Đề tài Thực trạng chất lượng thẩm định dự án tài chính tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhanh Cầu Giấy

Thay vì việc ngồi chờ khách hàng tìm đến vay vốn tại chi nhánh và sau đó mới đi tìm hiểu thông tin về khách hàng đó, các cán bộ tín dụng nên chủ động tìm đến các doanh nghiệp có uy tín, có tình hình tài chính tốt để tìm hiểu nhu cầu vay vốn của họ, từ đó đưa ra các đề nghị hợp tác có lợi cho cả hai bên. Việc chủ động đi tìm khách hàng giúp cho chi nhánh có thêm cơ hội được lựa chọn khách hàng. Khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sẽ tổ chức hoạt động kế toán tốt hơn, khả năng lập dự án tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định của ngân hàng. - Củng cố cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thẩm định Chi nhánh cần chú ý đến việc đảm bảo cơ sở vật chất đầy đủ cho công tác thẩm định, bao gồm việc nâng cấp tốc độ cũng như tính ổn định của hệ thống máy tính, nâng cấp đường truyền Internet để thuận tiện cho cán bộ tín dụng trong việc tìm hiểu thông tin. Ngoài ra chi nhánh cần trang bị thêm các phần mềm mới phục vụ cho việc tính toán các chỉ số tài chính được nhanh chóng và thuận tiện hơn.

doc81 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 859 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng chất lượng thẩm định dự án tài chính tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhanh Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ sở thì NPV = 5.815,68 triệu đồng , IRR = 21,02%. + Doanh thu giảm 5%, chi phí xây dựng tăng 5% so với phương án cơ sở thì NPV = -962,95 triệu đồng , IRR = 8,83%. Tóm lại: hiệu quả tài chính của dự án ở mức giả định tính toán của phương án cơ sở là khả quan, khả năng chịu đựng đối với chi phí tăng là tương đối. 2.2.2.4. Kết luận và quyết định cho vay. Qua các thẩm định về mặt thị trường, kỹ thuật và tài chính, cán bộ thẩm định kết luận dự án có tính khả thi cao, có khả năng trả nợ cho ngân hàng, chủ đầu tư là một doanh nghiệp lớn, có uy tín và có tình hình tài chính ổn định.Vì vậy, lãnh đạo ngân hàng đã phê duyệt cho vay đối với Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu đô thị mới Phường Hải Yên, thị xã Móng Cái với các chi tiết cụ thể như sau: - Tổng số tiền cho vay : 60 tỷ đồng - Thời hạn cho vay: 5 năm - Thời gian ân hạn gốc, thời hạn ân hạn lãi :24 tháng - Phương thức trả nợ: Đối với lãi, kỳ đầu trả ngay sau khi hết thời gian ân hạn, các kỳ sau trả 3 tháng một lần vào ngày 20-25 hàng tháng, tiền gốc trả 6 tháng một kỳ. - Lãi suất cho vay: 1,10 %/ tháng tại thời điểm ký hợp đồng, lãi suất trên sẽ được điều chỉnh sau 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng. Thời gian của mỗi kỳ điều chỉnh là 6 tháng kể từ ngày ký điều chỉnh lần trước. - Phương thức giải ngân: chuyển khoản, tiền mặt theo tiến độ thực hiện dự án. - Tài sản đảm bảo: đảm bảo bằng toàn bộ tài sản của dự án được hình thành từ vốn tự có và vốn vay (bao gồm cả quyền sử dụng đất). 2.2.3. Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh NHNo & PTNT Cầu Giấy . 2.2.3.1.Thời gian thẩm định. Quy định của NHNo & PTNT Việt Nam thời gian thẩm định đối với các dự án cho vay trung và dài hạn là như sau: - Đối với các dự án trong quyền phán quyết thì thời gian thẩm định là không quá 15 ngày làm việc. - Đối với các dự án vượt quyền phán quyết thì chi nhánh phải trình lên NHNo & PTNT cấp trên trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ vay vốn và ngân hàng cấp trên phải thông báo chấp nhận hoặc không chấp nhận trong thời gian 15 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ trình lên. - Thời gian để tái thẩm định dự án trung và dài hạn không quá 15 ngày. Trên thực tế tại chi nhánh NHNo & PTNT Cầu Giấy, công tác thẩm định được thực hiện theo đúng hạn mức thời gian mà NHNo & PTNT Việt Nam đã đề ra. Các dự án có quy mô nhỏ thường được xem xét trong vòng 7-10 ngày kể từ ngày ngân hàng nhận được hồ sơ. Đối với các dự án có quy mô lớn , thời gian thẩm định thường kéo dài hơn nhưng đa số là không vượt quá thời gian quy định. Một đặc điểm giúp cho công tác thẩm định tại chi nhánh được tiến hành nhanh chóng hơn đó là các khách hàng vay vốn với số lượng lớn của chi nhánh chiếm đa phần là khách hàng truyền thống, có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng. Chính vì vậy, thời gian thẩm định chủ đầu tư được rút ngắn. Nhìn chung, thời gian thẩm định dự án tại chi nhánh là tương đối hợp lý, tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa mức độ hài lòng của khách hàng thì thời gian này cần phải được rút ngắn hơn nữa. 2.2.3.2.Chi phí thẩm định. Để đo lường được chi phí thẩm định là một vấn đề không dễ dàng vì nó bao hàm nhiều nội dung khó mà tính toán được rõ ràng như chi phí tìm kiếm thông tin hay chi phí cơ hội của việc thẩm định dự án. Trên thực tế, tại chi nhánh NHNo & PTNT Cầu Giấy việc tìm kiếm thông tin chủ yếu là do cán bộ tín dụng tự thu thập tích luỹ, phục vụ cho việc thẩm định dự án của mình, việc mua lại thông tin từ các nguồn khác ít khi được thực hiện mà chủ yếu là lấy các thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của NHNo & PTNT Việt Nam cung cấp. Các doanh nghiệp vay vốn chủ yếu là để thực hiện các dự án trên địa bàn Hà Nội, do đó chi phí cho các chuyến đi thực tế của cán bộ tín dụng xuống doanh nghiệp chiếm một tỷ trọng không cao. Như thế có thể tính chi phí thông tin tại chi nhánh chủ yếu thông qua tiền lương trả cho cán bộ tín dụng và chi phí lắp đặt và thuê bao của hệ thống mạng nội bộ LAN và mạng Internet. Tóm lại, chi phí của công tác thẩm định tại chi nhánh tương đối thấp so với mức thu nhập mang lại từ hoạt động tín dụng. 2.2.3.3. Chất lượng của báo cáo thẩm định. Tại NHNo & PTNT Cầu Giấy, báo cáo thẩm định là do nhân viên tín dụng lập, sau đó được trình lên cho trưởng phòng tín dụng xem xét rồi trình lên cho giám đốc chi nhánh ra quyết định. Báo cáo thẩm định mẫu do NHNo & PTNT Việt Nam ban hành gồm có các nội dung chủ yếu sau: - Giới thiệu về dự án đầu tư, giới thiệu về chủ đầu tư, nhu cầu vay của doanh nghiệp - Kết quả thẩm định khách hàng vay vốn, thu nhập dự tính từ khoản vay, kết qua thẩm định dự án đầu tư - Tài sản đảm bảo nợ vay - Kết quả chẩm điểm tín dụng - Kiến nghị của cán bộ tín dụng - Kết luận và đề xuất của trưởng phòng tín dụng - Quyết định của giám đốc chi nhánh Nhìn chung, báo cáo tín dụng của chi nhánh bao gồm tương đối đầy đủ các nội dung trên. Đặc biệt, phần thẩm định về tư cách pháp nhân cũng như tình hình tài chính của khách hàng và hiệu quả tài chính của dự án được trình bày khá chi tiết và cụ thể. Báo cáo cũng bao gồm phương án giải ngân và thu nợ rõ ràng do