Đề tài Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Việt Nam

Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới mạnh trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như doanh nghhiệp nhà nước nên hiệu quả thấp. Đa số lãnh đạo của của các công ty cổ phần đều là cán bộ cũ của doanh nghiệp nhà nước chuyển sang, không có thêm những khuôn mặt mới với tư duy theo lối mới đẻ đem lại sức sống mới cho công ty cổ phần. Cụ thể như sau: theo số liệu điều tra trong các doanh nghiệ đã cổ phần hoá 86% giám đốc, 88% phó giám đốc và 90% kế toán trưởng vẫn giữ nguyên như cũ. Do vậy chất lượng quản trị doanh nghiệp không được cải thiện. Vì vậy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh về ngắn hạn có thể có thay đổi song về trung và dài hạn rất khó có thể thay đổi. Việc Nhà nước nắm giữ 51% vốn điều lệ tại khá nhiều công ty cổ phần là một cái cớ để các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị không thực hiện hết chức năng của công ty cổ phần theo luật định, mà chủ yếu tập trung theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Lãnh đạo công ty không đại diện cho cổ đông có sở hữu vốn lớn mà chủ yếu Nhà nước định hướng tham gia quản lý. Những điều đó dẫn đến tình trạng là doanh nghiệp cổ phần hoá nào mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì hoạt động khó khăn hơn trước. - Thứ năm, một số doanh nghiệp cổ phần hoá mới chỉ tập trung vào tiết kiệm chi phí, giảm giá thành để tăng lợi nhuận, chia

doc16 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1748 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sinh viên: Trịnh Văn Duy Lớp: QTKD tổng hợp 46A LỜI NÓI ĐẦU Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và Nhà nước hiện nay. Thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy mặc dù doanh nghiệp nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của chúng có nhiều điểm bất cập. Chính vì vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để loại hình doanh nghiệp này trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước càng trở nên cấp bách khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Một trong những giải pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại nhiều thay đổi triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một biện pháp hữu hiệu được tiến hành phổ biến ở nhiều nền kinh tế trên thế giới. Ngay cả những quốc gia có nên kinh tế phát triển phương thức quản lý doanh nghiệp tiên tiến như: Anh, Pháp, Mỹ cũng áp dụng. Ở nước ta.cổ phần hoá được bắt đầu triển khai cách đây 15 năm với những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước. Cổ phần hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, một giải pháp quan trọng tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cổ phần hoá vẫn chưa mang lại những kết quả như mong muốn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu cổ phần hoá dianh nghiệp nhà nước, tìm được những hạn chế của nó, đưa ra các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là việc làm rất có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VIỆT NAM I. TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NHỮNG NĂM QUA Tiến trình cổ phần hoá 15 năm qua có thể chia làm 4 giai đoạn. Đó là giai đoạn: thí điểm, giai đoạn mở rộng, giai đoạn chủ động và giai đoạn đẩy mạnh. 1.1. Giai đoạn thí điểm (từ năm 1992 – 1996). Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được bắt đầu từ tháng 11/ 1991 khi hội nghị TW2 khoá 7 của Đảng đưa vào chủ trương cổ phần hoá. Giai đoạn này gắn với nghị định 28 của Chính phủ. Giai đoạn thí điểm từ 1992-1996, nhà nước chỉ thí điểm thực hiện cổ phần hoá những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, mang tính chất tự nguyện, việc bán cổ phần cũng chỉ giới hạn trong những đối tượng là nhà đầu tư trong nước, trong đó ưu tiên bán cổ phần cho người lao động. Chính vì vậy, mới chỉ có 5 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hoá trên tổng số khoảng 16 doanh nghiệp được thí điểm trong giai đoạn này. 1.2. Giai đoạn mở rộng (1996-2002). Giai đoạn này gắn với nghị định 44 của Chính phủ. Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến năm 2002 với nhiều cơ chế chính sách về cổ phần hoá được hoàn thiện và ban hành đã đẩy nhanh tiến trình này. Đặc trưng của giai đoạn này là việc mở rộng nhiều hình thức cổ phần hoá mặc dù các cơ quan quản lý nhà nước vẫn phải trực tiếp tham gia rất nhiều công đoạn và tổ chức điều hành. Đó là việc mở rộng thêm diện bán cổ phẩn cho người Việt Nam định cư tại nước ngoài và người nước ngoài định cư lâu dài tại Việt Nam; mở rộng mức ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp; có thể bán 100% vốn nhà nước tại doanh nghiệp… Kết quả là giai đoạn này với một cơ chế cổ phần hoá ngày càng được hoàn thiện, sự hưởng ứng đối với tiến trình sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp ngày càng tăng lên, chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được 868 doanh nghiệp nhà nước, bộ phận doanh nghiệp nhà nước. 1.3. Giai đoạn chủ động (bắt đầu từ tháng 6/2002 đến tháng 11/2004). Giai đoạn này gắn với cơ sở pháp lý quan trọng là Nghị định số 64/2002/NĐ-CP của chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Đây là giai đoạn Nhà nước chủ động giao cho các Bộ, ngành, địa phương trách nhiệm lựa chọn và triển khai cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý mà không trông chờ sự tự nguyện của các doanh nghiệp cấp dưới như trước đây. Trong giai đoạn này, Nhà nước cũng giao thêm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp và phê duyệt phương án cổ phần hoá cho Bộ trưởng các Bộ, chủ tịch UBND các tỉnh (trừ trường hợp giảm trên 500 triệu đồng vốn nhà nước phải có ý kiến của Bộ tài chính). bắt đầu áp dụng biện pháp nhằm công khai, minh bạch hoá quá trình cổ phần hoá như cho phép thuê các tổ chức trung gian xác định giá trị doanh nghiệp; dành tối thiểu 30% số cổ phần (sau khi trừ số lượng cổ phần nhà nước nắm giữ, cổ phần bán ưu đãi cho người lao động) để bán cho các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp… Mặc dù, về số lượng, giai đoạn này chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được 1435 doanh nghiệp nhà nước, bộ phận doanh nghiệp nhà nước nhưng theo đaónh giá các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá thực sự quy mô vẫn còn khá nhỏ bé chưa chiếm đến 5% tổng số vốn nhà nước trong các doanh nghiệp, quá trình cổ phần hoá còn khép kín, chưa thực sự gắn với thị trường nên vừa hạn chế công tác huy động vốn của doanh nghiệp vừa làm giảm sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp; việc giải quyết lợi ích giữa các bên trong một doanh nghiệp được cổ phần hoá cũng chưa được hài hoà… 1.4. Giai đoạn đẩy mạnh (từ tháng 12/2004 đến nay). Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Trong giai đoạn này đã xuất hiện các công ty nhà nước có quy mô vốn lớn không thuộc diện nhà nước giữ 100% vốn được cổ phần hoá như: Bảo Minh, Vinamilk, Vĩnh Sơn… và được niêm yết làm tăng đáng kể quy mô của thị trường chứng khoán. Các giải pháp để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hoá và các cơ quan trong xử lý nợ, tài sản tồn đọng, lao động dôi dư cũng được tiến hành song song với việc bổ sung các quy định để nâng cao tính khách quan, minh bạch, tính chuyên nghiệp trong quá trình cổ phần hoá như định giá qua các định chế trung gian, tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thực hiện bán cổ phần lần đầu thông qua đấu giá công khai, theo nguyên tắc thị trường… Trong giai đoạn này, chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được 1054 doanh nghiệp nhà nước, bộ phận doanh nghiệp nhà nước. II. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TỪ VIỆC CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NGHÀ NƯỚC Sau 15 năm triển khai và tập trung thực hiện 5 năm vừa qua, công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt được kết quả trên nhiều mặt được thể hiện như sau: 2.1.Những thành tựu mang tính chất định lượng. Qua kết quả báo cáo của các địa phương, bộ, ngành, tổng công ty thì đến 30/6/2006 cả nước đã sắp xếp được 4760 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp. Trong đó, cổ phần hoá 3365 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp; giao bán, khoán kinh doanh và cho thuê 310 doanh nghiệp, sáp nhập hợp nhất 450 doanh nghiệp…Kết quả các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá qua từng năm như sau: Năm Số doanh nghiệp được cổ phần hoá 1990-1992 không có 1993 2 đơn vị 1994 1 đơn vị 1995 3 đơn vị 1996 5 đơn vị 1997 7 đơn vị 1998 100 đơn vị 1999 250 đơn vị 2000 212 đơn vị 2001 204 đơn vị 2002 164 đơn vị 2003 532 đơn vị 2004 753 đơn vị 2005 754 đơn vị 1/2006-6/2006 378 đơn vị Tổng cộng 3365 đơn vị Qua những con số trên đây ta thấy rõ tiến trình cổ phần hóa đã trải qua những bước thăng trầm, nhưng nói chung là theo xu hướng mỗi ngày càng được đẩy mạnh. Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu tiên (mỗi năm vài ba doanh nghiệp đến vài trăm doanh nghiệp) và cho đến 3 năm gần đây tiến trình cổ phần hoá được đẩy mạnh hơn, do đó số doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hoá tương đối nhiều. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần doanh nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43.4%), tiếp đó là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (26%), còn lại là bán toàn bộ vốn nhà nước tại doanh nghiệp (15.5%) và giữ nguyên vốn nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu (15.1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành công nghiệp giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65.5%, thương mại dịch vụ chiếm 28.7% và ngành nông lâm ngư nghiệp chiếm 5.8%. Nếu phân chia theo địa phương thì tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chiếm 65.7%, bộ ngành trung ương chiếm 25.8%, tổng công ty 91 chiếm 8.5%. Nhìn lại quá trình qua có thể nhận thấy chúng ta đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: Số doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá chiếm khoảng 24% tổng số doanh nghiệp khi chưa tiến hành sắp xếp lại và cổ phần hoá (khoảng 12000 doanh nghiệp vào thời điểm trước năm 1995) Có trên 10% vốn của nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá (khoảng 30000 tỷ đồng). Hầu hết các doanh nghiệp thuộc loại nhỏ, yếu, hiệu quả kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém đã được đưa bớt ra khỏi hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy có thêm điều kiện để củng cố các doanh nghiệp nhà nước khác. Trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 30% số các doanh nghiệp (trên 800 doanh nghiệp) được hoàn toàn độc lập tự chủ trong kinh doanh mà không còn sự chi phối trực tiếp nào của nhà nước (nhà nước không nắm giữ một cổ phần nào, toàn bộ thuộc về tập thể người lao động) Việc sắp xếp lại và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành trên 61 trong tổng số 64 tỉnh thành. Đặc biệt, năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khấm khá, quy mô vốn lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty như: Công ty khoan và dịch vụ dầu khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực Khánh Hoà, Công ty giấy Tân Mai, Công ty Kinh Đô, Công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I, Vinamilk. Giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước là 1500 tỷ đồng. Nhà máy thuỷ điện Sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước là 1253 tỷ đồng. Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định trị giá trị cổ phần được thực hiện thông qua đấu giá công khai trên thị trường. ngay trong ngày đầu tiên bán đáu giá Vinamilk, bán hết hơn 1.66 triệu cổ phiếu với giá trung bình cao gấp 4.89lần mệnh giá. Tính minh bạch và công khai đấu giá cổ phiếu của Công ty sữa Việt Nam đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong số 7 nhà đầu tư, tổ chức mua được cổ phần Vinamilk có 5 quỹ đầu tư nước ngoài và 2 nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Đáng chú ý là các nhà đầu tư mới chiếm tỷ lệ thắng thầu tới 78.4% trên tổng số cổ phần bán ra, các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt nam chỉ chiếm 21.6%, và số vốn thu hút đượctừ các tổ chức đầu tư mới lên tới trên 450 tỷ đồng. Sau 3 năm chuẩn bị Vinamilk đã hoàn toàn chuyển đổi từ một doanh nghiệp nhà nước lớn thành công ty cổ phần đại chúng . Theo kết quả điều tra của Viện quản lý kinh tế trung ương (CIEM) phối hợp với Ngân hàng thế giới (WB) tại 559 doanh nghiệp cổ phần hoá, kết quả cho thấy: 87,53 % số doanh nghiệp khẳng định kế quả hoạt động kinh doanh tốt hơn nhiều so với trước khi cổ phần hoá. 2.2. Tác động của cổ phần hoá đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá. Bên cạnh những kết quả về mặt số lượng như đã đề cập ở trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn đem lại những hiệu quả quan trọng về mặt kinh tế, xã hội. những kết quả này được thể hiện trong một số đánh giá tổng quát sau. Qua báo cáo của 500 doanh nghiệp cổ phần hóa, hiệu quả sản xuất kinh doanh chuyển biến tích cực. Xét trên tổng thể, các chỉ tiêu chủ yếu đều tăng. Cụ thể, vốn điều lệ tăng 5-100%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 137%, thu nhập của người lao động tăng 63%, số lao động tăng 13%, cổ tức trung bình đạt 15.5%. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn. Qua báo cáo hoạt động của các doanh nghiệp có thời gian hoạt động trên một năm, kể cả những doanh nghiệp trước đó bị thua lỗ thì doanh thu bình quân của doanh nghiệp tăng gần gấp hai lần so với trước khi thực hiện cổ phần hoá. Cổ phần hoá làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá nói chung và hiệu quả phát triển kinh tế nói riêng. Theo điều tra trên gần 600 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương năm 2005 cho thấy: 87.53% doanh nghiệp kết quả hoạt dộng kinh doanh tốt hoặc tốt hơn nhiều so với trước cổ phần hoá, trung bình doanh thu tăng 13.4%, lợi nhuận trước thuế tăng 9.4% và đặc biệt lợi nhuận sau thuế tăng đến 54.3%, năng suất lao động tăng 18.3%. Từ đây, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cải thiện vững chắc, đây không chỉ là nhân tố tích cực để thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá mà còn là nguồn hàng hoá tiềm năng cho các trung tâm giao dịch chứng khoán. Trong 1 cuộc khảo sát 559 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá hơn 1 năm cho thấy có tới 87.53% khẳng định kết quả hoạt động tốt hơn trước. Ngay trong năm đầu tiên cổ phần hoá, doanh thu bình quân của doanh nghiệp tăng 13 %, lợi nhuận sau thuế tăng 48.8%. Điều này cho thấy việc chuyển đổi đã có tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều năm đã đi vào hoạt động ổn định, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp được duy trì, doanh thu bình quân tăng 23.6%, lợi nhuận trước thuế tăng 9.4%, lợi nhuận sau thuế tăng tới 54.4%. Một số doanh nghiệp có doanh thu tăng cao như Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển: 30 lần, Công ty cổ phần cơ khí điện lạnh: 13 lần, Công ty cổ phần Kymdan: 11.2 lần… Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều tăng: năng suất lao động tăng bình quân 18.3%; mức nộp ngân sách bình quân của các doanh nghiệp tăng 24.9%; đầu tư tài sản cố định tăng 11.5%; lương bình quân doanh nghiệp tăng 11.4%. Điều đó khẳng định hiệu quả của việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. 