Đề tài Thực trạng cơ cấu đầu tư ở Việt Nam, hạn chế và hướng khắc phục

LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ VÀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ HỢP LÝ 2 1. KHÁI NIỆM VỀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ VÀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ HỢP LÝ. 2 2. PHÂN LOẠI CƠ CẤU ĐẦU TƯ. 2 2.1 Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn. 2 2.2. Cơ cấu vốn đầu tư 7 2.3. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành 7 2.4. Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng lãnh thổ 8 3. SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU ĐẦU TƯ 8 3.1. Định nghĩa 8 3.2. Tác động của cơ cấu đầu tư tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế 8 4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CƠ CẤU ĐẦU TƯ 10 4.1. Nhóm nhân tố nội bộ nền kinh tế 10 4.2. Các nhân tố bên ngoài 11 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠ CẤU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM 11 1. CƠ CẤU ĐẦU TƯ THEO NGUỒN VỐN 11 1.1. Vốn đầu tư trong nước 11 1.2 Vốn đầu tư nước ngoài 19 2. CƠ CẤU VỐN ĐẦU TƯ 31 2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN 31 2.2. Vốn đầu tư cho giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ 32 3. CƠ CẤU ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THEO NGÀNH 32 Nhìn chung cơ cấu đầu tư theo nghành chưa có nhiều chuyển biến tích cực nên hệ quả của đầu tư chưa phải mức thoả đáng. Ngành công nghiệp có chuyển biến tích cực với tỷ trọng tăng từ 22% lên xấp xỉ 40%. Ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn, phù hợp và tạo thuân lợi cho việc thực hiện công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên ngành nông nghiệp chưa được đầu tư thoả đáng nên chưa có chuyển biến nhiều, hệ quả của đầu tư đối với sự chuyển biến của ngành nông nghiệp đó là hình thành nên một số ngành mới, lĩnh vực mới. 32 4. CƠ CẤU ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THEO ĐỊA PHƯƠNG, VÙNG LÃNH THỔ 35 4.1 . Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 36 4.2. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ 41 - Phát triển du lịch: Khu vực này tập trung nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh vào bậc nhất cả nước với Hà Nội là trung tâm. Các dự án sân gôn, khu nghỉ mát đẳng cấp quốc tế đã và đang được đầu tư xây dựng, đặc biệt là tại khu vực xung quanh di sản thế giới Vịnh Hạ Long. 42 4.3. Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ 43 CHƯƠNG III : HẠN CHẾ VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 46 1.Những hạn chế trong cơ cấu đầu tư ở Việt nam 46 1.1. Chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế. 46 1.2. Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa hiệu quả 47 1.3. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển 48 1.4. Bố trí đầu tư còn dàn trải 49 1.5. Lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn lớn 49 1.6. Tình hình nợ đọng trong đầu tư và xây dựng còn là vấn đề bức xúc 50 1.7. Các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển còn chậm được sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay 51 1.8. Những tồn tại trong công tác đấu thầu 51 1.9. Tồn tại trong giám sát và đánh giá đầu tư 52 1.10. Thanh, quyết toán công trình còn chậm do thủ tục phức tạp 52 2. Định hướng đổi mới cơ cấu đầu tư trong thời gian tới (2008-2015) 52 KẾT LUẬN 59

doc59 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng cơ cấu đầu tư ở Việt Nam, hạn chế và hướng khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hía Nam với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đang tạo ra nguy cơ rất lớn đối với sự xâm hại môi trường của toàn Vùng. Đây là nguy cơ vừa trước mắt, vừa lâu dài và trong chừng mực và trên từng địa bàn cụ thể, ô nhiễm môi trường không còn là nguy cơ, mà đã là hiện thực. Cái giá phải trả cho sự tăng trưởng cao sẽ rất đắt, nếu vấn đề môi trường không được đặt ngang tầm để giải quyết đồng bộ với các vấn đề khác của bài toán phát triển. 4.2. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ a) Giới thiệu chung. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ gồm 8 tỉnh và thành phố: Bắc Ninh, Hà Nội (hạt nhân của vùng), Hà Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Quảng Ninh, và Vĩnh Phúc. Đây là trung tâm kinh tế năng động và là một đầu tàu kinh tế quan trọng của miền Bắc và của cả nước Việt Nam. Ưu thế lớn nhất của vùng kinh tế này là nhân lực có đào tạo tốt. - Giao thông vận tải: Các đầu mối giao thông của vùng kinh tế: + Hàng không: có sân bay Nội Bài, sân bay Cát Bi (quốc tế dự bị cho Nội Bài) và tương lai là sân bay ở Quảng Ninh có công suất 3,5 triệu khách/năm. + Đường bộ: Quốc lộ 1A, quốc lộ 5, đường cao tốc Pháp Vân - Ninh Bình, đường cao tốc Láng - Hòa Lạc, đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài và tương lai gần là đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, đường cao tốc Hà Nội - Quảng Ninh. + Cảng: Cảng Hải Phòng và cảng Cái Lân là một trong những cụm cảng nước sâu hàng đầu cả nước. Trong tương lai gần, một dự án lớn với tổng vốn đầu tư lên đến 15 tỷ USD phát triển đô thị và cảng container hàng đầu khu vực và châu Á tại Quảng Ninh do các tổng công ty và tập đoàn trong nước (ban đầu là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Vinashin) với năng lực lên đến 100 triệu tấn/năm, có thể đón tàu có tải trọng trên 100.000 tấn cập cảng. - Khu công nghiệp: Tại khu vực này tập trung các khu công nghiệp lớn tầm cỡ, thu hút nhiều dự án lớn như: khu công nghiệp Thăng Long, khu công nghiệp Sài Đồng, khu công nghiệp Quế Võ, khu công nghiệp Nomura, khu công nghiệp Đình Vũ... Các ngành công nghiệp chủ chốt: sản xuất xi măng, đóng tàu (Hải Phòng và Quảng Ninh), ô tô, xe máy (Vĩnh Phúc, Hải Dương), luyện cán thép (Thái Nguyên). - Năng lượng: Vùng kinh tế này là một trong những trung tâm năng lượng hàng đầu của cả nước, là nơi sản xuất và xuất khẩu than đá (Quảng Ninh), nhiệt điện (Uông Bí và Phả Lại tại Quảng Ninh). - Phát triển du lịch: Khu vực này tập trung nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh vào bậc nhất cả nước với Hà Nội là trung tâm. Các dự án sân gôn, khu nghỉ mát đẳng cấp quốc tế đã và đang được đầu tư xây dựng, đặc biệt là tại khu vực xung quanh di sản thế giới Vịnh Hạ Long. b) Thực trạng phát triển của Vùng kinh tế Bắc bộ. Với diện tích tự nhiên 15.278 km2, tổng số dân 14 triệu người, kinh tế toàn vùng hiện chiếm khoảng 21% GDP, tỷ trọng thu hút đầu tư đạt 26% về số dự án, 27% vốn đầu tư, đóng góp 25% ngân sách cả nước. Thu nhập bình quân đạt khoảng 1.000 USD/đầu người/năm, gấp 1,4 lần so với mức bình quân cả nước. Cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển đáng kể. Năm 2007, khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 10,4%, công nghiệp và xây dựng chiếm 43,7%, dịch