Đề tài Thực trạng công tác quản lý hoá đơn chứng từ tại chi cục thuế quận 6

Ngoài những nguyên nhân từ các qui định của luật như nói trên, còn có nhiều nguyên nhân xuất phát từ công tác quản lí, năng lực, trách nhiệm của cán bộ ngành thuế: v Chương trình hệ thống quản lý bằng máy vi tính chưa được thống nhất trên toàn thành phố, làm cho công tác xử lý số liệu quản lý và thu thuế không kịp thời. v Một số cán bộ ngành thuế chưa nắm bắt bao quát các bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp,xuất phát từ tính đa dạng và khối lượng của loại hình này, chưa quản lý hết các nghiệp vụ kinh tế, thiếu kiểm tra gây thất thu thuế. v Mối quan hệ công tác trong nội bộ chi cục giữa các đội chủ quản và các đội quản lý phường chưa được phối hợp chặt chẽ, từ đó thiếu thông tin để phát hiện kiểm tra lên bộ phận thuế cho kịp thời. v Với số lượng hoá đơn quá lớn đang lưu hành trên thị trường thành phố thì việc quản lý, kiểm tra, đối chiếu sẽ rất phức tạp khó khăn cho lực lượng kiểm tra, kiểm soát của ngành thuế trong việc phát hiện các hành vi sử dụng hoá đơn để gian lận thuế , đặc biệt là sự gian lận có tổ chức, có giá trị lớn. Trình độ cán bộ thuế còn chưa đồng đều ở chi cục thuế , mặc dù trình độ đại học cũng khá cao, nhưng số còn lại có trình độ trng cấp và sơ cấp chua đáp ứng được nhu cầu công tác.

doc45 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1833 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác quản lý hoá đơn chứng từ tại chi cục thuế quận 6, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TT-BTC ngày 23/10/2003 của Bộ Tài Chính về việc in phát hành sử dụng hoá đơn và các văn bản hướng dẫn. Chi cục thuế Q6 đã thực hiện các bước như sau : Bước 1 : Nhận ấn chỉ hoá đơn, biên lai thuế, biên lai phí, lệ phí từ Phòng Aán Chỉ Cục Thuế theo đúng Quyết định số : 44 TCT/QĐ/TV QT ngày 25/11/2004 của Tổng Cục Thuế về việc ban hành quản lý ấn chỉ trên mạng máy tính. Bước 2 : Bán ấn chỉ thuế, các loại hoá đơn, biên lai phí, lệ phí đã thực hiện qua chương trình trên máy tính. Bước 3 : Định kỳ tháng, quý, 6 tháng và năm đều có báo cáo về Phòng QLAC Cục Thuế theo đúng thời gian quy định. Trong năm công tác nhận, bán các loại ấn chỉ, hoá đơn, biên lai thuế, phí, lệ phí gồm : Biên lai thuế, phí, lệ phí = 10.240 quyển Hoá đơn GTGT, BHTT = 10.840 quyển Công tác quản lý biên lai thuế, phí, lệ phí : Chi Cục Thuế đã ban hành Quy chế về cấp phát, quản lý sử dụng và thanh toán biên lai thuế cho các UBND Phường/ BQL Chợ trong công tác uỷ nhiệm thu. Hiện đã cấp biên lai thuế cho 04 đơn vị Phường và đơn vị Chợ để sử dụng theo nhu cầu của đơn vị như hợp đồng được ký kết. Công tác xác minh hoá đơn : Nhận xác minh hoá đơn : Nhận = 5.982 phiếu của 18.946 hoá đơn Trả lời = 5.231 phiếu của 17.619 hoá đơn đạt 81% hoá đơn cần xác minh. Vi phạm: 153 phiếu của 311 hoá đơn trong đó Mua của công bỏ trốn: 26 phiếu của 71 hoá đơn Không kê khai : 28 phiếu của 79 hoá đơn Sai lệch tiền, ngày : 99 phiếu của 161 hoá đơn Đã xử lý 39 trường hợp với số tiền truy thu thuế và phạt: 3.392.000 đồng. Gởi xác minh hoá đơn: 4.615 phiếu của 20.258 hoá đơn, hồi báo: 2.169 phiếu của 9.876 hoá đơn đạt 47% hoá đơn cần xác minh. Vi phạm: Mua của công ty bỏ trốn: 66 phiếu của 189 hoá đơn Không kê khai : 298 phiếu của 595 hoá đơn Sai ngày và tiền : 100 phiếu của 137 hoá đơn Đã xử lý: 51 trường hợp với số tiền truy thu thuế và phạt 38.932.100 đồng Kết quả hồi báo của Chi Cục Thuế Q6 đối với yêu cầu xác minh hoá đơn của các đơn vị bạn luôn cao hơn hồi báo của đơn vị bạn đối với yêu cầu của Chi Cục Thuế Q6. Nếu tỷ lệ hồi báo được đáp ứng cao hơn thì công tác thanh tra kiểm tra sẽ có nhiều yếu tố thuận lợi để làm tốt và có hiệu quả hơn. V. TÌNH HÌNH THU THUẾ VÀ HIỆN TƯỢNG THẤT THU THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN 6 Năêm 2004. Kết quả thực hiện công tác quản lý thu ngân sách Kết quả thực hiện: Số thực thu đến 31/12/2004 là: 259.432 triệu đồng, trong đó khoản thu về thuế CTN/NQD là 154.398 triệu đồng. So kế hoạch pháp lệch là 251.830 triệu đồng đạt tỷ lệ 103,02%, trong đó so kế hoạch của khoản thu về thuế CTN/NQD là 161.800 triệu đồng đạt tỷ lệ 95,43%. So cùng kỳ năm 2003 là 188.496,50 triệu đồng bằng 137,63%, trong đó so khoản thu cùng kỳ về thuế CTN/NQD là 141.429,21 triệu đồng bằng 109,17%. Nhận xét tổng quát về kết quả thực hiện: Kết quả thực hiện năm 2004 nói chung đều vượt kế hoạch pháp lệch, ngoại trừ 04 khoản thu là thuế CTN/NQD, thuế thu nhập cá nhân, tiền thuê đất và thuế chuyển quyền sử dụng đất. Riêng đối với khoản thu về thuế CTN/NQD có tất cả 05 chỉ tiêu, tất cả đều đạt và vượt kế hoạch pháp lệnh ngoại trừ chỉ tiêu về thuế GTGT chỉ đạt 86,19% mặc dù so cùng kỳ tăng 13,92%. Các nguyên nhân tác động đến kết quả thực hiện năm 2004 của các khoản thu không đạt kế hoạch. Đối với khoản thu về thuế CTN/NQD: Thực hiện năm 2004 là 154.398 triệu đồng so với kế hoạch pháp lệnh là 161.800 triệu đồng đạt 95,43% so với thực hiện cùng kỳ là 141.429,21 triệu đồng tăng 9,17% cao hơn mức điều chỉnh tăng về kế hoạch, tỷ lệ điều chỉnh tăng kế hoạch năm 2004 so 2003 là 6,73%. Trong khoản thu về thuế CTN/NQD có tất cả 05 chỉ tiêu đều vượt kế hoạch ngoại trừ chỉ tiêu về thuế GTGT là khoản thu chiếm tỷ trọng 27,84% trên tổng kế hoạch, nếu so với kế hoạch của khoản thu về thuế CTN/NQD thì tỷ trọng là 43,33%. Số thực hiện năm 2004 của thuế GTGT là 60.437 triệu đồng so kế hoạch pháp lệnh là 70.120 triệu đồng chỉ đạt 86,19% mặc dù so với số thực hiện cùng kỳ năm 2003 là 53.050,72 triệu đồng thì tăng 13,92%, tỷ lệ này của năm 2003 là 5,66%. Qua các số liệu phân tích trên thì việc không hoàn thành kế hoạch thu thuế GTGT năm 2004 vì các nguyên