2.3. Cổ phần hoá tạo thêm công ăn việc làm, thu hút thêm lao động và tăng thu nhập cho người lao động. Trong số các chỉ tiêu đạt được trên, tốc độ tăng năng suất lao động là yếu tố ảnh hưởng tích cực nhất đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá. Hầu hết trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, việc làm và thu nhập của người lao động đều được bảo đảm ổn định và có chiều hướng tăng lên. Cụ thể như sau: năng suất lao động tăng 18.3%/ năm; lương bình quân của người lao động tăng 11.4%/ năm. Số lao động của doanh nghiệp trở thành cổ đông khá đông. Chế độ của người lao động được quan tâm giải quyết thoả đáng. Số lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá tăng bình quân 6.6%. Cổ tức bình quân đạt 17.11%. Hầu hết các doanh nghiệp đều có mức cổ tức cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng. Qua nghiên cứu, khảo sát các doanh nghiệp sau cổ phần hoá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy việc thay đổi mô hình hoạt động của cán bộ quản lý và người lao động đã có tích cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cán bộ quản lý và người lao động đã thật sự gắn bó với doanh nghiệp, nhờ vậy mà hiệu quả kinh doanh tăng lên. Có 96% số doanh nghiệp cho rằng cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như nâng cao tính chủ động của cán bộ quản lý trong thực hiện các mục tiêu lợi nhuận và hiệu quả; 88% số doanh nghiệp khẳng định kết quả sản xuất của người lao động đã tăng lên khi tiền lương của họ được tính toán trên cơ sở kết quả việc làm. Thực tế, có 85% doanh nghiệp cho rằng sau cổ phần hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được khai thác triệt để hơn, sử dụng tốt hơn, tiết kiệm hơn trước. Với cơ chế quản lý mới, người lao động được coi là chủ nhân thực sự trong công ty cổ phần. Nhờ đó, họ đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, cho công ty, cho Nhà nước và xã hội. 2.4.Cổ phần hoá tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, giúp cơ cấu lại doanh nghiệp, huy động thêm vốn, tạo cho doanh nghiệp có chế quản lý năng động hiệu quả. Do mục tiêu của cổ phần hoá là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có sự tham gia đông đảo của người lao động nên sẽ tăng cường được sự giám sát của các nhà đầu tư đối với nguồn vốn của doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn, thay đổi cung cách quản trị nhằm đảm bảo giải quyết được hài hoà lợi ích của nhà nước, của doanh nghiệp của các nhà đầu tư và của người lao động . Việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp thu hút được một lượng lớn nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào đầu tư phát triển sản xuất qua thị trường chứng khoán. Với 2242 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá năm 2004, 12411 tỷ đổng cổ phiếu đã được bán, Nhà nước nhờ đó đã có 10169 tỷ đồng (chiếm 58% tổng số vốn Nhà nước đã cổ phần hoá) để tái đầu tư phát triển kinh tế. Mặt khác, quy mô vốn điều lệ của doanh nghiệp sau cổ phần hoá tăng bình quân 44% đã cho thấy cổ phần hoá thực sự đã mở ra một cánh cửa để các doanh nghiệp nhà nước tiếp cận với một “kênh” dẫn vốn mới đáp ứng cho nhu cầu phát triển. Việc tham gia của công chúng đầu tư trong các phiên đấu giá trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cho thấy không chỉ người lao động đang làm việc tại các công ty được đấu giá mà cả người dân đã khá quan tâm đến việc đầu tư, kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu. Tính đến hết tháng 1/2006, trung tâm đã đấu giá 28 phiên lớn cho các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá hoặc doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá bán bớt phần vốn nhà nước (chưa kể có 17 phiếu phối hợp thực hiện với trong tâm giao dịch chứng khoán TP HCM). Tổng giá trị cổ phần trúng giá đạt 2039,2 tỷ đồng, với 2880 nhà đầu tư trúng giá trên 4085 tổng số lượt nhà đầu tư đăng ký đấu giá. Việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư, của những người lao động trong doanh nghiệp mà còn thu hút cả vốn của những nông dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành những cổ đông, gắn họ với sự phát triển của doanh nghiệp. Công ty mía đường Lam Sơn và Công ty mía đường La Ngà đã thực hiện cổ phần hoá theo hướng đó. Cụ thể, ở Công ty mía đường Lam Sơn, nhà nước giữ 