vụ chiếm 45,9% tổng GDP của vùng (năm 2005, các tỷ trọng tương ứng là 12,6%, 42,2%, 45,2%). Theo số liệu thống kê, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của vùng năm 2007 đạt 13,2%, trong đó khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,5%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 17,1%; khu vực dịch vụ tăng 12,3%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 16,6 triệu đồng, cao gấp 1,4 lần so với mức bình quân chung của cả nước. Do tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp, đồng đô la Mỹ giảm giá so với hầu hết các đồng tiền khác, giá dầu và giá của nhiều loại vật tư, nguyên liệu tăng cao đã đẩy chi phí đầu vào tăng cao. Giá tiêu dùng trong nước từ cuối năm 2007 tới nay vẫn tăng cao nên ảnh hưởng không nhỏ tới phát triển kinh tế và đới sống của nhân dân. Trong 3 tháng đầu năm 2008, tăng trưởng kinh tế của vùng đạt khoảng 12%. Như vậy, muốn giữ được mức tăng trưởng kinh tế của năm 2007 thì 7 tháng cuối năm 2008 nền kinh tế của vùng phải tăng trên 14%. Để đạt được mức tăng trưởng kinh tế như vậy đòi hỏi các cấp, các nghành phải có phải có biện pháp mạnh mẽ, tiếp tục duy trì mức thu hút đầu tư cho phát triển và tổ chức tốt các hoạt động kinh tế trên địa bàn vùng. Năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của vùng đạt 26,2 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 8 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu 18,2 tỷ USD. Đối với vùng KTTĐ Bắc bộ nhập siêu luôn ở mức cao. Nhập siêu năm 2007 gấp 1,2 lần mức nhập siêu của năm trước. Giá trị nhập khẩu hàng hoá năm 2007 tăng cao là do: (i) Tăng nhu cầu nhập khẩu để phát triển nền kinh tế; (ii) Giá của nhiều mặt hàng nhập khẩu chủ yếu đều tăng cao như sắt thép tăng 23,1%; phân bón tăng 19,1%; xăng dầu tăng 12,2%... Ngoài ra, giá đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới sụt giảm so với một số ngoại tệ mạnh cũng là một trong những nhân tố làm gia tăng giá trị nhập khẩu, khi qui đổi về USD. Ước tính đến hết quý I năm 2008, giá trị xuất khẩu của vùng đạt 2,2 tỷ USD và nhập khẩu đạt 7 tỷ USD. Mức nhập siêu vẫn còn rất cao. Thu ngân sách của vùng tăng bình quân 19,2%, tăng nhanh hơn với mức bình quân của cả nước (18,3%), tổng thu ngân sách của vùng năm 2007 đạt 75.260 tỷ đồng, tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP đạt 34,8%. Chi ngân sách hàng năm tăng bình quân 8%, chi ngân sách năm 2007 là 32.861 tỷ đồng. Trong 2 năm 2006-2007 tổng vốn đầu xã hội để phát triển của vùng đạt khoảng 237 nghìn tỷ đồng, gần bằng tổng vốn đầu tư trong giai đoạn 5 năm 2001-2005 (257 nghìn tỷ đồng), tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân đạt 25,4%/năm. Tính từ năm 1988 đến hết năm 2007, Vùng KTTĐ Bắc Bộ có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án và 27% tổng vốn đăng ký trong cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện của cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD). Trong 3 tháng đầu năm 2008, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng KTTĐ Bắc Bộ có 66 dự án với tổng vốn đầu tư là 750,4 triệu USD, chiếm 44,9% về số dự án, 14,6% tổng vốn đăng ký của cả nước. - Một số vấn đề cần quan tâm: Một là, việc đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp trong vùng còn những điểm chưa hợp lý. Hệ thống đô thị của Vùng phát triển khá nhanh nhưng chưa có quy hoạch chung với tầm nhìn dài hạn. Trong thời gian vừa qua các tỉnh đồng loạt triển khai lập các đề án đầu tư khu đô thị mới một cách ồ ạt. Trong các đề án ấy có không ít đề án khu đô thị mới không mang lại hiệu quả, gây lãng phí đất đai và vốn đầu tư. Hai là nhu cầu lao động có kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ cao là rất lớn, song đến nay vẫn chưa có kế hoạch dứt khoát xây dựng những cơ sở đào tạo nghề đúng tầm cho toàn vùng KTTĐ Bắc bộ cũng như cho vùng Đồng bằng sông Hồng và cho cả miền Bắc. Ba là, ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm nguồn nước do chất thải công nghiệp và đô thị ngày càng tăng, tình trạng ô nhiễm trên một số con sông như sông Cầu, sông Nhuệ... đã đến mức báo động. Việc xử lý chất thải rắn đang là vấn đề nan giải cần có kế hoạch phối hợp liên tỉnh và rất cụ thể. 4.3. Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ a) Giới thiệu chung. Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ bao gồm các tỉnh và thành phố: Thừa Thiên-Huế, thành phố Đà Nẵng (hạt nhân), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Đây là vùng kinh tế lớn thứ 3 tại Việt Nam. Đặc trưng của vùng này là các khu kinh tế cảng biển tổng hợp. Các khu kinh tế gồm có: khu kinh tế mở Chu Lai, khu kinh tế Dung Quất, khu kinh tế Chân Mây, khu kinh tế Nhơn Hội và khu vực Cam Ranh - Vân Phong. So với hai vùng kinh tế trọng điểm còn lại, vùng kinh tế này yếu kém hơn về mặt hạ tầng và nhân lực nhưng lại có tiềm năng lớn về cảng biển trung chuyển lớn và phát triển du lịch nghỉ dưỡng (chiếm phần lớn các dự án khu nghỉ mát biển của cả nước) và di sản thế giới (khu vực Trung Bộ chiếm 6/7 di sản thế giới tại Việt Nam). Khu vực này cũng có tiềm năng về phát triển công nghiệp đóng tàu và dịch vụ hàng hải. Hạ tầng gồm có: sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay trung chuyển hàng hóa Chu Lai (tương lai); cảng Đà Nẵng và đặc biệt là dự án cảng trung chuyển Vân Phong có tổng vốn lên đến 15 tỷ USD do Tập đoàn Sumimoto chủ trì đầu tư; Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh. Đà Nẵng là điểm cuối trong Hành lang kinh tế Đông - Tây nối Đông Bắc Thái Lan, Trung Lào và Trung Trung Bộ Việt Nam. b) Thuận lợi và khó khăn của Vùng kinh tế Miền Trung. - Tiềm lực: Thiên nhiên khéo kết hợp vẻ đẹp hùng vĩ của núi non với không gian mênh mông của biển cả làm cảnh quan nơi đây trở nên kỳ thú, vừa tạo nên một hệ sinh thái rất đa dạng. Những đặc điểm này là điểm tựa cho ngành du lịch của VKTTĐ miền Trung khởi sắc. Tiềm lực phát triển du lịch của VKTTĐ miền Trung còn bắt nguồn từ vô vàn di sản thâm trầm của quá khứ. Không phải ngẫu nhiên mà dải đất chiếm chưa đầy 1/5 chiều dài đất nước trở thành quê hương của bốn di sản và kiệt tác văn hóa của nước ta được UNESCO công nhận, bao gồm quần thể di tích cố đô Huế, nhã nhạc cung đình Huế, phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn. Tiềm lực và sức mạnh của dải đất miền Trung còn nhờ một phần vào sự ưu ái của chính quyền trung ương về đầu tư và chính sách phát triển, đặc biệt là phát triển công nghiệp. Hàng loạt khu kinh tế lần lượt xuất hiện ở VKTTĐ miền Trung, khởi đầu với Khu kinh tế mở Chu Lai (27.000ha) và tiếp sau đó là Khu kinh tế Dung Quất (10.300ha), Nhơn Hội (10.000ha) và Chân Mây (1.000ha). Riêng Chu Lai - khu kinh tế mở đầu tiên của cả nước - đã có diện tích xấp xỉ bằng tổng diện tích của 135 khu công nghiệp và khu chế xuất được hình thành trong giai đoạn 1991-2006. Khoản đầu tư 2,5 