nước tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Nhưng mô hình kinh tế sau chiến tranh là nền kinh tế tập trung bao cấp, của cải xã hội bị tàn phá nặng nề. Việc áp dụng mô hình kinh tế này trong chiến tranh đã đem lại hiệu quả cao, và được coi như mô hình ưu việt. Nhưng trong thời bình, nó đã không còn phù hợp và Việt Nam đã phải trả giá cho việc áp dụng nền kinh tế này đó là: nền kinh tế suy thoái trầm trọng: Chi vượt thu, lạm phát cao, tiền mất giá, phương tiện kĩ thuật lạc hậu, chậm được đổi mới, năng lực sản xuất non kém. Trong nền kinh tế cũ - nền kinh tế tập trung bao cấp thì mọi hoạt động kinh tế của xã hội đều do Nhà nước đảm nhiệm, nhà nước bao tiêu hết quá trình sản xuất của các doanh nghiệp kể cả việc tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp cứ chỉ thực hiện theo kế hoạch của nhà nước để sản xuất, không cần phải cạnh tranh. Nó khiến cho sản xuất ì ạch, không có sự năng động,tích cực trong sản xuất. Điều đó gây ra lãng phí nguồn lực xã hội. Yêu cầu phát triển xây dựng đất nước buộc chúng ta phải chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền KTTT nhưng chịu sự quản lý của Nhà nước. Đó là nền KTTT định hướng XHCN. Nền KTTT với qui luật cạnh tranh đã không còn chỗ cho sự ỉ lại, trông chờ vào bao cấp, nó buộc các chủ thể kinh tế phải hoạt động để giữ lấy vị trí tồn tại trong nền kinh tế. Do tính chất khắc nghiệt của cạnh tranh nên việc yêu cầu nhận thức về cạnh tranh một cách đúng đắn là điều cần thiết. Cùng với quá trình đổi mới, cạnh tranh theo pháp luật đã dần dần được chấp nhận ở nước ta như một động lực đảm bảo hiệu quả, tiến bộ xã hội, nhưng chịu sự điều tiết của nhà nước. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp lí điều chỉnh hành vi có liên quan đến cạnh tranh trên thị trường. Cạnh tranh trên thị trường có 4 cấp độ: cạnh tranh về hình thức sản phẩm, cạnh tranh về loại sản phẩm, những loại sản phẩm có thể thay thế và cạnh tranh về ngân sách. Trong kinh doanh tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà các doanh nghiệp lựa chọn cấp độ cạnh tranh cho phù hợp với tình hình thực tế và chính sách cạnh tranh của công ty. Để thúc đẩy kinh tế phát triển và giải quyết công ăn việc làm, Nhà nước đã từng bước nới lỏng cạnh tranh. Tuy nhiên, cho đến nay các mục tiêu phát triển ổn định và việc làm được đặt lên trên mục tiêu hiệu quả. Nhà nước tôn trọng các qui luật khách quan của nền KTTT, trong đó có qui luật cạnh tranh và hạn chế bớt tiêu cực của thị trường. Trong KTTT, cạnh tranh tự do bao gồm tự do hành nghề theo pháp luật, tự do quyết định của người kinh doanh và tự do lựa chọn của người tiêu dùng. Cạnh tranh trên thị trường tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Cạnh tranh về thị trường phân phối, cạnh tranh về khách hàng, cạnh tranh về nhân công, cạnh tranh về nguyên vật liệu, cạnh tranh về công cụ marketing… Cạnh tranh xảy ra giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành hoặc giữa các ngành với nhau. Mỗi cấp độ khác nhau thì có hình thức cạnh tranh khác nhau. Các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh cần phải có nhận thức đúng về cạnh tranhvà các cấp độ của cạnh tranh để từ đó đề ra các chính sách cho sự phát triển của mình. Dưới đây là một số cấp độ cạnh tranh của thị trường. 2. Thực trạng cạnh tranh ở Việt Nam: a) Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng Cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi về vốn đầu tư, thuế, vị trí địa lý, thị trường tiêu thụ… Ngoài ra các doanh nghiệp này còn tập trung trong tay một lượng lớn các ngành nghề quan trọng: điện, nước, than, dầu lửa, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải… Các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động theo một qui chế riêng, không được ưu đãi từ nhà nước. Điều này gây thiệt hại lớn về kinh tế, bởi vì một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn không hiệu quả, trông