Đề tài Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam và giải pháp

Ngày nay, thách thức lớn nhất có tính cơ bản và lâu dài mà quá trình CNH, HĐH đất nước phải đương đầu là cuộc cạnh tranh quốc tế rất quyết liệt về phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt về năng lực trí tuệ của con người và của toàn xã hội nhằm giải quyết thành công những vấn đề đặt ra, cụ thể là quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH-HĐH. Kinh nghiệm của các quốc gia đã CNH cho thấy, không một nền kinh tế phát triển nào bắt đầu tăng trưởng kinh tế nhanh mà trình độ phát triển nguồn nhân lực thấp kém, lại có thể duy trì tỷ lệ tăng trưởng vì phát triển nguồn nhân lực là một yếu tố chiến lược quyết định tốc độ tăng trưởng nhanh, đồng thời là khâu quyết định triển vọng của tiến trình CNH-HĐH đất nước, nhất là xét về trung và dài hạn. Bởi vậy nghiên cứu các yếu tố thuộc về chất lượng nguồn lao động nước ta hiện nay và giải pháp nâng cao chất lượng lao động góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là rất quan trọng và cấp bách trong điều kiện hiện nay của Việt nam.

doc35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên. Phương pháp tính: b. Số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên: Là số năm trung bình một người dành cho học tập. Phương pháp tính: A= ồaixi Trong đó: A: số năm đi học trung bình ai các hệ số được chọn theo hệ thống GD của mỗi vùng hoặc mỗi nước. xi % trình độ văn hóa theo hệ thống giáo dục tương đương Tỷ lệ đi học chung các cấp (tiểu học,THCS, THPT): Tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em học cấp tiểu học( cấp I), dù tuổi của em này có thuộc độ tuổi cấp tiểu học hay không, trong tổng số dân số ở độ tuổi tiểu học (6-10 tuổi). Tương tự như vậy đối với tỷ lệ đi học chung cấp THCS, trong đó độ tuổi học sinh đi học cấp này là11-14 tuổi và cấp THPT (cấp III), độ tuổi học sinh đi học cấp này là 15-17 tuổi. Tỷ lệ đi học chung Số học sinh cấp tiểu học trong năm xác định cấp tiểu học (cấp I) Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học (6-10 tuổi) trong cùng năm = x 100 Phương pháp tính: Các cấp THCS và THPT tính tương tự. d. Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học và trung học: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học (cấp I) tức là những em từ 6-10 tuổi, học cấp tiểu học trong tổng số trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học của dân số. Tương tự như vậy đối với nhóm tuổi THCS (cấp II) và THPT (cấp III). Số học sinh cấp tiểu học từ 6-10 tuổi Tỷ lệ đi học đúng trong năm xác định tuổi cấp tiểu học Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học (6-10 tuổi) trong cùng năm. = x100 Phương pháp tính: Các tỷ lệ cấpTHCS và THPT tính tương tự. 3.3. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Trình độ CMKT là kiến thức và kỹ năng cần thiết để dảm bảo đảm đương các chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. Lao động CMKT bao gồm những CNKT từ bậc 3 trở lên (có hoặc không có bằng) cho tới những người có trình độ trên đại học. Họ được đào toạ trong các trường, lớp dưới các hình thức khác nhau và có bằng hoặc không có bằng ( Đối với CNKT không bằng) song nhờ kinh nghiệm thực tế trong sản xuất mà có trình độ tương đương từ bậc 3 trở lên. Các chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật: a. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo so với LLLĐ đang làm việc Là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc. ồ LLVĐT ồLLV TLVĐT x 100 = TLVĐT : Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang làm việc. LLVĐT : Số lao động đã qua đào tạo đang làm việc. LLV : Số lao động đang làm việc. b. Tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo ở từng vùng Là % số lao động có trình độ CMKT theo bậc đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc. ồLLVĐTij ồLLVĐTj TLVĐTij = x 100 TLVĐTij: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo bậc i so với tổng lao động đang làm việc vùng j. LLVĐT : Số lao động đã qua đào tạo đang làm việc. LLVĐTij: Số lao động đang làm việc đã đào tạo bậc i ở vùng j. LLV : Số lao động đang làm việc. i : Chỉ số các cấp được đào tạo. j : Chỉ số vùng. Ngoài ra còn một số chỉ tiêu khác nữa như chỉ số phát triển nhân lực HDI 4. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng NNL: Chất lượng NNL phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển kinh tế, trình độ phát triển KH-CN, mức sống, y tế, giáo dục, dào tạo, đạo đức và truyền thống văn hoá dân tộc.Trong đó, trình độ phát triển kỹ thuật và sự thay đổi cơ cấu kinh tế là yếu tố quan trọng nhất, quyết định trực tiếp đến chất lượng con người cả về sức khoẻ, trí tuệ và tinh thần. Chất lượng đào tạo không chỉ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp, nâng cao chất lượng về mặt trí lực của NNL, mà còn có tác động tích cực đến sức khoẻ, khả năng tiếp thu công nghệ, thu hút vốn đầu tư, tạo việc làm. Nghiên cứu, làm rõ cả về lí luận và thực tiễn về tác động của GD,ĐT đối với phát triển NNL là rất cần thiết để luận cứ cho quan điểm nâng cao chất lượng NNL đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH thông qua đầu tư phát triển GD-ĐT. Giáo dục góp phần cải thiện sức khoẻ, nâng cao tuổi thọ con người Trong bối cảnh thay đổi công nghệ nhanh chóng, giáo dục giữ vai trò chủ yếu trong tiếp thu và phát triển công nghệ. Đầu tư cho giáo dục tạo tích luỹ vốn nhân lực, là đầu tư có hiệu quả nhất góp phần vào tăng trưởng Lợi ích tư nhân và xã hội của giáo dục. 5. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao chất lượng NNL: Nước ta đang tiến hành CNH-HĐH đất nước, cùng với tác động của cơ chế thị trường, đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng trở nên cao hơn. Thể hiện ở các mặt: Đòi hỏi về trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật và trình độ quản lý đối với nguồn lực: Quá trình CNH-HĐH đất nước, cùng với việc thực hiện chuyển giao công nghệ và áp dụng các thành tựu KH-KT và CN mới vào sản xuất đã và đang đòi hỏi một đội ngũ ngày càng đông đảo lực lượng lao động chất xám có trình dộ chuyên môn, kỹ thuật, trình độ quản lý ngày càng phức tạp và các phương pháp quản lý hiện đại, nắm bắt và phát triển các CN hiện đại trong tất cả các lĩnh vực của sản xuất xã hội. Ngoài những đòi hỏi cao về lực lượng lao động chất xám, sự nghiệp CNH-HĐH đất nước còn đòi hỏi 1 đội ngũ đông đảo công nhân kỹ thuật được đào tạo kỹ lưỡng, có chất lượng tay nghề cao. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, do sự phát triển của các khu chế xuất, khu công nghệ cao, đòi hỏi đó càng trở nên gay gắt. Việc đào tạo công nhân kỹ thuật ngày nay không chỉ dừng lại ở đào tạo phục vụ cho các ngành nghề trước mắt mà còn phải đào tạo đón dầu nữa. Đòi hỏi về nâng cao sức khoẻ, ý thức công dân, lòng yêu nước và tác phong làm việc công nghiệp của người lao động: Những phẩm chất đó của nguồn nhân lực sẽ giúp con người không bị cám dỗ bởi những mặt trái của nền kinh tế thị trường, nơi đồng tiền và lợi ích có thể trà đạp lên lương tâm, phẩm hạnh của con người. Đồng thời CNH-HĐH còn đòi hỏi ý thức kỷ luật lao động cao, tác phong làm việc khoa học, điều mà lực lượng lao động nước ta còn yếu kém. Ngoài ra, thể lực của nguồn nhân lực nước ta nhìn chung còn chưa phát triển. Sự đi lên của đất nước, ngoài những đòi hỏi về trí tuệ, còn có đòi hỏi nguồn nhân lực phải ngày càng có sức khoẻ tốt, thể lực tốt, không kém hơn các nước trong khu vực và thế giới. Bằng cách đó, năng suất lao động xã hội sẽ được nâng cao, góp phần nâng cao mức sống dân cư. 6. Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển NNL với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH Lao động gắn liền với dân số và các quá trình KT-XH. Mỗi người lao động vừa là người sản xuất vừa là người tiêu dùng. ở góc độ thứ nhất, lao động của con người là yếu tố bản thân của quà trình sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động mang tính nội sinh tạo ra GDP và làm nảy sinh những quan hệ cấu trúc nội tại của quá trình sản xuất và phát triển KT-XH. ở góc độ thứ hai, với tư cách là người tiêu dùng, sức mua của người lao động cũng như nhu cầu về nâng cao phúc lợi xã hội và các giá trị vật chất, tinh thần cho con người lại là động lực và định hướng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, khi xem xét tổng thể các quan hệ KT-XH trong quá trình phát triển, con người là nhân tố quyết định. Chất lượng nguồn nhân lực càng cao càng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH cả về quy mô và cường độ. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động càng tiến bộ càng đòi hỏi khả năng thích ứng cao hơn cảu nguồn nhân lực về thể lực, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kĩ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, trình độ trí tuệ, năng lực sáng tạo, khả năng thích ứng cũng như phẩm chất sinh lý, tâm lý, xã hội, ý thức, lối sống, đạo đức làm nghề. Trong đó thể lực, trí lực, và tâm lực là những yếu tố quan trọng nhất. Mối quan hệ tương tác có tính nhân quả giữa chất lượng nguồn nhân lực và cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động liên tục tiếp diễn có tính chu kỳ theo xã hội, hướng cấp độ sau cao hơn cấp độ trước, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển KT-XH ở từng giai đoạn của mỗi nước, mỗi vùng, mỗi khu vực, mỗi địa phương. Có thể thấy rõ hơn vấn đề này khi phân tích bản chất KT-XH và các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động: Cơ cấu kinh tế biểu hiện bằng tỷ trọng GDP (hoặc giá trị tổng sản lượng) được tạo ra từ các ngành hoặc các thành phần kinh tế, các vùng lãnh thổ trong tổng GDP. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH đặt ra yêu cầu có tính nguyên tắc là bảo đảm an ninh lương thực, ổn định xã hội. Do đó, không thể giảm tỷ trọng GDP từ nông nghiệp bằng cách giảm thấp sự phát triển của khu vực này. Trái lại trên cơ sở phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hoá, áp dụng KHCNKT tiên tiến, đổi mới cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi, tập quán và kỹ thuật sản xuất, tăng nhanh NSLĐ XH để có thể chuyển ngày càng nhiều lực lượng lao động vào làm việc trong các ngành CN và DV. Để thực hiện được yêu cầu này, vấn đề nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì không có lao động chuyên môn kỹ thuật, lao dộng đã qua đào tạo công nghệ và kỹ thuật mới không thể thay đổi được tập quán và kỹ thuật sản xuất lạc hậu, không thể nâng cao NSLĐXH, do đó không thể giảm một cách đáng kể lực lượng lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp. Mặt khác nếu chất lượng lao động thấp, đặc biệt là lực lượng lao động trẻ thì mặc dù khu vực nông nghiệp không có khả năng tạo thêm chỗ làm việc mới để thu hút số lao động trẻ trong khu vực, cũng không dễ dàng gì mà chuyển đội ngũ này sang làm việc trong các ngành nghề phi nông nghiệp tại địa phương cũng như nơi khác. Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động lại tiếp tục diễn ra và ngày càng gay gắt.Sự mất cân đối giữa cung và cầu về chất lượng lao đọng ở nông thôn là trở ngại trực tiếp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu lao động trong khu vực. Tóm lại, dù xem xét ở mặt này hay mặt khác của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH thì chất lượng lao động, cơ cấu lao động và khả năng thu hút lao động luôn là những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong đó chất lượng lao động đóng vai trò quyết định. Xu hướng chung của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH là tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm cả về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nông nghiệp trên cơ sở đảm bảo an ninh luơng thực và ổn định xã hội. 7. Kinh nghiệm của nước ngoài trong việc nâng cao chất lượng NNL: 7.1. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN: Tốc độ phát triển nhanh và công nghiệp hoá ngày càng mạnh đã làm nảy sinh một vấn đề phải giải quyết là nhân công phải thích nghi với thị trường việc làm. Do đó vấn đề cấp thiết là đào tạo nguồn nhân lực. Trước nhu cầu nêu trên ngày càng tăng, mặc dù đã có những cố gắng trong lĩnh vực đào tạo nhưng tình trạng thiếu hụt về nhân công có tay nghề vẫn theo chiều hướng gia tăng. Sự thiếu hụt nhân công có trình độ trước hết là do tình trạng yếu kém của hệ thống giáo dục bậc đại học. ở Malaixia nếu tỷ lệ nhập học bậc trung học là 72% thì tỷ lệ nhập học ở bậc đại học chỉ là 10% (tính cả số sinh viên đang được đào tạo ở nước ngoài). ở Thái lan chỉ đạt 33% ở bậc trung học và 19% ở bậc đại học, kém xa so với tỷ lệ này ở Hàn Quốc cùng thời điểm(38%). Tiếp đến là cơ cấu ngành nghề đào tạo ngày càng bất cập so với nhu cầu của thị trường vè nhân công có trình độ chuyên môn kỹ thuật. ở Thái lan, ngành văn học và sư phạm thu hút gần 2/3 số sinh viên; ngành Luật 24%, trong khi các ngành có nhu cầu khá nhiều như chế tạo, cơ khí, nông học thì chỉ có khoảng 2-2,3% số sinh viên theo học. ở Malaixia, tỷ lệ giữa sinh viên khối KHKT và nhân vănvà sinh viên khối KHTN và KT khá cân đối(53-47%). Ngược lại với trình độ “chứng chỉ” ưu thế nghiêng về các môn KH và KT(15-85%) trước đây và (40-60%) trong kế hoạch gần nhất. Về chính sách phát triển GD-ĐT và nghiên cứu khoa học: trong bối cảnh phát triển kinh tế ngày