tỉ USD của Nhà nước cho nhà máy lọc dầu đầu tiên của cả nước ở Dung Quất có vẻ như đã làm cho khu vực này sôi động hẳn lên sau nhiều năm “ngủ đông”. Song song với những chính sách đẩy mạnh phát triển công nghiệp là sự ưu ái về hạ tầng với một loạt sân bay được nâng cấp hay mới đưa vào sử dụng. Có lẽ không ở nơi nào trên cả nước mật độ cảng hàng không và cảng biển (trong đó có nhiều cảng nước sâu) lại san sát như ở đây. Trừ Quảng Ngãi phải “dùng nhờ” sân bay Chu Lai của Quảng Nam thì bốn tỉnh còn lại tỉnh nào cũng có sân bay của riêng mình, mặc dù cung độ khoảng cách giữa hai tỉnh lân cận chỉ trên dưới 100km. Tỉnh nào cũng có (và sẽ có thêm theo qui hoạch) vài cảng nước sâu, trong đó cá biệt như Quảng Ngãi, chỉ riêng Dung Quất cũng đã có tới bốn cảng nước sâu. Ø KHU CÔNG NGHIỆP DUNG QUẤT: Khu kinh tế Dung Quất đang trở thành hình ảnh năng động của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với “đại công trường”... Cuối năm 2005, Dung Quất chưa hề có tên trong danh sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhưng đến nay, khu kinh tế này đã xếp vị trí thứ 5 trong cả nước về thu hút vốn FDI. Hiện Dung Quất đã thu hút 110 dự án với số vốn đầu tư đến 5,5 tỉ USD. Nổi bật là cụm công nghiệp nặng Doosan của Hàn Quốc (vốn 260 triệu USD) đã khởi công xây dựng từ cuối năm 2006 và Tập đoàn thép Tycoon của Đài Loan (vốn 1 tỉ USD) đang tập trung san ủi mặt bằng, chuẩn bị khởi công; Nhà máy đóng tàu Dung Quất (vốn 700 triệu USD), phân xưởng sản xuất hạt nhựa polypropylen sau lọc dầu (vốn 200 triệu USD)... Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất là một dự án mang tầm quốc gia do Tổng công ty Dầu khí Việt Nam nay là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam làm chủ đầu tư. Với tổng mức đầu tư là hơn 3 tỉ USD (khoảng 40.000 tỉ đồng). Và ngày 24 tháng 2 năm 2009 mẻ dầu đầu tiên của nhà máy đã ra đời, nó đánh dấu một bước ngoặt lớn trong quá trình phát của ngành dầu khí Việt Nam. - Khó khăn: Số liệu cho thấy VKTTĐ miền Trung có xuất phát điểm thấp hơn nhiều so với hai VKTTĐ còn lại. Thu nhập bình quân đầu người của VKTTĐ miền Trung thấp hơn 36% so với VKTTĐ phía Bắc và chưa tới 1/3 mức của VKTTĐ phía Nam. Điều tương tự cũng đúng với vốn FDI: FDI của cả năm tỉnh thành thuộc VKTTĐ miền Trung trong khoảng thời gian 2000-2005 thua xa Hà Nội và chỉ bằng phân nửa Bình Dương. Có hai biểu hiện nữa của tình trạng kém phát triển của VKTTĐ miền Trung so với hai VKTTĐ còn lại. Thứ nhất là tỉ lệ hộ nghèo chung và nghèo về lương thực của miền Trung cao hơn mức trung bình cả nước. Thứ hai là tình trạng di cư. Miền Trung là nơi có tỉ lệ di cư cao nhất cả nước. Lý do di cư quan trọng nhất là tình trạng thiếu cơ hội việc làm ở địa phương, mức sống thấp và thiếu đất canh tác... Điều đáng lo ngại là những người có trình độ cao thường có xác suất di cư cao, dẫn đến tình trạng thiếu nhân công có kiến thức và trình độ kỹ thuật. - Nguyên nhân: Nguyên nhân đầu tiên là giáo dục và dạy nghề, cụ thể là học vấn và trình độ kỹ thuật của lực lượng lao động. Tỉ lệ lao động của VKTTĐ miền Trung có mức học vấn thấp hơn mức trung bình của cả nước và thấp hơn nhiều so với hai VKTTĐ phía Bắc, phía Nam. Trình độ kỹ năng của lao động cũng vậy. Nguyên nhân thứ hai là sự thiếu hụt về cơ sở hạ tầng (CSHT) điện, nước, đường sá, viễn thông, Internet... Bên cạnh đó, sự dư thừa công suất về cảng biển và sân bay cũng là một nguyên nhân dẫn tới sự kém hiệu quả trong khai thác CSHT. Trong các cảng tổng hợp của miền Trung có lẽ chỉ có cảng Quy Nhơn và Đà Nẵng tiệm cận tới mức độ hiệu quả, còn các cảng khác đều rơi vào tình trạng dư thừa công suất. Thêm vào đó, lưu ý rằng Sài Gòn hay Bà Rịa - Vũng Tàu mới là nơi có nhiều khả năng nhất để đón nhận tàu mẹ (mother feeders), và điều này đẩy các cảng biển miền Trung vào vị thế bất lợi về chi phí và cạnh tranh. CHƯƠNG III : HẠN CHẾ VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 1.Những hạn chế trong cơ cấu đầu tư ở Việt nam 1.1. Chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế. Nhiều bộ, ngành và địa phương chưa chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ yếu vẫn trông chờ, ỷ lại vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn có nguồn gốc ngân sách cho, chưa đủ sức thu hút được nhiều các nguồn vốn khác tham gia đầu tư, đặc biệt là khu vực tư nhân nên đã hạn chế rất lớn về quy mô đầu tư, nhất là đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những hạn chế, chưa phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây. Hầu hết các dự án được cấp giấy phép gần đây đều có quy mô nhỏ; môi trường đầu tư tuy được cải thiện nhiều, nhưng mức độ cạnh tranh so với các nước trong khu vực chưa cao và còn nhiều bất cập như: một số chính sách hay thay đổi và khó dự báo trước; có tình trạng cạnh tranh chưa hợp lý trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các địa phương. Khối lượng giải ngân nguồn vốn ODA đạt thấp so với kế hoạch, hàng năm chỉ đạt khoảng 80-90% mức đề ra. Sau 10 năm kêu gọi nguồn vốn ODA, đến nay mới giải ngân được 13,5 tỷ USD trên tổng số 25 tỷ USD cam kết; tỷ lệ giải ngân giảm dần qua các năm, khối lượng giải ngân đạt thấp do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan như chậm giải phóng mặt bằng, các Bộ ngành và địa phương bố trí không đủ vốn đối ứng, năng lực của các ban quản lý dự án ODA còn thấp, thủ tục chưa hài hoà trong và ngoài nước, bộ máy quản lý còn nhiều hạn chế... 1.2. Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa hiệu quả Trong nông nghiệp: chủ yếu vẫn tập trung đầu tư vào thủy lợi (chiếm khoảng 70% vốn đầu tư của ngành), mà chưa chú ý nhiều đến đầu tư nhằm nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp như đầu tư phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp, đầu tư cho hệ thống giống cây trồng, vật nuôi, chế biến nông sản, mạng lưới cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp. Chưa quan tâm đúng mức đến công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn do chưa đầu tư tương xứng để phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, phát triển trang trại, làng nghề truyền thống nhằm chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp. Ngành thủy sản có mức tăng trưởng cao, nhưng đầu tư vào lĩnh vực này còn khiêm tốn. Trong công nghiệp: cơ cấu đầu tư cho công nghiệp chiếm 43% trong tổng số đầu tư toàn xã hội là thấp, chưa đủ để phát triển và cơ cấu lại ngành công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp để có thể hội nhập, trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt; hiện tượng đầu tư theo phong trào, theo lợi nhuận trước mắt còn tồn tại, lãng phí vốn, tài nguyên, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chưa chú trọng đầu tư phát triển ngành cơ khí, đầu tư công nghiệp đóng tầu, chế tạo máy công cụ, máy phục vụ nông nghiệp, chế biến nông sản... Đầu