cán bộ tín dụng đề xuất dựa trên nhu cầu của khách hàng. 2.2.3.4.Chất lượng các quyết định cho vay. Chất lượng các quyết định cho vay nhìn chung còn chưa cao thể hiện qua mức nợ xấu, nợ quá hạn. Trong năm 2006, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là 2%, đến năm 2007, tỷ lệ này đã giảm xuống đáng kể còn 0,67% . Tuy nhiên, sở dĩ tỷ lệ trên giảm mạnh trong năm 2007 là do đây là năm tăng trưởng tín dụng, mức tăng dư nợ đạt tới trên 200%. Nếu xét theo con số tuyệt đối thì mức nợ xấu của năm 2006 là 6.376 triệu đồng còn năm 2007 là 6.260 triệu đồng, tức là không giảm nhiều so với năm trước. Tỷ lệ các nhóm nợ được phân loại trong năm 2007 như sau: Phân loại nợ năm 2007 Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu Số tiền Tỷ lệ % Nhóm 1 856.575 84,67 Nhóm 2 148.783 14,71 Nhóm 3 2.736 0,27 Nhóm 4 262 0,03 Nhóm 5 3.261 0,32 Qua bảng trên, nếu tính cả nợ nhóm 2, tức là nhóm nợ cần chú ý thì tỷ lệ nợ quá hạn sẽ là 15,33% trên tổng dư nợ, đây là một tỷ lệ tương đối cao, đặc biệt là khi năm 2007 có mức dư nợ tăng cao. Điều này có nghĩa là trên 15% các khoản vay đã được thẩm định là có khả năng trả nợ và được phê duyệt cho vay trên thực tế đã không hoàn trả nợ vay theo đúng thời hạn. Như vậy, nếu đánh giá thông qua chỉ tiêu chất lượng các quyết định cho vay thì chất lượng thẩm định tại chi nhánh NHNo & PTNT Cầu Giấy là chưa cao. 2.3. Đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án tại NHNo & PTNT chi nhánh Cầu Giấy. 2.3.1. Một số kết quả đạt được. NHNo & PTNT là một ngân hàng thương mại nhà nước có bề dày hoạt động lâu năm, rất có kinh nghiệm trong hoạt động cho vay. Mặc dù mới được chính thức thành lập không lâu nhưng với các cán bộ tín dụng dày dạn kinh nghiệm được điều chuyển từ các nơi khác đến chi nhánh NHNo & PTNT Cầu Giấy đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong công tác thẩm định tài chính dự án. - Từ chỗ chỉ chú trọng tới thẩm định về mặt tài chính dự án, đến nay chi nhánh đã tiến hành thẩm định dự án một cách toàn diện hơn trên các mặt pháp lý, thị trường, kỹ thuật Các cán bộ tín dụng được yêu cầu theo dõi, nắm vững tình hình chung của nền kinh tế, diễn biến mức giá chung, tốc độ lạm phát,các chính sách phát triển kinh tế vĩ mô của nhà nước. Khi tiến hành cho vay một dự án cụ thể, cán bộ tín dụng đều phải nghiên cứu, đánh giá triển vọng phát triển của ngành, dự báo mức cung cầu, biến động giá cả của sản phẩm từ đó đánh giá một cách chính xác hơn khả năng thành công của dự án. Đồng thời, quy trình phân tích dự án tại NHNo & PTNT Cầu Giấy cũng bao gồm khâu thẩm định về phương án kỹ thuật công nghệ và thiết bị của dự án. - Thời gian thẩm định dự án đã được rút ngắn so với thời gian đầu mới đi vào hoạt động. Từ việc thời gian thẩm định trung bình là 15 ngày, đến nay thời gian này đã rút ngắn xuống trung bình 10 ngày. Đối với các dự án nằm trong diện phải tái thẩm định, công tác này cũng được thực hiện nhanh hơn, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. - Kinh nghiệm và các mối quan hệ mà cán bộ tín dụng của chi nhánh thiết lập được trong quá trình hoạt động đã giúp giảm bớt chi phí tìm kiếm thông tin phục vụ cho hoạt động thẩm định. - Chất lượng các báo cáo thẩm định ngày càng được nâng cao, thể hiện ở sự đầy đủ, rõ ràng về nội dung, hỗ trợ đắc lực cho lãnh đạo chi nhánh trong việc ra quyết định cho vay. 2.3.2. Các hạn chế và nguyên nhân. 2.3.2.1. Các hạn chế: 2.3.2.1.1. Nội dung thẩm định còn nhiều diểm chưa hợp lý. Mặc dù việc thẩm định dự án tại chi nhánh đã được thực hiện trên nhiều nội dung khác nhau, tuy nhiên các nội dung thẩm định thị trường hay thẩm định kỹ thuật thực ra vẫn chỉ mang tính hình thức. Nhiều dự án có các thông số kỹ thuật hoàn toàn xa lạ với các cán bộ thẩm định. Thẩm định về thị trường chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của cán bộ thẩm định chứ chưa có một phương pháp phân tích khoa học, toàn diện. Việc nắm bắt các thông tin về biến động thị trường, cung, cầu, giá cả còn hạn chế. Các nội dung thẩm định doanh thu chi phí còn thực hiện chủ yếu dựa trên kinh nghiệm từ các dự án trước chứ không được phân tích một cách cụ thể về mặt thị trường. Thực tế, các cán bộ tín dụng thường áp dụng kết quả phân tích của các cơ quan có thẩm quyền mà không tính toán lại. Việc thẩm định dòng tiền chủ yếu dựa trên thông tin do chủ đầu tư cung cấp. Các chỉ số đánh giá hiệu quả tài chính mà chi nhánh sử dụng vẫn còn đơn giản, chỉ sử dụng hai chỉ tiêu là NPV và IRR mà không tính toán thêm một số chỉ tiêu khác như PP hay PI. Nội dung phân tích rủi ro còn mang tính máy móc, các tình huống giả định được lặp lại một cách đơn giản. Đối với các dự án, tình huống giả định thường chỉ là doanh thu, chi phí tăng, giảm 2% đến 5% chứ không xét sự thay đổi giá cả thực tế trên thị trường. Khi thực hiện thẩm định dự án ở ví dụ trên, lạm phát 9 tháng đầu năm 2007 đã được dự báo là trên mức 7%, và tiếp tục tăng cao trong thời gian tiếp theo, tuy nhiên, tình huống giả định ở đây chỉ là chi phí tăng lên 5%. Trên thực tế, các giả định này không có ý nghĩa nhiều trong việc làm thay đổi các chỉ tiêu hiệu quả của dự án. 2.3.2.1.2.Khả năng mở rộng thẩm định đối với các dự án ở nhiều ngành nghề lĩnh vực khác nhau còn yếu. Việc mở rộng hoạt động kinh doanh theo hướng cho vay đa ngành nghề đã được NHNo & PTNT VN nói chung và chi nhánh nói riêng thực hiện trong nhiều năm nay. Tuy nhiên, khi hoạt động cho vay ngày càng mở rộng ra thì công tác thẩm định tài chính dự án lại tỏ ra chưa theo kịp với sự thay đổi này. Cán bộ tín dụng của chi nhánh vẫn còn gặp khó khăn trong việc thẩm định các dự án của nhiều lĩnh vực khác nhau. Mặc dù tại chi nhánh có nhiều cán bộ đã làm việc lâu năm nhưng kinh nghiệm thẩm định chủ yếu vẫn là về một số lĩnh vực nhất định. Khi tiếp nhận một hồ sơ vay vốn trong ngành nghề lĩnh vực mới mà chi nhánh chưa thực hiện cho vay nhiều, việc thẩm định vẫn chủ yếu dựa trên đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng 2.3.2.1.3.Thời gian thẩm định các dự án có quy mô lớn thường kéo dài hơn mức cho phép. Thời gian thẩm định trung bình của các dự án tại chi nhánh là tương đối nhanh. Tuy nhiên cán bộ thẩm định thường lúng túng khi xem xét các dự án lớn và các dự án của các khách hàng lần đầu tiên đến vay vốn dẫn đến kéo dài thời gian thẩm định. Ví dụ dự án của Công ty cổ phần Sản xuất Bao bì và hàng xuất khẩu nói trên, công ty bắt đầu gửi hồ sơ vay vốn đến cho ngân hàng vào ngày 26/8/2007 nhưng đến ngày 20/9/2007, nghĩa là phải gần 25 ngày sau ngân hàng mới hoàn thành báo cáo thẩm định. Đây là một dự án có quy mô lớn, số vốn vay lên tới 60 tỷ đồng, sản phẩm của dự án là