càng nhanh, hai ưu tiên cần được đặt ra là : Thứ nhất nâng cao các hệ thống giáo dục và đào tạo nghề; Thứ hai phát triển công tác nghiên cứu khoa học để làm cơ sở vững chắc cho các công nghệ nổi trội. Nhờ sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước trong các lĩnh vực đào tạo và phát triển công tác nghiên cứu khoa học, trong hai thập kỷ qua, Thái Lan và Malaixia có nhiều tiến bộ quan trọng, song còn rất nhiều việc phải làm để đưa các nước này tiến lên một trình độ CNH cao hơn. Một trong những khó khăn cơ bản gặp phải là khu vực tư nhân ít tham gia vào các đầu tư này, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu vè phát triển các chiến lược thương mại ngắn hạn để mở rộng thị trường hơn là đầu tư vào nghiên cứu để có được công nghệ mới. Trong điều kiện như vậy và do vốn đầu tư trong nước còn yếu kém, giải pháp chủ yếu cho các vấn đề của công tác đào tạo và công tác nghiên cứu là dựa vào sự hợp tác quốc tế rộng rãi trong khuôn khổ viện trợ đa phương, song phương cũng như đối với các công ty lớn. 7.2. Kinh nghiệm ở Nhật Bản -nước có nền công nghiệp tiên tiến: Duy trì và phát triển nhân lực không đơn giản chỉ là việc rèn luyện sức khoẻ, cơ bắp mà quan trọng hơn là đào tạo rèn luyện năng lực trí tuệ cho người lao động để tạo ra NSLĐ ngày một cao. Trí lực con người không phải là cái bẩm sinh, “ nhất thành bất biến” mà phải được đào tạo thường xuyên, liên tục ngay từ khi còn ở tuổi mẫu giáo. Nhật Bản là nước đứng đầu thế giới trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực “ từ xa” thông qua quá trình giáo dục từ tiền phổ thông cho đến khi thạo nghề lảma sản phẩm. ở Nhật Bản, giáo dục tiểu học và trung học cơ sở tuy được miễn phí nhưng là bắt buộc, ngay từ khi bước chân vào trường tiểu học, học sinh đã được rèn luyện thói quen kinh tế, tinh thần hợp tác trong sinh hoạt và trong lao động. Năm 1972, Nhật Bản thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc với khẩu hiệu “ Văn minh và khai hoá; làm giàu và bảo vệ đất nước; học tập văn minh và kinh tế Âu-Mỹ; bảo vệ truyền thống văn hoá và đạo đức Nhật Bản”. Sự phát triển vững chắc trong hệ thống giáo dục ở Nhật Bản đã có ảnh hưởng quan trọng tạo dựng một nguồn nhân lực có chất lượng cao. Sự cần cù, lòng kiên nhẫn, bền bỉ, kỷ luật lao động nghiêm, trung thành, tận tụy với công việc và gắn bó sống còn với tổ chức mà họ đang làm việc. Kết hợp với trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày càng được nâng cao không ngừng là truyền thống quý báu đối với nhiều thế hệ người Nhật Bản. Đặc biệt từ những năm 80 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã bắt đầu triển khai một số chương trình cơ cấu lại nền kinh tế với mục tiêu hình thành và phát triển một hệ thống mạng lưới các tâm điểm kinh tế với trọng tâm là các khu công nghiêp phần mền được coi như là một trong những mũi nhọn trong nền kinh tế công nghiệp phần mền của Nhật Bản hiện nay đứng vị trí thứ hai trên thế giới với tổng doanh thu năm 1995( không kể dịch vụ phần mền) lên đến 35 tỷ USD, chiếm 20% ngành công nghiệp thế giới. Từ đó ta có thể rút ra được một số kinh nghiệm như sau: Coi trọng giáo dục phổ thông theo hướng chuẩn bị các kiến thức cơ sở đề học sinh bước vào học một nghề nhất định khi không có đủ trình độ hoặc không muốn học tiếp lên đại học( chứ không chỉ hướng vào chuẩn bị kiến thức để thi đại học). Đồng thời chú trọng giáo dục đồng bộ “đức, trí, thể, mỹ” để học sinh có thể trở thành những người lao động có kiến thức, kỹ năng, có sức khoẻ và đạo đức tốt trong tương lai. Có chính sách phân luồng học sinh từ sau khi tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Coi trọng giáo dục dạy nghề theo hướng mở rộng quy mô, cơ cấu, loại hình đào tạovà nâng cao chất lượng của các cơ sở dạy nghề để có thể thu hút được các học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học. Nâng cao chất lượng giáo dục đại học để có thể cung cấp cho đất nước những cán bộ KHKT, cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh thực sự có trình độ và kỹ năng tương xứng với bằng cấp. Từ kinh nghiệm nêu trên cho thấy vấn đề mấu chốt để có thể tiếp thu được KH, CN hiện đại và các phưong pháp, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và để có được những chuyên gia giỏi, đầu ngành đối với nước ta bây giờlà nâng cao chất lượng chứ chưa phải là mở rộng quy mô đào tạo. Nhanh chóng thực hiện quá trình XHH trong giáo dục và đào tạo để huy động được mọi nguồn lực của các tổ chức cà nhân dân đóng góp cho sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên cũng cần có sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước trong các lĩnh vực đào tạo và phát triển công tác nghiên cứu khoa học cũng như dựa vào sự hợp tác quốc tế rộng rãi trong khuôn khổ viện trợ đa phương, song phương như kinh nghiệm của Thái lan và Malaixia. Phát triển các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn để thu hút lực lượng lao động tại chỗ, nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động và thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. Có cơ chế và chính sách thích hợp để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong đào tạo nghề và đào tạo lại đội ngũ CNKT. Học tập và vận dụng kỹ thuật của các nước phù hợp với Việt Nam trong việc đào tạo nghề và đào tạo lại đội ngũ nhân lực có trình độ công nghệ thông tin nhằm làm biến đổi mọi mặt của đời sống con người và phát triển XH nước ta theo hướng XHCN dựa trên KT tri thức trong thế kỷ XXI. CHƯƠNG II Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam Trong những năm gần đây, nhất là từ khi chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nguồn nhân lực ở nước ta đã có nhiều biến đổi cả về số lượng, chất lượng. Về số lượng, có thể nói, nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay đã tăng một cách đáng kể. Dân số trong độ tuổi lao động tăng từ 33,9 triệu người năm 1989 lên gần 44 triệu người hay tăng 2,65%/năm, tạo mức cung lớn về lực lượng lao động. Về chất lượng: chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta đã được cải thiện nhưng nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và sự khác biệt giữa các vùng là rất đáng kể. Cụ thể: 1. Sức khoẻ của NNLViệt Nam: Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, tầm vóc và thể lực của người Việt Nam đang được cải thiện về chiều cao, cân nặng, tỉ lệ suy dinh dưỡng và tuổi thọ; song vẫn kém hơn nhiều so với một số nước trong khu vực và so với yêu cầu về nguồn nhân lực cho giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta hiện nay. Hiện nay nước ta nằm trong số các nước có mức sống thấp trên thế giới (GDP tính theo