nhân sau: ° Nguyên nhân khách quan: Tốc độ tăng kế hoạch năm 2004 so với năm 2003 cao hơn tốc độ tăng của năm 2003 so năm 2002, tỷ lệ tăng kế hoạch của năm 2004 so năm 2003 là 9,91% trong khi đó tỷ lệ tăng kế hoạch năm 2003 so năm 2002 chỉ có 1,95%. Mặc dù tốc độ điều chỉnh tăng kế hoạch năm 2004 có cao hơn tỷ lệ điều chỉnh của năm trước nhưng vẫn thấp hơn mức độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn Quận 6, tuy nhiên mức độ tăng trưởng này bao gồm cả giá trị sản lượng của các cơ sở kinh doanh do Cục Thuế TP. HCM quản lý là các đơn vị có quy mô hoạt động lớn gấp nhiều lần so với quy mô của các cơ sở kinh doanh do Chi Cục Thuế Q6 quản lý, cho nên việc điều chỉnh thuế của các đối tượng này cho tương ứng với mức độ tăng trưởng kinh tế cũng gặp nhiều khó khăn. Aûnh hưởng của việc di dời giải toả để thực hiện Dự án đầu tư xây dựng Đại lộ Đông Tây TPHCM trên tuyến đường Trần Văn Kiểu, số cơ sở kinh doanh thuộc diện gây ô nhiễm môi trường trong địa bàn dân cư phải di dời đến các khu công nghiệp hay ra các vùng phụ cận thuộc các huyện ngoại thành, bên cạnh đó quỹ đất của Q6 không đáp ứng được nhu cầu về mặt bằng của các cơ sở kinh doanh muốn mở rộng sản xuất, hệ quả là các cơ sở kinh doanh mới phát sinh tại Q6 nếu thuộc ngành sản xuất thì chỉ có loại quy mô nhỏ còn đại đa số đều thuộc ngành thương mại ăn uống và dịch vụ. Mặc dù các cơ sở kinh doanh mới phát sinh tại Q6 đại đa số thuộc ngành ăn uống, thương mại dịch vụ nhưng cơ cấu kinh tế, hạ tầng cơ sở của Q6 vẫn chưa hình thành rõ nét là một trung tâm thương mại dịch vụ đúng nghĩa của một thành phố lớn đã khiến cho chợ Bình Tây ngày càng mất đi vị thế độc tôn của chợ đầu mối mà ngay cả các cơ sở kinh doanh thuộc ngành thương mại trong khu vực đường phố cũng đã phần nào sút giảm mãi lực do sự xuất hiện của siêu thị Metro tại khu Bình Phú thuộc Phường 10 Q6 với chiêu thức bán lẻ theo giá sỉ và một số siêu thị khác trên địa bàn. ° Nguyên nhân chủ quan: Việc quản lý thuế vẫn còn tiếp tục dừng lại ở khâu quản lý địa bàn, năm 2004 số cơ sở kinh doanh đưa vào quản lý trên bộ Môn Bài tăng hơn năm 2003 là 743 hộ, tỷ lệ tăng chung là 6,85% trong đó khối công ty cổ phần có tỷ lệ tăng cao nhất là 262,50% ( tăng 13 công ty ) kế đến là khối công ty TNHH có tỷ lệ tăng là 48,77% ( tăng 158 công ty ) chiếm tỷ trọng 23% trên số cơ sở kinh doanh mới phát sinh thêm. Mặc dù số cơ sở kinh doanh đưa thêm vào quản lý trên bộ Môn Bài có tăng so năm 2003 nhưng số lập bộ về thuế GTGT và TNDN của năm 2004 tuy có điều chỉnh tăng hơn năm 2003 là 9,96% nhưng tăng không tương ứng với cơ cấu hộ lập bộ, số thuế tăng chủ yếu là do tăng hộ quản lý chưa phải là tăng do đã xác định số thuế ghi bộ đúng theo thực tế. Cụ thể do loại hình công ty có số lập bộ tăng 102,78% ( tăng hơn 02 lần ) nhưng thuế ghi bộ chỉ tăng 50,42% và nếu so sánh về thuế bình quân đơn vị/tháng thì lại giảm 25,82%, tình hình này cũng xảy ra ở loại hình doanh nghiệp tư nhân và cơ sở cá thể tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, hệ quả trên là do: Về mặt chủ quan là do các viên chức quản lý thuế hộ kê khai ở các Đội quản lý thuế nói chung và 02 đội doanh nghiệp nói riêng đã không phát huy hết được vai trò, chức năng và nhiệm vụ của một viên chức quản lý thuế đã được Cục Thuế TP.HCM quy định và hướng dẫn thực hiện trong công văn số 3650/CT – THDT ngày 19/04/2004 và công văn số 12086/CT – THDT ngày 10/11/2004 của Cục Thuế TP.HCM nhằm phát hiện kịp thời những nghi vấn đã được thể hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp trên tờ khai thuế hàng tháng; bên cạnh đó cũng do trình độ năng lực của một số viên chức quản lý chưa đúng tầm và chưa đạt yêu cầu. Về mặt khách quan: Do cơ chế tự khai tự nộp nhưng thông tin kê khai thuế theo quy định lại quá ít cho nên dù viên chức quản lý có trình độ năng lực đi chăng nữa cũng không khai thác gì được nhiều, bên cạnh đó chưa kể số lượng DN phát sinh ngày càng nhiều nhưng biên chế của nhân viên thuế lại không được tăng, dẫn đến tình trạng quá tải trong quản lý cũng đã phần nào hạn chế chất lượng nhận xét hồ sơ thuế. Xét về mặt cơ cấu tổ chức do tập trung quá nhiều nhân sự vào quản lý hộ cá thể không phải là đối tượng có tiềm năng phát triển nên ngay tại bộ phận thanh tra kiểm tra cũng thiếu nhân sự để đáp ứng kịp thời các yêu cầu về thanh tra kiểm tra do các đội quản lý thuế chuyển sang sau khi nhận xét hồ sơ thuế. Đối với khoản thu về thuế thu nhập cá nhân: Chỉ đạt 92,50% kế hoạch pháp lệnh là do 02 nguyên nhân: Chi Cục Thuế Q6 cũng chỉ mới quản lý được loại thuế này đối với người làm công ăn lương theo kê khai. Từ 01/07/2004 thu nhập chịu thuế của đối tượng chịu thuế tăng từ 3.000.000 đ lên 5.000.000 đ / tháng cũng đã làm giảm đáng kể nguồn thu này. Đối với khoản thu về tiền thuê đất: Thực hiện đến 31/12/2004 là 5.421 triệu đồng so kế hoạch là 7.350 triệu đồng đạt tỷ lệ 77,44% so thực hiện cùng kỳ 5.575,21 triệu đồng bằng 97,22%. Tương tự năm 2003 số thu về tiền thuê đất không đạt kế hoạch do việc giải toả thực hiện dự án đầu tư xây dựng đại lộ Đông Tây TP.HCM trên tuyến đường Trần Văn Kiểu đã làm giảm diện tích chịu tiền thuê đất, bên cạnh đó một số DN có số tiền thuê đất chiếm tỷ trọng lớn trên tổng số tiền thuê đất phải nộp trên địa bàn Q6 nhưng liên tiếp trong nhiều năm không thanh nạp được số phải nộp do làm ăn thua lỗ, do không ổn định về mặt tổ chức trong ban giám đốc, hội đồng quản trị, thí dụ như công ty giày Hiệp Hưng, công ty xây lắp công nghiệp, công ty Hưng Thành các đơn vị này có số tiền thuê đất phải nộp chiếm tỷ trọng 16% trên tổng số tiền phải nộp hàng năm của Q6. Thuế chuyển quyền sử dụng đất: Thực hiện trong năm 2004 là 4.206 