hạ tầng đất khu đô thị, một mặt hàng có mức giá biến động thường xuyên trên thị trường. Khi thực hiện thẩm định dự án này, các cán bộ tín dụng gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm tra tính hợp pháp của các loại giấy tờ, thẩm định các yếu tố doanh thu chi phí cũng như tính rủi ro của dự án. 2.3.2.1.4 .Báo cáo thẩm định chưa thực sự thể hiện hết các nội dung cần thẩm định. Thứ nhất, nội dung phân tích dự án được trình bày trong báo cáo chủ yếu là các phân tích tài chính chứ chưa bao gồm kết quả của các bước phân tích ngành, phân tích thị trường, phân tích kỹ thuật. Trong báo cáo thường không đưa ra được các đánh giá về triển vọng phát triển của ngành nghề mà đơn vị vay vốn đang hoạt động, đánh giá về thị trường sản phẩm của dự án, hay các nhận định về phương diện kỹ thuật của dự án. Thứ hai, các thông số về doanh thu và chi phí nhiều khi chỉ đơn thuần được nhắc lại từ hồ sơ vay vốn của khách hàng chứ không được trình bày rõ ra là đã thẩm định các thông số này như thế nào, mức độ hợp lý ra sao và ngân hàng đã tiến hành điều chỉnh như thế nào. Thứ ba, báo cáo thẩm định của chi nhánh thường không chú trọng đến một nội dung rất quan trọng đó là việc tính toán thu nhập dự tính từ khoản vay. Thu nhập từ khoản vay là yếu tố hàng đầu mà ngân hàng quan tâm đến khi cho vay. Đây sẽ là một căn cứ quan trọng để so sánh với mức độ rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu. Trong khi đó, trong báo cáo thẩm định lại không ghi rõ ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận bao nhiêu từ việc cho vay dự án, hay các thay đổi của các yếu tố đầu vào sẽ ảnh hưởng như thế nào đến thu nhập của ngân hàng. Điều này sẽ gây khó khăn cho cấp trên khi xem xét và phê duyệt khoản vay. 2.2.3. Nguyên nhân. 2.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan. Do năng lực thẩm định dự án của cán bộ tín dụng còn hạn chế. Cán bộ thẩm định là người trực tiếp xem xét, phân tích, đánh giá về các mặt của dự án để từ đó ngân hàng ra quyết định đầu tư hay không đầu tư. Tuy nhiên, không phải lúc nào cán bộ tín dụng cũng có thể đưa ra được những nhận định xác đáng về khả năng thành công của dự án do không dự tính tới các tác động của các thay đổi trên thị trường. Do tâm lý chủ quan đồng thời mong muốn rút ngắn thời gian thẩm định để nâng cao doanh số cho vay, một số cán bộ thẩm định không thực hiện theo đúng những quy trình chuẩn đặt ra, đặc biệt khi cho vay những khách hàng quen thuộc, quyết định cho vay chỉ dựa vào thông tin trình bày của khách hàng mà không quan tâm đến những số liệu chính xác, đáng tin cậy. Các cán bộ thẩm định tại chi nhánh đều tốt nghiệp từ các trường khối kinh tế nên kiến thức về kỹ thuật, công nghệ rất hạn chế. Do đó, đôi khi thẩm định kỹ thuật, công nghệ bị bỏ qua nhất là với những dự án đã được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Hiện nay chi nhánh chưa có chương trình đào tạo dành riêng cho đội ngũ cán bộ thẩm định. Công tác đào tạo nói chung cũng chưa được thường xuyên và toàn diện. Vẫn chưa có những chính sách cụ thể khuyến khích cán bộ tự nghiên cứu, nâng cao trình độ. - Do hạn chế từ khâu tổ chức công tác thẩm định Việc cán bộ tín dụng vừa tiếp xúc trực tiếp với khách hàng vừa kiêm nhiệm công tác thẩm định mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng cũng có nhiều hạn chế. Công tác thẩm định có thể không khách quan do chịu tác động từ các mối quan hệ chủ quan của cán bộ tín dụng và người vay vốn. Cán bộ tín dụng phải kiêm nhiệm một lúc nhiều việc nên sẽ không có thời gian để tập trung nghiên cứu nâng cao trình độ thẩm định của mình. Việc thẩm định pháp lý và kỹ thuật nhiều khi còn chưa được coi trọng đúng mức, còn mang tính hình thức dẫn đến việc thiếu chính xác trong đánh giá tính khả thi của dự án, gây ra những rủi ro không lường trước được. - Công tác thu thập và xử lý thông tin chưa hoàn chỉnh Đây là vấn đề rất quan trọng trong hoạt động thẩm định dự án. Tuy nhiên, chi nhánh vẫn đang trong tình trạng thiếu các thông tin cụ thể về tình hình kinh tế của từng ngành, từng vùng. Ngân hàng chưa xây dựng được một hệ thống thông tin chung để làm cơ sở cho hoạt động thẩm định mà chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và hiểu biết của từng cá nhân cán bộ tín dụng. Việc mua thông tin, tổ chức phân tích, dự báo thông tin theo mặt hàng, ngành trong lĩnh vực kinh tế thực hiện không thường xuyên. Giữa các cán bộ tín dụng chưa có sự trao đổi thông tin, thông tin thu được nhiều khi thiếu chính xác thiếu cập nhật dẫn đến việc dự tính các số liệu dự án không sát với thực tế. Điều này dẫn đến hiệu quả thực tế của dự án thấp hơn nhiều so với tính toán, do đó khả năng trả nợ không đảm bảo, gây ra tổn thất cho ngân hàng và giảm bớt năng lực của cán bộ thẩm định. - Cơ sở vật chất phục vụ công tác thẩm định còn chưa đầy đủ Cùng với các ngân hàng trong hệ thống NHNo & PTNT VN, hiện nay chi nhánh đang thực hiện chương trình hiện đại hóa ngân hàng, nâng cấp hệ thống máy tính, mạng Internet, mạng nội bộ tạo điều kiện cho việc phát triển sản phẩm dịch vụ mới. Tuy nhiên, vẫn chưa có một chương tình phần mềm riêng phục vụ công tác thẩm định mà cán bộ tín dụng vẫn phải sử dụng chương trình Excel trên máy tính để tự tính toán, mất nhiều thời gian mà mức độ chính xác chỉ đạt tương đối. 2.3.2.2.2 Nguyên nhân khách quan - Nguyên nhân từ phía chủ đầu tư ảnh hưởng đến chất lượng hồ sơ vay vốn Trong hoạt động thẩm định, ngân hàng dựa rất nhiều vào các tài liệu do chủ đầu tư cung cấp. Tuy nhiên, do trình độ lập dự án của chủ đầu tư còn hạn chế nên dẫn đến các dự toán sai lệch về các chỉ tiêu tài chính của dự án như doanh thu, chi phí Do đó, gây khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc thi thập thông tin, xác định chính xác các nội dung cần phân tích. Công tác kế toán tại doanh nghiệp vay vốn có thể thực hiện chưa nghiêm túc dẫn đến báo cáo tài chính không phản ánh đứng tình hình tài chính của doanh nghiệp, gây khó khăn cho việc thẩm định của ngân hàng. Trong nhiều trường hợp, chủ đầu tư còn sử dụng tài liệu, giấy tờ giả, hoặc cố ý tính toán sai lệch các thông số của dự án để xin vay vốn ngân hàng. Các cán bộ thẩm định chưa có kinh nghiệm sẽ khó mà nhận biết được những điểm bất thường trong tính toán của dự án. - Nguyên nhân từ môi trường pháp lý Hệ thống pháp luật trong nước còn sự thiếu đồng bộ, nhất quán, còn nhiều bất cập, chưa tạo điều kiện cho các ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Các văn bản pháp lý, chế độ, chính sách qui định về nghiệp vụ ngân hàng được ban hành và thay đổi thường xuyên đã này gây khó khăn cho cán bộ thẩm định khi cập nhật các chế độ, chính sách và thực hiện xử lý các thông tin, số liệu theo đúng yêu cầu của các văn bản pháp luật. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước cũng chưa ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể cho công tác thẩm định dự án. - Nguyên nhân từ sự biến động của nền kinh tế Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển với tốc độ tăng trưởng cao nhưng đi kèm với nó là tỷ lệ lạm phát cao. Giá cả các mặt hàng thường xuyên biến động, chịu ảnh hưởng của giá cả trên thị trường thế giới. Các thị trường quan trọng như thị trường vật liệu xây dựng, thị trường nguyên nhiên liệu, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản thường xuyên biến động. Điều này gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc dự báo các biến động của thị trường, mức cung, cầu và giá cả. Đây là những thông số hết sức quan trọng trong thẩm định tài chính, giúp dự báo doanh thu và chi phí của dự án, lựa chọn lãi suất chiết khấu. - Nguyên nhân từ sự yếu kém của hệ thống thông tin trong nước Nhà nước chưa có một cơ quan chuyên trách trong việc thu thập, cung cấp thông tin cần thiết cho các đối tượng trong nền kinh tế. Các ngân hàng phải chủ động tìm kiếm thông tin cho hoạt động của mình. Sự phát triển của thị trường chứng khoán trong mấy năm gần đây đã góp phần nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin thông qua việc công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết. Tuy nhiên, hiện nay số lượng các doanh nghiệp niêm yết cũng chỉ chiếm một phần khiêm tốn trong tổng số các doanh nghiệp trong nước, do đó chi nhánh vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin . CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI NHNo & PTNT CẦU GIẤY 3.1 Định hướng và mục tiêu của công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNo & PTNT Cầu Giấy 3.1.1 Định hướng và mục tiêu phát triển của hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT Cầu Giấy Tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2007, trong năm 2008, NHNo & PTNN chi nhánh Cầu Giấy đề ra mục tiêu tăng trưởng ở mức cao, đồng thời gắn tăng trưởng về doanh số với việc đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng cũng như an toàn của khách hàng, nâng cao hiệu quả các dịch vụ của ngân hàng để mang lại cho khách hàng sự thoả mãn tối ưu và đưa về lợi nhuận cao cho ngân hàng. Chi nhánh đặt mục tiêu nâng tổng nguồn vốn đến 31/12/2008 là 2400 tỷ, tăng 518,5 tỷ so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng là 30%. Đối với hoạt động tín dụng, chi nhánh đề ra một số chỉ tiêu cụ thể như sau: Tổng dư nợ đến 31/12/2008 là 1620 tỷ, tăng 609 tỷ so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng là 60% Nợ xấu từ nhóm 3 đến nhóm 5 chiếm không quá 3% tổng dư nợ Nâng tỷ lệ cho vay trung và dài hạn lên mức 55% trên tổng dư nợ Định hướng hoạt động tín dụng trong năm 2008 bao gồm các nội dung chính : - Tăng trưởng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng kiểm soát và quản lý tín dụng. Song song với việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng hoạt động cho vay, chi nhánh sẽ tiến hành thắt chặt việc kiểm soát và quản lý các khoản vay để có thể giảm thiểu các rủi ro, nâng cao chất lượng cho vay. - Mở rộng hình thức cho vay đồng tài trợ các dự án lớn với các ngân hàng khác. - Mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ sản xuất kinh doanh hoạt động có hiệu quả, có tài sản đảm bảo. - Nâng cao tỷ lệ cho vay tại các phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh. 3.1.2 Định hướng và mục tiêu phát triển của công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNo & PTNT Cầu Giấy. Theo sát các định hướng và mục tiêu phát triển của hoạt động tín dụng, công tác thẩm định tài chính dự án trong thời gian tới tại chi nhánh sẽ phát triển theo định hướng và mục tiêu sau: Tăng cường tính chặt chẽ và chuẩn xác trong hoạt động thẩm định tín dụng. Cụ thể, chi nhánh sẽ thực hiện các biện pháp thắt chặt như yêu cầu nhân viên thực hiện nghiêm túc quy trình thẩm định tín dụng do NHNo & PTNT Việt Nam đề ra. Thực hiện đầy đủ công tác tái thẩm định đối với các dự án có mức vốn đầu tư lớn. Mở rộng việc nghiên cứu, tìm hiểu thông tin để có thể tiến hành thẩm định các dự án trong các ngành nghề lĩnh vực mới, các dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các dự án có quy mô lớn Mục tiêu của công tác thẩm định trong thời gian tới: Nâng cao tính chính xác của công tác thẩm định để làm căn cứ ra quyết định cho vay, giảm tỷ lệ nợ xấu của các dự án vay vốn Tiếp tục giữ vững mức thời gian thẩm định trung bình của mỗi dự án là 10 ngày Hoàn thiện báo cáo thẩm định theo hướng chi tiết hơn nữa để thuận lợi cho việc nghiên cứu, theo dõi cũng như phê duyệt của cấp trên. 3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại NHNo & PTNT Cầu Giấy 3.2.1 Hoàn thiện quy trình và nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư Nội dung và phương pháp thẩm định là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định mức độ chính xác của kết quả thẩm định. Thẩm định những chỉ tiêu gì và thẩm định như thế nào để có thể đưa ra được cái nhìn đúng đắn nhất về hiệu quả tài chính của dự án. Trên thực tế, các nội dung cơ bản của công tác thẩm định đã được chi nhánh thực hiện, tuy nhiên, trong quá trình thẩm định cần phải chú ý đến những điểm sau đây: * Về việc thẩm định tổng vốn đầu tư, cơ cấu sử dụng vốn của dự án: Trong quá trình lập dự án, có hai xu hướng gây ra sai lệch về tổng vốn đầu tư. Một là dự tính mức vốn này thấp xuống để tăng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả nhằm thuyết phục các cơ quan cấp phép và ra quyết định đầu tư, hai là dự tính cao lên để có thể vay được nhiều vốn của ngân hàng. Chính vì vậy, khi xem xét về tổng vốn đầu tư và cơ cấu sử dụng vốn, cán bộ tín dụng cần phải rất chú ý đến các khoản mục cấu thành trong tổng vốn đầu tư, xem xét xem có khoản mục nào bị bỏ sót hay không, đồng thời, thực hiện việc so sánh tỷ lệ vốn đầu tư giữa các hạng mục với các dự án cùng loại trước đó để tìm ra điểm bất hợp lý. Trên thực tế, khi dự án đi vào hoạt động thường thì mức vốn thực tế sẽ cao hơn mức vốn dự tính. Một là do giá cả tăng dẫn đến các khoản chi phí tăng lên, hai là do phát sinh thêm nhiều khoản chi phí phụ khác mà khi lập dự án, người ta thường không thể nào dự tính hết được. Việc đưa thêm phần vốn dự phòng vào tổng vốn đầu tư là một biện pháp rất hiệu quả để hạn chế điều này. Tuy nhiên, các doanh nghiệp khi làm hồ sơ xin vay thường không đưa khoản mục này vào tổng vốn đầu tư. Vì vậy, ngân hàng khi thẩm định cần chủ động đưa khoản mục này vào tính toán để có thể