đầu người khoảng 475USD.). Những công trình nghiên cứu gần đây cho thấy: hiện tại 40% trẻ em dưới 5 tuổi nướ ta bị suy dinh dưỡng, 28% người lớn suy dinh dưỡng. Theo chỉ số cơ thể (BMI), tỷ lệ người lớn gầy ở nước ta chiếm tới 45,27%. Tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ không mang thai lên đến 42%, của phụ nữ mang thai là 52%, tất yếu tác động xấu đến trẻ em, nguồn nhân lực trong tương lai. 30% công nhân, gần 90% trí thức và 100% nông dân không được tổ chức khám và theo dõi sức khoẻ định kì hàng năm. Người lao động hay bị ốm đau, mắc các bệnh mãn tính và dễ mắc bệnh nghề nghiệp, sức khoẻ giảm sút, ngay cả khi tuổi chưa cao. Điều kiện lao động trong nhiều cơ sở sản xuất và các ngành sản xuất, trong một số cơ quan hành chính sự nghiệp của nước ta còn kém, thậm chí có nơi ở mức quá kém, môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng, các yếu tố nguy hiểm và độc hại vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần, tai nạn nghề nghiệp có chiều hướng gia tăng, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân và HTX. Như vậy, nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực nước ta về mặt thể lực sức khoẻ và điều kiện lao động không đảm bảo, chưa đáp ứng được yêu cầu của phương pháp tổ chức và cường độ lao động theo kiểu công nghiệp, rất cần được cải thiện. 2. Đạo đức của NNL: Nói tới nguồn lực con người, không thể bỏ qua phẩm chất đạo đức, nhân cách con người. Trước đây, chúng ta thường hiểu về nguồn nhân lực đơn giản chỉ là sức người với thể lực và trí lực của họ. Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cái đem lại lợi thế cho nguồn nhân lực ngoài thể lực và trí lực con người còn phải tính đến phẩm chất đạo đức, nhân cách con người. Do vậy, việc phát triển nguồn nhân lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế trong điều kiện thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ngoài việc quan tâm thích đáng tới việc nâng cẩoc mặt bằng lẫn đỉnh cao dân trí, tới việc bồi dưỡng và nâng cao sức khoẻ cho mỗi người, cho cả cộng đồng xã hội, chúng ta cần phải đặc biệt coi trọng việc xây dựng đạo đức, nhân cách, đạo đức cho người lao động. Phát triển dân trí, nhân tài, nhân lực phải trên mẫu số chung là nhân cách, đạo đức đem lại cho con người khả năng thực hiện tốt các chức năng xã hội của họ, nâng cao năng lực sáng tạo của họ trong hoạt động thực tiễn xã hội. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước sẽ là một quá trình biến đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế,cơ chế quẩn lý kinh tế, cách thức hoạt động và sinh hoạt của con người... Sự chuyển tiếp các thế hệ, trình độ dân trí ngày càng cao, quá trình dân chủ hoá và đô thị hoá ngày càng diễn ra sâu rộng sẽ làm thay đổi nhiều mặt của đời sống xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sụ thay đổi đố đã và sẽ diễn ra một cách sâu sắc, với tất cả những biến thái của của đua tranh, cạnh tranh, thực tế(và cả thực dụng), chủ yếu xoay quanh 4 vấn đề lớn sau: +Lý tưởng và niềm tin +Đồng tiền và cách làm giàu. +Việc làm và nghề nghiệp. +Truyền thống dân tộc. Ngày nay, việc lựa chọn các giá trị hướng tới lý tưởng của cuộc sống, như niềm tin, sống có mục đích, sáng tạo, giàu sang cũng chỉ đạt tỷ lệ khoảng 45-55%, tức là ở mức trung bình. Trong khi đó, 85.84%số người được hỏi coi đồng tiền là một giá trị xã hội, 87.48% đánh giá học và đi buôn có giá trị ngang nhau. “Một nghề cho chín hơn chín mười nghề” giờ đây dã trở thành lẽ sống của 84.87% những người được hỏi. Song 81,82 % cho rằng tay nghề và chuyên môn cao có mang lại uy tín nhưng vẫn nghèo. Thế hệ trẻ phân hoá về đạo đức, nếp sống khá rõ nét. Một bộ phận tiên tiến tu chí học hành để lập thân, lập nghiệp. Nhưng một số không ít thanh niên trong bộ phận này hầu như ít quan tâm đến vấn đề tư tưởng, chính trị và thiếu hoài bão phục vụ sự nghiệp chung của đất nước và nhân dân. Bộ phận đông nhất trong thanh niên chưa có định hướng rõ về nghề nghiệp, lo lắng về tiền đồ và có xu hướng học để chờ đợi. Một bộ phận thanh niên, chủ yếu là con em các gia đình có điều kiện kinh tế khá giả hoặc có địa vị xã hội thì sống đua đòi theo mốt. Từ giữa năm 1998 lại đây, trong bối cảnh có sự chững lại của đà tăng trưởng kinh tế, sự giảm sút công ăn việc làm và thất nghiệp, nhưng dư luận xã hội nhìn chung vẫn bình tĩnh. Lối sống, đạo đức không có sự xáo trộn hay đảo lộn lớn, tuy nhiên mức độ năng động và khởi sắc đã hạn chế. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải phục hồi được đà tăng trưởng kinh tế cao như các năm 1991-1995 và xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội mới có tính năng động hơn, để tranh đua và cạnh tranh thành công trong bối cảnh toàn cầu hoá, nhằm thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 3. Trình độ văn hoá của NNL Một trong những thành tựu lớn của nước ta thời gian qua là đã nâng cao mặt bằng dân trí của dân cư, số người biết chữ của lao động Việt Nam khá cao so với các nước có cùng mức thu nhập. Đến năm 1999 tỷ lệ lao động biết chữ đạt 96% so với năm 1989 là 84%, sau 10 năm đã tăng 12%. Tỷ lệ mù chữ cũng giảm. So với các nơi trong khu vực, tỷ lệ biết chữ và số năm đi học của Việt Nam vào loại trung bình, nhưng nếu xét đến những khác biệt về điều kiện kinh tế-xã hội thì các mức đó của chúng ta là khá cao, cao hơn so với Xingapo và Trung Quốc, những quốc gia phát triển hơn Việt Nam. -Tỷ lệ đến trường cao, chỉ có 8,4% lực lượng lao động chưa bao giờ đến trường, trong đó thành thị 3,7%, nông thôn 10,2%. -Cơ cấu nguồn nhân lực phân theo bậc học (cấp học) cũng có nhiều chuyển biến đáng kể. Tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học tăng nhanh từ 30,5% và 8,9% (năm 1989) lên 60,51% và 14,14% (năm 1997). Tỷ lệ chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở giảm mạnh từ 46,2% (năm 1989) xuống còn 20,26% (năm 1997). -Cơ cấu lực lượng lao động phân theo bậc học ở nông thôn và thành thị có xu hướng ngày càng hợp lý hơn. Tốc độ biến chuyển cơ cấu tích cực ở khu vực thành thị nhanh hơn nhiều so với khu vực nông thôn. Bảng 1: Cơ cấu trình độ văn hoá của lực lượng lao động. Đơn vị:% 1996 1997 1998 1999 2000 Chưa biết chữ 5,8 5,1 3,8 3,8 4,01 Chưa tốt nghiệp cấp I 20,9 20,3 18,5 18,5 16,48 Đã tốt nghiệp cấpI 27,8 28,1 29,4 29,4 29,29 Đã tốt nghiệp cấpII 32,1 32,4 32,3 32,3 32,99 Đã tốt nghiệp cấp III 13,5 14,1 14,1 14,1 17,23 Nguồn: Vụ lao động Văn xã-Bộ KH&ĐT. Khi so sánh với tình hình của các năm trước (1996, 2000), cơ cấu nguồn nhân lực chia theo trình độ văn hoá tiến triển theo hướng tích cực, biểu hiện rõ rệt là tỷ lệ người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I