tư chưa gắn chặt với chuyển giao công nghệ và phát triển công nghệ cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của một số lĩnh vực công nghiệp chế biến. Về giao thông vận tải: chủ yếu vẫn tập trung vào giao thông đường bộ (chiếm trên 70% vốn đầu tư của ngành), trong đó lại tập trung chủ yếu hệ thống đường quốc lộ; hệ thống đường giao thông nông thôn, vùng kinh tế khó khăn chưa được đầu tư thoả đáng để phát huy hiệu quả chung; đầu tư phát triển phương tiện vận tải còn ở mức thấp. Đầu tư cho lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực còn ở mức thấp, chưa gắn chặt với chiến lược phát triển các ngành kinh tế, các vùng kinh tế. Cơ cấu vùng: mặc dù những năm qua đã cố gắng điều chỉnh cơ cấu đầu tư giữa các vùng, nhưng tỷ lệ đầu tư của các vùng miền Núi phía Bắc, Duyên hải Miền Trung, vùng Tây Nguyên vẫn còn ở mức khiêm tốn (chỉ ở mức từ 8 đến 12% tổng mức đầu tư toàn xã hội), vốn đầu tư vẫn tập trung cao ở các vùng Đồng bằng sông Hồng (khoảng 24%) và vùng Đông Nam bộ (khoảng 27%). Đầu tư cho các công trình liên vùng, liên tỉnh còn kém, bị chia cắt theo địa giới hành chính địa phương. Các công trình, dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giải ngân chậm, thời gian thực hiện dự án kéo dài, nợ quá hạn, lãi đến hạn trả chưa trả được có xu hướng tăng, ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn; chất lượng công tác thẩm định các dự án vay vốn tại hệ thống Quĩ Hỗ trợ phát triển còn nhiều bất cập so với yêu cầu, đặc biệt là dự báo sự biến động của thị trường, ảnh hưởng lớn đến việc xác định hiệu quả của dự án. 1.3. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển Chất lượng các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn, chưa có đủ các căn cứ vững chắc, nhất là các thông tin về dự báo, nhất là dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp... Quản lý nhà nước về quy hoạch còn nhiều yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng, thiếu một khung pháp lý đầy đủ cho việc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liên quan đến công tác quy hoạch trong phạm vi cả nước; thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch. Nhiều cơ quan nhà nước, nhiều cá nhân có trách nhiệm chưa quan tâm đúng mức và chưa nhận thức đúng đắn về công tác quy hoạch, trách nhiệm đối với công tác quy hoạch chưa đủ tầm... Quy trình kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân chưa được thể chế hoá; phương pháp lập quy hoạch chưa thống nhất; thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình lập các quy hoạch ngành, nên xảy ra tình trạng chồng chéo và không ăn khớp giữa quy hoạch ngành, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh; thiếu quy chế phê duyệt thống nhất. Nhận thức về quy hoạch trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế còn nhiều điểm chưa thống nhất; việc phân định nội dung cũng như phạm vi giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng còn nhiều điểm chưa rõ. Các quy hoạch ngành, tuy đã xác định rõ hơn những ngành thuộc loại quy hoạch "mềm" và quy hoạch "cứng", nhưng ngay đối với các ngành sản phẩm chủ lực cần được lập quy hoạch cũng chưa được xác định ở cấp nhà nước. Nguyên nhân của tình hình nêu trên có nhiều nhưng trước hết phải kể đến công tác điều tra cơ bản chưa đủ, thông tin phục vụ nghiên cứu quy hoạch thiếu, lực lượng nghiên cứu quy hoạch hạn chế; công tác dự báo và xử lý liên ngành, liên vùng yếu; công tác chỉ đạo quy hoạch chưa đúng mức. Quy hoạch ngành và quy hoạch vùng, quy hoạch của từng tỉnh ít gắn kết với nhau. Quy hoạch phát triển ngành chưa thể hiện cụ thể trên các địa bàn lãnh thổ của các tỉnh, thành phố. Mặt khác trong khi có một số quy hoạch ngành đã thể hiện trên lãnh thổ nhưng quy hoạch tỉnh, thành phố chưa căn cứ vào quy hoạch ngành bố trí trên lãnh thổ của mình. Trong quá trình thực hiện quy hoạch, một số ngành, một số địa phương còn tuỳ tiện thay đổi mục tiêu của quy hoạch sau khi đã được Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nhiều quy hoạch sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt đã không kịp thời triển khai các quy hoạch cụ thể, quy hoạch chi tiết để tiến hành đầu tư, dẫn tới có tình trạng quy hoạch "treo". Việc thẩm định, kiểm tra, giám sát quy hoạch còn yếu, có trường hợp quy hoạch có chất lượng thấp vẫn được thông qua. 1.4. Bố trí đầu tư còn dàn trải Nhìn chung, bố trí vốn đầu tư còn rất dàn trải, phân tán thể hiện ở tất cả các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước. Những năm gần đây đã có tiến bộ bước đầu (tập trung hơn cho các dự án thuộc nhóm A); tuy nhiên nhiều Bộ, ngành và nhiều địa phương vẫn còn tình trạng bố trí vốn chưa tập trung, chủ yếu là đối với các công trình, dự án nhóm B và C. Nguyên nhân của tình trạng trên là: Về trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương: Nhu cầu đầu tư còn có khoảng cách rất lớn so với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước, khi bố trí cụ thể bị căng kéo bởi quá nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, khi xem xét để quyết định dự án đầu tư mới chưa nghiêm chỉnh chấp hành đúng các quy định trong việc xét duyệt một dự án đầu tư. Nhiều dự án chưa được xem xét kỹ, hiệu quả, tính khả thi thấp. Trên thực tế, số lượng dự án các Bộ, ngành và địa phương phê duyệt đã không phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách hàng năm của Nhà nước. Ngoài ra, trong việc bố trí, phân bổ vốn đầu tư cho các dự án, không loại trừ có trường hợp do nể nang, do quan niệm vốn ngân sách là phải chia đều giữa các huyện, xã, dẫn đến tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải còn tiếp diễn. Về trách nhiệm của các cơ quan quản lý: còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Việc phân cấp quản lý trong đầu tư và xây dựng cho các Bộ, ngành và địa phương đã thực hiện tương đối mạnh. Tuy nhiên, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện tại thiếu các chế tài, những quy định cụ thể (kể cả biện pháp hành chính) nhằm kiểm soát và hạn chế được việc phê duyệt dự án đầu tư tràn lan, kém hiệu quả. Công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa đáp ứng được các yêu cầu theo quy định, một mặt do đội ngũ cán bộ chưa được chuẩn bị chu đáo, cán bộ nghiệp vụ còn thiếu kinh nghiệm, năng lực còn hạn chế, chưa có hệ thống thông tin phục vụ hoạt động giám sát. Mặt khác, lãnh đạo ở một số Bộ, ngành và địa phương cũng chưa nhận thức đầy đủ được vị trí, vai trò của công tác giám sát, đánh giá đầu tư trong quản lý đầu tư nói chung. 