đưa ra những đánh giá chính xác hơn. Cán bộ tín dụng nên xem xét định mức của từng ngành để chọn một tỷ lệ hợp lý giữa mức vốn dự phòng và tổng vốn đầu tư. *Về doanh thu, chi phí dự kiến của dự án: Doanh thu và chi phí là hai nội dung rất quan trọng trong hoạt động thẩm định dự án. Những sai sót trong việc phân tích doanh thu và chi phí sẽ dẫn đến sai lầm trong việc tính toán dòng tiền và tiếp đó là hiệu quả tài chính của dự án. Mặc dù vậy, việc dự đoán đúng doanh thu và chi phí của dự án là một vấn đề không đơn giản vì nó liên quan đến rất nhiều yếu tố khác nhau. Khi phân tích doanh thu, không thể chỉ xem xét sản lượng dựa trên công suất thiết kế của dự án mà cái mang lại doanh thu ở đây là lượng sản phẩm sẽ được tiêu thụ trên thị trường. Nghĩa là cán bộ thẩm định sẽ vừa phải xem xét các yếu tố kỹ thuật để dự tính được sản lượng sản xuất ra được sẽ là bao nhiêu, lại vừa phải xem xét các yếu tố về mặt thị trường, cung, cầu, các sản phẩm cạnh tranh để tính toán lượng sản phẩm sẽ được tiêu thụ. Tương tự, cán bộ thẩm định cũng phải nghiên cứu thị trường để đánh giá những sự biến động có thể có của mức giá của sản phẩm. Từ những phân tích của mình, cán bộ tín dụng đưa ra mức doanh thu dự báo cho từng năm. Phân tích chi phí thường rất phức tạp vì nó bao gồm nhiều khoản mục. Đặc biệt là với một dự án có quy mô lớn thì ngoài các khoản chi phí lớn sẽ có rất nhiều khoản chi phí khác, tuy nhỏ nhưng nếu nhiều khoản như vậy không được xem xét đến sẽ gây sai lệch rất lớn. Vì vậy, khi thẩm định cán bộ tín dụng cần chú ý rà soát kỹ để đảm bảo không bỏ sót các khoản chi phí đó. Một thực tế khi phân tích doanh thu và chi phí đó là, trong quá trình tính toán, chủ đầu tư thường giả định mức doanh thu và chi phí không đổi qua các năm, trong khi trên thực tế, do sự biến động của giá cả thị trường, hai chỉ tiêu này thay đổi hàng năm. Các nhà đầu tư tính toán dựa trên giả thiết mức tăng và giảm của doanh thu và chi phí qua các năm sẽ triệt tiêu cho nhau. Tuy nhiên, điều này thường không đúng, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, tỷ lệ lạm phát tăng dần qua các năm. Chính vì vậy, khi phân tích, cán bộ tín dụng cần phải tính đến những sự thay đổi này. *Các chỉ tiêu tài chính của dự án: Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án như NPV, IRR, PP hay PI thì các yếu tố quan trọng nhất đó là tính toán dòng tiền của dự án và lựa chọn lãi suất chiết khấu. Khi phân tích dòng tiền cần chú ý đến các dòng tiền đặc biệt như chi phí chìm và chi phí cơ hội. Trên thực tế, các chi phí này thường không được chủ dự án đề cập đến khi lập hồ sơ xin vay vốn và cán bộ tín dụng cũng khó mà tìm hiểu được. Vì vậy, cán bộ tín dụng khi nhận hồ sơ nên lưu ý điểm này để nhắc nhở khách hàng bổ sung các nội dung này. Ngoài ra còn phải tính toán đến nguồn vốn lưu động ròng thu hồi vào năm cuối của dự án và các dòng tiền do thanh lý hay nhượng bán các tài sản cố định. Khi tính toán NPV hay IRR, các chỉ tiêu đầu vào như doanh thu chi phí nên được xem xét đến với mức lạm phát qua hàng năm. Nên áp dụng các tỷ lệ lạm phát thực tế khác nhau cho các mặt hàng khác nhau chứ không nên áp dụng một mức lạm phát chung vì như thế sẽ không chính xác. Ví dụ, tỷ lệ lạm phát là 12% nếu dự tính là tổng chi phí của một dự án tăng 12% thì chưa chính xác, mà còn tuỳ thuộc vào bản thân các khoản mục chi phí của dự án. Chẳng hạn, trong mức tăng chung là 12% thì chi phí xây dựng tăng tới hơn 20%, như vậy, nếu một dự án thực hiện trong lĩnh vực xây dựng thì mức độ tăng chi phí của nó không chỉ là 12% mà phải gần 20% mới là chính xác. Việc xác định mức lãi suất chiết khấu nào cũng là một điều rất quan trọng. Việc lấy lãi suất cho vay làm lãi suất chiết khấu chưa hẳn đã hợp lý. Hơn thế nữa, việc tính toán bây giờ chủ yếu là dựa trên một lãi suất chiết khấu cố định áp dụng cho toàn bộ thời gian của dự án. Khi đó, lãi suất chiết khấu sẽ không phản ánh đúng ý nghĩa ban đầu của nó là lãi suất sinh lời bình quân của nền kinh tế vì thực tế mức lãi suất này thay đổi qua hàng năm. Việc tính toán các chỉ tiêu này thực tế là không khó khăn khi đã có các yếu tố đầu vào giả định. Tuy nhiên, từ việc tính toán ra các chỉ tiêu đến việc đưa ra các nhận xét đánh giá tổng hợp về dự án cũng đòi hỏi người cán bộ phải có kinh nghiệm. Cần phải có sự kết hợp từ các chỉ tiêu khác nhau để dẫn đến kết luận về dự án. *Thẩm định mức rủi ro của dự án : Để thẩm định mức độ rủi ro của dự án Ngân hàng thường sử dụng phương pháp chính là phương pháp tính độ nhạy. Một điểm cần chú ý khi phân tích độ nhạy đó là xây dựng các phương án giả định phù hợp. Không nên áp dụng một cách máy móc một số giả định nào đó mà giả định đó phải được xây dựng dựa trên mức độ biến động thực tế của thị trường. Bên cạnh đó việc thẩm định rủi ro không nên chỉ dừng lại ở việc xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêu hiệu quả mà còn phải xem xét đến các tác động của những rủi ro đó tới khả năng trả nợ của dự án, tới thu nhập của ngân hàng từ việc cho vay đối với dự án đó. Đó mới chính là mục đích cuối cùng của công tác thẩm định rủi ro. Ngoài ra, để nâng cao tính chính xác ngân hàng nên sử dụng thêm các phương pháp khác như phân tích NPV kỳ vọng (phân tích kịch bản, mô phỏng Monte Carlo), điều chỉnh hệ số chiết khấu, và so sánh các kết quả thu được từ các phương pháp phân tích khác nhau để đưa ra kết luận cuối cùng. Khi phân tích kịch bản, ngân hàng nên đề nghị khách hàng đưa ra những tình huống lạc quan nhất và tình huống bi quan nhất để xem xét, từ đó có thể đánh giá được phạm vi rủi ro mà ngân hàng có thể phải gánh chịu 3.2.2 Hoàn thiện công tác tổ chức điều hành hoạt động thẩm định dự án Như đã phân tích ở phần hạn chế và nguyên nhân, mô hình tín dụng mà chi nhánh đang áp dụng hiện nay là mô hình cán bộ tín dụng đảm nhiệm luôn công tác thẩm định vẫn còn nhiều điểm bất cập. Hiện nay, một số ngân hàng đã áp dụng một mô hình thẩm định mới đó là mô hình tách riêng thẩm định thành một bộ phận riêng biệt. Theo mô hình này cán bộ tín dụng sẽ phụ trách việc tìm kiếm, tiếp xúc với khách hàng, tiếp nhận hồ sơ và bàn giao lại cho phòng thẩm định. Phòng thẩm định sau khi tiến hành công việc phân tích kinh tế kỹ thuật của dự án sẽ thông báo kết quả cho phòng tín dụng để ra xem xét, ra quyết định cho vay. Mô hình này giúp khắc phục được một số nhược điểm của mô hình truyền thống. Đó là, nâng cao tính chuyên môn hoá của công tác thẩm định, thay vì phải ôm đồm nhiều công việc một lúc, cán bộ thẩm định sẽ có nhiều thời gian hơn để tập trung trau dồi các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho việc thẩm định. Đồng thời, kết quả thẩm định