giảm. Tính chung toàn quốc năm 2000, trong tổng lực lượng lao động thì số người chưa biết chữ chiếm 4,01%, chưa tốt nghiệp cấp I chiếm 16,48%, đã tốt nghiệp cấp I chiếm 29,29%, đã tốt nghiệp cấp II chiếm 32,99%, đã tốtnghiệp cấp III chiếm 17,23%. Trình độ học vấn của lực lượng lao động năm 2000 được nâng cao hơn so với năm 1996 (theo hướng tích cực): tăng tỷ trọng có trình độ học vấn cao (tốt nghiệp cấp II và III), giảm tỷ trọng có học vấn thấp (chưa tốt nghiệp cấp I). Song cơ cấu này chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công cuộc phát triển kinh tế-xã hội hiện nay. Trên 7 vùng lãnh thổ, đồng bằng sông Hồng là vùng có tỷ lệ lực lượng lao động đã tốt nghiệp cấp II và cấp III cao nhất trong cả nước (74,48%), tiếp đến là Bắc Trung Bộ (62,79%), miền núi trung du phía Bắc là 50,35%, Đông Nam Bộ là 40,14%, Tây Nguyên là 35,06% và thấp nhất là đồng bằng sông Cửu Long là 19,62%. Tỷ lệ chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I của lực lượng lao động vùng có tỷ trọng cao nhất là đồng bằng sông Cửu Long 45,38%, Tây Nguyên 34%, Duyên HảI 30,29%. So sánh giữa thành thị và nông thôn, lực lượng lao động ở thành thị có trình độ học vấn cao hơn hẳn so với nông thôn. Lực lượng lao động ở thành thị đã tốt nghiệp cấp II và III chiếm 61,85%, còn tỷ lệ chung của toàn quốc là 46,51%. Tại khu vực nông thôn tỷ lệ này chiếm 42,62%, thấp hơn tỷ lệ chung của toàn quốc là 3,89%. Điều đáng chú ý là tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học của lực lưọng lao động nông thôn rất thấp (9,47%), trong khi đó ở thành thị là 32,57% ( gấp gần 3,5 lần). Thêm vào đó tỷ lệ số người chưa biết chữ trong lực lượng lao động thành thị 12,84% nhưng ở nông thôn tỷ lệ này lên đến 22,14%. Mức chênh lệch về trình độ học vấn của lực lượng lao động ở khu vực thành thị và nông thôn có xu hướng ngày càng lớn. So sánh giữa lực lượng lao động nam và lực lượng lao động nữ với lực lượng lao động nữ chung của cả nước, tỷ lệ chưa tốt nghiệp cấp I chiếm 22,46%, cao hơn tỷ lệ chung của cả nước là 2,2%; tỷ lệ tốt nghiệp cấp II 31,15%, thấp hơn tỷ lệ chung của toàn quốc là 1,22%; tỷ lệ tốt nghiệp cấp III chiếm 12,44%, thấp hơn tỷ lệ toàn quốc là 1,7%, trong khi đó thực trạng học vấn của lực lượng lao động nam tốt hơn. Các tỷ lệ theo các bậc học ở mức tích cực hơn. Tại các vùng, tương quan về trình độ học vấn của lực lượng lao động nữ, lao động nam so với lực lượng lao động nói chung và giữa thành thị so với nông thôn cũng diến ra tương tự như tình hình chung của cả nước. 4. Trình độ chuyên môn kỹ thuật: Bảng 2: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật. Đơn vị: 1000người 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số 35866,2 36296,9 37407,2 3783,8 38643,1 LĐ không có CMKT Tỷ lệ(%) 31452,2 87,69 31837,3 87,71 32431,1 86,69 32542,1 86,12 32560,6 84,49 LĐ có CMKT Tỷ lệ (%) 4414 12,31 4459,6 12,29 4976,1 13,31 5241,7 13,87 5992,4 15,51 CNKT Tỷ lệ(%) 1571,2 4,38 1590,2 4,39 1775,9 4,75 1780,0 4,7 1960,0 5,09 Sơ cấp Tỷ lệ(%) 636,2 1,77 546,4 1,51 544,6 1,46 573 1,45 658,8 1,69 THCN Tỷ lệ(%) 1378,3 3,84 1380,1 3,80 1616,4 4,05 1590 4,21 1870,1 4,84 CĐ, ĐH và trên ĐH Tỷ lệ(%) 828,3 2,31 942,9 3,01 1139,2 3,05 1310 3,46 1503,5 3,89 Nguồn: Thực trạng LĐ-VL 1996-2000. NXB Thống Kê. Nhìn vào bảng 2 ta thấy lao động có CMKT có xu hướng tăng lên, năm 1996 là 4.414.000 người (12,31%) lên 5.992.400 người(15,51%) năm 2000. Trong vòng 4 năm tăng 3,2 % như vậy là quá ít trong khi đó tỷ trọng lao động không có CMKT chiếm hơn 84% trong tổng LLLĐ xã hội. Điều này phần nào phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và công tác đào tạo ở Việt Nam. Trong giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH lực lượng CNKT là vô cùng quan trọng trong khi đó ở nước ta tỷ lệ CNKT còn rất thấp. Năm1996 tỷ lệ này là 4.38%,..,năm2000 là 5,09%, tức là chỉ tăng có 0,71%. Điều này là một khó khăn lớn mà chúng ta từng bước khắc phục. Cơ cấu lao động đã qua đào tạo có trình độ còn chưa hợp lý:Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên /trung học chuyên nghiêp/công nhân kỹ thuật thay đổi từ 1/2,25/7,1 (năm 1979) đến 1/1,68/2,3 năm(1989), 1/1,6/3,6 (năm 1995) và 1/1,31/4,8 (năm 2000) cho thấy rất nhiều CNKT thiếu, đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật và công nhân lành nghề chiếm một tỷ lệ rất thấp. Trong đó tỉ lệ quốc tế hợp lý là 1/4/10. Ngày 1/7/2002 lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 80,38%, còn lại là lao động có qua đào tạo 19,62%. Như vậy cung lao động lớn nhưng chất lượng chưa cao. Trong thời kỳ 1990-2000, với tốc độ tăng đào tạo cấp cao đẳng-đại học trở lên là 3,65%/năm, trung học chuyên nghiệp là 1,45%/năm và CNKT(kể cả ngắn hạn) là 9,5%/năm. Cơ cấu lao động đã qua đào tạo bắt đầu thay đổi nhưng còn chậm và nếu không điều chỉnh mạnh cơ cấu đào tạo thì cơ cấu sẽ có thể bất hợp lý hơn. Đồng thời chất lượng đào tạo thấp và cơ cấu ngành nghề bất hợp lý tất yếu sẽ gây ra những hậu quả xấu. Tỷ lệ thấp nghiệp của lao động đã qua đào tạo đặc biệt là ở cấp cao dẳng, đại học và trên đại học khá cao và tăng nhanh là 1 sự lãng phí rất lớn nguồn nhân lực của xã hội. Đội ngũ các bộ có trình độ đại học và trên đại học giữa các khối ngành khoa học tính theo tỷ lệ của mỗi ngành trong tổng số người tốt nghiệp là: khối KHTN 6,6%(đại học), 33,77%(trên đại học); khối KHKT 25,5%(đại học), 31,62%(trên đại học); khối KHXH 17%(đại học), 21,66%(trên đại học). Lực lượng lao động chủ yếu là lao động cơ bắp, lao động trí tuệ chiếm một tỷ lệ nhỏ, năm 1997 lao động trí tuệ chiếm 7,9%, chân tay chiếm 92,1%. Như vậy nước ta tiến hành CNH-HĐH với sự lạc hậu về KT-CN, với một lực lượng lao động có trình độ CMKT ở mức thấp. Có sự khác biệt lớn về tỷ trọng lao động đã qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong các ngành KTQD và các vùng, chứng tỏ nhiều ngành và vùng còn thiếu lao động đã qua đào tạo. Lao động kỹ thuật tập trung chủ yếu ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, vùng đồng bằng sông Hồng(36,7%) và Đông Nam Bộ(17,1%), nhất là 2 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và Nam Bộ. Các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lực lượng lao động cả nước. Hiện nay mới có 15% tổng số người lao động đã qua đào tạo với cơ cấu trên đại học là 0,3%; đại học và cao đẳng là3,1%; trung học chuyên nghiệp là35,8%; công nhân kỹ thuật là 43,8%. Cơ cấu trình độ của lao động đã qua đào tạo đang làm việc trong các ngành cũng còn bất hợp lý: Mỗi giai đoạn phát triển của công nghệ cần có cơ cấu chất lượng lao động theo các trình độ thích hợp tương ứng. ở giai đoạn từ thủ công lên