chờ vào nhà nước gây ra lãng phí nguồn lực xã hội, trong khi các công ty tư nhân hoạt động năng nổ và hiệu quả hơn. Ngoài ra do những qui định không hợp lí đối với các doanh nghiệp nước ngoài gây nên sự e ngại, không dám đầu tư vào nước ta của các doanh nghiệp nước ngoài. b) Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Các doanh nghiệp muốn tối đa hoá lợi nhuận của mình mà không vấp phải những khó khăn cản trở nào. Điều đó đã gây nên những hành vi hạn chế cạnh tranh từ các doanh nghiệp. Cụ thể: - Một số doanh nghiệp thông đồng câu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong hội, từ đó ngăn cản không cho các doanh nghiệp khác tham gia hoạt động kinh doanh, hạn chế việc mở rộng hoạt động, không cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ, chèn ép các doanh nghiệp đó phải tham gia vào hiệp hội hoặc là bị phá sản. - Lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp để chi phối thị trường. Hành vi này xuất phát từ một số tổng công ty độc quyền hoặc các công ty lớn có khả năng chi phối thị trường. Các công ty này dựa vào thế mạnh của mình mà sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để loại trừ đối thủ cạnh tranh, thao túng thị trường. Với sức mạnh độc quyền các công ty áp đặt giá cả độc quyền, độc quyền mua thì mua giá thấp, độc quyền bán thì bán với giá cao để thu lợi nhuận siêu ngạch, hoặc để loại trừ đối thủ cạnh tranh họ có thể hạ giá bán xuống thấp hơn so với chi phí sản xuất. - Sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp: Việc thành lập các tổng công ty hoặc liên doanh là việc sáp nhập các công ty thành viên lại với nhau, việc này diễn ra theo quyết định của nhà nước. Các công ty sáp nhập hay liên doanh với nhau làm tăng mức độ tích tụ hay tập trung của thị trường, làm giảm bớt đối thủ cạnh tranh tăng khả năng chi phối độc quyền thị trường của các tổng công ty hay các liên doanh. - Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Hiện nay nước ta chưa có khung pháp lí hoàn chỉnh cho cạnh tranh nên việc xác định, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là khó khăn. Điều đó tạo điều kiện cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng phát triển mạnh. Một số hành vi cạnh tranh khong lành mạnh như: Nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng được tung ra thị trường. Việc hàng giả, hàng nhái bán trên thị trường sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng, làm giảm uy tín của các công ty chính hãng có sản phẩm bị làm nhái. Các hình thức quảng cáo gian dối, thổi phồng ưu điểm của hàng hoá mình làm giảm ưu điểm của các hàng hoá khác cùng loại, rồi đưa ra những mức giá cao hơn so với mức giá thực tế của sản phẩm. Điều này cũng gây thiệt hại cho người tiêu dùng và những doanh nghiệp khác. Các hành vi thông đồng với cơ quan quản lý nhà nước để cản trở hoạt động của các đối thủ trong các ký kết hợp đồng , hối lộ các giao dịch kinh tế, lôi kéo lao động lành nghề, những chuyên gia giỏi của các doanh nghiệp Nhà nước một cách không chính đáng còn phổ biến trong nền kinh tế. c. Độc quyền của một số tổng công ty. Một số tổng công ty với thế mạnh về kinh tế của mình đã kiến nghị với chính phủ thực hiện chính sách bảo hộ ngăn cản nhập khẩu, chính sách bao cấp, lãi suất ưu đãi để duy trì vị thế độc quyền của mình. Nhiều tổng công ty đã thể chế hoá những ưu đãi đặc quyền của mình và đưa ra những quy định bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh tranh. Với ưu thế độc quyền, nhiều công ty đã định ra những sản phẩm mà họ sản xuất tạo ra sự bất bình đẳng giữa những người kinh doanh với nhau trên thị trường. Cạnh tranh trong nội bộ tổng công ty bị hạn chế. Được sự bảo hộ của chính phủ, nhiều tổng công ty hoạt động trì trệ, ỷ lại gây tốn kém, lãng phí cho xã hội. Như vậy với mục đích chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổng công ty đã không thực hiện được, mà việc thành lập các tổng công ty này đã ảnh hưởng không tốt, thậm chí cản trở cạnh tranh trên thị trường. 