cũng sẽ mang tính khách quan hơn, do cán bộ thẩm định không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, tránh được các rủi ro về đạo đức khi người thẩm định cấu kết với khách hàng, cố ý làm sai lệch kết quả Tuy nhiên, việc áp dụng mô hình này lại nảy sinh nhiều bất cập mới. Thứ nhất, việc cán bộ thẩm định chỉ làm việc dựa trên các giấy tờ được cung cấp mà không được tiếp xúc với khách hàng sẽ làm hạn chế phần nào chất lượng thẩm định. Bởi vì, đối với công tác thẩm định, việc tiếp xúc với khách hàng là rất quan trọng trong việc đưa ra những nhận xét trực quan, thực tế về tình hình, khả năng tài chính của khách hàng, mức độ trung thực, đáng tin cậy của các số liệu được cung cấp cũng như khả năng tổ chức quản lý của khách hàng, hay chính là chủ đầu tư của dự án. Vấn đề thứ hai đó là việc phân định trách nhiệm và quyền hạn giữa phòng tín dụng và phòng thẩm định. Mô hình này được áp dụng theo hướng cán bộ thẩm định chỉ làm nhiệm vụ thẩm định chứ không ra quyết định đối với món vay. Tuy nhiên, khi có rủi ro xảy ra thì người cán bộ thẩm định lại phải chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định của mình. Mô hình này chưa chắc đã giúp hạn chế được các rủi ro đạo đức vì cán bộ tín dụng có thể thông đồng với khách hàng lập các hồ sơ giả mạo để qua mắt cán bộ thẩm định, khi biết rằng trách nhiệm của họ đối với các rủi ro xảy ra sẽ được san sẻ một phần cho cán bộ thẩm định. Ngoài ra, giữa nhận định của cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định nhiều khi có những mâu thuẫn với nhau. Như vậy, mô hình tách riêng phòng thẩm định chưa hẳn đã là một sự thay thế tốt cho mô hình hiện nay ngân hàng đang sử dụng. Chính vì thế, chi nhánh nên giữ nguyên mô hình tổ chức thẩm định của mình và bổ sung vào đó những điểm mới để có thể hạn chế bớt những nhược điểm của nó. Một số điểm có thể bổ sung bao gồm: - Thắt chặt và tăng cường việc xét duyệt của lãnh đạo đối với các báo cáo thẩm định của cán bộ tín dụng. Để hạn chế sai sót xảy ra do các yếu tố chủ quan từ phía cán bộ tín dụng, ngân hàng cần chú ý đến công tác xét duyệt báo cáo thẩm định, thông qua việc xét duyệt để tìm ra các sai sót trong quá trình thẩm định của nhân viên. Việc xét duyệt thường được thực hiện qua hai bước đó là trưởng phòng tín dụng và giám đốc chi nhánh, tuy nhiên giám đốc chi nhánh thường không có chuyên môn sâu về nghiệp vụ thẩm định và không có nhiều thời gian để xem xét kỹ báo cáo thẩm định. Do đó, khâu xét duyệt quan trọng hơn vẫn nằm ở phòng tín dụng, mà cụ thể ở đây là nhiệm vụ của trưởng phòng tín dụng. Để nâng cao hiệu quả của công tác này nên phân công một cán bộ làm trợ lý cho trưởng phòng tín dụng trong việc xét duyệt các dự án đã qua thẩm định. Cán bộ này sẽ đóng vai trò hỗ trợ cho trưởng phòng tín dụng bằng cách đưa ra các đánh giá về báo cáo tín dụng đã được lập. Để làm tốt công việc này, đòi hỏi người cán bộ đó phải là người có năng lực trình độ cao và kinh nghiệm lâu năm trong công tác. Như thế sẽ giúp cho quá trình xét duyệt của trưởng phòng tín dụng được thực hiện nhanh hơn với chất lượng cao hơn. - Chuyên môn hoá theo lĩnh vực đối với các cán bộ tín dụng Cán bộ tín dụng do phải thực hiện nhiều công việc một lúc và thẩm định nhiều dự án khác nhau nên thường không có chuyên môn sâu về một lĩnh vực cụ thể. Để hạn chế điều này, trong phòng tín dụng nên có sự phân công các cán bộ tín dụng thành từng nhóm nhỏ phụ trách các lĩnh vực khác nhau như cán bộ chuyên cho vay đối với các dự án xây dựng, chuyên cho vay đối với các dự án thương mại hay các dự án sản xuấtViệc phân công như vậy sẽ giúp cán bộ tín dụng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong một ngành nghề lĩnh vực nhất định, từ đó nâng cao khả năng dự báo về triển vọng ngành, biến động của cung, cầu, giá cả, xây dựng được các mối quan hệ với lâu dài với khách hàng. Việc phân nhóm này đồng thời cũng giúp trưởng phòng quản lý tốt hơn nhân viên của mình. Các thành viên trong cùng một nhóm vừa giúp đỡ hỗ trợ nhau về mặt thông tin và các kỹ thuật nghiệp vụ lại vừa có thể theo dõi giám sát lẫn nhau để có thể hạn chế được các sai sót, rủi ro xảy ra. 3.2.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đội ngũ cán bộ tín dụng là nguồn lực quan trọng giúp nâng cao hiệu quả thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh. Để có thể làm tốt công việc của mình, đòi hỏi các cán bộ tín dụng không chỉ phải có trình độ về thẩm định tài chính mà còn phải có hiểu biết, có kiến thức về nhiều mặt của nền kinh tế. Đồng thời , người cán bộ tín dụng phải luôn giữ vững đạo đức nghề nghiệp, khách quan khi thẩm định. Để có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ đủ tiêu chuẩn và đồng đều, chi nhánh có thể thực hiện một số biện pháp như sau: - Tổ chức thường xuyên các hoạt động đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên. Các hình thức tổ chức bao gồm các lớp học, các buổi tập huấn, buổi thuyết trình, các buổi thảo luận. Trên thực tế, chi nhánh thường không có đủ kinh phí để tổ chức các lớp học mời chuyên gia đến giảng dạy. Thay vào đó, chi nhánh có thể gửi các cán bộ giỏi của mình theo học các lớp bồi dưỡng do NHNo & PTNT Việt Nam tổ chức. Các cán bộ này sẽ có nhiệm vụ truyền đạt lại kiến thức cho những người khác ở trong phòng. Khi có các văn bản mới do Ngân hàng Nhà nước hoặc NHNo & PTNT Việt Nam ban hành, chi nhánh nên tổ chức các buổi thảo luận, nghiên cứu và giải đáp thắc mắc cho nhân viên. Ngoài ra, chi nhánh cũng nên thường xuyên cập nhật các văn bản, tài liệu có liên quan không chỉ về công tác thẩm định mà còn về các ngành nghề khác trong nền kinh tế để nhân viên tiện cho việc tham khảo và nghiên cứu. - Khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng học tập, đào tạo, nâng cao trình độ và năng lực bản thân. Ví dụ như sắp xếp thời gian hoặc hỗ trợ một phần kinh phí giúp nhân viến tiếp tục theo học các khoá học sau đại học lấy bằng thạc sĩ, tiến sỹ hoặc các khóa học về tin học, ngoại ngữ ,và các loại chứng chỉ khác. Để khuyến khích và tạo động lực cho cán bộ nhân viên học tập, chi nhánh nên đặt ra các yêu cầu đối với nhân viên của mình, ví dụ như yêu cầu các nhân viên phải hoàn thành các chứng chỉ ngoại ngữ hay tin học trong một thời hạn nhất định nào đó. - Có biện pháp đánh giá trình độ cán bộ tín dụng Việc hiểu, đánh giá đúng năng lực trình độ của cán bộ nhân viên là một điều rất quan trọng trong công tác quản lý. Vì vậy, chi nhánh cần có biện pháp để thực hiện việc này. Năng lực trình độ của một cán bộ tín dụng có thể được đánh giá qua các yếu tố như thời gian để thẩm định một dự án, mức độ chuẩn xác của kết quả thẩm định, chất lượng