cơ khí hóa( Việt nam hiện nay), cơ cấu lao động cần có một đại học và bốn trung cấp kỹ thuật tương ứng với 20 công nhân lành nghề, 60 công nhân tay nghề thấp và 15 lao động giản đơn hay ta có tỷ lệ là:1/4/20/60/15. Thực tế Việt Nam ước năm 2000 có tỷ lệ tương ứng là 3,02/3,7/14,55/78, trong đó 14,55 bao gồm cả lao động lành nghề và chưa lành nghề. Sự bất hợp lý của lao động có trình độ cao trong cơ cấu giữa các ngành KHTN, KHKT, KHXH, trong đó lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có tỷ lệ quá nhỏ so với yêu cầu cần có của giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH. Đội ngũ các bộ có trình độ đại học và trên đại học giữa các khối ngành khoa học tính theo tỷ lệ của mỗi ngành trong tổng số người tốt nghiệp là: khối KHTn 6,6%(đại học), 33,77%(trên đại học); khối KHKT 25,5%(đại học), 31,62%(trên đại học); khối KHXH 17%(đại học), 21,66%(trên đại học). Thực trạng của giáo dục và đào tạo ở nước ta trong những năm gần đây còn làm nảy sinh và bộc lộ những mâu thuẫn mới trong nguồn lao động. Đó là mâu thuẫn giữa quy mô đào tạo với chất lượng đào tạo nói chung, giữa chất lượng đào tạo, lĩnh vực đào tạo với yêu cầu lao động trong thực tiễn, giữa cơ cấu đào tạo với cơ cấu lao động cần sử dụng, dẫn đến tình trạng lao động vừa thiếu vừa thừa. Tóm lại chất lượng NNL Việt Nam trong thời gian qua bên cạnh những thuận lợi vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Để giải quyết thực trạng này, chúng ta cần có những giải pháp kịp thời và phù hợp nhằm nâng cao chất lượng NNL thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. CHƯƠNG III GIảI PHáP I Mục tiêu nâng cao chất lượng NNL trong giai đoạn 2001-2010: 1. Mục tiêu chung: Nâng cao chất lượng toàn diện con người Việt nam về đạo đức, ý chí, tri thức, tay nghề, sức khoẻ, thể lực. Sử dụng có hiệu quả đội ngũ lao động hiện có, nhất là số lao động đã qua đào toạ. Nâng tỷ lệ lao động được đào toạ lên gấp 2 lần hiện nay. Hình thành đội ngũ lao động chất lượng cao có cơ cấu và trình độ đáp ứng yêu cầu trong từng bước đi của kế hoạch phát triển KT-XH thời kỳ 2001-2010, chuẩn bị tiền đề về nhân lực cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Giảm hộ nghèo, không còn hộ đói, tăng thêm hộ giàu. Bảo đảm cho toàn dân được đáp ứng nhu cầu cơ bản về ăn mặc, nhà ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, hưởng thụ văn hoá. Thể hiện dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng lối sống lành mạnh, văn minh, gia đình hạnh phúc, bảo dảm an ninh xã hội. 2. Mục tiêu cụ thể: Phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở đô thị, vùng phát triển vào năm 2005 và toàn quốc vào năm 2010, nâng số năm đi học bình quân của người trong độ tuổi lao động lên 9 năm Nâng tỷ lệ người lao động qua đào tạo trong các lĩnh vực KT lên 40-50% trong đó 30-35% cho khu vực nông nghiệp và nông thôn. Phổ cập nghề đơn giản cho 100% thanh niên nông thôn. Hình thành lực lượng lao động có chất lượng ngày càng cao. Xây dựng đội ngũ những người tài. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước, trong lực lượng vũ trang và cơ quan đối ngoại. Tạo việc làm cho 1,5 triệu người/năm. Tăng thêm hộ khá và giàu, không còn hộ đói, giảm về cơ bản số hộ nghèo. Nâng cao sức khoẻ và đời sống vật chất của nhân dân. Nâng mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn XH. Thực hiện dân chủ, công bằng XH. II. Giải pháp nâng cao chất lượng NNL 1. Về sức khoẻ: 1.1 Đối với Nhà nước: -Tăng ngân sách nhà nước đầu tư cho dịch vụ y tế từ mức 5USD/người lên 8USD/người hoặc hơn. Chỉ như vậy, mức chi này mới có thể đảm bảo cung cấp những dịch vụ phòng bệnh và điều trị thiết yếu cho người bệnh. Tăng cường và mở rộng hệ thống bảo hiểm y tế bắt buộc. Tăng cường và mở rộng hệ thống bảo hiểm y tế cộng đồng. Đây là một phần quan trọng của chiến lược tài chính bền vững theo định hướng công bằng cho các dịch vụ y tế. Nhà nước cần giảm mức thu viện phí khi các mô hình thanh toán trước như bảo hiểm y tế đã phát triển, hạn chế hình thức chi trả viện phí trực tiếp(trong trường hợp có thể-những đối tượng đặc biệt) để mở rộng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế của những nhóm đối tượng này. - Tăng cường công tác truyền thông giáo dục về sức khoẻ và dinh dưỡng cho mọi đối tượng trong cộng đồng. 1.2 Đối với cá nhân, gia đình: - Cần trao dồi thêm kiến thức đối với các phụ nữ mang thai và cho con bú, nhằm đề phòng các bệnh còi xương, suy dinh dưỡng, thiếu vitamin và các chất vi lượng. - Tránh sử dụng phân tươi bón cho cây trồng, không lạm dụng các hoá chất, thuốc diệt côn trùng khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền. - Có ý thức bảo vệ môi trường chung ở mọi nơi. -Tăng cường rèn luyện sức khoẻ cá nhân, tập thể dục hàng ngày; có chế độ ăn uống, làm việc hợp lý, khoa học. 2. Về đạo đức: -Giải pháp về mặt thể chế gồm cả “xây” và “chống” . Chúng ta phải xây dựng chuẩn giá trị của con ngưòi Việt Nam, đồng thời xây dựng các khuôn mẫu ứng xử và các thể chế xã hội- văn hoá cho các tầng lớp xã hội lớn, như thanh niên, sinh viên, cám bộ viên chức, nông dân, công nhân... Trên cơ sở đó hình thành qui chế văn hoá trong từng tập thể (hay cộng đồng), như nhà trường, cơ quan, doanh nghiệp. Mặt khác, cần chủ động phòng chống lối sống thực dụng, sự băng hoại đạo đức, sự đảo lộn các thang giá trị xã hội. -Giải pháp giáo dục tập trung vào các chủ đề lẽ sống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, giáo dục lòng nhân ái, tinh thần lao động cần cù, tinh thần dân chủ và tự lập tự cường, hoà nhập khu vực và quốc tế để đứng vững trong xu thế toàn cầu hoá. 3. Về trí lực: Để đạt chất lượng lao động về mặt trí lực theo mục tiêu đã định, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH cần đặt lĩnh vực GD-ĐT lên hàng quan trọng và quyết định nhất. Nền GD-ĐT của Việt Nam đang đứng trước cuộc cách mạng KHCN mới, có nhiều thách thức. Do đó phải cần cải cách nhanh về nhiều mặt để tránh tụt hậu. Cụ thể: 3.1 Các giải pháp chủ yếu phát triển giáo dục phổ thông: Việt Nam phải thực sự coi GDPT là nền tảng vững chắc của xã hội,là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. GDPT phải mang tính thực tiễn và hướng vào các kiến thức cơ bản, các kỹ năng và thao tác ứng dụng kỹ thuật công nghệ. Từ đó, làm cơ sở cho việc đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề và đội ngũ tri thức đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực. 3.1.1Đổi mới mục tiêu đào tạo, chương trình, phương pháp giảng dạy: Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu đào tạo đào tạo của giáo dục phổ thông: từng bước chuẩn bị cho thế hệ trẻ tự tin, sáng tạo bước vào