triệu đồng so kế hoạch là 8.800 triệu đồng đạt tỷ lệ 47,80%, khoản thu này không đạt kế hoạch do thị trường bất động sản đang bị chững lại, một phần do tâm lý người dân muốn đón đầu chờ giá đất tăng và phần lớn là do giá vàng tăng đột biến vào các tháng cuối năm. Năm 2005. Kết quả thực hiện công tác quản lý thu ngân sách. Số thực thu đến 31/12/2005 là: 302.562 triệu đồng, trong đó khoản thu về thuế CTN/NQD là 178.494 triệu đồng. So kế hoạch pháp lệnh là 274.200 triệu đồng đạt tỷ lệ 110,34%. Nếu trừ đi chỉ tiêu về tiền sử dụng đất với kế hoạch là 30.000 triệu đồng, thực hiện trong năm 2005 là 47.735 triệu đồng thì tỷ lệ thực hiện so kế hoạch pháp lệnh là 104,35% bằng 98,68% so kế hoạch phấn đấu và bằng 120,46% so thực hiện năm 2004, trong đó so kế hoạch khoản thu về thuế CTN/NQD là 200.000 triệu đồng đạt tỷ lệ 89,25%. So cùng kỳ năm 2004 là 259.432 triệu đồng bằng 116,62%, trong đó so khoản thu cùng kỳ về thuế CTN/NQD là 154.398 triệu đồng bằng 115,61%. Kết qua ûthực hiện năm 2005 nói chung đều vượt kế hoạch pháp lệnh, ngoại trừ khoản thu về thuế CTN/NQD và thuế thu nhập cá nhân. Các nguyên nhân tác động đến kết quả thực hiện năm 2004 của các khoản thu không đạt kế hoạch. Đối với khoản thu về thuế CTN/NQD: Thực hiện năm 2005 là 178.494 triệu đồng so kế hoạch pháp lệnh là 200.000 triệu đồng đạt 89,25% so thực hiện cùng kỳ là 154.398 triệu đồng tăng 15,61%. Trong khoản thu về thuế CTN/NQD có tất cả 05 chỉ tiêu đều vượt kế hoạch ngoại trừ chỉ tiêu về thuế GTGT và TNDN là khoản thu chiếm tỷ trọng 70,26% trên tổng kế hoạch, nếu so với kế hoạch của khoản thu về thuế CTN/NQD thì tỷ trọng là 96,32%. Số thực hiện năm 2005 của thuế GTGT và TNDN là 169.102 triệu đồng so kế hoạch pháp lệnh là 192.650 triệu đồng chỉ đạt 87,78% mặc dù so với số thực hiện cùng kỳ năm 2004 là 145.835 triệu đồng thì tăng 15,95%, tỷ lệ này của năm 2004 là 9,30% và của 2003 là 5,32%. Qua số liệu phân tích trên thì việc không hoàn thành kế hoạch thu thuế GTGT và TNDN vì các nguyên nhân sau: ° Nguyên nhân khách quan: Tốc độ điều chỉnh kế hoạch về thuế GTGT và TNDN qua các năm gần đây đều có khuynh hướng năm sau cao hơn năm trước Kế hoạch năm 2005 là 192.650 triệu đồng so năm trước tăng 24,57% Kế hoạch năm 2004 là 154.650 triệu đồng so năm trước tăng 6,98% Kế hoạch năm 2003 là144.550 triệu đồng so năm trước tăng 6,05% Kế hoạch năm 200 136.300 triệu đồng Đặc biệt kế hoạch năm 2005 được giao so năm 2004 tăng đột biến đến 24,57% cao hơn cả tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn Q6 và mức độ tăng trưởng này bao gồm cả giá trị sản lượng của các cơ sở kinh doanh đóng trên địa bàn Q6 do Cục Thuế TP.HCM quản lý có quy mô hoạt động lớn gấp nhiều lần so với quy mô của các cơ sở kinh doanh do Chi Cục Thuế Q6 quản lý. Ảnh hưởng của việc di dời giải toả để thực hiện dự án đầu tư xây dựng đại lộ Đông Tây TP.HCM trên tuyến đường Trần Văn Kiểu, số cơ sở kinh doanh thuộc diện gây ô nhiễm môi trường trong địa bàn dân cư phải di dời đến các khu công nghiệp hay ra các vùng phụ cận thuộc các huyện ngoại thành, các tỉnh khác, bên cạnh đó quỹ đất của Q6 không đáp ứng được nhu cầu về mặt bằng của các cơ sở kinh doanh muốn mở rộng sản xuất, hệ quả là các cơ sở kinh doanh mới phát sinh tại Q6 nếu thuộc ngành sản xuất thì chỉ có loại quy mô nhỏ còn đại đa số đều thuộc ngành thương mại ăn uống và dịch vụ. Mặc dù các cơ sở kinh doanh mới phát sinh tại Q6 đại đa số thuộc ngành ăn uống, thương mại dịch vụ nhưng cơ cấu kinh tế, hạ tầng cơ sở của Q6 vẫn chưa hình thành rõ nét là một trung tâm thương mại dịch vụ đúng nghĩa của một thành phố lớn đã khiến cho chợ Bình Tây ngày càng mất đi vị thế độc tôn của chợ đầu mối mà ngay cả các cơ sở kinh doanh thuộc ngành thương mại trong khu vực đường phố cũng đã phần nào sút giảm mãi lực do sự xuất hiện của siêu thị Metro tại khu Bình Phú thuộc Phường 10 Q6 với chiêu thức bán lẻ theo giá sỉ và một số siêu thị khác trên địa bàn. °Nguyên nhân chủ quan: Việc quản lý thuế vẫn còn tiếp tục dừng lại ở khâu quản lý địa bàn, năm 2005 số cơ sở kinh doanh đưa vào quản lý trên bộ Môn Bài là 12.604 đơn vị tăng hơn năm 200 là 1015 hộ, tỷ lệ tăng chung là 8,76%. Trong đó khối khối tổ chức kinh tế thì loại hình Công ty TNHH và Công ty cổ phần có tốc độ tăng cao nhất cả về số tuyệt đối và tỷ lệ, tuy nhiên mức thuế Môn Bài bình quân một đơn vị lại không tăng nhiều, điều này chứng tỏ các tổ chức kinh tế mới phát sinh thêm trong năm 2005 có quy mô hoạt động không lớn. Bên cạnh đó trong khu vực hộ cá thể tỷ lệ tăng hộ chỉ có 6,71% và tăng chủ yếu là hộ thu nhập thấp và ổn định thuế 6 tháng, trong khi đó hộ kê khai lại giảm 5%, điều này cũng chứng tỏ hộ cá thể phát sinh thêm trong năm 2005 cũng có quy mô không lớn. Qua đó rút ra được nhận xét là số cơ sở kinh doanh kể cả tổ chức kinh tế và hộ cá thể phát sinh thêm trong năm 2005 có quy mô chỉ bằng hay nhỏ hơn các cơ sở kinh doanh tiếp tục hoạt động từ năm 2004 chuyển qua. Nguồn thu chủ yếu quyết định việc hoàn thành hay không kế hoạch thu NSNN là việc lập bộ thuế GTGT và TNDN hàng tháng, đây là 02 khoản thu chiếm tỷ trọng trên 70% tổng kế hoạch. Số lập bộ năm 2005 là 158.817 triệu đồng so năm 2004 là 133.336 triệu đồng tăng 19,11%, trong khi đó tỷ lệ tăng kế hoạch 02 khoản thu về thuế GTGT và TNDN năm 2005 so năm 2004 là 24,57%, như vậy còn thiếu 5,46%. Số cơ sở quản lý trên bộ Môn Bài năm 2005 so 2004 chỉ tăng 8,76% nhưng số cơ sở lập bộ thuế GTGT và TNDN tăng 10,34% đó là nhờ trong năm 2005 Chi Cục Thuế Q6 đã tăng cường công tác thanh tra kiểm tra chống sót hộ theo chỉ đạo của Cục Thuế TP trong công văn số 9181/CT – THDT ngày 29/07/2005 đã hạn chế tối đa tình trạng “báo thật, nghỉ giả” cũng