các báo cáo do nhân viên đó thực hiện, xem xét xem các dự án do nhân viên đó thẩm định có tỷ lệ trả nợ đúng hạn là bao nhiêu. Tất nhiên, các thông số trên chỉ thể hiện một phần nào năng lực của người cán bộ tín dụng, để đánh giá được đúng khả năng của nhân viên thì trưởng phòng tín dụng và các cấp lãnh đạo phải đi sâu đi sát công việc thực tế, theo dõi công việc của nhân viên trong một thời gian dài. Từ việc hiểu đúng trình độ cán bộ, chi nhánh mới có thể thực hiện việc phân công công việc hợp lý, phù hợp với năng lực của từng người. Đối với các cán bộ chưa nắm vững về nghiệp vụ cần có kế hoạch bồi dưỡng hoặc có thể chuyển họ sang công tác ở các vị trí thích hợp hơn. Bên cạnh đó lãnh đạo các phòng ban nên chú ý lựa chọn và đề bạt những cán bộ có năng lực, có mục tiêu phấn đấu, có ý thức trách nhiệm cao trong công việc lên những vị trí cao hơn. Xây dựng một chính sách đãi ngộ thoả đáng và công bằng Cán bộ tín dụng khi làm việc thường phải tiếp xúc với nhiều đối tượng khách hàng phức tạp và đôi khi phải đối diện với nhiều cám dỗ. Để nhân viên luôn trung thực và khách quan trong khi làm việc, ngân hàng cần có mức đãi ngộ thoả đáng về lợi ích vật chất cũng như các cơ hội thăng tiến. Đối với những cán bộ đạt thành tích cao trong công việc cần có biện pháp khen thưởng kịp thời để khuyến khích, động viên họ hoàn thành tốt hơn nữa công việc được giao. Bên cạnh đó phải có biện pháp xử lý đối với những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm đồng thời, phát hiện và uốn nắn kịp thời những nhận thức sai lầm, dao động về tư tưởng, ngăn ngừa các biểu hiện sa sút về phẩm chất của cán bộ nhân viên, xử lý nghiêm minh những hành vi tiêu cực. 3.2.4 Hoàn thiện chất lượng công tác thu thập thông tin Thông tin là nguồn dữ liệu cho công tác thẩm định công tác thẩm định, chính vì vậy, chất lượng của thông tin quyết định chất lượng thẩm định. Để nâng cao hiệu quả công tác thu thập thông tin, chi nhánh nên thực hiện một số biện pháp như sau: - Đa dạng hoá các nguồn cung cấp thông tin Ngoài các hồ sơ, tài liệu mà khách hàng gửi đến, cán bộ tín dụng nên có sự tiếp xúc thường xuyên với doanh nghiệp để tự tìm hiểu những thông tin về tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp. Nên bố trí những chuyến đi thực tế bất ngờ, không báo trước đến cơ sở sản xuất của người vay vốn để có thể thu được những thông tin chân thực hơn. Cán bộ thẩm định có thể thu thập được thông tin qua sách báo, các văn bản hướng dẫn, các phương tiên thông tin đại chúng, mạng Internet. Ngoài ra cón có các nguồn thông tin từ đồng nghiệp của mình, từ các bạn hàng, từ các đối tác của doanh nghiệp, thông tin thu thập được từ các ngân hàng khác ,các cơ quan quản lý, các công ty tư vấn, các công ty kiểm toán - Phân công cán bộ chuyên trách việc thu thập, phân loại, xử lý và lưu trữ thông tin Cán bộ được phân công không chỉ có nhiệm vụ thu thập thông tin về các dự án mà ngân hàng đang thực hiện mà còn thu thập các văn bản, quyết định của ban giám đốc, về văn bản quy của Nhà nước, về môi trường kinh tế xã hội Mỗi mảng thông tin thu thập được cần phải được xử lý và lưu trữ một cách khoa học để tiện cho việc tìm kiếm và sử dụng thông tin. Ngoài ra Ngân hàng cần phải nâng cao ý thức và trách nhiệm của cán bộ trong việc bảo mật nguồn thông tin. 3.2.5 Thực hiện việc đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án Mặc dù công tác thẩm định đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng, là hoạt động diễn ra thường xuyên liên tục tại ngân hàng, nhưng ngân hàng lại không có một biện pháp nào để đánh giá hiệu quả của hoạt động này. Nghĩa là cán bộ tín dụng thực hiện việc thẩm định, lãnh đạo ngân hàng xét duyệt, và ra quyết định cho vay nhưng cuối cùng lại không xem xét xem việc thẩm định ban đầu có hiệu quả hay không. Muốn nâng cao hiệu quả thẩm định tài chính dự án thì ngân hàng phải biết được chất lượng công tách thẩm định tại chi nhánh đang ở mức độ nào, yếu kém ở đâu và có thể khắc phục bằng cách nào. Để thực hiện được điều này, chi nhánh có thể áp dụng mô hình quản lý chất lượng thẩm định như sau: - Thu thập thông tin về các yếu tố đánh giá chất lượng thẩm định Trong 4 yếu tố đánh giá chất lượng thẩm định tín dụng thì yếu tố chất lượng của báo cáo thẩm định tín dụng là khó lượng hoá được. Vì vậy, thông tin được thu thập sẽ chủ yếu là về 3 yếu tố còn lại gồm thời gian thẩm định, chi phí thẩm định và chất lượng các quyết định cho vay. Để thực hiện việc này, phòng tín dụng cần phân công một cán bộ chuyên tổng hợp các số liệu liên quan đến công tác thẩm định, bao gồm: - Số lượng các dự án đã được thẩm định: phân theo ngành nghề, phân theo quy mô dự án, phân thành phần kinh tế của chủ đầu tư - Thời gian để thẩm định các dự án: có thể phân theo từng nhóm thời gian, ví dụ dưới 5 ngày, 5-10 ngày, chú ý đến quy mô của dự án và chủ đầu tư của dự án, là khách hàng quen thuộc hay khách hàng mới của chi nhánh. - Tổng hợp các chi phí thẩm định có thể lượng hoá được gồm chi phí trang bị hệ thống thông tin, tiền lương của cán bộ tín dụng, chi phí cho các chuyến đi thực tế xuống doanh nghiệp. - Doanh số thu nợ, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu của các dự án đã cho vay. - Đánh giá chất lượng công tác thẩm định Từ các số liệu đã tổng hợp được, hàng quý và hàng năm, tổ chức đánh giá lại hiệu quả của công tác thẩm định tài chính. Phương pháp đánh giá chủ yếu sẽ là so sánh các chỉ tiêu qua từng thời điểm khác nhau. - Thời gian trung bình để thẩm định các dự án, theo các mức quy mô khác nhau, dự án quy mô lớn, dự án quy mô nhỏ và vừa. - Chi phí dành cho công tác thẩm định. - Thu nhập mang lại từ hoạt động cho vay dự án (thể hiện thu nhập do việc thẩm định đúng hiệu quả tài chính của dự án). - Tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn của các khoản vay dự án (thể hiện thiệt hại do việc thẩm định không đúng hiệu quả tài chính của dự án). Thông qua việc so sánh này, chi nhánh sẽ nắm được mức độ tiến triển trong chất lượng thẩm định. Việc này rất có ý nghĩa khi chi nhánh thực hiện các biện pháp mới để nâng cao chất lượng thẩm định. Muốn đánh giá tác động của biện pháp này chỉ việc so sánh các chỉ tiêu chất lượng trước và sau khi áp dụng biện pháp mới. Bằng cách này, chi nhánh có thể tìm ra những biện pháp thích hợp và có hiệu quả nhất. 3.2.6 Một số giải pháp hỗ trợ khác - Nâng cao nhận thức của cán bộ thẩm định về tầm quan trọng của các báo cáo thẩm định Báo cáo thẩm định có một vai trò rất quan trọng, là căn cứ để trưởng phòng tín dụng và giám đốc chi nhánh xem xét và phê duyệt các quyết định cho vay hay không cho vay đối với dự án. Vì vậy, chi nhánh cần yêu