xã hội tương lai trên cơ sở có trình độ học vấn phổ thông, cơ bản, toàn diện và kỹ năng lao động đáp ứng những định hướng phát triển KT-XH, có sức khoẻ, có ý thức bản thân, có trách nhiệm đối với gia đình và xã hội. GDPT có trách nhiệm hoàn chỉnh vốn học vấn và kỹ thuật nghề nghiệp phổ thông, từng bước chuẩn bị một cách tốt nhất cho học sinh tiếp tục học lên đại học, vào trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề hoặc trực tiếp tham gia lao động sản xuất. Đổi mới chương trình: Xây dựng khung chương trình đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp; sát xu thế thời đại song vẫn gắn với cuộc sống cộng đồng tạo khả năng để mọi người có cơ hội phổ cập trung học cơ sở, tiến tới phổ cập trung học; giảm kiến thức lý thuyết, tăng kiến thức thực tế, thực hành, dành thời lượng thích đáng cho môn ngoại ngữ và tin học. Xây dựng các môn học thích hợp: ở giáo dục phổ thông xây dựng các môn học theo phương thức tích hợp ở các mức độ. Mục đích, thời điểm, cách thức, mức độ xây dựng các môn học tích hợp phải phù hợp với khả năng nhận thức, mức độ tri thức cần nắm vững của học sinh ở từng khối lớp cũng như điều kiện bồi dưỡng , đào tạo giáo viên và điều kiện, thiết bị dạy học ở nhà trường trong từng giai đoạn. Biên soạn mới hệ thống sách giáo khoa, tăng cường tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh cập nhật với thực tế. Đổi mới phương pháp dạy học: Phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh. Cần dẹp bỏ tư tưởng truyền đạt tri thức thuần tuý xa rời thực tiễn sang hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh: thầy tổ chức hoạt động giảng dạy để học sinh độc lập tiếp thu tri thức và có khả năng vận dung sáng tạo tri thức vào thực tiễn. Rèn và tạo điều kiên cho học sinh có khả năng biểu đạt vấn đề một cách rõ ràng, lưu loát: Tăng thời gian cho việc trao đổi, tranh luận cũng như việc trình bày vấn đề của học sinh trước tập thể để học sinh không chỉ suy nghĩ tích cực, chủ động, sáng tạo mà còn có khả năng trình bày vấn đề, biểu đạt suy nghĩ...một cách ngắn gọn, dễ hiểu, tự tin. Từng bước tăng cường và nâng cao chất lượng việc sử dụng phương tiện dạy học để nâng cao hiệu quả giờ học, phát triển năng lực thực hành ở học sinh. 3.1.2 Tăng cường đầu tư và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong giáo dục: Đi đôi với việc tăng ngân sách của nhà nước cho GDPT, huy động các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư và đóng góp tiền bạc cho giáo dục, cần đăc biệt chú trọng nâng cao chất lượng quản lý ở các cấp, đào tạo, bồi dưỡng năng lực của người quản lý để nguồn vốn trong GD-ĐT được sử dụng tập trung có hiệu quả vào việc mở rộng và hoàn thiện mạng lưới trường, tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, thực hiện phân hoá dạy học gắn với hướng nghiệp cho học sinh, đổi mới công tác quản lý nhà trường. 3.1.3. Xây dựng đội ngũ giáo viên: Trình độ của đội ngũ giáo viên cần được nâng cao mới có thể đáp ứng yêu cầu HĐH chương trình học tập ở GDPT. Muốn vậy đội ngũ giáo viên phải được bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên qua hệ thống đào tạo tại chức địa phương, đào tạo từ xa nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ. 3.1.4 Đổi mới cơ cấu tổ chức, quản lý GDPT: - Bảo đảm tính hợp lý, đồng bộ trong việc phân cấp quản lý GD-ĐT từ trung ương đến địa phương; đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ thống nhất trong việc tổ chức quản lý giữa trung ương- địa phương và giữa các địa phương. -Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục trung học phổ thông gắn với xu thế thời đại, sát thực tế các trường phổ thông Việt Nam có khả năng thực hiện hiệu quả. Có cơ cấu tổ chức sao cho trường học phải trở thành môi trường tự nhiên của cuộc sống chứ không phải là một thế giới biệt lập, đặc biệt là kết hợp giữa nhà trường với các cơ sản xuất địa phương trong việc thực hiện nguyên lý giáo dục-học tập gắn bó với lao động sản xuất. 3.1.5 Đổi mới quan niệm về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng GDPT: Chất lượng đào tạo của GDPT phải được thể hiện qua chất lượng của các chương trình đào tạo, chất lượng học sinh tốt nghiệp và công tác quản lý trên cơ sở sử dụng hợp lý các nguồn lực một cách có hiệu quả. Suy cho cùng, chất lượng của GDPT phải được thể hiện ở sự chuẩn bị tốt cho việc thích nghi với những điều kiện làm việc thường xuyên thay đổi trong môi trường lao động. 3.2 Các giải pháp chủ yếu phát triển giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học: 3.2.1. Đổi mới tổ chức quản lý giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và GDĐH: Đổi mới quản lý giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học trên cơ sở theo hướng tăng quyền tự chủ cho các trường đại học và chuyên nghiệp đi đôi với tăng cường tính tự chịu trách nhiệm. Kết hợp giữa việc nâng cao tính tự chủ, khả năng xây dựng và quản lý kế hoạch của họ với vai trò giám sát của các cơ quan chức năng và các cơ quan quản lý nhà nước nhằm phát huy tối đa tiềm năng của họ mà vẫn đảm bảo kiểm soát được, đồng thời cần tăng cường vai trò tự chịu trách nhiệm của họ trước sản phẩm đào tạo của mình. 3.2.2 Củng cố mạng lưới các trường đại học và chuyên nghiệp: Về các trường đại học: củng cố các trường đại học nhằm xây dựng một số trung tâm dào tạo chất lượng và uy tín cao dựa trên tiềm năng nổi trội của các cơ sở được lựa chọn. Tổ chức các trường đại học và cao đẳng cộng đồng nhằm mục đích đào tạo nhân lực cho địa phương bằng nguồn lực của địa phương. Về mạng lưới các cơ sở giáo dục kỹ thuật và nghề nghiệp: Hình thành các trường trọng điểm với mục tiêu đào tạo kỹ thuật viên và công nhân kỹ thuật lành nghề cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Các trường này sẽ giữ vai trò nòng cốt của hệ thống các trường công lập bên cạnh việc đa dạng hoá các loại hình đào tạo nghề nghiệp khác. Nó cần đầu tư khoảng 25-30% ngân sách nhà nước chi cho giáo dục nghề nghiệp để có thể ngang tầm với một số trường của các nước trong khu vực. Các loại hình trung tâm dạy nghề: đa dạng hoá các trung tâm dạy nghề để phục vụ cho nhu cầu thực tiễn. 3.2.