đã phần nào làm tăng được số ghi bộ. Với số cơ sở kinh doanh phát sinh thêm trong năm 2005 như trên đã trình bày đa số là những đơn vị hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ thường có quy mô không lớn nhưng số lập bộ năm 2005 tăng so năm 2004 là 19,11%, con số này của năm 2004 so năm 2003 là 9,96%, việc điều chỉnh tăng tập trung vào khối công ty TNHH đó là nhờ trong năm 2005 Chi Cục Thuế Q6 đã tăng cường công tác nhận xét hồ sơ thuế theo chỉ đạo của Cục Thuế TP trong công văn số 3650/ CT – THDT ngày 19/04/2004, công văn số 12086/ CT – THDT ngày 15/11/2004 đã tạo tiền đề tốt cho việc đẩy nhanh tiến độ thanh tra kiểm tra các doanh nghiệp có dấu hiệu trốn thuế nhất là đối với các doanh nghiệp kê khai lỗ nhiều năm qua việc thực hiện chỉ đạo của Cục Thuế trong công văn 8653/ CT – THDT ngày 25/07/2005 đã có tác động đến các doanh nghiệp loại này dù chưa bị thanh tra kiểm tra đã tự giác kê khai thuế trung thực hơn. Ngay từ đầu quý I / 2005 Chi Cục Thuế Q6 đã chủ động kiểm tra lại ngành ăn uống, dịch vụ, giải trí, kiểm tra chéo các hộ mã 3 và mã 4 làm cơ sở xây dựng kế hoạch lập sổ thuế 2005 cho các đội quản lý thuế cơ sở cá thể để có thể ổn định mức thuế cả năm cho loại cơ sở này, điều này thể hiện qua tỷ lệ điều chỉnh thuế bình quân cơ sở/ tháng của cơ sở cá thể cao nhất chỉ có 5,32% ( loại 6 tháng ) trong khi đó tỷ lệ này của khối công ty là 21,46%. Đối với khoản thu về thuế thu nhập cá nhân: chỉ đạt 36,50% kế hoạch pháp lệnh là do 02 nguyên nhân: Chi Cục Thuế Q6 cũng chỉ mới quản lý được loại thuế này đối với người làm công ăn lương theo kê khai. Từ 01/07/2004 thu nhập chịu thuế của các đối tượng chịu thuế tăng từ 3 triệu đồng lên 5 triệu đồng/tháng cũng đã làm giảm đáng kể nguồn thu này. CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOÁ ĐƠN CHỨNG TỪ NHẰM KIỂM SOÁT VÀ HẠN CHẾ HIỆN TƯỢNG THẤT THU THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 6. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ. 1. Về công tác quản lý cán bộ: Quan tâm tăng cường chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ ngành thuế. Đây là yếu tố quyết định cho sự thành công của việc thực hiện nghiêm chỉnh chính sách thuế nói chung và mục tiêu chống thất thu thuế nói riêng. Công tác đào tạo phải gắn liền với thực tiễn công tác, thông qua việc đúc kết kinh nghiệm công tác của cán bộ đi trước từ thực tế về hiểu biết, kiến thức cơ bản về pháp luật, đảm bảo cho người cán bộ thuế sau khi được đào tạo có lập trường, quan điểm kiên định, có phương pháp nghiệp vụ vững chắc, đạt hiệu quả công tác cao nhất. Tiếp tục tổ chức tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ công chức về 2 luật thuế mới, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cũng như cập nhật kịp thời các hướng dẫn sửa đổi, bổ sung điều chỉnh về 2 luật thuế này, trong đó đặc biệt trú trọng đến vấn đề thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ vì đây là công cụ và là tiền đề tiên quyết cho việc thực hiện thành công 2 luật Thuế GTGT và Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để cán bộ, viên chức thuế theo học các lớp đào tạo chuyên môn nhưng từng bước nâng cao trình độ nghiệp vụ để đủ sức đảm đương công tác được giao, cần bố trí cán bộ có tinh thần trách nhiệm, có trình độ chuyên môn và nhất là nghiệp vụ tài chính, kế toán ngân hàng, để hạn chế chống thất thu ngân sách. Mỗi cán bộ phải nâng cao được ý thức trách nhiệm, mạnh dạng đấu tranh phê bình và tự phê bình trước lời nói và việc làm, cũng như khắc phục dần những nhược điểm ở bản thân nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả trong công tác quản lý. Có chế độ khen thưởng kịp thời và xử lý kiên quyết đối với tưng trường hợp vi phạm. Mỗi cán bộ cam kết thực hiện đầy đủ trách nhiệm đối với công tác của mình. Kiên quyết thay thế cán bộ viên chức thuế kém thiếu tinh thần trách nhiệm. Có chế độ chăm lo thoả đáng đến đời sống vật chất của cán bộ viên chức thuế. Với mức thu nhập chưa đủ trang trải cuộc sống như hiện nay, nếu không vững vàng sẽ dễ bị mua chuộc, cám dỗ. Vì vậy cần có sự nghiên cứu nâng cao mức lương một cách phù hợp để đảm bảo tối thiểu cuộc sống và tái sản xuất lao động, có như vậy thì cán bộ viên chức mới an tâm công tác. 2.Về cơ cấu quản lý: Thực tế cho thấy một hệ thống thuế có cơ cấu hợp lý, rõ ràng, tính khả thi cao nhưng công tác quản lý kém thì không thể phát huy hiệu quả được. Do đó để hệ thống thuế đạt hiệu quả cao, hạn chế tối đa mức độ thất thu phải thực hiện một số vấn đề sau: Công tác tuyên truyền, giải thích: Ngành thuế cần chú trọng và tăng cường công tác động viên, giải thích, tuyên truyền về chế độ, chính sách, pháp luật về thuế bằng mọi phương tiện thông tin đại chúng, động viên họ chấp hành đúng chính sách chế độ giúp mọi công dân Việt Nam đều có hiểu biết cơ bản về nghĩa vụ nộp thuế, thấy rõ trách nhiệm và quyền lợi chính đáng khi đóng góp sức mình vào ngân sách quốc gia, củng cố lòng tin của người nộp thuế. Phải thực hiện chế độ thuế công bằng, công khai, dân chủ, cơ quan thuế tổ chức lắng nghe tiếp thu ý kiến phản ánh thường xuyên của nhân dân nhằm giúp đỡ cơ quan thuế sửa chữa những khuyết điểm tồn tại trong quản lý thuế. Khuyến khích nhân dân cộng tác giúp đỡ cơ quan thuế phát hiện những trường hợp trốn thuế nợ thuế. Trong công tác thông tin tuyên truyền, cần biểu dương những cá nhân tập thể chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, hoàn thành tốt nghĩa vụ nộp thuế. Bên cạnh đó, cần xử lý thích đáng và cưỡng chế kịp thời, nghiêm khắc các trường hợp trốn thuế thì mới có tác dụng tích cực, góp phần thúc đẩy việc thực hiện việc nộp thuế từng bước đi vào nề nếp kỷ cương. Công tác quản lý hoá đơn: Thực hiện các chiến lược tuyên truyền, giải thích các quy định của nhà nước về hoá đơn, sổ sách kế toán. Cần thể hiện rõ ràng việc thực hiện nguyên tắc, các doanh nghiệp khi mua hoá đơn phải đóng dấu tên đơn vị, mã số thuế vào hoá đơn trước sự chứng kiến của cán bộ thuế để hạn chế việc mua bán hoá đơn giữa các đơn vị với nhau. Ngoài ra, Chi cục cần phải tăng cường kiểm soát, kiểm tra để phát hiện xử lý kịp thời, nghiêm khắc các trường hợp in ấn sử dụng hóa đơn giả, hoá đơn không hợp lệ của các đối tượng nộp thuế nhằm giảm bớt tính trạng thất thu cho NSNN. Trường hợp các đối tương nộp thuế nào cố tình vi phạm dù đã được hướng dẫn nhắc nhở cùng với việc lập tờ khai trễ hẹn cũng phải kiên quyết xử lý theo đúng luật và cần phải đẩy nhanh tiến độ xử lý các đối tượng vi phạm, mới đảm bảo cho công tác thất thu thuế có cơ sở thực tế, đầy đủ. Khuyến khích thực hiện cơ chế tự tính thuế của các đối tượng nộp thuế: Cơ chế tự tính thuế đòi hỏi các đối tượng nộp thuế phải có trách nhiệm tự tính thuế, tự kiểm tra tự kê khai, tự nộp thuế tại kho bạc nhà nước. Cán bộ thuế chỉ có trách nhiệm kiểm tra kết quả tính thuế của doanh nghiệp và xử lý khi có sai phạm. Cơ chế tự tính thuế còn có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi giúp cho việc áp dụng cơ chế quản lý Ngân Sách với các cơ sở sản xuất kinh doanh, do đó việc nộp thuế là một trách nhiệm pháp lý không thể trì hoãn chậm trễ. Cơ chế này đòi hỏi đối tượng nộp thuế phải thông báo đầy đủ về trách nhiệm thuế, các quy định pháp luật và quy trình nộp thuế mà họ phải tuân thủ. Tuy nhiên để thực hiện được cơ chế này không phải là điều đơn giản. Bởi lẽ, cơ chế này đòi hỏi các đối tượng nộp thuế phải tự giác, phải thông suốt về nghiã vụ nộp thuế đói với nhà nước. Đồng thời các quy định về thuế cũng phải được hoàn thiện. Chống bỏ sót hộ kinh doanh trên địa bàn: Luôn tiến hành việc kiểm tra bộ phụ để theo dõi các hộ mới ra kinh doanh, hoạt động kinh doanh chưa ổn định hoặc những hộ kinh doanh theo thời vụ. Hay nói cách khác thì những hộ kinh doanh từ 3 tháng trở xuống thì cần phải theo dõi trên bộ phụ, còn những hộ kinh doanh trên 3 tháng thì theo dõi trên bộ chính. Cần rà soát bộ phụ và thường xuyên đưa các hộ kinh doanh đủ tiêu chuẩn vào bộ chính để quản lý chặt chẽ. Thực hiên tốt công tác chấm báo soát hay chấm bộ để có thể nắm chắc ngay số hộ được miễn thuế, số hộ nộp thuế và số hộ tồn đọng thuế trong từng thời điểm trên địa bàn nhằm có kế hoạch, biện pháp xử lý kịp thời. Tăng cường kiểm tra xử lý các vi phạm về chính sách chế độ: Công tác thanh tra kiểm tra thuế phải được tăng cường mạnh mẽ đối với việc tự tính, tự kê khai và thu nộp thuế, áp dụng đúng mức các hình thức xử phạt theo quy định, mới thúc đẩy đối tương nộp thuế kê khai đúng, chính xác. Tổ chức kiểm tra tình hình hoạt động của các doanh nghiệp để phát hiện và hướng dẫn, giúp đỡ doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ hoá đơn, chứng từ theo luật, cần tập trung kiểm tra các mặt dưới đây: Việc doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, chú ý mở các loại sổ kế toán, ghi chép sổ sách kế toán, việc lưu trữ hoá đơn chứng từ. Xây dựng giá bán hàng hoá và lập hoá đơn chứng từ khi bán hàng. Kê khai nộp thuế tính thuế phải nộp, xác định thuế GTGT đầu vào, đầu ra đối với mặt hàng chịu thuế GTGT. Kiểm tra hoá đơn xuất 3 liên (GTGT) của doanh nghiệp có khớp với thực tế không và các loại hoá đơn khác có ghi chép như thế nào? Kiểm tra việc các đối tương nộp thuế trong việc chấp hành các thông báo nộp thuế. Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện doanh nghiệp vi phạm thì lập biên bản nhắc nhở để doanh nghiệp rút kinh nghiệm, chưa áp dụng ngay biện pháp xử phạt, nếu tái phạm xử phạt hành chính về thuế. Cơ quan thuế có thể bí mật kiểm tra doanh thu, khi kiểm tra có phát hiện lậu thuế, buộc phải truy thu doanh nghiệp theo mức lậu thuế tính từ ngày thành lập, dù cho trước đó doanh nghiệp chưa một lần nào lậu thuế. Để tránh thông đồng giữa người kiểm tra và doanh nghiệp, chính phủ ban hành các mẫu kiểm tra đã được in sẵn buộc người kiểm tra phải điền đầy đủ số liệu việc xử lý số liệu, so sánh giữa số liệu khai báo của doanh nghiệp và số liệu kiểm tra thu được do cán bộ kiểm tra thực hiện. Kiểm tra thanh tra sẽ góp phần quan trọng trong việc kiểm nghiệm tính chất phù hợp của văn bản pháp quy, chế độ chính sách về quản lý thu thuế, phát hiện những sơ hở và bất hợp lý của các văn bản trên để kịp thời chỉnh lý, bổ sung, sửa đổi. Thường xuyên kiểm tra, giám sát cán bộ tư nhân núp bóng doanh nghiệp quốc doanh, kiên quyết đưa ra quản ký thu theo hình thức kinh doanh cá thể hoặc doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH. Tăng cường kiểm tra tập hợp các đối tượng sản xuất kinh doanh, phải nộp thuế vào diện quản lý thu thuế. Công tác thu cần có sự hỗ trợ tích cực và hiệu quả cua chính quyền cơ sở, phối hợp chặt chẽ giữa ngành thuế và các ngành hữu quan, cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cua cấp uỷ và chính quyền. Thanh tra kiểm tra thuế là một biện pháp rất quan trọng trong việc chống thất thu thuế có hiệu qua vế mọi phương diện, là khâu không thể thiếu trong quá trình quản lý thu thuế, nó là mối quan hệ chặt chẽ giữa các khâu khác như quản lý ấn chỉ, công tác nộp tiền thuế Tạo thành một thể thống nhất của quy trình quản lý thu thuế. Ứng dụng tin học trong công tác quản lý: Trong thời địa hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển ngày càng mạnh mẽ, có nhiều công dụng trong công tác quản lý kinh tế xã hội. Do đó việc ứng dụng tin học vào trong dông tác quản lý thu thuế là rất cần thiết. Hiện nay mỗi phòng ban đội chuyên quản tại