46%, nông dân trồng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 26%, người lao động trong doanh nghiệp mua 24% cổ phần. Công ty mía đường Lam Sơn là một doanh nghiệp hoạt động rất có hiệu quả. Sau 5 năm cổ phần hoá (từ 2000-2005) nộp ngân sách tăng từ 10 tỷ lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77.5 tỷ đồng và cổ tức là 20%/ năm. Tiến trình cổ phần hoá đã tạo ra một số lượng khá lớn công ty cổ phần. Đến thời điểm hiện nay đã có hơn 1000 công ty cổ phần được hình thành trên nền của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Những công ty cổ phần này có tiềm lực lớn hơn các công ty cổ phần được các thành phần kinh tế khác lập ra. Phần lớn các công ty cổ phần này là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự xuất hiện của các công ty cổ phần có tiềm lực kinh tế lớn sẽ làm thay đổi ảnh hưởng của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sự tăng trưởng nhanh các chứng khoán niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh trong gần hai năm qua cho thấy tác động của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Việc cổ phần hoá có hiệu ứng khá rõ nết đối với việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng thành lập doanh nghiệp nhà nước tràn lan đã được chấm dứt. Trong 3 năm từ 2001-2003 cả nước chỉ thành lập mới 59 doanh nghiệp nhà nước, hầu hết tập trung vào lĩnh vực dầu khí, năng lượng nguyên tử, xản xuất cơ khí hoặc hoạt động công ích. Nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước cũng được xử lý một phần. Nhiều doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đã đổi mới được công nghệ, nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh và tính cạnh tranh. III. NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng đã bộc lộ khá nhiều hạn chế. - Thứ nhất, Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là tiến độ cổ phần hoá còn chậm chạp, chưa nhiều, chúng ta mới cổ phần hoá được các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ.Theo các số liệu đã được đề cập cho thấy việc thực hiện cổ phần hoá luôn thấp hơn chỉ tiêu đề ra. Kết quả thực hiện cổ phần hoá mới đạt khoảng 80%, trong đó nhiều Bộ, ngành, địa phương đạt dưới 50%. Theo kế hoạch (đã được điều chỉnh) từ nay cho tới cuối năm 2007, còn 1700 doanh nghiệp cần cổ phần hoá, bằng gần 70% số đã thực hiện của cả giai đoạn 2000-2005, đây thực sự là bài toán cho các Bộ, ngành, và lời giải của bài toán này cũng chính là chìa khoá cho việc gia tăng hàng hoá trên thị trường chứng khoán. So với Đề án được Thủ tướng chính phủ phê duyệt thì số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá chưa đạt 80%. Số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX là phải hoàn thành về cơ bản việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vào năm 2005 là chưa đạt. Mặc dù có chuyển biến trong năm 2005 là đã có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có quy mô lớn, và một số tổng công ty đang cổ phần hoá, nhưng nhìn chung đại đa số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá đều có vốn nhà nước quá nhỏ. Số lượng có doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm tới gần 60%, chỉ có 18.5% số doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn nhà nước trên 10 tỷ đồng. Như vậy là số vốn chưa được cổ phần hoá còn rất lớn (khoảng 270 ngàn tỷ đồng), số vốn này tập trung chủ yếu tại các tổng công ty 91 Chúng ta đã cổ phần hoá và xắp xếp lại được khá nhiều doanh nghiệp nhưng xét về chỉ tiêu vốn nhà nước đã cổ phần hoá thì vẫn chưa tới 10%. Hơn nữa trong số các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá có tới 29% số doanh nghiệp ở đó nhà nước vẫn giữ một lượng cổ phần chi phối (từ 51% trở lên). Nhà nước đang còn nắm khoảng 46.5% vốn kinh doanh của các doanh nghiệp này. Như vậy, thực chất mới chỉ khoảng 8% vốn kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá thuộc về các chủ sở hữu khác – không phải nhà nước. Con số này là quá ít. Vì nói đến cổ phần hoá thì chỉ tiêu chủ yếu nhất là cổ phần hoá vốn kinh doanh, do vậy có thể nói rằng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện rất chậm chạp chưa nhiều. 