1.5. Lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn lớn Lãng phí, thất thoát trong đầu tư và xây dựng vẫn còn là vấn đề nổi cộm hiện nay. Còn có những biểu hiện tiêu cực trong quản lý đầu tư và thi công công trình. Chất lượng ở một số công trình còn thấp, gây lãng phí và kém hiệu quả trong đầu tư. Nguyên nhân của tình trạng lãng phí thất thoát trong đầu tư có nhiều, thể hiện ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư; hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý đất đai chưa đồng bộ; chưa xác định rõ vai trò đại diện chủ sở hữu của Nhà nước; phân công, phân cấp chưa rõ ràng. Ngay từ khâu tính toán, xác định tổng mức vốn đầu tư cho dự án chưa quan tâm sâu sát tới việc tiết kiệm vốn đầu tư; nhiều dự án thiết kế phô trương hình thức, không phù hợp với thực tế sử dụng. Sử dụng đơn giá, định mức không theo quy định làm tăng khối lượng vốn đầu tư, tăng dự toán công trình. Còn những biểu hiện tiêu cực trong quản lý và thi công công trình, nhiều dự án không làm đúng thiết kế, chủ đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng số lượng, điều chỉnh dự toán rút tiền và vật tư của công trình. Nhiều dự án đầu tư không theo quy hoạch, điều tra khảo sát thị trường không kỹ, chưa quan tâm sâu sát đến đầu ra của sản phẩm, dự án hoàn thành nhưng không phát huy được hiệu quả. Ngoài ra, trình độ năng lực quản lý, điều hành của các chủ đầu tư, của ban quản lý dự án, các tổ chức tư vấn còn yếu kém cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư. Chất lượng của các tổ chức tư vấn đầu tư còn thấp; khi xây dựng dự án và thiết kế kỹ thuật lập tổng dự toán chưa dựa vào các quy chuẩn, đơn giá, định mức... gây nên lãng phí lớn. Năng lực của các chủ đầu tư không phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý; không kiểm tra, giám sát được các tổ chức tư vấn, các nhà thầu. Công tác giám sát thi công còn mang tính hình thức. 1.6. Tình hình nợ đọng trong đầu tư và xây dựng còn là vấn đề bức xúc Nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc hiện nay, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách, chưa được xử lý dứt điểm. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình thực hiện vượt kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành và địa phương vẫn tiếp diễn và có xu hướng tăng (sau khi rà soát lại, số nợ vẫn còn trên 5 nghìn tỷ đồng, Trung ương khoảng 2 nghìn tỷ đồng, địa phương khoảng 3 nghìn tỷ đồng). Nguyên nhân của tình trạng nợ đọng: Khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn rất hạn hẹp, chỉ đáp ứng được từ 40-50% nhu cầu; do sự cấp bách phải thực hiện một số mục tiêu quan trọng của các địa phương, một số công trình, dự án thuộc các ngành thủy lợi, giao thông phải khẩn trương thi công ngay trước mùa mưa lũ, phải vay mượn hoặc ứng trước vốn để thi công. Do đặc thù của các công trình, dự án thuộc hạ tầng giao thông, thủy lợi, bên A, cơ quan cấp phát vốn, cơ quan kiểm toán khó kiểm tra, kiểm soát về khối lượng thi công, đơn giá và định mức trong dự toán được duyệt, nên nhiều nhà thầu tích cực ứng trước vốn để thi công. Các Bộ ngành, các tỉnh, thành phố còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành còn thiếu những chế tài, biện pháp cụ thể nhằm kiểm soát và hạn chế việc phê duyệt dự án đầu tư tràn lan như hiện nay. Nhiều Bộ, ngành và địa phương còn tư tưởng nể nang, dễ dàng đối với các chủ đầu tư trong việc vay mượn vốn, cho phép các nhà thầu ứng trước vốn để thi công các công trình, dự án. Trong quá trình điều hành kế hoạch, phát hiện thực hiện vượt vốn, các cơ quan quản lý chưa kịp thời can thiệp để có biện pháp xử lý. 1.7. Các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển còn chậm được sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay Công tác quản lý đầu tư và xây dựng còn nhiều thiếu sót, buông lỏng. Mặc dù Chính phủ đã thực hiện phân cấp mạnh cho cấp Bộ ngành, tỉnh và thành phố theo quy định tại Nghị định 07/CP; tuy nhiên, công tác giám sát đầu tư, giám sát thi công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ thể để quy rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể. Cơ chế tín dụng đầu tư ưu đãi còn nhiều bất cập: đối tượng cho vay dàn trải, mở rộng quá mức; lãi suất cho vay thấp, kéo dài thời gian trả nợ, khoanh nợ, dùng ngân sách để trả nợ vay. Hiện tồn tại nhiều mức lãi suất trong tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, gây phức tạp trong quản lý, đồng thời dễ phát sinh tiêu cực. Về hình thức tín dụng, chủ yếu vẫn là cho vay theo dự án, hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư mới được áp dụng. 1.8. Những tồn tại trong công tác đấu thầu Việc nhận thức công tác Đấu thầu còn nhiều hạn chế cả về nội dung đấu thầu, quy trình, trình tự và các quy định khác. Một số cán bộ thuộc đơn vị Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu kinh nghiệm nên còn nhiều hạn chế trong triển khai công tác đấu thầu. Nhiều chủ dự án chưa chủ động, chỉ dựa vào ý kiến của tư vấn, không xem xét kỹ kết quả trước khi trình duyệt, dẫn đến những sai sót không đáng có trong quá trình thực hiện. Cấp có thẩm quyền chưa chỉ đạo sát sao, quản lý công tác đấu thầu chưa chặt chẽ. Nhiều trường hợp không thực hiện đúng Quy chế Đấu thầu như mở thầu chậm, chỉ định thầu vượt mức cho phép, tổ chức đấu thầu mang tính hình thức, đặc biệt là hình thức đấu thầu hạn chế... Chất lượng các công tác phục vụ cho đấu thầu (trực tiếp hoặc gián tiếp) như chất lượng của báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán còn thấp. Một số trường hợp xây dựng dự toán quá thấp gây khó khăn trong quá trình xét kết quả trúng thầu, phải chào lại giá, phải điều chỉnh dự toán làm kéo dài thời gian. Nhiều trường hợp thiết kế ban đầu không chuẩn xác, trong quá trình thực hiện phải thay đổi bổ sung dẫn đến làm tăng giá trị hợp đồng, kéo dài thời gian thực hiện. Đây cũng là yếu tố dẫn tới lãng phí thất thoát trong đầu tư xây dựng. Trong một số trường hợp chỉ định thầu thì dự toán cao là cơ sở ký hợp đồng sẽ có thể dẫn đến thất thoát. Hiện nay còn thiếu các quy định về chế tài, trách nhiệm lập và duyệt đối với báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, dự toán. Các quy định trong một số hợp đồng thầu quá đơn giản, chưa đủ chặt chẽ, chưa gắn trách nhiệm giữa Chủ đầu tư và nhà thầu, dồn sức ép vào một phía, thiếu các điều kiện chi tiết gây khó khăn cho thực hiện. Một số nội dung trong Quy chế Đấu thầu chưa được cụ thể hoá về: mẫu hoá các nội dung trong quá trình đấu thầu, hình thức áp dụng; quy định về khiếu nại trong đấu thầu. Công tác đào tạo trong đấu thầu còn bất cập, thiếu các Trung tâm đào tạo thường xuyên cán bộ về đấu thầu, làm giảm hiệu quả triển khai công tác này. 1.9. Tồn tại trong giám sát và đánh giá đầu tư Công tác giám sát và đánh giá đầu tư chưa được tất cả các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức và thực hiện nghiêm túc theo quy định; chỉ có khoảng 30% các đơn vị Bộ, ngành, 40% các tỉnh, thành phố có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Đối với việc giám sát và đánh giá đầu tư của các chủ đầu tư còn rất hạn chế, chỉ có 30% các chủ dự án sử dụng vốn ngân sách có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Chất lượng các báo cáo về đánh giá đầu tư còn sơ sài, chưa đủ các thông tin cần thiết để tổng hợp báo cáo. Công tác giám sát nói chung còn chưa thường xuyên, bị động và chủ yếu tổng hợp từ các báo cáo theo quy định, chưa có tác dụng phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm. Công tác giám sát cộng đồng chưa được chú trọng. 