cầu các cán bộ thẩm định khi lập báo cáo phải quán triệt về vai trò này, lập các báo cáo thẩm định với chất lượng cao hơn, chi tiết và rõ ràng hơn. - Tăng cường vai trò tư vấn tài chính đối với các khách hàng vay vốn Một thực tế hiện nay là có nhiều trường hợp khách hàng vay vốn mang hồ sơ dự án đến xin vay nhưng lại không biết cách lập một dự án kinh doanh hoàn chỉnh và đạt yêu cầu. Điều này đặc biệt hay xảy ra đối với các hộ gia đình có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn cho phương án sản xuất kinh doanh của mình. Khi đó, chính cán bộ tín dụng lại phải đứng ra hướng dẫn, bổ sung và sửa chữa cho để giúp khách hàng hoàn chỉnh hồ sơ của mình. Ngoài ra, chi nhánh đang thực hiện việc mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có nhiều doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, hệ thống tổ chức kế toán tại doanh nghiệp còn chưa hoàn chỉnh, gây nhiều khó khăn cho chi nhánh khi thẩm định khả năng tài chính. Chính vì vậy, khi thực hiện các khoản cho vay, cán bộ tín dụng nên lưu tâm đến vấn đề này. Khi tiếp nhận hay trả lại hồ sơ cho khách hàng, nên đưa ra các nhận xét, đánh giá, tư vấn cho khách hàng các nội dung còn thiếu sót trong việc lập dự án cũng như trong công tác kế toán. Như vậy sẽ giúp cho khách hàng nhận thức rõ hơn về vấn đề này và có thể cung cấp cho ngân hàng những thông tin chính xác hơn. - Tích cực và chủ động tìm kiếm khách hàng vay vốn Thay vì việc ngồi chờ khách hàng tìm đến vay vốn tại chi nhánh và sau đó mới đi tìm hiểu thông tin về khách hàng đó, các cán bộ tín dụng nên chủ động tìm đến các doanh nghiệp có uy tín, có tình hình tài chính tốt để tìm hiểu nhu cầu vay vốn của họ, từ đó đưa ra các đề nghị hợp tác có lợi cho cả hai bên. Việc chủ động đi tìm khách hàng giúp cho chi nhánh có thêm cơ hội được lựa chọn khách hàng. Khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sẽ tổ chức hoạt động kế toán tốt hơn, khả năng lập dự án tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định của ngân hàng. - Củng cố cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thẩm định Chi nhánh cần chú ý đến việc đảm bảo cơ sở vật chất đầy đủ cho công tác thẩm định, bao gồm việc nâng cấp tốc độ cũng như tính ổn định của hệ thống máy tính, nâng cấp đường truyền Internet để thuận tiện cho cán bộ tín dụng trong việc tìm hiểu thông tin. Ngoài ra chi nhánh cần trang bị thêm các phần mềm mới phục vụ cho việc tính toán các chỉ số tài chính được nhanh chóng và thuận tiện hơn. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị đối với NHNo & PTNT Việt Nam - Ban hành các văn bản, hướng dẫn cụ thể hơn cho công tác thẩm định Sổ tay tín dụng được ban hành năm 2004 đã có những hướng dẫn về quy trình và nội dung thẩm định, tuy nhiên đa phần các nội dung thẩm định chỉ được nêu một cách chung chung mà chưa có những hướng dẫn cụ thể về cách tính toán các chỉ số và lập các bảng biểu. Vì thế, NHNo & PTNT cần ban hành thêm các loại văn bản hướng dẫn đi kèm, trong đó không chỉ cụ thể hoá các nội dung trên mà còn có các lưu ý về những sai lầm thường gặp phải trong công tác thẩm định. - Cần xây dựng tốt hơn hệ thống thông tin trong nội bộ hệ thống. NHNN & PTNT VN cần phải tổ chức cập nhật thông tin thường xuyên cho các chi nhánh các thông tin cần thiết về biến động kinh tế vĩ mô, các cơ chế chính sách mới, thông qua các cuộc họp hoặc thông qua Tạo ra sự liên hệ thông tin thường xuyên giữa hội sở chính, và các chi nhánh để trao đổi các dữ liệu về phân tích ngành, rút kinh nghiệm từ các dự án cùng loại đã được thực hiện ở các chi nhánh khác. - Tổ chức các lớp đào tạo cán bộ cho các chi nhánh Ngân hàng cũng cần phải thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo cán bộ, đặc biệt là các lớp học về phân tích tài chính dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp để nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng. Các lớp học này có thể do các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, giảng viên của các trường đại học, học viện giảng dạy hoặc do chính các cán bộ lâu năm có kinh nghiệm của ngân hàng trực tiếp giảng dạy - Áp dụng các mô hình quản lý chất lượng cho hoạt động của ngân hàng Trên thực tế, hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã và đang áp dụng một quy trình quản lý chất lượng tiên tiến và hiệu quả là quy trình quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001. Trong ngành ngân hàng thì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng quốc doanh đi tiên phong trong việc áp dụng hệ thống quản lý này cho các nghiệp vụ chính là tín dụng, bảo lãnh và thanh toán. Nội dung chính của quy trình này là chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ, các văn bản, thực hiện cải cách hành chính, xây dựng tác phong làm việc khoa học và thống nhất trong đội ngũ cán bộ công nhân viên. Việc áp dụng mô hình này sẽ giúp cho công tác kiểm tra kiểm soát trở nên rõ ràng và minh bạch hơn, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng nói chung và chất lượng hoạt động thẩm định dự án nói riêng. 3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước Việt Nam - Ngân hàng nhà nước cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn thực hiện các nghiệp vụ tín dụng. Các văn bản pháp lý khi ban hành cần có các hướng dẫn cụ thể đi kèm, tránh tình trạng văn bản đã ban hành một thời gian dài nhưng lại chưa thực hiện được vì còn phải chờ hướng dẫn. Ngoài ra, khi ban hành các loại văn bản cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng, hạn chế việc sửa đổi bổ sung quá nhiều lần. Hiện nay, ngân hàng nhà nước mới chỉ ban hành các văn bản mang tính chất chung chứ chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể cho công tác thẩm định tài chính dự án tại các ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, mỗi ngân hàng lại phải tự xây dựng riêng cho mình một phương án thẩm định riêng mà không có sự thống nhất cũng như trao đổi, rút kinh nghiệm giữa các ngân hàng với nhau. Vì vậy, ngân hàng nhà nước nên ban hành các văn bản về nội dung này để có thể chuẩn hóa công tác thẩm định trong các ngân hàng thương mại. - Xây dựng hệ thống thông tin đặc biệt là các thông tin trên lĩnh vực tài chính tiền tệ để giúp các ngân hàng thương mại có thể cập nhật một cách nhanh chóng các biến động trên thị trường. Ngân hàng nhà nước nên tận dụng các mối quan hệ của mình với các bộ , ban, ngành để thực hiện vai trò là cổng thông tin chung cho các ngân hàng thương mại, hỗ trợ các ngân hàng trong việc tìm hiểu thông tin, trao đổi thông tin giữa các ngân hàng với nhau.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7580.doc
Tài liệu liên quan