chi cục đều có trang bị máy vi tính đầy đủ, nhưng để phát huy hết tác dụng của nó nhằm phục vụ tốt công việc của tổ, đội thì chi cục cần phải quan tam hơn nữa đến việc đào tạo nâng cao trình độ về tin học cho tất cả các bộ phận quản lý đẻ giúp cho: Việc quản lý các đối tượng nộp thuế của các bộ chuyên quản được nhanh chóng hơn do việc giảm nhe khối lượng ghi chép, đễ dàng theo dõi và đôn đóc thu nộp thuế đảm bảo chính xác và kịp thời. Đồng thời cán bộ thuế có thời gian đi sâu vào tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở. Bộ phận kế toán của cơ sở có quy mô lớn hiện nay đều đã được điện toán hoá, nên mọi chứng từ nghiệp vụ đều được cập nhật vào hệ thống máy vi tính, nên đối với công tác kiểm tra cần xem xét kỹ lưỡng các thông tin cập nhật tên máy đẻ tránh tình trạng doanh nghiệp dử dụng hai sổ sách kế toán (một giành cho cơ quan thuế, một giành riêng cho việc sử dụng nội bộ). Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế trong điều kiện hội nhập Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, các nước đều nhận thức rõ những cơ hội và thách thức để chủ động mở cửa nền kinh tế. Hiện nay, Việt Nam là thành viên của ASEAN, tham gia tích cực vào khu vực mậu dịch tự do AFTA, gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu  á - Thái Bình Dương APEC, ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và đang xúc tiến đàm phán gia nhập WTO. Để đáp ứng các điều kiện hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nước ta cần đẩy nhanh quá trình tự do hoá, trong đó việc nghiên cứu hoàn thiện các hệ thống thuế thích ứng với xu thế ở Việt Nam là một đòi hỏi hết sức cấp thiết. Hội nhập và tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, đồng nghĩa với việc Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế xuất nhập khẩu và thực hiện nguyên tắc bình đẳng về thuế nói chung. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ đưa đến hai thách thức lớn, đó là: Bảo hộ sản xuất trong nước giảm xuống, các doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt với hàng ngoại nhập, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản; Số thu từ thuế nhập khẩu sẽ giảm xuống, ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với hệ thống chính sách thuế (bao gồm cả thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế nội địa) phải không ngừng được hoàn thiện theo hướng: đảm bảo ổn định số thu ngân sách nhà nước; phù hợp và thúc đẩy quá trình tự do hoá nền kinh tế; kiểm soát và hạn chế những tác động bất lợi có thể phát sinh quá trình tự do hoá đến nền kinh tế của nước ta. Sau đây, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị cơ bản về mục tiêu và biện pháp mà hệ thống thuế cần hướng tới: Về mức động viên của hệ thống thuế: Để đảm bảo nguồn tài chính thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra, để đảm bảo duy trì sự ổn định an toàn của tài chính vĩ mô thì tỷ lệ động viên qua thuế, phí hàng năm phải đạt khoảng 19-20% GDP. Đảm bảo được tỷ lệ động viên tích cực sẽ tạo cơ sở quan trọng cho quá trình thực thi chủ trương phát triển nền kinh tế theo hướng tự do hoá nền kinh tế. Theo đó, Nhà nước mới có thể đủ nguồn lực, tạo cơ sở cho việc thực hiện quá trình tự do hoá nền kinh tế một cách vững chắc và ổn định bền vững. Điều kiện để thực hiện tự do hoá vững chắc là NSNN phải ổn định, không có những thâm hụt lớn, có dự trữ để đề phòng các rủi ro trong quá trình tự do hoá nền kinh tế. Với tỷ lệ động viên ổn định có thể duy trì thâm hụt NSNN ở mức dưới 5% tỷ lệ được coi là an toàn của bội chi NSNN. Về cơ cấu thu thuế: Thực hiện các cam kết tự do hoá với bên ngoài, đặc biệt là các cam kết với ASEAN theo chương trình CEPT, chương trình cắt giảm thuế quan theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và trong giai đoạn tới là của WTO một khi là thành viên của tổ chức này, Việt Nam phải tiến hành cắt giảm thuế quan, không những số thu từ thuế nhập khẩu giảm mà còn kéo theo giảm các loại thuế khác đánh vào hàng nhập khẩu như thuế GTGT, thuế TTĐB, điều này vừa ảnh hưởng đến thu NSNN- tiền đề quan trọng đảm bảo điều kiện tiến hành tự do hoá nền kinh tế. Để có thể hạn chế tác động bất lợi của việc thực hiện các cam kết quốc tế đến thu NSNN, đảm bảo tính ổn định của NSNN trong giai đoạn tới hướng xử lý các sắc thuế như sau:      Đối với thuế nhập khẩu:  Để việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế không làm biến động quá lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, đến thu NSNN nên có sự nghiên cứu cắt giảm thuế nhập khẩu theo các Hiệp định đã cam kết theo hướng có lợi cho nền kinh tế. Việc đàm phán các ràng buộc thuế quan với WTO được tiến hành trên cơ sở đánh giá năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế hiện có, tính đến khả năng phát triển của ngành trong tương lai với những lợi thế mà những ngành đó có thể đem lại trong quá trình hội nhập có thể phân loại các ngành hàng theo các nhóm với các cấp độ bảo hộ bằng thuế nhập khẩu.  Các ngành hàng được bảo hộ cấp độ thấp là những ngành hàng mà Việt Nam có thế mạnh về xuất khẩu, mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao, ngành hàng là vật tư, nguyên liệu là đầu vào của nhiều ngành sản xuất mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất với giá thành quá cao. Những ngành hàng này ít bị ảnh hưởng tiêu cực của quá trình tự do hoá kinh tế với bên ngoài, mà ngược lại tạo cơ hội tốt để mở rộng thị trường quốc tế, với mức bảo hộ thấp thể hiện tính chủ động của Việt Nam tiến hành tự do hoá ngày càng mạnh mẽ hơn với bên ngoài.  