3. Giải pháp duy trì cạnh tranh ở Việt Nam: Từ thực trạng cho thấy cạnh tranh trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam còn có nhiều vấn đề, nguyên nhân của các vấn đề đó là do: - Hệ thống thể chế - pháp lý điều chỉnh các quan hệ liên quan đến cạnh trạnh chưa hoàn chỉnh, ý thức chấp hành của các doanh nghiệp chưa tốt, nên những hành vi cạnh tranh không hợp thức còn tồn tại khá phổ biến. - Quan điểm về vai trò của cạnh tranh chưa nhất quán nên nội dung một số thể chế - pháp lý liên quan đến môi trường cạnh tranh còn mâu thuẫn với nhau. - Thủ tục hành chính chưa được cải thiện, đơn giản hoá kịp thời nên còn gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư và cũng tạo ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh, giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở trong nước so với các nước khác. - Quá trình cải cách hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra còn chậm. Còn nhiều doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không có hiệu quả nhưng vẫn bao cấp, duy trì bảo hộ… Trong thời gian tới trước yêu cầu của quá trình hội nhập thì việc cải thiện môi trường cạnh tranh là yêu cầu cấp bách để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Để duy trì cạnh tranh lành mạnh chúng ta cần phải thực hiện một số biện pháp sau: Thứ nhất: tiếp tục đổi mới nhận thức về cạnh tranh, phải thống nhất quan điểm đánh giá vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phải coi cạnh tranh trong nền kinh tế pháp luật hợp thức là động lực của sự phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Xác định một cách rõ ràng và hợp lý vai trò của Nhà nước cũng như vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế, hạn chế bớt những doanh nghiệp Nhà nước độc quyền kinh doanh. Thúc đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước cần phải được giảm dần, các rào cản đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cần được tháo gỡ dần nhằm giảm giá thành sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh chung của toàn bộ nền kinh tế, tăng tính hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, đồng thời giảm gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Việc đổi mới nhận thức cần được thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản lý Nhà nước, trong các chương trình và chiến lược cải cách hành chính, trong tổ chức, phong cách làm việc hành vi ứng xử của các cơ quan công quyền. Muốn như vậy thì trước tiên cần phải đưa nội dung về cạnh tranh và độc quyền vào chương trình giáo dục của các trường đại học thuộc khối kinh tế và kinh doanh. Để có được đội ngũ cán bộ, các nhà kinh tế sau khi ra trường có một tầm hiểu biết về cạnh tranh và độc quyền. Đào tạo các khoá ngắn hạn cho các doanh nghiệp và công chức Nhà nước để nâng cao, trau dồi kiến thức về cạnh tranh và độc quyền. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền về cạnh tranh và độc quyền. Để từ đó có một chính sách cạnh tranh phù hợp và việc thực hiện các chính sách cạnh tranh này dễ dàng hơn. Thứ hai: cải tổ pháp luật về cạnh tranh để cho cơ chế cạnh tranh được vận hành một cách trôi chảy, hạn chế những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Nới lỏng các điều kiện ra nhập và rút lui khỏi thị trường để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia sản xuất kinh doanh. Như vậy việc hình thành nên khung pháp lý chung cho các loại hình kinh doanh thuộc các khu vực kinh tế khác nhau là điều cần thiết. Việc cải tổ pháp luật về cạnh tranh cần phải sửa đổi từ quy trình ban hành pháp luật: Xây dựng luật: để đảm bảo tính chất khách quan về lâu dài cần chuyển việc dự thảo luật từ cơ quan lập pháp sang cho cơ quan hành pháp. Trước mắt, việc soạn thảo luật cần được tổ chức một cách dân chủ với sự tham gia của cơ quan có liên quan. Xây dựng văn bản dưới luật: phải đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh và sự tham gia rộng rãi của những người chịu ảnh hưởng của quy định. Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý kinh doanh cần xoá bỏ những quy định hiện hành không phù hợp với nền kinh tế thị trường, với những cam kết quốc tế nhằm mở rộng quyền kinh doanh, quyền chủ động cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Bổ xung những luật và văn bản dưới luật còn thiếu, chưa hướng dẫn thi hành. Trong tâm xem xét là các lĩnh vực pháp luật về cạnh tranh độc quyền. Sửa đổi những điều khoản của bộ luật dân sự có liên quan đến quan hệ giữa luật Việt Nam và luật nước ngoài. Để thực hiện được những việc như trên thì trong quá trình sửa đổi luật, bổ sung và ban hành pháp luật có liên quan đến cạnh tranh và độc quyền thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương với sự tham gia của các doanh nghiệp, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế và người tiêu dùng. Việc tham gia đồng bộ giữa các bên khi ban hành sửa đổi luật sẽ đưa ra được các quy định phù hợp với tình hình thực tế về cạnh tranh và độc quyền hơn. Thứ ba: xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Rà soát lại và hạn chế bớt số lượng các lĩnh vực độc quyền, kiểm soát giám sát độc quyền chặt chẽ hơn. Nhà nước cần giám sát chặt chẽ hơn các hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp lớn. Cần phải đổi mới chế độ chứng từ, kế toán kiểm toán để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát tài chính của các doanh nghiệp. Thứ tư: cải thiện môi trường thông tin và pháp luật theo hướng minh bạch và kịp thời hơn, đồng thời nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Cụ thể: - Việc thành lập doanh nghiệp mới: việc quyết định thành lập các doanh nghiệp Nhà nước cần được chuyển sang cho các cơ quan quyền lực đại biểu của nhân dân. Việc tăng cường kiểm tra giám sát từ các cơ quan này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động tích cực và có hiệu quả hơn, tiết kiệm được các nguồn lực của Nhà nước . Thành lập, bổ sung đầy đủ, chi tiết và cập nhật hàng năm những ngành nghề mà doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoải không được đăng ký kinh doanh. Ngoài các mục này các doanh nghiệp được thành lập theo chế độ đăng ký với một cơ quan đăng ký thống nhất trong quốc gia. Cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời chịu trách nhiệm cả về việc điều chỉnh nội dung giấy đăng ký kinh doanh và việc mở văn phòng đại diện, chi nhánh trong nước và nước ngoài theo chế độ doanh nghiệp chủ động đăng ký. Xoá bỏ các điều kiện cấp phép về nội địa hoá, tỉ lệ xuất khẩu, tự cân đối ngoại tệ. Các cơ quan cấp phép hiện hành sẽ chuyển chức năng cấp phép, thẩm định sang chức năng xúc tiến và cung cấp dịch vụ đầu tư. - Đất đai: chuyển các thủ tục hành chính xin chuyển đổi mục đích và quyền sử dụng về một cơ quan giải quyết. Điều này sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho các doanh nghiệp khi xin thuê đất quy hoạch và xây dựng khu công nghiệp. - Về vốn: mở rộng khả năng vay vốn từ các nguồn ưu đãi để đầu tư phát triển khả năng tự huy động vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp nước ngoài thông qua các kênh phát hành trái phiếu và chứng khoán. Trên cơ sở nguyên tắc cạnh tranh, chỉ áp dụng việc giới hạn mua cổ phần của những doanh nghiệp lớn có khả năng chi phối thị trường, tạo nên độc quyền, còn đối với những người quản lý, người ngoài doanh nghiệp, người nước ngoài nên khuyến khích để tăng nguồn vốn của doanh nghiệp, tạo điều kiện đổi mới máy móc, đầu tư trang thiết bị nâng cao năng suất lao động. - Về lao động: các loại quy định về thang bảng lương, lương thực tế , trợn cấp, chế độ thưởng, lương tối thiểu, thuế thu nhập, các hình thức tuyển dụng lao động cần phải có sự thống nhất dựa trên khung pháp lý chung của Nhà nước và có sự đóng góp ý kiến của công đoàn. - Tiếp cận thị trường. + Quyền