1.10. Thanh, quyết toán công trình còn chậm do thủ tục phức tạp Việc giải ngân, thanh toán khối lượng vốn đầu tư hoàn thành còn chậm, chủ yếu do các thủ tục thanh toán phức tạp, công tác nghiệm thu của các chủ đầu tư và các ban quản lý công trình còn chậm. Chất lượng công tác tư vấn thiết kế chưa đảm bảo yêu cầu, nên trong quá trình triển khai thi công đã phát sinh nhiều khối lượng không được chủ đầu tư bổ sung kịp thời, ảnh hưởng đến công tác thanh toán. Các chủ đầu tư, nhất là chủ đầu tư, các ban quản lý dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước chưa khẩn trương cùng các nhà thầu hoàn tất các thủ tục nghiệm thu, thanh quyết toán. Nhiều công trình, dự án đã hoàn thành nghiệm thu, đưa vào sử dụng trong nhiều năm nhưng không quyết toán công trình. 2. Định hướng đổi mới cơ cấu đầu tư trong thời gian tới (2008-2015) Thứ nhất : đổi mới cơ cấu đầu tư phải hướng vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Mục tiêu của chính sách công nghiệp hóa trong giai đoạn tới là phải làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế xã hội.Công nghiệp hóa trong thời kỳ này cũng phải dựa trên cơ sở của kinh tế thị trường.Sự thay đổi cơ cấu đầu tư phải nhằm mục tiêu thực hiện thắng lợi các quá trình công nghiệp hóa, góp phần làm chuyển dịch một cách sâu sắc và toàn diện cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ, khác phục sự mất cân đối giữa các vùng, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và nâng cao mức sống nhân dân. Thứ hai : đổi mới cơ cấu đầu tư gắn liền nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước và đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đồng thời động viên mọi nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển. Đối với vốn đầu tư của nhà nước chỉ nên tập trung vào các ngành then chốt của nền kinh tế, những ngành có tính đột phá tạo đà cho các ngành khác phát triển. Mục tiêu là kinh té nhà nước phải thực sự trở thành đòn bẩy để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế , đồng thời phải giải quyết căn bản được các vấn dề xã hội , mở đường, hỗ trợ và hướng dẫn hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phi nhà nước, là lực lượng vật chất có iệu quả để Nhà nước thực hiện chính sách quản lý và điều tiết nền kinh tế theo nguyên tắc của kinh tế thị trường. Thứ ba : Coi trọng quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường , phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở, đồng thời đảm bảo vai trò quản lý nhà nước. Trong quá trình xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý, phải coi trọng các yếu tố thị trường. Hoạt động đầu tư nên đổi mới theo hướng hạn chế những quyết định đầu tư theo kiểu hành chính. Mở rộng quyền cho các tổ chức sản xuất kinh doanh trên cơ sở định hướng Nhà nước và thực tiễn vận động của thị trường. Các dự án nên tập trung làm tốt khâu nghiên cứu thị trường. Xác định khả năng nghiên cứu và nhu cầu của tiềm năng nhằm tránh trường hợp mất cân đối cung cầu, ảnh hưởng đến tình hình dầu tư và sản xuất như một số mặt hàng trong thời gian vừa qua . Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư cần giảm các công việc quản lý hành chính, can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư cụ thể mà tập trung sức làm tốt việc dự báo, cung cấp thong tin kinh tế, định hướng đầu tư, kiểm tra công tác đầu tư ở cơ sở . Thứ tư : Đổi mới cơ cấu đầu tư đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng và xây dựng các vùng trọng điểm. §Ó t¹o thÕ vµ lùc trong ph¸t triÓn, cÇn x©y dùng mét sè vïng kinh tÕ träng ®iÓm (kh«ng nªn dµn tr¶i lµm ph©n t¸n nguån lùc). Gi÷a c¸c vïng võa tËn dông lîi thÕ cña m×nh võa t¹o nªn sù liªn kÕt, thóc ®Èy, hç trî nhau cïng ph¸t triÓn. Thùc hiÖn t«t chÝnh s¸ch d©n sè, ph¸t triÓn, gi¶i quyÕt viÖc lµm cho ng­êi lao ®éng lµ biªn ph¸p quan träng dÓ n©ng kh¶ n¨ng tÝch luü nh»m ph¸t triÓn kinh tÕ. §Ó b¶o ®¶m sù hîp lÝ khi x¸c ®Þnh c¬ cÊu ®Çu t­ gi÷a c¸c vïng, cÇn xem xÐt c¸c ®Æc tÝnh x· héi, c¸c ®iÒu kiÖn kinh tÕ, c¸c ®iÒu kiÖn vÒ tù nhiªn. Trong ®iÒu kiÖn hiÖn t¹i, khu vùc c¸c thµnh phè lín vÉn lµ trung t©m ph¸t triÓn c«ng nghiÖp. Vïng nµy d©n sè chØ chiÕm kho¶ng 14% nh­ng ®· thu hót h¬n 70% vèn ®Çu t­ t­ nh©n. Do vËy trong thêi gian tíi viÖc huy ®éng vèn ®Çu t­ cÇn thùc hiÖn theo h­íng më réng liªn kÕt víi c¸c tØnh l©n cËn, h×nh thµnh c¸c vïng kinh tÕ träng ®iÓm, cã kh¶ n¨ng ph¸t triÓn vµ cã lîi thÕ so s¸nh, t¹o søc c¹nh tranh trªn thÞ tr­êng quèc tÕ. C¸c vïng kinh tÕ träng ®iÓm sÏ lµ ®Çu tµu ph¸t triÓn cña c¶ quèc gia. Thứ năm : Ph©n c«ng l¹i lao ®éng gi÷a c¸c vïng vµ trong tõng vïng b»ng c¸ch ph¸t triÓn nh÷ng ngµnh thu hót nhiÒu lao ®éng nh»m tranh thñ lîi thÕ c¹nh tranh trong héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ bëi gi¸ lao ®éng cña ta thÊp h¬n so víi c¸c n­íc: ViÖt Nam lµ mét n­íc ®«ng d©n (®øng thø 13 trªn thÕ giíi) nªn cã mét nguån lao ®éng dåi dµo kho¶ng 35-40 triÖu, ®©y lµ nguån lùc, tiÒm lùc to lín ®Ó ph¸t triÓn kinh tÕ x· héi. Trong nh÷ng n¨m qua nÒn kinh tÕ n­íc ta ®· ®Æt ®­îc nh÷ng thµnh tùu quan träng, tèc ®é ph¸t triÓn kinh tÕ kh¸ cao, tuy nhiªn trong lÜnh vùc lao ®éng cßn nhiÒu vÊn ®Ò bøc xóc. TØ lÖ lao ®éng thÊt nghiÖp ë khu vùc thµnh thÞ kh¸ cao 6,44%, trªn 1/3 quÜ thêi gian cña lao ®éng n«ng th«n ch­a sö dông hÕt, sù ph©n bè lao ®éng gi÷a c¸c vïng, c¸c khu vùc kinh tÕ cßn ch­a hîp lÝ, ch­a t¹o ®iÒu kiÖn cho viÖc ph¸t huy tèt nhÊt lùc l­îng lao ®éng. T×nh tr¹ng ph©n c«ng lao ®éng nh­ vËy hiÖn nay ë n­íc ta ®ang lµ mét trë ng¹i lín cho viÖc khai th¸c c¸c nguån lùc vÒ ®Êt ®ai, tµi nguyªn,nguån vèn, khoa häc c«ng nghÖ vµ c¬ së vËt chÊt kü thuËt hiÖn cã vµ viÖc thu hót vèn ®Çu t­ n­íc ngoµi. Víi tØ lÖ lao ®éng trong khu vùc I lµ 68% vµ thêi gian nhµn rçi nhiÒu ®Õn h¬n 1/3 quü thêi gian lao ®éng th× l­îng thÊt nghiÖp v« h×nh trong n«ng nghiÖp lµ rÊt lín vµ chØ ®ãng gãp 25% GDP cña toµn x· héi. Khu vùc II chØ chiÕm 13% lùc l­îng lao ®éng, khu vùc III lµ 19% nh­ng ®ãng gãp vµo GDP t­¬ng øng lµ 32% vµ 43%. Khu vùc II vµ III cã tèc ®é ph¸t triÓn cao 14%-16% ®èi víi c«ng nghiÖp vµ trªn 20% ®èi víi dÞch vô. H­íng ph©n c«ng l¹i lao ®éng gi÷a c¸c vïng, trong tõng vïng b»ng c¸ch ph¸t triÓn nh÷ng ngµnh thu hót nhiÒu lao ®éng nh»m tranh thñ lîi thÕ so s¸nh trong héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ. CÇn ®Çu t­ cho ph¸t triÓn n«ng nghiÖp mét c¸ch tháa ®¸ng ®Ó biÕn n«ng nghiÖp thµnh mét ngµnh s¶n xuÊt hµng hãa, t¨ng n¨ng suÊt lao ®éng trong n«ng nghiÖp ®Ó cã thÓ rót bít