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy: Xây dựng tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ giảng dạy của một trường đại học, cao đẳng, một khoa, bộ môn về các mặt trình độ, chức danh, cơ cấu tuổi tác, giới tính. Bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ giảng dạy về chuyên môn, sư phạm, năng lực nghiên cứu khoa họcvà các kiến thức về phương tiện khác, đặc biệt cần chú ý bồi dưỡng cán bộ trẻ. Xây dựng các văn bản pháp quy về chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ giảng dạy. Chuẩn hoá đội ngũ giáo viên trung học chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng đảm bảo đa số giáo viên tốt nghiệp cao đẳng sư phạm kỹ thuật, hoặc tốt nghiệp cao đẳng, đại học được bồi dưỡng chươgn trình nghiệp vụ kỹ thuật sư phạm. Chú trọng bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề nghịêp cho giáo viên thực hành, áp dụng phương pháp dạy học tiên tiến vào đào tạo nghề nghiệp. Xây dựng chế độ làm việc, các định mức lao động của cán bộ giảng dạy, chế độ thỉnh giảng, nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng chuyên môn cho giảng viên tién tới quy định trình độ thạc sĩ là bắt buộc cho những cán bộ giảng dạy trực tiếp trên lớp ở bậc đai học. ưu tiên cho cán bộ giảng dạy đi học lấy bằng thạc sĩ. Có chế độ lương và phụ cấp thoả đáng để thu hút sinh viên giỏi ở lại trường làm công tác giảng dạy. Xây dựng cơ chế cho phép đưa ra khỏi đội ngũ cán bộ giảng dạy những người không đủ điều kiện làm công tác giảng dạy. Xúc tiến việc xây dựng chế độ chính sách cho giáo viên để khuyến khích và tạo điều kiện cho họ yên tâm với nghề nghiệp lâu dài. 3.2.4 Tiếp tục đổi mới quy trình, nội dung, phương pháp đào tạo đại học và giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp: Các Hội đồng ngành và Hội đồng môn học giúp các trường rà soát, loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng bảo dảm kiến thức cơ bản, cập nhật với tiến bộ khoa học, công nghệ, tăng cường năng lực lành nghề, năng lực tự học của người học phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, tiến tới hội nhập với chương trình giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học của các nước trong khu vực. Phải xác định lại mục tiêu đào tạo cho các văn bằng sau đại học: thạc sĩ theo khoá học, thạc sĩ nghiên cứu và tiến sĩ. Mục tiêu dào tạo bậc học này là đào tạo chuyên sâu, đào tạo người giỏi và bồi dưỡng nhân tài cho mọi lĩnh vực khoa học. Tập trung vào đào tạo chuyên môn, tiến tới đưa các nội dung về ngoại ngữ, tin học ra ngoài chương trình và coi đó là kiến thức bắt buộc phải thông thạo trước khi tuyển vào bậc đào tạo sau đại học. Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, cần gì học nấy tránh tình trạng ai cũng chạy theo lấy bằng tiến sĩ gây lãng phí tiền của, thời gian và làm giảm chất lượng đào tạo. Nâng cao chất lượng đào tạo phải dựa trên cơ sở tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ giảng dạy, chất lượng sinh viên, cơ sở vật chất, thiết bị và phương tiện dạy học, nhất là tài liệu học tập được thiết kế tốt cho việc học cũng như việc sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực và vật lực sẵn có. Bên cạnh việc kiểm định công nhận, hình thành quỹ bảo đảm chất lượng để khuyến khích các trường cải thiện chất lượng đào tạo của mình. 3.2.5 Đa dạng hoá và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học: Sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học, nghiên cứu cải tiến mô hình phân bổ ngân sách, chuyển từ mô hình hành chính sang mô hình phân bổ trọn gói nhằm khuyến khích các trường nâng cao hiệu quả đào tạo. Tăng cường các cách thức chia sẻ chi phí đào tạo bằng đóng góp cộng đồng, các doanh nghiệp, người sử dụng lao động, người học và tăng cường khả năng của các cơ sở cung cấp giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học phi công lập. 3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế: Đây là một trong những hướng chiến lược để tận dụng nguồn tài chính, cơ sở vật chất, công nghệ cao, chuyên gia giỏi cho công tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đào tạo đại học. Nhà nước cần có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào việc xác định lại mục tiêu đào tạo cho các văn bằng sau đại học: thạc sĩ theo khoá học, thạc sĩ nghiên cứu và tiến sĩ. Khuyến khích cơ sở đào tạo liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo nước ngoài để nhanh chóng hoà nhập, tiếp cận với chuẩn đào tạo khu vực và thế giới cũng như tham gia đào tạo nhân lực cho các nước trong khu vực. Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng NNL. Để thực hiện được những giải pháp này cần có sự quan tâm đầu tư thích đáng của Nhà nước và sự phối hợp thực hiện của các Bộ, ngành và các địa phương. Kết luận Ngày nay, thách thức lớn nhất có tính cơ bản và lâu dài mà quá trình CNH, HĐH đất nước phải đương đầu là cuộc cạnh tranh quốc tế rất quyết liệt về phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt về năng lực trí tuệ của con người và của toàn xã hội nhằm giải quyết thành công những vấn đề đặt ra, cụ thể là quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH-HĐH. Kinh nghiệm của các quốc gia đã CNH cho thấy, không một nền kinh tế phát triển nào bắt đầu tăng trưởng kinh tế nhanh mà trình độ phát triển nguồn nhân lực thấp kém, lại có thể duy trì tỷ lệ tăng trưởng vì phát triển nguồn nhân lực là một yếu tố chiến lược quyết định tốc độ tăng trưởng nhanh, đồng thời là khâu quyết định triển vọng của tiến trình CNH-HĐH đất nước, nhất là xét về trung và dài hạn. Bởi vậy nghiên cứu các yếu tố thuộc về chất lượng nguồn lao động nước ta hiện nay và giải pháp nâng cao chất lượng lao động góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là rất quan trọng và cấp bách trong điều kiện hiện nay của Việt nam. Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển luôn chú trọng hoàn thiện và nâng cao đội ngũ nguồn nhân lực từng bước đáp ứng yêu cầu của CNH-HĐH, đưa đất nước từng bước đi lên vững chắc và lớn mạnh. Tài liệu tham khảo 1. Về phát triển và xây dựng con người thời kỳ CNH-HĐH. Tác giả Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm. NXB Chính trịQuốc gia-2003. 2. Giáo dục, kỹ thuật, nghề nghiệp và phát triển nguồn nhân lực. Tác giả Trần Khánh Đức. NXB GD-2002. 3. Phát triển nhân lực-Công nghệ ưu tiên ở nước ta trong thời kỳ CNH-HĐH. Tác giả Đặng Bá Lâm, Trần Khánh Đức. NXBGD-2002. 4. Một số định hướng đẩy mạnh CNH-HĐH ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Dũng. NXB KHXH-2002 5. Phát triểnNNL của Thanh Hoá đến năm 2010 theo hướng CNH-HĐH. Tiến sĩ Bùi Sĩ Lợi- NXB Chính trị Quốc gia-2002 6. Báo phát triển kinh tế số 145/02 7. Báo LĐ&XH: số 215/03; 197/02; 4/01; 1/01;11/00; 9/00 8. Tạp chí cộng sản: số 27/02; 18/03; 3/00 9. Con số và sự kiện: số3/00 10. Sinh hoạt lý luận: số 6/01; 1/02; 3/01; 2/02; 5/02; 3/03 11. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước. PTS Mai Quốc Chánh- NXB Chính trị Quốc gia- 1999. 12. Lao động việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới. NXB Thế giới-2001. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35498.doc
Tài liệu liên quan