Các ngành hàng được bảo hộ ở mức trung bình là những ngành hàng trong nước  thời gian qua đã được chú trọng đầu tư, sản xuất đã đáp ứng như cầu thay thế hàng nhập khẩu, bước đầu đã có thế mạnh xuất khẩu nhưng vẫn cần có sự bảo hộ để đảm bảo an toàn.  Đối với những ngành hàng thuộc diện ưu tiên như một số ngành hàng công nghiệp chế biến, nông sản sử dụng nhiều lao động trong nước, một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, những ngành hàng trước mắt chưa có đủ khả năng cạnh tranh nhưng trong tương lai sẽ có khả năng cạnh tranh cao cần được bảo hộ ở cấp độ cao, song phải hợp lý và có điều kiện. Trên cơ sở các cấp độ bảo hộ mà xây dựng lịch trình giảm thuế, giảm dần theo từng cấp độ từ cao đến thấp. Tuy nhiên, đối với một số hàng hoá mà Việt Nam chưa phải cắt giảm thuế theo các cam kết quốc tế có thể nghiên cứu nâng mức thuế nhập khẩu nhằm mục đích ổn định số thu cho nhà nước và góp phần thực hiện mục tiêu bảo hộ kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện và khai thác tốt các khoản thu thuế nội địa nhằm  tăng dần các khoản thuế nội địa, từng bước cơ cấu lại các sắc thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt. Đồng thời, khai thác nguồn thu theo hướng nghiên cứu giảm tỷ trọng tương đối của thuế gián thu, nâng dần tỷ trọng của thuế trực thu (gồm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,) trong cơ cấu thu NSNN khi nền kinh tế có bước phát triển mạnh, mặt bằng thu nhập được nâng cao. Đồng thời, cần sớm nghiên cứu triển khai thực hiện xây dựng các sắc thuế mới như thuế Tài sản, thuế Bảo vệ môi trường (đã được đưa vào chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 đã được ban hành theo Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg ngày 06/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ). Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế để tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại, khuyến khích đầu tư.   Chuyển việc cấm xuất khẩu một số mặt hàng hiện nay sang áp dụng điều chỉnh bằng thuế xuất khẩu, tiếp tục giảm và thu hẹp dần  mặt hàng chịu thuế xuất khẩu. Điều này không những có tác dụng  khuyến khích xuất khẩu mà còn đáp ứng yêu cầu của quá trình tự do hoá kinh tế với bên ngoài, phù hợp với các cam kết quốc tế mà chúng ta phải thực hiện là phải xoá bỏ dần các biện pháp phi thuế quan, đảm bảo tính minh bạch trong chính sách. Mở rộng các nhóm hàng hoá dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất thuế GTGT 0% nhằm góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng độ mở của nền kinh tế, tạo điều kiện để nước ta có thể mở rộng và phát triển thị trường ở nước ngoài.  Đối với thuế nhập khẩu, nên có sự nghiên cứu để giảm thuế suất tối đa, chuyển tối đa các quy định phi thuế quan sang thuế quan. Điều này không những có tác dụng thúc đẩy quá trình tự do hoá nhập khẩu mà còn phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ phải thực hiện, đó là nguyên tắc thực hiện tự do hoá kinh tế, nguyên tắc đảm bảo minh bạch trong chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh quá trình tự do hoá với bên ngoài. Cùng với việc giảm thuế theo các hiệp định song phương và đa phương, nên có sự nghiên cứu để có thể giảm thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi nhằm thu hẹp dần sự chênh lệch giữa các loại thuế suất, từ đó có thể hạn chế được tình trạng trệch hướng thương mại làm ảnh hưởng không tốt đến hoạt động nhập khẩu và sản xuất trong nước.  Để có thể thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư thì đảm bảo môi trường thuế bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân  là một việc làm có ý nghĩa thiết thực.Việc tăng cường ký kết hiệp định tránh đánh thuế trùng với các nước không những có tác dụng  thu hút đầu tư nước ngoài và còn khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế nhằm phù hợp với  thông lệ và các cam kết  quốc tế, góp phần đẩy nhanh quá trình tự do hoá kinh tế với bên ngoài của Việt Nam:   Trong lĩnh vực thuế xuất nhập khẩu, cần triển khai áp dụng đồng bộ việc áp dụng cách tính trị giá hải quan theo quy định tại Điều 7 của GATT/WTO. Để đảm bảo tính thực tế thì việc định giá phải dựa trên các thông tin đầy đủ, được cập nhật thường xuyên, tránh trường hợp định giá sai lệch so với giá thực tế. Tiến hành xem xét giảm dần các ưu đãi thuế không phù hợp với thông lệ và các cam kết quốc tế như bỏ quy định phân biệt đối xử trong thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, bỏ quy định thuế suất thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hoá để phù hợp với các Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO. Tiến tới thống nhất biểu thuế thu nhập cá nhân áp dụng chung cho cả người Việt Nam và người nước ngoài, cho phép khấu trừ những khoản chi phí tạo ra thu nhập, hạ thấp mức thuế suất tối đa để đảm bảo tính tương thích với hệ thống thuế của các nước trong khu vực, đảm bảo cho hệ thống thuế của Việt Nam có tính cạnh tranh nhằm thu hút vốn đầu tư. Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế góp phần phòng ngừa và hạn chế những rủi ro mà tự do hoá nền kinh tế có thể đem lại. Thực hiện miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng đối với máy móc thiết bị công nghệ hiện đại trong nước chưa sản xuất được. Tạo điều kiện cho phép các doanh nghiệp lựa chọn hình thức khấu hao, khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ cao áp dụng hình thức khấu hao nhanh, cho phép các doanh nghiệp được trừ toàn bộ các chi phí liên quan đến nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc hạ thấp mức thuế thu nhập doanh nghiệp, áp dụng mức thuế suất ưu đãi cho các ngành có khả năng cạnh tranh trong tương lai có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hoá, để phòng ngừa và hạn chế rủi ro phát sinh trong quá trình tự do hoá nền kinh tế. Trong luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng nên bổ sung quy định mức thuế nhập khẩu tuyệt đối nhằm  vừa góp phần tăng thu, vừa góp phần bảo hộ sản xuất trong nước mà vẫn không trái với thông lệ quốc tế./. II. HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOÁ ĐƠN CHỨNG TỪ TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN 6 1.Tăng cường công tác quản lý sử dụng hoá đơn Tăng cường lực lượng làm công tác thanh tra, kiểm tra về thuế, đưa công tác quản lý tài chính nói chung và thuế nói riêng vào nề nếp, thiết nghĩ cần gấp rút nghiên cứu xây dựng đề án sử dụng hóa đơn cho phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế hiện nay. Trước mắt, tập trung kiểm tra các doanh nghiệp có số thuế đề nghị khấu trừ hoặc hoàn thuế lớn hoặc có biểu hiện gian lận trong kê khai thuế, có vi phạm trong quản lý, sử dụng hóa đơn. Kiến nghị Bộ Tài Chính tăng cường kiểm tra việc sử dụng ngân sách nhà nước trong khu vực hành chính sự nghiệp để ngăn chặn, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm về sử dụng hóa đơn trong thanh toán, quyết toán tài chính. Khẩn trương xây dựng mạng vi tính toàn quốc về việc quản lý, sử dụng hóa đơn phục vụ việc đối chiếu chéo hóa đơn nhằm đảm bảo tính kịp thời, chính xác trong kê khai khấu trừ thuế, nộp thuế của các tổ chức, cá nhân trong toàn quốc, khắc phục tình trạng đối chiếu thủ công, hạn chế tới mức thấp nhất sự thất thoát về thuế. Phối hợp với lực lượng công an trong việc điều tra xử lý việc phát hành và sử dụng hóa đơn giả, đề nghị truy tố trước pháp luật 2.Chống thất thu thuế bằng biện pháp thực hiện nghiêm chỉnh sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn: Sổ sách kế toán chứng từ hoá đơn nhằm phục vụ cơ sở kinh doanh có điều kiện theo dõi hoạt động, nắm chắc diễn biến của doanh thu, chi phí lỗ trong kinh doanh của ngành. Chứng từ hoá đơn cũng là cơ sở bảo vệ lợi ích, quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng. Tuy nhiên hiện nay chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn đều bị buông lỏng nhất là khu vực ngoài quốc doanh thường không phản ánh trung thực đầy đủ qua sổ sách kế toán chứng từ hoá đơn. Mục đích của chứng từ hoá đơn tạo căn cứ pháp lí cho việc kiểm tra kiểm soát quản lý thu thuế, nó còn thể hiện sự công bằng hợp lý khi tính thuế tài định. Chính vì lý do trên, hộ kinh doanh thường không phản ánh hoặc không phản ánh đầy đủ vào sổ sách chứng từ hoá đơn. Sự phản ánh thiếu trung thực không đầy đủ vào sổ sách chứng từ sẽ dẫn đến thất thu nghiêm trọng. như vậy, để hạn chế cần có biện pháp cụ thể: Đối với những doanh nghiệp Nhà nước, DNTN, công ty và hộ kinh doanh nhất thiết phải giữ sổ sách kế toán. Cán bộ quản lý phải có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra thường xuyên việc theo dõi sổ sách kế toán, mỗi tháng phải quyết toán đơn xuất bán, kiểm tra phân tích từng thương vụ mặt hàng cần xác định đúng thuế GTGT. Cần phân loại đúng diện hộ: hộ phải giữ sổ sách hoá đơn chứng từ (bộ kê khai) và hộ khoán ( khu vực ngoài quốc doanh). Kiểm tra quản lý chặt chẽ hoá đơn, hoá đơn bán hàng biên lai và các căn cứ đúng yêu cầu theo thứ tự phải có sổ theo dõi không bị mất mát, nếu mất phải lập biên bản xử lý bồi thường kịp thời, theo dõi hoá đơn, kiểm tra xử dụng hoá đơn là trách nhiệm của cán bộ quản lý. III. GIẢI PHÁP HỖ TRỢ. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thường xuyên đột xuất phát hiện để có giải pháp xử lý kịp thời, thiùch đáng các trường hợp kinh doanh không kê khai nộp thuế, có hành vi gian lận thuế như: sử dụng hóa đơn giả, mua bán hóa đơn, ghi sai lệch giữa các liên hóa đơn để che dấu doanh thu, hóa đơn ghi khống việc mua bán hàng để xin khấu trừ thuế trái luật định Cần có những quy định rõ ràng, đầy đủ hơn về chế độ cưỡng chế thuế để có phát huy tác dụng pháp chế đối với những trường hợp có tính trốn thuế. Đối với những trường hợp khai man ẩn lậu thuế cần phải được chế tài mạnh hơn, biện pháp chế tài phải khiến cho người vi phạm thực sự lo sợ để họ không giám nạo hiểm dù rủi ro tương đối nhỏ. Tăng cường công tác kiểm tra, xác minh hóa đơn đầu vào, đây chính là cơ sở để các đơn vị sản xuất kinh doanh trục lợi, chiếm đoạt tiền của Nhà nước dựa vào trị giá chênh lệch hóa đơn đầu vào và hóa đơn đầu ra. Kiểm tra nghiêm ngặt về chứng từ hàng hóa xuất khẩu, để tránh tình trạng số lượng hàng hóa không có thực, xử lý nghiêm đối với cán bộ Hải Quan cấu kết với doanh nghiệp làm bộ chứng từ giả để được hoàn thuế. Tăng cường công tác kiểm tra, đối chiếu việc sử dụng hóa đơn, chứng từ. Bởi vì trên thực tế nhiều tổ chức, cá nhân chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt nên đã lợi dụng hóa đơn để trốn thuế, thu lợi bất chính gây thiệt hại về tài chính. Để hạn chế tình trạng này kiến nghị BTC nên có quy định cụ thể về việc phối hợp giữa các ban ngành tài chính và Ngành thuế trong quản lý và sử dụng hóa đơn. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn về việc ghi chép và sử dụng hóa đơn. Tăng cường việc kiểm tra, xử lý nặng những kẻ in và sử dụng hóa đơn giả, truy thu và phạt những người viết sai để trốn thuế. Ngoài ra, cũng phải có biện pháp để kích thích được người mua hàng lấy hóa đơn khi mua hàng, họ có thói quen là khi mua hàng không cần thiết đòi người bán hàng phải xuất hóa đơn hay chứng từ, không nghĩ bản thân mình là người chịu thuế cuối cùng. Chú trọng đến công tác xác minh hóa đơn bán hàng, hóa đơn mua hàng của các hộ và cơ sở sản xuất kinh doanh. Cần phải làm rõ những doanh nghiệp có biểu hiện sai phạm và trình Lãnh đạo giải quyết kịp thời.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4285.doc
Tài liệu liên quan