lao ®éng bæ sung vµo c¸c khu vùc kh¸c. Còng cÇn tËp trung ®Çu t­ vµo nh÷ng ngµnh c«ng nghiÖp cã suÊt ®Çu t­ thÊp bëi suÊt ®Çu t­ thÊp th× hiÖu qu¶ c¹nh tranh sÏ cao h¬n do thu hót ®­îc nhiÒu lao ®éng nh­ ngµnh tiÓu thñ c«ng nghiÖp, c«ng nghiÖp thùc phÈm, c«ng nghiÖp nhÑ, c«ng nghiÖp may m¨c, da giµy... Ngoµi ra ngµnh dÞch vô du lÞch còng cã thÓ thu hót ®­îc nhiÒu lao ®éng nªn trong thêi gian tíi chóng ta cÇn ph¶i khai th¸c h¬n n÷a ®èi víi ngµnh nµy. Thứ sáu : C¶i thiÖn m«i tr­êng ®Çu t­ th«ng tho¸ng h¬n, mÒm dÎo h¬n ®Ó thu hót dßng vèn FDI. §ång thêi chó träng khai th¸c tiÒm n¨ng vèn trong d©n c­ vµ khu vùc t­ nh©n: Dßng vèn ®Çu t­ n­íc ngoµi vµo ViÖt Nam ®ang cã xu h­íng gi¶m dÇn kÓ tõ sau cuéc khñng ho¶ng tµi chÝnh tiÒn tÖ trong khu vùc §«ng Nam ¸ råi lan ra §«ng B¾c ¸ vµo n¨m 1997-1998. §©y lµ mét ®iÒu dÔ nhËn thÊy v× cho ®Õn thêi ®iÓm hiÖn nay vèn ®Çu t­ n­íc ngoµi vµo ViÖt Nam chñ yÕu do c¸c n­íc Nics n­íc vµ §«ng ¸, c¸c n­íc ASEAN vµ NhËt B¶n. C¸c quèc gia nµy cung cÊp 3/4 FDI vµo ViÖt Nam. Cßn c¸c n­íc Ch©u ¢u, ®Æc biÖt lµ Mü cã luång FDI vµo ViÖt Nam qu¸ nhá bÐ. ChÝnh v× vËy, khi khñng ho¶ng x¶y ra ë khu vùc Ch©u ¸ th× vèn FDI vµo ViÖt Nam gi¶m ®¸ng kÓ. V× vËy trong thêi gian tíi cÇn tiÕp tôc duy tr× quan hÖ víi c¸c n­íc truyÒn thèng ®ång thêi më réng quan hÖ víi c¸c ®èi t¸c míi ë Ch©u ¢u vµ Mü, c¸c c«ng ty ®a quèc gia, c¸c tËp ®oµn kinh tÕ lín ®Ó thu hót nhiÒu h¬n n÷a FDI nhiÒu h¬n n÷a vµo ViÖt Nam phôc vô nhiÒu h¬n n÷a. Ngoµi ra cßn cã mét vÊn ®Ò n÷a ®Æt ra lµ ph¶i ch¨ng FDI vµo ViÖt Nam gi¶m do m«i tr­êng ®Çu t­ ch­a ®ñ hÊp dÉn do thiªó mét hÖ thèng luËt ph¸p hoµn chØnh vµ hîp lÝ ®èi víi ®Çu t­; do kh©u qui ho¹ch thu hót ®Çu t­ n­íc ngoµi cßn yÕu kÐm; do qu¶n lÝ nhµ n­íc vÒ ®Çu t­ n­íc ngoµi kÐm hiÖu qu¶... vµ nhiÒu vÊn ®Ò liªn quan kh¸c vÒ ®Êt ®ai, thñ tôc hµnh chÝnh, lao ®éng. VÊn ®Ò ®Æt ra lµ ph¶i c¶i thiÖn m«i tr­êng ®Çu t­ th«ng tho¸ng h¬n, mÒm dÎo h¬n ®Ó thu hót dßng vån ®Çu t­ n­íc ngoµi. Thứ bảy : §Çu t­ h¬n n÷a cho gi¸o dôc ®µo t¹o, khoa häc c«ng nghÖ ®Ó x©y dùng nguån nh©n lùc ®Êt n­íc h­íng tíi nÒn kinh tÕ tri thøc: Mét trong nh÷ng h­íng sinh lîi nhiÒu nhÊt trong t­¬ng lai lµ ®Çu t­ cho gi¸o duc ®µo t¹o, khoa häc c«ng nghÖ. §Çu t­ vµo gi¸o duc ®µo t¹o, khoa häc c«ng nghÖ lµ ®Çu t­ x©y dùng nguån nh©n lùc cho ®Êt n­íc. ViÖt Nam cã mét nguån lao ®éng dåi dµo nh­ng chÊt l­îng ch­a cao. XÊp xØ 68% nguån nh©n lùc tËp trung vµo n«ng nghiÖp, ®iÒu nµy ph¶n ¸nh c¬ cÊu nh©n lùc cña nÒn kinh tÕ cßn l¹c hËu. Trong ®µo t¹o nghÒ nghiÖp, tr­íc hÕt cÇn chó ý ®µo t¹o kiÕn thøc vÒ kü thuËt trång trät, ch¨n nu«i, kiÕn thøc vÒ kinh tÕ cho ng­êi lao ®éng ë khu vùc n«ng nghiÖp ®Ó n©ng cao t­ duy kinh tÕ, qu¶n lý kinh doanh cña c¸c hé kinh tÕ gia ®×nh vµ chñ trang tr¹i. Cïng víi sù ®Çu t­ tháa ®¸ng vµo n«ng nghiÖp ®Ó biÕn nÒn n«ng nghiÖp n­íc ta thµnh kinh tÕ hµng hãa vµ h­íng tíi thÞ tr­êng thÕ giíi. §èi víi ®µo t¹o lao ®éng cho c¸c ngµnh c«ng nghiÖp, ho¹t ®éng dÞch vô cÇn cã nh÷ng ch­¬ng tr×nh phï hîp. §µo t¹o mét ®éi ngò c«ng nh©n lµnh nghÒ chÊt l­îng cao phôc vô cho khu c«ng nghiÖp, khu chÕ xuÊt, khu c«ng nghÖ cao. CÇn ph¶i t¨ng c­êng chÊt l­îng ®µo t¹o trong c¸c tr­êng ®¹i häc, cao ®¼ng ®Ó cã thÓ cã ®­îc mét ®éi ngò nh÷ng nhµ qu¶n lÝ, kü s­ cao cÊp phôc vô cho sù nghiÖp c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa cña ®Êt n­íc. T¨ng chi phi ®µo t¹o nghiªn cøu khoa hoc c«ng nghÖ, tËp trung vµo ph¸t triÓn c¸c ngµnh kinh tÕ mòi nhän, c¸c ngµnh cã hµm l­îng trÝ tuÖ vµ tri thøc ë møc ®é cao còng nh­ kh«ng nªn tËp trung vµo nh÷ng ngµnh trªn thÞ tr­êng ®· b·o hßa. §Çu t­ m¹nh mÏ cho gi¸o duc ®µo t¹o, khoa häc c«ng nghÖ ®Ó x©y dùng nguån nh©n lùc ViÖt Nam ®ñ n¨ng lùc, ®­a nÒn kinh tÕ n­íc ta h­íng tíi nÒn kinh tÕ tri thøc. Thứ 8: Định hướng các ngành công nghiệp chủ chốt - Nhóm ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh Nhóm ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh là nhóm ngành đáp ứng tốt các tiêu chí về năng lực sản xuất, về giá cả, chất lượng và thị trường, đồng thời tận dụng được lợi thế so sánh của đất nước (về lao động, về tài nguyên...) và có khả năng phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Căn cứ vào thực tế phát triển và vai trò của các nhóm ngành công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội đất nước giai đoạn 2001-2005; vào điều kiện của Việt Nam trong việc đầu tư phát triển cũng như tiềm năng phát triển của các nhóm ngành trong tương lai cả ở thị trường trong nước và thế giới, trong giai đoạn tới một số ngành sản xuất quan trọng sẽ được tập trung các nguồn lực gồm: chế biến nông lâm thuỷ sản, dệt may, da giày, lắp ráp cơ điện tử, đóng tàu. Đây là những ngành khai thác được lợi thế về tài nguyên thiên nhiên (chế biến nông lâm thuỷ hải sản), giải quyết được nhiều việc làm, có nhu cầu thị trường lớn, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển (khu vực tư nhân, đầu tư nước ngoài...), đáp ứng được định hướng lấy xuất khẩu làm động lực phát triển trong giai đoạn 2006-2010. Định hướng chung cho nhóm ngành này trong 5 năm tới phải chuyển dịch theo hướng tăng giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm dần tỷ lệ gia công, tăng cường khâu thiết kế (dệt may, da giày, lắp ráp cơ điện tử) và trình độ đội ngũ lao động, tăng cường chuyển giao công nghệ, trang thiết bị để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trong giai đoạn hội nhập sắp tới. Tiếp tục huy động nguồn vốn tư nhân và đầu tư nước ngoài để phát triển nhóm ngành. Riêng với cơ khí đóng tàu, cần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ trái phiếu Chính phủ để phát triển trong giai đoạn tới, đồng thời đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất thép tấm dùng cho cơ khí đóng tàu để nâng cao tỷ lệ nội địa hoá cho sản phẩm.  Đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của dệt may phấn đấu đạt 9-10 tỷ USD, sản xuất được 1.400 triệu m2 vải lụa các loại, tạo được bước chuyển dịch cơ bản về cơ cấu sản phẩm, tăng dần sản phẩm có giá trị cao, hàng mốt thời trang, tăng dần tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm xuất khẩu. Đối với da giày, cần duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân trên 10%/năm; đến năm 2010 đạt sản lượng trên 620 triệu đôi giày dép các loại, kim ngạch xuất khẩu đạt 6,2 tỷ USD. Đối với cơ khí đóng tàu, phấn đấu đến năm 2010 nâng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm lên 60% (hiện là 30%), nghiên cứu đầu tư đóng mới được tàu dầu có trọng tải đến 100.000 tấn, sửa chữa được tàu có trọng tải 400.000 tấn; chế tạo và lắp ráp được động cơ tàu thuỷ có công suất lớn. Đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm điện tử, linh kiện và phầm mềm đạt 3,5 tỷ USD vào năm 2010. Lĩnh vực chế biến nông lâm thuỷ sản, tập trung nâng cao năng lực chế biến các sản phẩm từ nông lâm nghiệp như xay sát gạo, chế