6 tháng đầu năm 2006 tốc độ cổ phần hoá còn chậm hơn do một loạt các doanh nghiệp khó cổ phần hoá từ năm 2005 chuyển sang và do đó chúng ta bắt đầu cổ phần hoá các doanh nghiệp có qui mô lớn. Vì vậy công việc định giá rất khó khăn. hiện nay chúng ta còn 2176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn là 260000 tỷ đồng chưa được cổ phần hoá. Ngoài ra xét về cơ cấu các doanh nghiệp được cổ phần hoá, việc cổ phần hoá chưa được thực hiện đều khắp trong tất cả các lĩnh vực. Cụ thể là các doanh nghiệp được cỏ phần hoá chủ yếu là thuộc ngành công nghiệp, thương mại và xây dựng, số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá trong các lĩnh vực khác rất ít. - Thứ hai, quyền sở hữu về mặt thực tế được chuyển đổi rất ít, đến hết năm 2005 tổng số vốn trong các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá chỉ chiếm 12% tổng số vốn của các doanh nghiệp nhà nước song nếu trừ 50% số vốn nhà nước còn nắm giữ trong các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá thì số vốn huy động thêm của xã hội chỉ là 6%. Một thực tế khác, cổ đông là người lao động chỉ chiếm 15,1%.. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì đây là cơ chế không thoả đáng. - Thứ ba, thời gian tiến hành cổ phần hoá còn dài Theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án Hỗ trợ kỹ thuật giám sát chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần hoá cho thấy, thời gian cổ phần hoá một doanh nghiệp tuy đã giảm được từ 512 ngày (năm 2001) xuống còn 473 ngày (năm 2004) nhưng vẫn còn dài. - Thứ tư, cổ phần hoá phần lớn thực hiện theo mô hình khép kín, bộ máy quản trị, tư duy điều hành trong các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá cơ bản là vẫn như cũ. Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới mạnh trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như doanh nghhiệp nhà nước nên hiệu quả thấp. Đa số lãnh đạo của của các công ty cổ phần đều là cán bộ cũ của doanh nghiệp nhà nước chuyển sang, không có thêm những khuôn mặt mới với tư duy theo lối mới đẻ đem lại sức sống mới cho công ty cổ phần. Cụ thể như sau: theo số liệu điều tra trong các doanh nghiệ đã cổ phần hoá 86% giám đốc, 88% phó giám đốc và 90% kế toán trưởng vẫn giữ nguyên như cũ. Do vậy chất lượng quản trị doanh nghiệp không được cải thiện. Vì vậy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh về ngắn hạn có thể có thay đổi song về trung và dài hạn rất khó có thể thay đổi. Việc Nhà nước nắm giữ 51% vốn điều lệ tại khá nhiều công ty cổ phần là một cái cớ để các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị không thực hiện hết chức năng của công ty cổ phần theo luật định, mà chủ yếu tập trung theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Lãnh đạo công ty không đại diện cho cổ đông có sở hữu vốn lớn mà chủ yếu Nhà nước định hướng tham gia quản lý. Những điều đó dẫn đến tình trạng là doanh nghiệp cổ phần hoá nào mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì hoạt động khó khăn hơn trước. - Thứ năm, một số doanh nghiệp cổ phần hoá mới chỉ tập trung vào tiết kiệm chi phí, giảm giá thành để tăng lợi nhuận, chia cổ tức, trong khi chưa chú trọng đến những vấn đề có ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của doanh nghiệp là thực hiện đổi mới công nghệ, đầu tư vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh. Trong số các doanh nghiệp được cổ phần hoá, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả vẫn còn có những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Chẳng hạn trong ngành nông nghiệp, có một số doanh nghiệp nhiều năm không dám hoạt động vì càng hoạt động càng lỗ. Không những thế, gần đây, các nhà quản lý đã nhận thấy có một số doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hoá