xuất nhập khẩu: mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong nước. + Xây dựng và ban hành các thủ tục, điều kiện cấp phép nhập khẩu, có nhiều loại thuế thay thế hợp lý tương đương đối với các mặt hàng để khi thực hiện không gây các cản trở cho việc trao đổi hàng hoá, thương mại. + Ban hành danh mục cấp và xuất nhập khẩu có điều kiện, ngoài những mặt hàng này nên khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường hoạt động trao đổi thương mại làm tăng luồng chu chuyển hàng hoá trong và ngoài nước. Hạn ngạch là biện pháp hạn chế thương mại cần xoá bỏ. Việc xoá bỏ hạn ngạch cần được giải quyết cùng với việc chỉ định đầu mối, bán ngoại tệ và Nhà nước quy định giá. Việc phân bổ hạn ngạch cần phải dựa vào những mặt hàng cụ thể, thay thế chế độ giá tính thuế tối thiểu bằng giá ghi trên hợp đồng, xoá bỏ chế độ phụ thu. Triển khai cải cách các thủ tục hải quan theo hướng đơn giản hoá và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, thống nhất thủ tục trong cả nước. - Về thuế quan: miễn giảm thuế tối đa đối với mọi mặt hàng xuất khẩu, kể cả hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu tại chỗ. Về thuế nhập khẩu: xoá bỏ cách đánh thuế đựa trên mục đích sử dụng, giảm số thuế và mức thuế. giảm thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất trong nước tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. - Về chuyển giao công nghệ: cần tăng ngân sách cho các ngành nghiên cứu khoa học công nghệ, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ làm nghiên cứu khoa học, trọng dụng nhân tài, được cung cấp phổ biến thông tin, phát biểu ý kiến khách quan dưới góc độ nghiên cứu khoa học. Hạn chế việc chảy máu chất xám, khuyến khích thu hút các nhà khoa học nước ngoài vào trong nước nghiên cứu khoa học. Khuyến khích tư nhân đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ sản xuất. Sửa đổi chế độ hoạch toán, kế toán nhằm khuyến khích khấu hao nhanh để đổi mới công nghệ, phát triển thành lập các trung tâm nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với việc chuyển giao công nghệ. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với quốc tế, sử dụng kinh nghiệm quản lý của quốc tế để áp dụng cho các doanh nghiệp. Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh, cấp phép lao động, thuê chuyên gia nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài làm việc cho các tổ chức, cơ quan Việt Nam. - Giảm chi phí đầu vào: Cải tiến thủ tục và trình tự thu thuế, hạn chế tình trạng thu thuế ngoài thẩm quyền của các bộ ngành và địa phương. Giảm mức thuế, bao gồm thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thu nhập cá nhân thu nhập doanh nghiệp, tương đương với các nước trong khu vực. Xem xét lại mức đóng góp bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và công đoàn phí. Từ đó giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp. Thứ năm: cơ cấu lại và kiểm soát độc quyền kể cả độc quyền tự nhiên. Cần xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh, chỉ duy trì độc quyền ở một số ngành quan trọng phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế như: sản xuất và truyền tải điện năng, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, xây dựng cơ sở hạ tầng… kiểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp độc quyền thuộc Nhà nước. Việc xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh có thể thực hiện theo hai hướng . Hướng thứ nhất: cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh bằng cách xây dựng điều kiện cấp phép cho các loại hình dịch vụ phù hợp với thời hạn nêu trong cam kết quốc tế. Cần tạo điều kiện khuyến khích cạnh tranh giữa các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động. Các doanh nghiệp mới có thể đến từ một lĩnh vực kinh doanh khác có liên quan. Các doanh nghiệp này có thể sử dụng chung cơ sở hạ tầng với doanh nghiệp đang sử dụng hoặc sẵn có của mình. Hướng thứ hai: chia tách các doanh nghiệp đang chiếm vị trí chủ đạo trong lĩnh vực thành các đơn vị nhỏ độc lập, đồng thời chia tách các doanh nghiệp không trực tiếp gắn với cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng khỏi doanh nghiệp chủ đạo. Việc chia tách này cần đảm bảo các doanh nghiệp độc lập với nhau không phụ thuộc vào nhau hay vào doanh nghiệp chủ đạo. Như vậy sẽ làm tăng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau mà không bị hạn chế lĩnh vực và địa bàn kinh doanh. Trong trường hợp có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh vực thì sự tham gia trực tiếp của Nhà nước vào sự hoạt động của các doanh nghiệp là không cần thiết. Trường hợp này Nhà nước chỉ cần ban hành một số quy định hướng dẫn hoạt động và hạn chế cạnh tranh không lành mạnh vào để cho các doanh nghiệp tự điều chỉnh hoạt động của mình dựa vào thị trường. Trường hợp vẫn phải duy trì độc quyền một số ngành chủ đạo thì Nhà nước cần ban hành những quy định pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các công ty này. Xây dựng các luật đặc thù cho từng lĩnh vực như: luật viễn thông, luật điện lực… Để kiểm soát độc quyền của các doanh nghiệp này và tránh tình trạng lạm dụng ưu thế để chi phối thị trường mà vẫn đảm bảo quyền tự chủ của các doanh nghiệp. Trong các tổng công ty độc quyền cần phải tách bộ phận xây dựng hoạch định chính sách với bộ phận kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách để có một chính sách kinh doanh có hiệu quả, khách quan. Thứ sáu: Nhà nước cần phải có luật cạnh tranh với mục đích đảm bảo và duy trì môi trường cạnh tranh. Nội dung luật cạnh tranh cần được thường xuyên nghiên cứu, thay đổi cho phù hợp với những biến động của môi trường cạnh tranh trong nước cũng như những yếu tố liên quan đến nước ngoài. Thứ bảy: cần thành lập các hiệp hội người tiêu dùng với những hoạt động chủ yếu là cung cấp thông tin phục vụ người tiêu dùng và kịp thời phát hiện những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Các hiệp hội này sẽ là đối trọng của các doanh nghiệp khống chế thị trường. Kinh nghiệm các nước cho thấy hoạt động bảo vệ lợi ích người tiêu dùng hỗ trợ rất tốt cho việc duy trì tốt môi trường cạnh tranh lành mạnh. Bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và cạnh tranh là 2 vấn đề liên quan mật thiết đến nhau. Kết luận Cạnh tranh là một quy luật của nền KTTT. Canh tranh cũng có nhược điểm của nó, đó là dẫn đến độc quyền. Tuy nhiên cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế, có cạnh tranh thì mới có sự chạy đua về khoa học kĩ thuật giữa các doanh nghiệp. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với nhau sẽ làm nguồn lực của xã hội được phân bố và sử dụng có hiệu quả hơn. Những mặt trái của cạnh tranh sẽ có thể khác phục một cách dễ dàng nếu như chúng ta có những chính sách cạnh tranh đúng đắn. Nhiều nước trên thế giới đã áp dụng tốt chính sách cạnh tranh trong phát triển kinh tế và đem lại hiệu quả cao. Thực trạng môi trường cạnh tranh ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Nói tóm lại, cạnh tranh trong nền KTTT có thật sự trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào sự vận dụng quy luật này. Nếu có chính sách cạnh tranh hợp lý thì Việt Nam sẽ được lợi to do cạnh tranh đem lại, còn ngược lại nếu không nó sẽ có thể khiến cho nền kinh tế "phát triển" theo chiều "đi xuống". Là nước đi sau nên chúng ta có thể được thừa hưởng nhiều kinh nghiệm của những nước đi trước, từ đó chúng ta hy vọng Việt Nam là nơi mà cạnh tranh có thể phát huy hết chức năng của nó. Tài liệu tham khảo 1. "Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh" của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương. 2. Tạp chí kinh tế và phát triển. 3. Giáo trình Kinh tế chính trị Mac-Lênin. 4. Trang web: tckhds.com.vn( tạp chí khoa học đời sống).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10601.doc
Tài liệu liên quan