biến thức ăn sẵn, chế biến hải sản, hạt điều, chè, cà phê, chế biến gỗ... Tiếp tục nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm, xây dựng thương hiệu, tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu để tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ, cà phê, chè, hạt điều, gạo... -Nhóm ngành sản xuất tư liệu sản xuất: Đây là nhóm ngành công nghiệp có vai trò quan trọng, tăng khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế gồm: điện, dầu khí, than, hoá chất cơ bản, khai khoáng, cơ khí. Nhóm ngành này được coi là cơ sở, nền tảng cho toàn ngành công nghiệp nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung, có vai trò hỗ trợ cho sự phát triển của các ngành công nghiệp khác, cung cấp các đầu vào cơ bản về nguyên nhiên liệu, máy móc, thiết bị phụ tùng, ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành cũng như chất lượng của các loại sản phẩm công nghiệp. Tập trung phát triển nhóm ngành này chính là tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh và ngành công nghiệp tiềm năng phát triển. Định hướng phát triển của nhóm ngành này trong giai đoạn tới là tập trung hoàn thành đúng tiến độ các dự án trọng điểm của ngành để đảm bảo đáp ứng cho các nhu cầu trong nước, tăng cường đầu tư chế biến sâu, nâng cao dần giá trị gia tăng trong sản phẩm, khai thác nguồn tài nguyên trong nước có hiệu quả, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động và chống ô nhiễm môi trường sinh thái. Trong giai đoạn tới, mục tiêu phát triển cụ thể của các ngành như sau: đối với ngành điện, tăng trưởng sản lượng điện sản xuất bình quân khoảng 15-17%/năm, đạt 106-118 tỷ kWh vào năm 2010. Ngành dầu khí phấn đấu gia tăng trữ lượng xác minh hàng năm khoảng 30 - 35 triệu tấn dầu quy đổi, đáp ứng khoảng 30-35% nhu cầu xăng dầu và 20-30% nhu cầu chất dẻo, tổng sản lượng khai thác dầu thô vào năm 2010 khoảng 19-20 triệu tấn, khai thác khí khoảng 11 tỷ m3. Ngành than tăng sản lượng than sạch lên 40 triệu tấn vào năm 2010. Ngành thép cần đảm bảo sản lượng thép sản xuất trong nước đạt 6,3-6,5 triệu tấn vào năm 2010, cân đối được 50% phôi cho cán thép xây dựng thông thường (khoảng 2,5 triệu tấn). Ngành hoá chất cơ bản đạt tốc độ tăng trưởng bình quân trên 14%/năm, đáp ứng 100% nhu cầu phân lân, NPK, khoảng 70-80% nhu cầu phân đạm urê cho nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng hoá chất cơ bản và sản phẩm hoá dầu. Ngành khai khoáng  tập trung vào các dự án khai thác bauxit và sản xuất alumin ở Lâm Đồng, chế biến sâu quặng titan và các dự án sản xuất kẽm, chì ở Thái Nguyên. Ngành cơ khí phấn đấu nâng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm lên 60% vào năm 2010, đáp ứng khoảng 50% nhu cầu chế tạo thiết bị cho nền kinh tế, nhất là thiết bị toàn bộ cho các ngành xi măng, giấy, chế biến lương thực, thực phẩm như chế biến tinh bột sắn, các thiết bị phục vụ cơ giới hoá nông nghiệp, các thiết bị cho nhà máy thuỷ điện... tốc độ tăng trưởng sản xuất chung toàn ngành đạt 18 - 20%/năm. -Nhóm ngành công nghiệp tiềm năng Là nhóm ngành hiện tại năng lực cạnh tranh còn thấp nhưng có tiềm năng phát triển trong tương lai. Đây là nhóm ngành ứng dụng khoa học công nghệ mới, công nghệ hiện đại, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng nguồn lao động có trình độ, phát triển theo hướng hội nhập, sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu và khai thác, mở rộng thị trường nước ngoài. Nhóm ngành này bao gồm lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, phần mềm; hoá dược, hoá mỹ phẩm, chất tẩy rửa; cơ khí chế tạo; nhóm sản phẩm từ công nghệ mới. Định hướng phát triển của nhóm ngành này trong giai đoạn tới là tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển, chủ động tiếp cận, từng bước thực hiện chuyển giao công nghệ, phát triển trước một bước công nghiệp phụ trợ và tăng cường công tác đào tạo lao động có trình độ cao để đáp ứng nhu cầu phát triển của nhóm ngành này trong giai đoạn 2010-2020. Mục tiêu phát triển của nhóm ngành này là phấn đấu đạt giá trị xuất khẩu các sản phẩm phần mềm 300-400 triệu USD vào năm 2010; tập trung phát triển lĩnh vực chế tạo linh kiện điện tử, điện tử công nghiệp, công nghiệp công nghệ thông tin; hình thành một số trung tâm đúc, rèn, nhiệt luyện, tạo phôi có công nghệ tiên tiến, phấn đấu đáp ứng 50% nhu cầu chế tạo thiết bi trong nước; xây dựng ngành công nghiệp hoá dược đáp ứng 40-45% nhu cầu thuốc kháng sinh, 30-35% nhu cầu nguyên liệu sản xuất vitamin C, 20% nhu cầu về tá dược, 100% nhu cầu về hoạt chất từ nguồn nguyên liệu thiên nhiên (cây có dầu). Thứ 9 : Dịch vụ sẽ phải là mũi nhọn. Nhận định về tầm quan trọng của hoạt động dịch vụ trong kế hoạch phát triển KTXH, Chính phủ đã nhận định: "Dịch vụ sẽ là mảng chiến lược những năm về sau". Ðiều này là một tất yếu khách quan bởi sức ép tự do hoá đối với lĩnh vực dịch vụ của VN trong BTA Và Trong WTO sắp tới. Trước mắt, theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, ta cam kết mở cửa các lĩnh vực như ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm cho các công ty dịch vụ Mỹ vào hoạt động theo lộ trình với những giới hạn mà VN đặt ra đối với các loại hình đầu tư, dịch vụ này tuỳ theo mức độ nhạy cảm (an ninh quốc gia, kinh tế). Thời hạn mở cửa cho các ngành hàng dịch vụ là từ 3 - 5 năm, trong đó phần góp vốn của Mỹ không quá 49%, riêng khu vực ngân hàng có thể 100% sau 9 năm Hiệp định có hiệu lực. Trong giai đoạn 2006-2010, vai trò của khu vực dịch vụ sẽ được coi là mũi nhọn để phát triển kinh tế đất nước. Theo đó, sẽ tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng như du lịch, bảo hiểm vận tải hàng không, xây dựng, xuất khẩu lao động... Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ. Ðồng thời, tập trung tăng cường xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động dịch vụ du lịch tài chính ngân hàng, thu kiều hối, và bưu chính viễn thông, vận tải đường không và đường biển. Việc đẩy mạnh xã hội hoá để phát triển các dịch vụ văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, dịch vụ việc làm... theo cơ chế thị trường cũng là vấn đề cần quan tâm. KẾT LUẬN Chưa viết kết luận! Tài liệu tham khảo: 1. Giáo trình kinh tế đầu tư. 2. Thời báo kinh tế Việt Nam. 3. Một số đề tài của trường kinh tế quốc dân và kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. 4. Niên giám thống kê – Tổng cục thống kê. 5. Bộ Kế hoạch và đầu tư. 6. “ Trong bản đề cương trên chúng em, chỉ đưa ra những vấn đề chung nhất, chưa chi tiết. Mặt khác, chúng em cũng đưa ra một số ý kiến chủ quan của mình, do khả năng còn có hạn, chúng em không tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót. Mong thấy thông cảm và góp ý cho chúng em để bài viết trở nên hoàn thiện hơn.” Chúng em xin cám ơn thầy !

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC2069.doc
Tài liệu liên quan