đã biến mất trên thương trường. Mặc dù số lượng doanh nghiệp này không lớn song đây là hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng nhiều đến uy tín của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. - Thứ sáu, việc thực hiện chính sách dối với người lao động có những bất cập. Thực tế là nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao động, không lo được việc làm cho họ. Ngược lại, ở một số đơn vị làm ăn có hiệu quả, có phúc lợi để giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do sắp xếp lại thì người lao động lại không muốn nghỉ theo chế độ. Chính vì vậy, tỷ lệ người lao động được giải quyết nghỉ theo chế độ sau khi doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần vẫn còn rất thấp so với số lượng cần giải quyết. Trong một số doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá, đặc biệt là trong những doanh nghiệp có những lợi thế về vị trí địa lý đã xuất hiện hiện tượng một số kẻ đầu cơ đã tìm cách mua lại những cổ phần mà những người lao động trong các doanh nghiệp đã được mua với giá ưu đãi. Người lao động do chưa ý thức được ý nghĩa của việc sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp, đồng thời cũng không nắm được giá trị thực của cổ phần mà mình sở hữu, nên đã bán cổ phần lại cho những người đầu cơ để hưởng chênh lệch. Điều này không những gây thiệt hại cho Nhà nước, cho bản thân những người lao động mà còn ảnh hưởng đến một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hoá là tạo động lực quản lý cho doanh nghiệp khi người lao động trong doanh nghiệp thực sự là người chủ. - Thứ bảy, vai trò của các doanh nghiệp. Công tác tuyên truyền, vận động vẫn còn bị xem nhẹ nên chưa tạo ra được sự quan tâm, hưởng ứng tích cực của xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá. Dường như vấn đề cổ phần hoá chưa phải là nhu cầu tự thân, nhu cầu nội tại của các doanh nghiệp nhà nước, thậm chí còn là sự miễn cưỡng. trong thực tế thực hiện, hầu hết các chương trình hay kế hoạch cổ phần hoá đều là của các bộ, ngành, hay chính quyền địa phương, chưa có (hoặc nếu có thì cũng rất ít) doanh nghiệp chủ động đề xuất đưa tên mình vào chương trình hay kế hoạch đó. Điều này chỉ có thể lý giải là đối với các doanh nghiệp, cổ phần hoá không hấp dẫn họ. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước vẫn không muốn, hay né tránh, hoặc tìm cách né tránh thực hiện cổ phần hoá vì muốn được an toàn hơn và không muốn mất đi lợi ích hay lợi thế đang có. Một trong những lợi thế đang mang lại quá nhiều lợi ích - lợi nhuận siêu ngạch đó là sự độc quyền hoặc những ưu đãi mà các doanh nghiệp vẫn nghĩ là chỉ là doanh nghiệp nhà nước mới có được. Ở đây nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước chưa có cùng một suy nghĩ và hành động. Do vậy, nếu còn có sự khác nhau về thái độ và quyết tâm đối với cổ phần hoá, và khi các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn e ngại và nghi ngờ, chưa quyết tâm thì vẫn còn nhiều trở ngại cho quá trình cổ phần hoá. Ngoài ra, còn có những cản trở đối với quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua là: vướng mắc nhiều về đất đai và sở hữu tài sản, chưa có chính sách cơ chế rõ ràng, cổ phần hoá còn khép kín, còn có sự phân biệt đối xử trước và sau cổ phần hoá chẳng hạn như vay vốn ngân hàng, những khó khăn về giải quyết số lao động dôi dư của các doanh nghiệp, thủ tục hành chính phức tạp và thời gian kéo dài… Đây là những vấn đề nằm ngoài khả năng của doanh nghiệp. Do vậy nếu nhà nước không giải quyết triệt để các vấn đề này thì không thể đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá được. Với tư cách là hình thức chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước chủ yếu, việc cổ phần hoá chậm đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Tiến độ cổ phần hoá vẫn chậm so với kế hoạch đặt ra.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25082.doc
Tài liệu liên quan